Cô phải ở trong thành phố – điều này đột ngột trở thành một nhu cầu thiết yếu, không thể cưỡng lại được và không thể cắt nghĩa. Cô chẳng trông đợi gì ở thành phố. Nhưng cô muốn có cảm giác về đường phố và những tòa nhà bao quanh cô ở đó. Vào buổi sáng, cô tỉnh dậy và nghe thấy tiếng xe cộ ở xa xa phía dưới, âm thanh đó là một sự lăng mạ, một sự nhắc nhở về việc cô đang ở đâu và tại sao. Cô đứng cạnh cửa sổ, hai cánh tay dang rộng, mỗi tay nắm lấy một bên khung cửa như thể cô đang ôm một phần của thành phố – ôm tất cả những con đường và mái nhà hiện lên trong khuôn kính giữa hai tay cô.
Cô ra ngoài một mình để đi bộ thật lâu. Cô đi nhanh, hai tay đút trong túi chiếc áo khoác cũ, cổ áo bẻ dựng lên. Cô tự bảo mình rằng cô không hề hy vọng được gặp anh. Cô không tìm kiếm anh. Nhưng cô phải đi ra đường, trống rỗng, không mục đích, mỗi lần hàng giờ liền.
Cô đã luôn luôn căm ghét những đường phố của một thành phố. Cô nhìn những khuôn mặt trôi ngang qua, những khuôn mặt trông giống nhau vì sự sợ hãi trên đó – sự sợ hãi như một mẫu số chung, sợ chính họ, sợ tất cả và sợ nhau. Sự sợ hãi làm cho họ sẵn sàng đạp lên bất kỳ cái gì được một người khác coi là thiêng liêng. Cô không thể định nghĩa được bản chất hay lý do của nỗi sợ đó. Nhưng cô đã luôn luôn cảm nhận được sự có mặt của nó. Cô đã giữ mình sạch sẽ và tự do bằng một ham muốn duy nhất – ham muốn không chạm vào cái gì hết. Cô đã thích đối mặt với họ trên đường phố, cô đã thích sự thù hận đầy bất lực của họ, bởi cô chẳng có gì để cho họ làm tổn thương.
Bây giờ, cô không còn tự do nữa. Bây giờ, mỗi bước cô đi trên đường đều làm cô tổn thương. Cô đã bị buộc vào anh – như anh bị buộc vào từng phần của thành phố. Anh là một công nhân vô danh làm một công việc vô danh nào đó, bị mất hút trong những đám đông này, phải phụ thuộc vào họ, có thể bị bất kỳ người nào trong số họ làm tổn thương, và cô phải chia sẻ anh với cả thành phố. Cô căm ghét ý nghĩ về việc anh đi trên những vỉa hè mà người ta đã đi. Cô căm ghét ý nghĩ về việc một người bán hàng đưa cho anh một bao thuốc lá qua quầy hàng. Cô căm ghét những khuỷu tay chạm vào khuỷu tay anh trên tàu điện ngầm. Cô về nhà, sau những chuyến đi bộ này, người run lên như sốt. Hôm sau cô lại ra ngoài.
Khi kỳ nghỉ kết thúc, cô đến tòa soạn tờ Ngọn cờ để xin thôi việc. Công việc và mục báo của cô chẳng còn gây hứng thú gì với cô nữa. Cô cắt ngang lời chào mừng nồng nhiệt của Alvah Scarret. Cô nói: “Tôi về đây chỉ để bảo anh rằng tôi bỏ việc, Alvah ạ.” Ông nhìn cô một cách ngớ ngẩn. Ông chỉ nói: “Tại sao?”
Đó là âm thanh đầu tiên từ thế giới bên ngoài đến được với cô sau một thời gian rất dài. Cô đã luôn luôn hành động một cách tức thời theo cảm hứng, tự hào vì sự tự do thoát khỏi mọi lý do hành động của mình. Thế mà bây giờ cô phải đối mặt với câu hỏi “Tại sao?” – câu hỏi hàm chứa một câu trả lời mà cô không thể chạy trốn. Cô nghĩ: Tại vì anh, tại vì cô đang để anh thay đổi cuộc sống của cô. Đó sẽ là một sự vi phạm nữa; cô có thể nhìn thấy anh đang mỉm cười như lúc anh đã cười trên con đường mòn trong rừng. Cô không có lựa chọn nào khác. Dù có chọn thế nào chăng nữa thì sự lựa chọn cũng là do bị cưỡng bức: cô có thể bỏ công việc, vì anh đã bắt cô muốn bỏ nó; hoặc cô có thể ở lại dù căm ghét nó, để cho cuộc đời cô không bị thay đổi, để chống lại anh. Phương án thứ hai khó hơn.
Cô ngẩng đầu lên. Cô nói: “Đùa thôi mà, Alvah. Chỉ để xem anh nói gì. Tôi không bỏ việc đâu.”
*
* *
Cô trở lại công việc được vài ngày thì Ellsworth Toohey bước vào phòng làm việc của cô. “Chào Dominique,” ông ta nói. “Vừa nghe nói cô đã về.”
“Chào Ellsworth.”
“Tôi rất mừng. Cô biết đấy, tôi luôn có cảm giác là một buổi sáng nào đó cô sẽ bỏ chúng tôi đi mà chẳng có nguyên cớ gì.”
“Cảm giác à Ellsworth? Hay là hy vọng?”
Ông đang nhìn cô với ánh mắt nhân từ và nụ cười hiền hậu muôn thuở; nhưng có một thoáng tự giễu mình trong vẻ hiền hậu đó, như thể ông biết rằng cô không ưa nó; và có một thoáng tự tin, như thể ông muốn thể hiện rằng ông sẽ luôn giữ cái vẻ nhân từ và hiền hậu đó.
“Cô biết đấy, cô sai ở chỗ đó rồi,” ông ta nói, mỉm cười bình thản. “Cô đã luôn sai về điểm đó.”
“Không. Tôi không phù hợp, Ellsworth. Đúng không?”
“Tất nhiên tôi có thể hỏi: Phù hợp với cái gì? Nhưng cứ cho là tôi không hỏi đi. Cứ cho là tôi chỉ nói rằng những người không hợp cũng có tác dụng của họ, cũng như là những người phù hợp có tác dụng của họ. Cô có thích như thế hơn không? Tất nhiên, đơn giản nhất thì tôi sẽ nói là tôi đã luôn luôn rất ngưỡng mộ cô và sẽ luôn luôn ngưỡng mộ cô.”
“Đó không phải là một lời khen.”
“Không hiểu sao tôi luôn nghĩ là chúng ta sẽ không bao giờ trở thành kẻ thù của nhau, Dominique ạ, nếu đó là cái cô muốn.”
“Không, tôi không nghĩ chúng ta sẽ có lúc nào đó trở thành kẻ thù của nhau, Ellsworth ạ. Ông là người dễ chịu nhất mà tôi từng biết.”
“Tất nhiên.”
“Theo ý mà tôi muốn nói?”
“Theo bất kỳ ý nào cô muốn nói.”
Trên bàn làm việc trước mặt cô là phần tranh ảnh của tờ Tin Hàng ngày Chủ nhật. Trên đó có in hình vẽ thiết kế Tòa nhà Enright. Cô nhặt bức hình lên và đưa nó cho ông, hai mắt cô nheo lại thành một câu hỏi. Ông nhìn bức hình, rồi ánh mắt chuyển sang khuôn mặt cô và quay trở lại bức hình. Ông thả trang báo trở lại trên bàn.
“Độc lập như một lời lăng mạ, đúng không?” ông nói.
“Ông biết đấy Ellsworth ạ, tôi nghĩ rằng người thiết kế tòa nhà này lẽ ra nên tự tử thì hơn. Một người mà có thể tạo ra được một thứ đẹp như thế này thì không bao giờ nên cho phép nó được dựng nên cả. Anh ta không nên muốn cho nó tồn tại. Nhưng rồi anh s ẽ để cho nó được xây dựng, để rồi đàn bà có thể phơi tã lót trẻ con trên các hàng hiên mà anh ta xây, để đàn ông nhổ trên các bậc thang của anh ta và vẽ những hình thù bẩn thỉu trên các bức tường của anh ta. Anh ta đã biếu nó cho họ và anh ta đã làm nó trở thành một phần của họ, một phần của mọi thứ. Anh ta lẽ ra không nên đưa nó cho những người như ông xem. Cho những người như ông bàn tán về nó. Anh ta đã làm ô uế công trình của mình bởi lời nói đầu tiên mà ông sẽ nói về ngôi nhà. Anh ta đã tự biến mình thành kẻ còn tồi tệ hơn ông. Ông sẽ chỉ phạm phải một sự khiếm nhã nho nhỏ, nhưng anh ta thì đã phạm tội báng bổ. Một người đã biết những điều đủ để giúp anh ta có thể tạo ra một thứ như thế này thì lẽ ra không thể sống được mới đúng.”
“Cô sẽ viết một bài về cái này chứ?” ông hỏi.
“Không. Như thế sẽ là lặp lại tội ác của anh ta.”
“Thế còn nói chuyện với tôi về nó?”
Cô nhìn ông. Ông mỉm cười một cách dễ chịu.
“Đúng, tất nhiên,” cô nói, “đó cũng là một phần của tội ác đó.”
“Hôm nào đó chúng ta hãy đi ăn tối cùng nhau, Dominique,” ông ta nói. “Thực sự cô không cho tôi được gặp cô đủ.”
“Được thôi,” cô nói. “Bất kỳ lúc nào ông muốn.”
*
* *
Vào phiên xử vụ tấn công Ellsworth Toohey, Steven Mallory từ chối không tiết lộ động cơ của mình. Anh ta chẳng nói câu nào. Anh ta có vẻ thờ ơ với bất kỳ bản án nào có thể được đưa ra. Nhưng Ellworth Toohey gây ra một sự giật gân nho nhỏ khi ông xuất hiện, một cách tự nguyện, để bào chữa cho Mallory. Ông xin thẩm phán hãy độ lượng; ông giải thích rằng ông không muốn thấy tương lai và nghề nghiệp của Mallory bị hủy hoại.
Mọi người trong phòng xử rất xúc động – ngoại trừ Mallory. Steven Mallory lắng nghe và ngắm nhìn mọi thứ như thể anh ta đang chịu đựng một cuộc tra tấn đặc biệt dã man nào đó. Thẩm phán tuyên phạt anh ta hai năm tù, cho hưởng án treo.
Người ta bàn tán rất nhiều về sự rộng lượng phi thường của Toohey. Ông gạt đi mọi lời khen ngợi – một cách vui vẻ và khiêm tốn. “Các bạn của tôi,” ông nói – với tất cả các tờ báo – “Tôi từ chối làm kẻ đồng lõa trong việc sản xuất ra những kẻ tử vì đạo.”
*
* *
Vào buổi gặp mặt đầu tiên của hội kiến trúc sư trẻ tương lai, Keating kết luận rằng Toohey có khả năng tuyệt vời trong việc lựa chọn những người phù hợp với nhau. Mười tám người tham dự mang một vẻ gì đó mà anh không thể định rõ, nhưng cái vẻ ấy cho anh một cảm giác thoải mái, an toàn mà anh chưa bao giờ có được khi ở một mình hoặc trong bất kỳ một cuộc hội họp nào; và một phần của sự thoải mái đó nằm ở việc anh biết rằng tất cả những người khác cũng cảm thấy như thế, với cùng một lý do không thể giải thích được như thế. Đó là một cảm giác về tình bằng hữu, nhưng, theo một cách nào đó, không phải là một tình bằng hữu mang tính thần thánh hay cao quý; và chính cái sự thoải mái này là cái làm người ta cảm thấy không cần phải thần thánh hay cao quý nữa.
Nếu không có tình bằng hữu này thì Keating đã cảm thấy thất vọng với buổi họp mặt. Trong số mười tám người ngồi trong phòng khách của Toohey, không ai là kiến trúc sư nổi tiếng, ngoại trừ chính anh và Gordon L. Prescott, người mặc một chiếc áo len cổ lọ màu be và trông hơi kẻ cả, nhưng háo hức. Keating chưa bao giờ nghe đến tên của những người còn lại. Hầu hết bọn họ là người mới bước vào nghề, trẻ, ăn mặc vụng về và hiếu chiến. Một số người chỉ là thợ vẽ. Có một nữ kiến trúc sư đã từng xây một vài ngôi nhà nhỏ cho tư nhân, chủ yếu là những bà góa giàu có; cô này có một phong cách xông xáo, một đôi môi mím chặt và một bông hoa dã yên thảo cài trên tóc. Một cậu bé với đôi mắt trong sáng, thơ ngây. Một ông thầu khoán vô danh tiểu tốt với khuôn mặt béo phị vô cảm. Một phụ nữ cao, khô đét, làm công việc trang trí nội thất, và một người phụ nữ khác chẳng có nghề nghiệp gì rõ ràng.
Keating không thể hiểu được mục đích chính xác của hội này là gì, nhưng mọi người thảo luận khá sôi nổi. Buổi thảo luận chẳng có nội dung gì chặt chẽ, nhưng tất cả hình như có chung một dòng chảy ngầm bên dưới. Anh cảm thấy rằng dòng chảy này là thứ duy nhất rõ ràng giữa tất cả những thứ chung chung mờ nhạt có mặt, mặc dù chẳng ai chịu đề cập đến nó. Nó giữ anh ở đó, cũng như giữ những người khác, và anh cũng chẳng muốn tìm hiểu nó là cái gì.
Những thanh niên trẻ nói chuyện nhiều về sự bất bình đẳng, sự bất công, về sự độc ác của xã hội đối với tuổi trẻ, và cho rằng mọi người cần phải được đảm bảo công ăn việc làm khi tốt nghiệp đại học. Vị nữ kiến trúc sư thì nói một cái gì đó ngắn gọn về tội lỗi của những người giàu có bằng một chất giọng the thé. Ông thầu khoán thì oang oang tuyên bố rằng đây là một thế giới khó khăn và rằng “mọi người cần phải giúp đỡ nhau.” Cậu bé với đôi mắt ngây thơ thì cầu khẩn rằng “chúng ta có thể làm nhiều điều tốt...” Giọng của cậu mang một vẻ chân thành tha thiết khiến nó dường như không thích hợp và làm người ta bối rối. Gordon L. Prescott tuyên bố rằng hội A.G.A là một đám những người cổ hủ chẳng có ý thức gì về trách nhiệm xã hội và chẳng có một tí nhiệt huyết đàn ông tử tế nào, và rằng đã đến lúc phải tung hê bọn họ đi rồi. Người phụ nữ không có nghề nghiệp rõ ràng thì nói về những lý tưởng và sự nghiệp, mặc dù chẳng ai hiểu đó là những cái gì.
Peter Keating được bầu làm chủ tịch hội, với sự tán đồng tuyệt đối. Gordon L. Prescott được bầu làm phó chủ tịch và thủ quỹ. Toohey từ chối không nhận bất kỳ chức danh nào. Ông ta tuyên bố rằng mình chỉ đóng vai trò là một cố vấn không chính thức. Mọi người quyết định rằng tổ chức này sẽ được đặt tên là Hội Những nhà Xây dựng Hoa Kỳ. Họ cũng quyết định rằng các thành viên không bắt buộc phải là kiến trúc sư, mà hội sẽ mở rộng cho “các nghề nghiệp tương tự” và cho “tất cả những ai mang trong tim mình một mối quan tâm tới ngành kiến trúc vĩ đại.”
Rồi Toohey phát biểu. Ông phát biểu khá dài. Ông đứng, chống người vào một bàn tay đang đặt trên bàn. Giọng nói tuyệt vời của ông nhẹ nhàng và đầy thuyết phục. Nó ngập tràn căn phòng, nhưng lại khiến cho những thính giả của ông nhận thấy rằng nó hẳn là có thể ngập tràn cả một đấu trường La Mã nữa; điều này làm cho những thính giả của ông cảm thấy được tâng bốc một cách khéo léo và cái giọng nói đầy sức mạnh kia làm cho họ càng yên tâm.
“... và vì thế, hỡi các bạn của tôi, điều mà ngành kiến trúc còn thiếu là sự thấu hiểu tầm quan trọng của chính nó đối với xã hội của chúng ta. Sự thiếu sót ấy là do một nguyên nhân kép: do bản chất phản xã hội của toàn thể xã hội của chúng ta và do sự khiêm tốn cố hữu của chúng ta. Các bạn đã quen với việc nghĩ về bản thân chỉ như những trụ cột gia đình, những người không có mục đích gì cao hơn là lấy tiền công và nuôi sống bản thân. Chẳng phải đã đến lúc, hỡi các bạn của tôi, phải ngừng lại và định nghĩa lại vị trí của các bạn trong xã hội rồi sao? Trong số các ngành nghề thì ngành của các bạn là quan trọng nhất. Quan trọng, không phải ở số tiền bạn có thể kiếm được, không phải ở trình độ kỹ năng nghệ thuật mà các bạn có thể thể hiện, mà ở sự phục vụ các bạn đem đến cho đồng loại của mình. Các bạn là những người cung cấp nơi trú ẩn cho nhân loại. Hãy nhớ lấy điều này và rồi nhìn ngắm các thành phố của chúng ta, các khu nhà ổ chuột của chúng ta, để nhận ra nhiệm vụ cực lớn đang chờ đón các bạn. Nhưng để vượt qua thử thách này, các bạn cần được vũ trang bằng một tầm nhìn rộng lớn hơn về bản thân và về công việc của mình. Các bạn không phải là những đầy tờ làm thuê cho những người giàu có. Các bạn là những người đấu tranh cho sự nghiệp của những người bị thiệt thòi và những người không có nhà cửa. Chúng ta sẽ được phán xét không phải qua việc chúng ta là ai, mà qua việc chúng ta phục vụ ai. Chúng ta hãy đoàn kết lại trong tinh thần này. Chúng ta hãy – trong tất cả các vấn đề – trung thành với triển vọng mới mẻ, rộng lớn, cao cả hơn này. Chúng ta hãy thực hiện – ồ, thưa các bạn của tôi, tôi có thể nói – một giấc mơ cao cả hơn không nhỉ?”
Keating lắng nghe một cách háo hức. Anh đã luôn nghĩ mình là một trụ cột gia đình, gò lưng kiếm tiền thù lao, trong một chuyên môn mà anh đã chọn vì mẹ anh đã muốn anh chọn nó. Thật là hài lòng khi phát hiện ra rằng anh còn hơn như thế nhiều; rằng các hoạt động thường ngày của anh mang lại một tầm quan trọng cao cả. Thật là dễ chịu và mê ly. Anh biết là tất cả những người khác trong phòng cũng cảm thấy thế.
“... và khi hệ thống xã hội của chúng ta sụp đổ thì công trình của những nhà xây dựng sẽ không bị cuốn đi, mà nó sẽ được nâng lên một vị thế nổi bật hơn và một sự công nhận vĩ đại hơn...”
Chuông cửa reo. Rồi người hầu phòng của Toohey xuất hiện trong chốc lát, giữ cánh cửa phòng khách mở cho Dominique Francon vào.
D a vào cái cách Toohey dừng lại, ngay giữa một từ đang nói dở, Keating biết rằng Dominique đã không được mời, cũng chẳng được mong đợi. Cô mỉm cười với Toohey, gật đầu và bàn tay cô phác một cử chỉ bảo ông cứ tiếp tục. Ông ra dấu cúi chào về hướng cô, hầu như chỉ như một chuyển động khẽ của đôi lông mày, và tiếp tục bài phát biểu. Đó là một sự chào đón dễ chịu và sự suồng sã của nó đã gộp vị khách vào trong tình bằng hữu thân mật của buổi gặp mặt. Riêng đối với Keating, sự chào đón ấy dường như đã bị chậm một nhịp. Trước đây anh chưa hề thấy Toohey bị lỡ.
Dominique ngồi xuống một góc, đằng sau những người khác. Keating tạm quên việc lắng nghe một lúc để cố thu hút sự chú ý của cô. Anh phải đợi cho đến khi đôi mắt cô đưa quanh căn phòng một cách trầm ngâm, từ khuôn mặt nọ sang khuôn mặt kia và dừng lại ở anh. Anh nghiêng mình và gật đầu một cách hớn hở, với nụ cười thể hiện sự chào đón một vật sở hữu cá nhân.
Cô nghiêng đầu, anh nhìn thấy hàng lông mi chạm vào đôi má cô trong một khoảnh khắc khi đôi mắt cô nhắm lại, và rồi cô nhìn anh lần nữa. Cô ngồi nhìn anh một lúc lâu, không mỉm cười, như thể cô đang tìm lại một điều gì đó trên gương mặt anh. Anh chưa gặp cô từ hồi mùa xuân. Anh nghĩ là cô trông hơi mệt mỏi và đáng yêu hơn những gì anh nhớ.
Rồi anh quay sang Ellsworth Toohey một lần nữa và anh lắng nghe. Những lời anh đang nghe vẫn có vẻ khích động như trước, nhưng sự thích thú của anh đối với chúng không còn trọn vẹn nữa. Anh ngắm nhìn Dominique. Cô không thuộc về căn phòng này, về buổi gặp gỡ này. Anh không thể nói được vì sao, nhưng anh cảm thấy nó một cách chắc chắn và nặng nề. Không phải là vẻ đẹp của cô, không phải là vẻ tao nhã đầy thách thức của cô. Nhưng một thứ gì đó khiến cô trở thành người ngoài cuộc. Như thể là tất cả bọn họ đang trần truồng một cách thoải mái thì một người mặc đủ quần áo bước vào và bỗng nhiên làm họ trở nên ngượng ngập và lố bịch. Nhưng cô chẳng làm gì cả.
Cô ngồi chăm chú lắng nghe. Một lần cô dựa ra sau, bắt chéo hai chân, và châm một điếu thuốc. Cô phẩy tắt ngọn lửa trên que diêm bằng một động tác nhẹ, dứt khoát của cổ tay và cô thả que diêm vào một cái gạt tàn trên chiếc bàn bên cạnh mình. Anh thấy cô thả que diêm vào cái gạt tàn, anh cảm thấy như thể cái chuyển động cổ tay đó của cô đã gẩy que diêm vào mặt tất cả bọn họ. Anh nghĩ là anh vô lý. Nhưng anh để ý thấy Ellsworth Toohey không bao giờ nhìn cô khi ông ta phát biểu.
Khi buổi gặp mặt kết thúc, Toohey vội đến chỗ cô.
“Dominique yêu quý!” ông vui vẻ nói. “Tôi có nên tự tâng bốc mình không đây?”
“Nếu ông muốn như vậy.”
“Nếu tôi biết là cô quan tâm thì tôi đã gửi một giấy mời rất đặc biệt cho cô rồi.”
“Nhưng ông đã không nghĩ là tôi sẽ quan tâm đúng không?”
“Phải, thành thật mà nói, tôi...”
“Ông sai rồi, Ellsworth ạ. Ông đã quên mất bản năng làm báo của tôi. Không bao giờ để lỡ một tin sốt dẻo. Chẳng mấy khi người ta có cơ hội chứng kiến sự ra đời của một trọng tội đâu.”
“Chính xác là em muốn nói gì cơ Dominique?” Keating hỏi, giọng anh đanh lại.
Cô quay sang anh. “Chào anh, Peter.”
“Cô biết Peter Keating, tất nhiên rồi?” Toohey mỉm cười với cô.
“Ồ vâng. Peter đã từng phải lòng tôi.”
“Em đang dùng thời[72] sai rồi, Dominique ạ,” Keating nói.
“Anh không bao giờ được coi bất kỳ điều gì Dominique chọn nói ra là nghiêm túc, Peter ạ. Cô ấy không muốn chúng ta coi nó là nghiêm túc đâu. Cô có muốn tham gia vào nhóm nhỏ của chúng tôi không Dominique? Trình độ chuyên môn của cô khiến cô quá thừa tư cách.”
“Không, Ellsworth. Tôi không muốn tham gia vào nhóm nhỏ của ông đâu. Tôi thực sự không ghét ông đủ để làm việc đó.”
“Vì sao em lại không tán thành nó?” Keating gắt.
“Kìa Peter!” cô dài giọng. “Cái gì làm anh nghĩ thế chứ? Em không hề không tán thành nó. Tôi có không tán thành nó không hả Ellsworth? Em nghĩ đó là một việc làm thích hợp nhằm đáp ứng một nhu cầu rõ ràng. Nó là cái mà tất cả chúng ta đều cần – và xứng đáng.”
“Chúng tôi có thể tin tưởng vào việc cô sẽ xuất hiện trong buổi gặp mặt lần tới không?” Toohey hỏi. “Ý tôi là thật dễ chịu khi có một thính giả vừa am hiểu vừa ôn hòa – ở cuộc gặp lần tới của chúng tôi.”
“Không đâu, Ellsworth ạ. Cám ơn ông. Chỉ là tò mò thôi mà. Mặc dù ông thật sự có một nhóm người thú vị ở đây. Những nhà xây dựng trẻ. Nhân tiện, sao ông không mời cái người đã thiết kế tòa nhà Enright – tên anh ta là gì ý nhỉ? – Howard Roark à?”
Keating cảm thấy hàm anh nghiến chặt. Nhưng cô nhìn họ một cách ngây thơ, cô đã nói điều đó một cách nhẹ nhàng, với giọng điệu của một nhận xét thông thường – chắc chắn là, anh nghĩ, cô ấy đã không có ý... gì nhỉ? Anh tự hỏi bản thân và thêm vào: cô ấy đã không có ý nói bất kỳ điều gì anh đã thoáng nghĩ là cô có ý nói, bất kể điều gì đã làm anh sợ hãi trong giây phút đó.
“Tôi chưa bao giờ có hân hạnh được gặp anh Roark,” Toohey trả lời một cách trang trọng.
“Em có biết anh ta không?” Keating hỏi cô.
“Không,” cô trả lời. “Tôi chỉ mới thấy một bản vẽ tòa nhà Enright.”
“Và?” Keating khăng khăng. “Em nghĩ gì về nó?”
“Em không nghĩ về nó,” cô trả lời.
Khi cô rời đi, Keating đi tháp tùng cô. Anh nhìn cô trong thang máy, khi họ đi xuống. Anh nhìn thấy bàn tay cô, trong một chiếc găng tay bó màu đen, đang nắm lấy cái góc phẳng của một quyển sách bỏ túi. Cái vẻ bất cẩn ẻo lả của những ngón tay cô vừa thách thức vừa mời gọi. Anh lại cảm thấy mình đang đầu hàng cô.
“Dominique, thực sự vì sao em lại đến đây hôm nay?”
“Ồ, em chưa đi đâu rất lâu rồi và em đã quyết định bắt đầu với buổi gặp này. Anh biết không, khi em đi bơi em không thích hành hạ bản thân bằng cách xuống nước dần dần. Em nhào ngay xuống và nó sẽ sốc điếng người, nhưng sau đó thì mọi việc không còn quá khó chịu đựng.”
“Ý em là gì? Em thực sự thấy có điều gì sai trái ở buổi gặp mặt đó? Rốt cuộc thì bọn anh có định làm cái gì cụ thể đâu. Bọn anh không có chương trình thực sự. Anh thậm chí không biết bọn anh đã ở đó để làm gì nữa kia.”
“Chính thế đấy, Peter. Anh thậm chí không biết các anh đã ở đó để làm gì nữa.”
“Chỉ là một nhóm cho mọi người tụ họp thôi mà. Chủ yếu là để nói chuyện. Như thế thì có hại gì nào?”
“Peter, em mệt rồi.”
“Thế... việc em xuất hiện tối nay ít nhất cũng có nghĩa là em đang từ bỏ sự ẩn dật chứ?”
“Đúng thế. Chỉ thế thôi... Mà sự ẩn dật của em?”
“Anh đã rất cố gắng liên lạc với em, em biết đấy.”
“Thật vậy sao?”
“Anh có nên nói với em anh vui thế nào khi được gặp em hôm nay không?”
“Không. Hãy coi như anh đã nói với em rồi.”
“Em biết không, em đã thay đổi, Dominique ạ. Anh không biết đích xác theo cách nào, nhưng em đã thay đổi.”
“Em đã thay đổi?”
“Hãy coi như anh vừa nói là em rất dễ thương, bởi vì anh không tìm được từ ngữ nào để nói ra điều đó cả.”
Đường phố tối. Anh gọi một chiếc tắc-xi. Ngồi gần cô, anh quay người và nhìn thẳng vào cô, cái liếc nhìn của anh như một lời mời mọc công khai. Anh hy vọng nó làm cho sự yên lặng trở nên có ý nghĩa giữa họ. Cô không quay đi. Cô ngồi quan sát mặt anh. Cô có vẻ đang phân vân theo đuổi một ý nghĩ nào đó của riêng cô mà anh không thể đoán được. Anh với qua chầm chậm và cầm lấy bàn tay cô. Anh cảm thấy nỗ lực trong bàn tay cô, anh có thể cảm nhận qua những ngón tay cứng ngắc của cô cái nỗ lực của cả cánh tay – không phải là nỗ lực để rút tay ra, mà là nỗ lực cứ để cho anh nắm lấy nó. Anh nâng bàn tay cô lên, lật nó lại và áp đôi môi mình lên cổ tay cô.
Rồi anh nhìn vào khuôn mặt cô. Anh thả bàn tay cô xuống và nó vẫn lơ lửng trong không khí trong một chốc lát, những ngón tay cứng đờ, khép hờ. Đây không phải là sự lạnh lùng mà anh nhớ. Đây là sự kinh sợ, quá mạnh đến nỗi nó không hề liên quan trực tiếp đến anh, nó không thể xúc phạm anh được, nó dường như hàm chứa nhiều hơn cả con người anh.
Anh đột nhiên nhận biết cơ thể cô; không phải trong cảm giác thèm muốn hay chán ghét, mà là nhận thức về sự hiện hữu của nó ở gần anh, dưới váy của cô. Anh thì thầm một cách bất tự giác:
“Dominique, anh ta là ai?”
Cô quay sang đối diện với anh. Rồi anh nhìn thấy đôi mắt cô nheo lại. Anh nhìn thấy đôi môi cô dãn ra, trở nên đầy đặn hơn, mềm mại hơn, miệng cô kéo dài chầm chậm thành một nụ cười mỉm yếu ớt, không mở miệng. Cô trả lời, nhìn thẳng vào anh:
“Một người thợ ở mỏ đá granit.”
Cô đã thành công. Anh cười to.
“Đáng đời anh, Dominique ạ. Anh không nên nghi ngờ cái-tưởng-như-không-thể.”
“Peter, thật lạ đúng không? Chính anh là người em đã từng nghĩ là em có thể làm cho mình thích.”
“Sao lại lạ?”
“Thì cứ nghĩ đến việc chúng ta biết về bản thân chúng ta mới ít làm sao. Một ngày nào đó anh cũng sẽ biết sự thật về bản thân mình, Peter ạ, và điều đó với anh sẽ tồi tệ hơn so với hầu hết những người khác. Nhưng anh không phải nghĩ về điều đó đâu. Cái đó còn lâu mới đến.”
“Em đã thực sự muốn anh hả Dominique?”
“Em đã nghĩ là em không bao giờ có thể muốn bất kỳ thứ gì và anh đã rất hợp với điều đó.”
“Anh không hiểu ý em là gì. Anh không biết em nghĩ là em đang nói gì. Anh biết rằng anh sẽ luôn yêu em. Và anh sẽ không để em biến mất lần nữa đâu. Bây giờ, khi em đã trở lại.”
“Bây giờ, khi em đã trở lại, Peter ạ, em không muốn nhìn thấy anh nữa. Ồ, em sẽ phải thấy anh khi chúng ta tình cờ gặp nhau, như chúng ta sẽ phải như thế, nhưng đừng đến thăm em. Đừng đến gặp em. Em không cố xúc phạm anh đâu, anh Peter. Không phải thế đâu. Anh chưa hề làm điều gì khiến em phải tức giận cả. Có một thứ gì trong chính bản thân em mà em không muốn đối mặt lần nữa. Em rất tiếc khi chọn anh làm một ví dụ. Nhưng anh quá phù hợp. Anh – Peter, anh là mọi thứ em khinh thường trên thế giới và em không muốn nhớ là em khinh thường nó nhường nào. Nếu em để cho bản thân em nhớ – thì em sẽ quay lại với nó. Đây không phải là một sự xúc phạm anh đâu, Peter ạ. Hãy cố gắng hiểu điều đó. Anh không phải là thứ tồi tệ nhất của thế giới. Anh là thứ tốt nhất của nó. Đó chính là điều đáng sợ. Nếu có ngày em quay trở lại với anh – thì đừng để em quay lại. Em nói điều này vì lúc này em có thể nói; còn khi em quay trở lại với anh, anh sẽ không thể dừng em lại được đâu; lúc này là lúc duy nhất em có thể cảnh báo anh được.”
“Anh không biết em đang nói về cái gì.” anh nói trong cơn giận dữ lạnh lùng, đôi môi anh cứng lại.
“Đừng cố biết. Không sao đâu. Chúng ta hãy tránh xa nhau. Thế được chứ?”
“Anh sẽ không bao giờ từ bỏ em.”
Cô nhún vai. “Được thôi Peter. Đây là lần duy nhất em đối xử tốt với anh. Hay với bất kỳ ai.”