Thân Phận Ma Trơi Chương 2

Chương 2
Chap 2

Tôi tợp một miếng đế cười khà khà, ném hạt đậu phong vào miệng đưa cay. Bữa cơm chiều của tôi có thế Trời bây giờ mới lất phất mưa. Tôi nhìn sang bên kia đường, nghiêng người hàng xóm của tôi lác đác tụ về. Qua màn mưa, tôi vẫn quan sát được họ: ông già cô đơn nằm cuối hàng hiên, gia đinh mẹ mìn nằm kế, có anh chồng đui què mẻ sứt. Tôi nghĩ gia đình ấy hành nghề mẹ mìn vì có cả "cô lếch xông" con nít san sát tuổi nhau, mỗi sáng tôi thấy có người tới lãnh đi suốt ngày, tối trả về cho chị ta, tiền thuê mướn sòng phẳng, đôi khi còn kèm theo quà cáp. Tối, chị điểm danh con, đếm như đếm vịt. Tối nay tôi nghe chị la lên:

- Còn đứa vắt chân lên cổ nữa, sao giờ này nó chưa trả tao? Trời ơi, muộn chút nữa là nó phải trả thêm tôi hai ngàn, không thì tôi...

Anh chồng chột mắt, cụt giò đang gầy bếp lửa nấu nướng chi đó, gắt lên:

- Làm chi mà ồn vậy, con nhỏ mới ra nghề nhưng coi bộ cũng đàng "giàng", mày thiệt... Chị vợ lồng lên với cơn ghen, chửi chồng không thiếu một câu tục tĩu nào. Đổ thừa cho thằng chồng mê con ăn mày mới. Anh chồng cho con vợ lắm mồm một cái bạt tai, xàng luôn một cây nạng gỗ, rồi mọi chuyện êm ru. Anh chồng uống rượu, cuối cùng chui vào chiếu làm gì lục đục trong đó (tôi không biết). Dăm phút sau anh ta chui ra chửi thề một câu:

- Lần này mà mày không đẻ thêm đứa nữa thì chết mẹ với tao nghen. Nhớ lúc nào cũng phải khai là mới sanh lần đầu, đừng quờ quạng khai đã sanh nhiều lần, nó đè ra đoạn sản là mất giống. Tao sẽ bỏ mày, tao lấy con khác liền một khi. Đ.M coi đứa nào hận đứa nào.

Mụ mẹ mìn nằm trong chiếu, thò đầu ra quác lên:

- Giỏi thì vô đây thằng đui què kia, đừng đổ thừa tao, tưởng bảnh hả?

Cùng lúc đó chị ăn mày bế thằng bé vắt chân lên cổ về. Chị ta moi tiền ra trả, nhưng mụ mẹ mìn không chịu:

- Đâu được mày, giờ này mày mới đưa con tao về dễ gì... Đưa thêm tao, chớ không mai mày đi mướn chỗ khác nghen...

- Thì em đưa thêm chị một ngàn roi.

Anh chồng tật nguyền đĩnh đạc ra vẻ một đàn anh đầu nậu chủ gia đình:

- Đâu được tao không binh vợ, nhưng bà ấy nói có lý. Vì thương mày mới ra nghề, vợ chồng tao giao "cục vàng " cho mày. Mày phải biết làm cái chân nó vắt lên cổ nghệ thuật được như thế không phải dễ. Tao mất bao nhiêu công phu uốn nắn còn hơn mấy cha nghệ nhân uốn cây kiểng. Khai đi, khai thiệt đi, mày trúng mánh ở "tác phẩm" này phải không? Biết điều mai tao lại cho bế cây vàng của tao đi nữa, còn không thì biến đi nghe mây.

Con ăn mày mới lưỡng lự:

Em có trúng mánh, nhưng không nhiều nhặn gì, thằng nhỏ và em có được đĩa thịt bò lúc lắc thừa, chút xíu tiền bố thí mà. Thằng què la lên:

- ở đâu? Ai?

- Dạ nhà hàng nổi ngoài bờ sông!

- Việt kiều hay du khách nước ngoài?

- Hổng biết nữa, họ đều là người...

- Thôi mày ơi, đúng là Việt kiều rồi, mày trúng mánh rồi, đưa đây, đưa thêm cho tao vài đô thôi. - Anh chị xử ép em quá, nhưng thôi cũng được, anh chị lên giá "goài" thì em cũng chết. Bộ dễ gì, em cũng phải "ca" chớ bộ...

Thằng què cười hô hố, nhét tiền vào cạp quần, hỏi tiếp:

- Mày ca sao, có thảm không, nói nghe coi!

- Dạ, em ca thằng bé bị "chất độc màu da cam" nên chân nó vắt lên cổ.

Bên này đường, tôi cười bò lăn bò càng. Đến bây giờ nhớ lại, tôi còn cười. Tôi nghĩ ngay đến bài hát gì đó có câu chất độc màu da cam mà tôi không nhớ hết nội dung. Quả thật con nhỏ ăn mày là thiên tài, có đấu óc sáng tạo.

Cuối hàng hiên bên kia đường, chỗ khuất nhất, bóng đèn đường chỉ rọi tới lờ mờ là "nhà" của em. Nhưng tới giờ này em chưa về.

Tôi vốn là kẻ nòi tình nên thương người đồng điệu Em bận bon chen kiếm khứa ở công viên nào đó, hoặc một khúc đường vắng nào chăng?

Đêm mưa buồn lê thê như vầy có mấy ai ra đường, vui chơi, gái đứng đường ế độ, cho dù đóng vai con nhà lành, ngây thơ khờ dại lỡ độ đường hay gì đi nữa khứa vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.

Nhiều đêm tôi thấy thương cô ta. Chờ mãi chẳng thấy nàng về, tôi tưởng tượng ra đủ thứ, dù tôi chưa một lần nhìn rõ mặt nàng, không biết tên nàng. Tôi thấy mình là một tay chơi. Một tay chơi gặp khó khăn ở giữa thành phố sa hoa, nhưng lại gặp nàng ở một nơi khuất tất nhất, đèn đường bị lưu manh đập bể, tối đến độ không nhìn rõ mặt người con gái đối diện với mình, như trong một bài thơ của Jacques Prévert, mà tôi được đọc qua bản dịch, dùng làm giấy gói đậu phong: Ba que diêm trong đêm đánh từng que một

Que u nhìn trọn mọt em

Que thứ hai nhìn đôi mắt

Que cuối nhìn miệng em

Rồi tối hẳn cho anh nhớ lại

Tất cả nét yêu khi xiết chặt em vào lòng.

Một con điếm đứng đường được thăng hoa do một tay chơi có máu thi sĩ.

Nhưng điều đó quan trọng gì, tôi thấy hồn tôi bay bổng nghĩ đến nàng, khi tôi cô đơn, tàn xị rượu mỗi đêm thay cơm chiều.

Tôi ngả người nằm xuống, giấc ngủ chập chờn và hình như nghe thấy cả tiếng bước chân em về.

Lãng mạn ra phết. Tưởng tượng ra cái lưng ong thon thả của em ngả xuống vỉa hè.

Mưa rả rích, những hạt mưa loang loáng qua ánh đèn đường. Tôi kéo cái mền phủ lên đầu. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ bốc hơi men.

Tôi thức giấc không biết lúc ấy là mấy giờ đêm, mưa vẫn còn rả rích. Trong giấc ngủ vừa rồi tôi mơ thấy nàng, giấc mơ đẹp. Tôi và nàng cùng dạo chơi trong công viên và nói lời yêu đương chân thật, nhưng lời lẽ thế nào tôi đã quên ráo.

Bây giờ thì tôi tỉnh ngủ hẳn, tôi lại nghĩ đến nàng. Thế nằm của tôi xoay mặt vào tường, tôi muốn quay mặt trở ra. Nhưng hãy gượm nào, yêu mà, đi đâu mà vội. Con người như tôi chẳng nên làm chuyện gì hấp tấp, cứ từ từ rồi cũng có đêm tôi bò được qua bên kia đường.

Cũng một đêm mưa gió như đêm nay... Nghĩ đến mà tôi thấy nóng bừng cả mặt. Xây mộng đẹp mà nghĩ đến toàn chuyện ma bùn ma tịt thì thật chẳng còn ra làm sao nữa, nghiêm chỉnh chút coi. "Nhưng không, nàng phải bỏ ngay cái nghề đứng đường, phải sống trong sạch và lương thiện kia". Khi tôi xoay được nửa người, tôi cũng đã xây được nửa giấc mộng. Nàng là bà chủ một hàng. bán nước trà nóng ở ga xe lửa. Một cái điếu cày hút thuốc lào kêu thật giòn, trên một cái chiếu nàng ngồi giữa róc nước trà cho khách giang hồ. ở một góc gần đó, tôi đun nước cho nàng. Tiếng điếu thuốc lào rít lên xoe xoè, chuyện giang hồ nam bắc nổ như pháo ran. quanh chúng tôi. Tiếng còi tàu khởi hành rúc trong đêm. "Ôi chao, đời sống tuyệt vời và đơn giản biết bao".

Tiếng gió thổi vù vù, hình như có một vài giọt mưa hắt vào chỗ tôi nằm. Không biết giờ này nàng về chưa? Tôi xót sa và quay hẳn người hướng mặt sang bên kia đường. Tim tôi muốn đứng lại đập thình thinh. Rồi tôi thở, rồi vã mồ hôi.

Tôi chớp chớp mắt, banh to mắt ra mà nhìn. Giấc mơ đẹp được thành hình bây giờ như một làn khói thuốc lào tan loãng vào không khí. Tụ lại phía bên kia đường, ngay tại chỗ "con điếm" nằm. Nó nằm chình ình thõng thượt. Dáng điệu mời gọi cho hai bàn tay nhớp nhúa của gã cỡn trai ngồi cạnh lần mò. Con nhỏ ngủ say quá chăng, đến độ để cho trung lưu manh quờ quạng làm chuyện đồi bại? Hay nàng làm "ca đêm" bắt khứa về ổ kiếm chác ngoài giờ?

Những lời dự đoán xoay mòng mòng trong đầu tôi như dự đoán thời tiết.

Bên kia đường mọi chuyện cứ diễn ra nhịp nhàng. Một pha gay cấn sẽ xây ra trong ít phút nữa thôi. Tôi là người chứng kiến trọn vẹn.

Hai bàn tay nhớp nhúa của thằng khốn nạn "xoạng" loạn cào cào, thế mà con đượi vẫn ngủ say như chết.

Hay là mỗi tối khi nàng hành nghề xong nàng nốc vài viên "xì chọc xì kéo" hay "nốc tan nốc tiếc" gì đó, em "xỉn" nên không biết con mẹ gì nữa. Nếu quả vậy thì nàng đáng thương làm sao, ôi người tình một đời hư đốn. Mắt tôi càng mở to hơn để nhìn rõ, quân khốn nạn kia bây giờ lần mò phần dưới thân thể nàng. Và rồi rất từ từ, rất thận trọng, hai bàn tay ma mãnh đụng vào dây lưng quần nàng. Cái quần được rút ra từ từ. Tôi quết nước bọt, tôi thấy hết. Đến đoạn nào đây, chắc sẽ tới ngay bây giờ. Ơ kìa, gã tuổi trẻ ấy thật từ tốn nắn vuốt cái quần vừa lột được gấp lại, lịch sự như Tây.

Rồi, thoắt một cái và nhanh như con sóc, gã co giò phóng. Nhanh hơn cả tiếng la của cô gái vừa nhỏm dậy. Gã đã biến dạng sau màn mưa bụi cuối đường. Cả khu xóm bên kia đường thức giấc, lao nhao. Chỉ riêng tôi còn nằm lặng người vì cảnh tượng vừa xảy ra. Cô gái bu lu ba loa chơi bới thằng khốn nạn. Rồi tiếng cười hô hố, khăng khắc của thmg chột què:

- Mẹ kiếp, ớ thúi, ngủ đến bị lột quần mà cũng không biết.

Con vợ mẹ mìn dài cái mỏ, luận điệu "giậu đổ bìm leo, cây cứt chó cũng leo theo": - Đĩ gặp điếm rồi, con ơi? ủa mà sao nó không biết gì vậy. Còn thằng đui què kia không nhìn nó nữa, tao thì móc luôn tròng mắt kia của mày bây giờ.

Thằng chột què vẫn cười ngặt nghẽo. Cô gái tức tưởi khóc phân bua:

- Tôi biết chớ sao không, biết ngay từ lúc đầu lận, nhưng...

- Nhưng mụ nội mày, vậy mà để...

- Tôi đâu có dè nó đểu như vậy.

Mụ mẹ mìn chửi toáng, ra vẻ hiểu đời:

- A thôi, tao hiểu rồi, mày là đồ "nứng" bậy.

Con nhỏ la lên vì bị xỉ vả chạm tự ái:

- Nói cho các người hay, con này kinh nghiệm đầy mình không có nứng bậy đâu, hôm nay trời mưa nên ế độ, về đây đang nằm thì thằng khốn nạn kia nhảy a thần

phù vô, tưởng nó biết thông cảm sau khi xong chuyện, ai dè... Trời đất ơi, cái quần của tôi. Cô gái lại khóc nức lên. Lão già cô đơn cũng bò dậy, chép miệng chán cho tình đời đen bạc:

- Thời buổi làm ăn khó khăn, nói chuyện giá cả đàng hoàng chớ con, ủa mà quần gì vậy nhỏ?

Cô gái càng trở nên uất ức, tức tưởi:

- Cha mẹ ơi, cái quần của tôi là quần "mô đen" mới, có nhiều "li", nhiều túi, ống túm, dây nhợ tùm lum chớ đâu phải quần thường.

Gã chột què thôi cười:

- A, tao thấy thứ quần đó, bây giờ ở thành phố này mặc thiếu gì, nội hay "ngoại", mà sao mày có được?

Cô gái gào lên:

- "Ngoại", quần "ngoại" đàng hoàng, mà tôi có đâu, tôi theo chị em đi mướn của người ta mới chết chứ. Làm sao mai tôi đền cho người ta đây, cả trăm ngàn...

Cô gái ở truồng ngồi bó gối khóc hu hu. Đám con mẹ mìn cũng thức giấc bò lổm ngổm như cua. Thằng bé vắt chân lên cổ, lết đến cạnh cô gái, thao láo mắt nhìn, thò tay gãi đít xành xạch. Nó cũng đang ở truồng, chỉ khác một điều là nó vắt chân lên cổ. Những ngón chân dị dạng quặp lấy một bên vành tai vít nghiêng cái đầu. Vợ chồng mẹ mìn, lão già cô đơn không còn để ý gì đến cô gái bị cởi truồng nữa.

Họ quay ra tranh cãi nhau về giá cả cái quần "mô đen". Ai cũng tự cho mình là người nắm vững giá thị trường. Giá trị cái quần, chỉ giá trị cái quần thôi mới là đáng kể. Cô gái giẫy đành đạch khi thằng bé vắt chân lên cổ mất thăng bằng ngã lăn kềnh ra ngay dưới chân cô ta.

Mẹ mìn chồm lên xoe xoè chửi: - A con đĩ thối không đáng một xu kia, mày kẹp đầu con tao hả, tao thì xé xác mày ra.

Thằng vắt chân lên cổ được mẹ nó xách lên như xách một gốc củi khô, liệng lại vào chỗ nlm cùng đám con nít bò lổn nhổn.

Một thằng bé trong đám con mẹ mìn, vỗ tay nhảy tưng tưng hát:

- á li ba ba... cái quần rách làm ba... á li ba ba...

Cô gái bị trấn lột quần khóc vang cả một góc phố đêm. Đã đến lúc tôi trở dậy ra đi, vì muốn ngủ tiếp cũng chẳng được.

Trời vẫn còn tối, cô gái vẫn ngồi đó, rúc vào một xó tối nhất Nhưng đêm sẽ không dài mãi để che chở cho thân xác trần truồng của nàng.

Còn một chút xíu nhân tính sót lại trong người, tôi không đành lòng khi thấy một người gặp chuyện khó khăn. Tôi hy sinh chiếc mền rách quáng lại cho nàng. Tôi ra đi, không nghĩ ngợi gì nữa và quên luôn chuyện ấy.

Thời gian sau, tôi nghe có người nói. Thấy một cô gái nhem nhuốc, cởi truồng đi rong vỗ tay hát như điên:

- A li ba ba... cái quần Hara mất đêm qua...

Tôi thầm nghĩ, chẳng biết có phải nàng không?

Tự nhiên tôi thấy xót xa. Lại thêm một dạng điên, một hình thức điên nữa. Điên phải bị một cú "sốc" nặng, và quan trọng nhất là phải có thì giờ hành nghề điên, không thì người ta nói là điên giả vờ. Khối kẻ muốn điên mà không được. Tôi chưa từng sống trong một phòng giam nào chật hẹp, ngột ngạt, đông người và nóng bức như trong phòng giam này. Tôi từng có kinh nghiệm ở tù. Tôi cũng không tưởng tượng được một miền nhiệt đới, một bãi sa mạc nào khủng khiếp hơn. Nhưng chúng tôi vẫn phải sống, hy vọng, và tìm mọi cách thích hợp cho đời sống tù ngục.

Ngót trăm người đồng cảnh ngộ trong chuyến vượt biên, cùng với khoảng sáu bẩy chục tù hình sự bị nhét chung một phòng giam, gồm ba phòng: một phòng nam, một phòng nữ và một nhà bếp. Trên lầu cũng có phòng giam nhưng tôi không biết chia ra mấy phòng, chỉ chừng bốn mét sáu mét cho trên một trăm tù nhân. Nghĩa là khi chúng tôi nằm xuống, phải lựa thế nằm đan háng vào nhau mới tạm đủ chỗ. Tắm rửa tiêu chuẩn chỉ có một ca nước, ngồi chồm hổm, để quần đùi dưới đít vò giặt cho ướt nước qua loa. Cả một bầy người hành động đồng loạt như thế nên người ta gọi là tắm heo.

Khi đó vào khoảng tháng tư âm lịch. Thời tiết miền Nam chưa mưa được mà chỉ ùn lên mây đen, những bọng nước khổng lồ lơ lửng trên trời đe dọa sẽ trút xuống những trận mưa lớn. Không khí hầm nóng khủng khiếp. Khắp cả miền đất rộng mênh mông còn như một lò lửa cây cối đứng im phăng phắc, nữa là đây một phòng hơi ngạt trong một lò lửa.

Người tù được làm tạp dịch ngoài hành lang nói đứng bên ngoài nhìn qua song sắt phòng giam thấy khói hừng hực bốc ra như đun bếp. Buổi tối qua ánh đèn mờ, hơi người bốc lên như sương mù. Tất cả chỉ mặc độc một chiếc quần đùi lúc nào cũng ướt nhem nhép, hôi thối. Cán bộ khi ló mặt vào phòng giam phải bịt mũi. Nóng bức đến độ cả phân nửa phòng giam phải trần truồng. Người ta nói bên phòng giam nữ cũng vậy, rồi có tiếng cười hí hí. Một anh nào đó pha trò vô duyên, bằng một câu tục tĩu. Một người khác nói:

- Đừng nói thế, bò heo bị nhốt trong chuồng dơ dáy nó có biết hôi thối đâu. Chúng ta cũng vậy, mình không ngửi thấy mùi hôi thối của mmh. Mày đang biến thành súc vật, mày có biết không?

Nước trong cơ thể vắt cạn từng giây, cùng những chất độc xì ra, đâm chồi nẩy lộc thành những mụn nhọt trên đầu, trên mặt, mông đít, háng. Đau đớn phát sốt Nói tóm lại ở khắp mọi phân vuông trên cơ thể, mụn nhọt, ghẻ lở đều chen nhau tranh sống và phát triển được hết. Cơ thể con người trở nên nhầy nhụa trơn tuồn tuột như lươn trong giỏ. Vậy mà chúng tôi vẫn sống, dù rằng thỉnh thoảng bất kể ngày đêm vẫn có những tiếng la cấp cứu cho người ngạt thở. Nạn nhân được khiêng ra ngoài hành lang hớp lấy chút đỉnh không khí rồi tống trở lại phòng giam. Đó là phương pháp cấp cứu của y tế trại giam. Ban đêm chúng tôi nằm đan háng vào nhau, xếp lớp như cá đóng hộp nghe kể chuyện, hai tù nhân đứng giữa phòng cầm hai góc mền quạt cho anh em. Đúng ra không phải quạt mát mà lùa bới hơi độc ra

ngoài song sắt. Chúng tôi vẫn sống, thả hồn theo câu chuyện kể hấp dẫn hay chán phèo. Sáng sớm tinh mơ, cửa phòng giam mở. Chúng tôi xếp hàng, công an trại giam dẫn ra ngoài ao cá làm công việc vệ sinh. Cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn không đại tiện được. Lũ cá tra nuôi trong ao đớp chay bong bóng nước, đói meo. Đó là phản ứng sinh lý ất có của người bị giam những ngày đầu tiên. Hơn trăm người tù tội vượt biên chúng tôi đã không đại tiện được bảy ngày hôm nay. Kể từ đêm hôm ấy... Khi chúng tôi bị lùa từ dưới hầm tàu lên bờ. Chiếc tàu dài 25 mét với 4000 lít dầu dự trữ, thuyền trưởng lẫn tài công, thủy thủ đoàn cho biết con tàu có thể chạy thẳng một lèo tới ục Nhưng tàu chưa ra đến cửa biển đã bị bắn gầy bánh lái.

Ba trăm người chúng tôi, đàn ông, đàn bà, trẻ con, được đánh giá cao và phân phối giam cầm ngay những trại giam nhiều nơi ở các huyện xã ven sông. Đánh giá cao chúng tôi, vì chiếc tàu vượt biên đồ sộ, hoa tiêu, thợ máy là những tay lành nghề, từng lái chiến hạm vượt đại dương an toàn. Những khách đi tàu hầu hết là người Việt gốc Hoa chịu chi. Còn khách thuần Việt được đánh giá là cố "máu mặt".

- Hãy thành thật khai báo, đồ tế nhuyễn của riêng tây mang theo cứ khai ra, chúng tôi giữ cho, có biên nhận đàng hoàng. Ngày nào các người di lý đi nơi khác chúng tôi trả lại đầy đủ. Nếu giấu giếm bằng bết cứ hình thức nào, chúng tôi bắt được sẽ lập tức bị tịch thu và còn bị kỷ luật. Cách mạng luôn luôn công minh sáng suốt và nhân đạo.

Người cán bộ trưởng trại giam nói với chóng tôi như thế. Hầu hết người bị bắt đều thành thật khai báo. Nhưng riêng tôi biết cũng có người chưa mấy thành thật có trăm phương ngàn cách giấu giếm.

Ngay sau đó, họ thực hiện một loạt khám xét qui mô ti mỉ không chừa một ai. Từ cái lai quần, lai áo, lỗ tai, lỗ mũi, lỗ đít được lục soát kỹ càng, vẫn chẳng kiếm đâu ra một tí vàng.

Riêng tôi không có gì, nhưng vẫn phải làm thủ tục há miệng cho gã tù hình sự khám răng. Chổng mông, tụt quần đến gối khám lỗ đít. Tên tù được tin cẩn kêu lên đít tôi bị trĩ lòi con trê thối hoắc. Thời gian khám xét đó, khi ngước mặt, khi chổng mông, chỉ nhìn qua háng cũng đủ giúp tôi quan sát nơi mình bị giam giữ: một lô cốt lớn hai tầng chia làm phiền phòng giam xây giữa một cánh đồng ven sông, có lẽ là một pháo đài nhỏ thì đúng hơn. Lô cất có thể chứa được một trung đội lính Lê dương ngày xưa, khống chế cả một vùng đồng rộng và làng mạc xung quanh. Nay thuộc xã ấp nào đó, cách mạng dùng làm nơi tạm giam tù hình sự và tù vượt biên.

Tháng ba bà già đi biển. Chúng tôi đã chậm hết hơn một tháng nên mới gặp sự cố xui xẻo này. Thế là tôi không đến được đảo Bidon mà đang "bi đát". Tôi chặc lưỡi, liều với số phận. Thành thật nhận với chấp pháp mình là kẻ có tội, đã dám bỏ quê hương ra đi. Tôi phải trả nợ tội lỗi đó bằng giá nào chưa biết. Tôi nhìn qua lỗ châu mai phòng giam, cánh đồng xa tít tắp rực nắng lửa. Hàng dừa ven sông đứng im trong nắng. Vẫn không một cơn gió mát nào. Khí độc ùn lên như khói.

Anh trật tự trưởng phòng giam can tội làm huyện đề, người có nhiều kinh nghiệm sống trong phòng giam dõng dạc ra lệnh:

-Tôi ra lệnh và cấm anh em không ai được nói lớn, không được nói, vì cả phòng giam này mỗi người một lời, hơi thở của chính chúng ta sẽ làm chúng ta ngập thở.

Để giải trí cho anh em đêm nay, chỉ có một người được nói thôi. Đó là anh bạn "quay phim". Nhưng rất tiếc anh bạn quay phim của chúng ta tối nay lại đau vì một cái nhọt mọc trúng quai hàm. Vậy thì... (anh ta hơi ngập ngừng nhìn sang phía chúng tôi). Tôi thấy rằng trong đám anh em vượt biên không thiếu gì người tài, có văn hóa, trí thức lẫn kinh nghiệm đời cũng lắm. Không lẽ hôm nay anh em vượt biên chẳng ai là người cống hiến cho anh em một câu chuyện vui vui nào hay sao? Dẹp bỏ chuyện buồn tù tội sang một bên, vui lên mà sống.

Anh trưởng phòng dứt lời. Tiếng vỗ tay rào rào. Đám tù vượt biên chúng tôi lặng thinh một lát, vì phần đông là người Hoa. Cuối cùng có một thanh niên trẻ, mụn nhọt đầy người ngồi dậy. Anh ta nhìn chúng tôi, nhìn những anh em hình sự, chậm rãi lên tiếng, giọng cố làm ra nhẹ nhàng, gợi cảm, nhưng vẫn không che giấu nổi vẻ láu cá:

- Xin lỗi quí bạn, tôi biết nói sao đây, tôi không có khiếu kể chuyện kiếm hiệp. Thực tế, đời sống chúng ta, đời sống ngay chính tôi vô khối chuyện kể, có nghe cũng chẳng hấp dẫn mấy. Nếu quí vị chịu nghe thì vỗ tay, còn không tôi xin nầm trở lại. úi da, mấy cái nhọt hành tôi đau quá. Dứt câu nói hắn nằm xuống thật. Chờ một tràng pháo tay nổi lên rào rào, hắn trở dậy, cười, hai tay chắp vào nhau xá xá anh em: - Cám ơn, cám ơn tất cả anh em, tôi không còn lý do gì tự cao nữa, vì chính tôi, thân phận tôi rõ ràng cũng cùn mằn hèn hạ. Nhưng quí vị không thể không tin rằng chính tôi là kẻ đã tìm ra cả mấy chục cây vàng chỉ trong vòng một năm...Vụ vượt biên này mất vài cây vàng chằng nhằm nhỏ mẹ gì với tôi hết.

Tôi muốn văng tục. Lại một thằng phét lác, đời này sao quá dư loại người đó. Thằng bé cứ khẳng định :

- Nhiều vị không tin, ngay cả anh em vượt biên chung chuyến với tôi cũng chẳng tin được điều đó.

Hắn cười khẩy, mỉa mai:

Vài ba cây vàng làm một chuyến vượt biên nhằm nhỏ gì, nhưng cũng là vấn đề lớn lao cho những kẻ khoái bỏ quê hương ra đi mà lại... không có xu mẹ nào. Đúng vậy không các vị đồng cảnh ngộ? Hằng triệu lý do khác nhau. Lý do cuối cùng vẫn là trốn ra nước ngoài kiếm ăn. Tất cả những người bạn của tôi. ở đây vượt biên đều là những người có tiền, có vàng.

- Đúng rồi !

Tôi bực mình la lên. Người trai trẻ khoái trí, hắn nói trong nụ cười:

- Tôi nói thật đấy quí vị ạ, tôi khoái vượt biên vì thích rong chơi cùng trời cuối đất, tôi không khoác lác đâu. Tôi không ngại kiếm thật nhiều vàng cho mục đích của tôi. Khi bị bắt tôi đã ném xuống biển cả kí lô vàng không tin thì mò đi, nó vẫn còn nguyên đó, không kể số vàng tôi đã đổ ra trong nhiều vụ vượt biên khác.Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, biết sao được. Trời không chiều người. Này, các bạn đừng hỏi tại sao tôi lại có nhiều vàng như thế, tuổi tôi lại còn trẻ quá, có nói phét không? Xin thưa rằng không, tôi không ăn cướp, ăn trộm, lường gạt, trấn lột dọc đường. Tôi kiếm ra vàng do chính sức lao động của tôi...

Tôi không cười được mà có cảm tưởng hắn ta chỉ là một hoạt náo viên hạng bét trong một chương trình văn nghệ rẻ tiền nơi thôn ấp. Tôi phe phẩy cái quạt cố xua đuổi cơn nóng bức, xua đi mùi hôi nách trầm trọng của thằng nằm bên cạnh. Tôi

cố không nghe, không ngửi mà nghĩ đến chuyện lung tung ngoài đời. Nhưng lời nói mà tôi cho là phét lác của hắn ta vẫn lọt vào tai tôi trong giấc ngủ chập chờn: -... có một ngày tôi vác cuốc lên rừng cùng với ba thằng bạn. Bọn tôi lập một băng đảng tổ bốn tên, trông thì có vẻ đầu trâu mặt ngựa, nhưng thật ra hiền khô mom mép như quạ kêu, cởi trần mặc quẩn bò, đầu đội mũ cói, lưng đeo mã tấu hoặc phảng, kiếm, dao quắm, búa, uống rượu như điên, hù nhau thôi mà. Bọn chúng tôi khoanh vùng đào bới như dế chũi suốt ngày... Địa danh nơi đó là gì, ở đâu hả? Tôi chẳng dại khai ra ở đây, chỉ nên biết nơi đó là rừng, một vùng trên miền cao gần cuối dẫy Trường Sơn. Vàng nhiều lắm, cứ đào lên là thấy, dù chưa đủ tuổi vẫn là vàng. Những trạm thu mua vàng ngồi ngay dọc đường ở một thị trấn gần đó, họ có cân tiểu ly, đôi khi phải dùng đến cân bàn. Ngày nào từ sáng tới chiều cũng có người đào vàng lai rai mang bán. Tôi chẳng biết nổi số lượng người ta thâu vào là bao nhiêu, riêng chúng tôi bán dăm bảy lượng là chuyện thường. Bỗng nhiên chúng tôi trở thành những con người được kính trọng, nể vì ăn to nói lớn, miệng có gang có thép... Chúng tôi thay phiên nhau về thành phố ăn chơi, mua sắm, riêng tôi hùng hục mới tìm mấy thằng chó chủ tàu. Tôi phải ra đi bằng bất cứ giá nào, chẳng phải tôi chán ghét đất nước hay chế độ, mà tôi chỉ thích rong chơi, phiêu lưu mạo hiểm, đi cùng trời cuối đất. Tôi khẳng định không có chuyện chính trị ở đó... Nhưng tất cả dự tính của tôi đều thất bại, bị gạt có, bị thua có, từng tù tội và bây giờ thì nằm đây cùng quí bạn. Tôi lại mơ đến xứ vàng, mơ một chuyến hải hành gian nan gặp cướp biển...

Câu chuyện nhạt phèo, khoác lác, rẻ tiền. Tôi kết luận như vậy. Có người đồng ý với tôi về nhận xét đó Gã Ba Tàu đan háng với tôi luôn tay quạt phành phạch. Gã chửi thề một câu nửa Tàu nửa Ta:

- Tíu hà ma... Đ.M cả tuần "dồi" ngộ không ể lược.

Đêm trôi trong oi bức khủng khiếp. Mồ hôi ròng ròng tươm ra khắp người, tôi có cảm giác nghe thấy các mụn nhọt đang đâm chối nẩy lộc, xúm xuê hoa lá trên từng vùng thịt mỡ tôi. Thân thể tôi đang hạn hán, vậy mà vẫn trơn tuồn tuột như lươn, ếch, nhái.

Giữa lúc không chờ không đợi thì phân tôi vãi ra khi mới bước chân tới cầu cá. Tôi thoải mái vì được hưởng cái khoái thứ tư trong tứ khoái mà loài người từng ca tụng. Bọn cá tra dưới ao tranh mồi làm nước bắn vung vít. Suốt một dấy cầu dài cung cấp được khá nhiều lương thực cho bầy cá đói. Tiếng chửi thề vang rân bằng tiếng Việt chen tiếng Hoa, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Phúc Kiến. Theo phản ứng sinh lý tự nhiên, chúng tôi không tài nào đi đại tiện được ở những ngày đầu tiên khi bị giam. Lúc này phân lại ra không hẹn trước. Thường là những cơn té re vô kỷ luật. Phản ứng này cũng vậy thôi, chẳng có chi lạ. Một vài chú Ba Tàu tay cầm bao ni lông mặt nghiệt ra nhìn xuống ao tiếc rẻ. Người thì ngẩn ngơ. Thằng Ba Tàu nằm đan háng với tôi trong phòng giam vò cái bao ni lông không, càu nhàu:

- Vậy là thua... ngộ phải thành thật khai "páo.

Tôi chẳng hiểu gì hết. Tù nhân về phòng giam. Khi đi qua cổng trại, gã người Hoa giơ tay với cán bộ hướng dẫn:

- Cho ngộ thành thật khai "páo".

- Cái gì?

Người cán bộ hét. Mặt gã Ba Tàu coi tội nghiệp làm sao. Gã giơ cái bao ni lông không lên:

- Ngộ thành thật khai "páo", ngộ mất hết "dồi".

- Mất gì?

- Vàng!

Một tiếng trả lời cộc lốc trong đám từ đứng dồn cục ở sân trại giam. Thằng láu cá đêm qua quay phim tìm vàng đang đứng cạnh tôi trả lời thay. Cái mặt gã hếch hếch coi đáng ghét, cái mỏ cười méo một bên mép coi đểu cáng làm sao.

Người cán bộ hết đầu ra hiệu cho gã:

- Mày nói gì?

- Vàng. mất vàng, kim loại màu vàng.

- Bước ra khỏi hàng, báo cáo rõ ràng, ai ăn cắp vàng?

Thằng láu cá bước ra, báo cáo vắn tắt:

- Chả có ai ăn cắp vàng hết, mấy con cá tra đớp hết rồi. Chúng tôi nuốt vàng, ai dè đến hẹn nó không ra, trật lấc hết trơn...

Ngót một trăm người chúng tôi bị lùa vào phòng giam, trừ thằng nhỏ người Hoa và thằng láu cá bị đưa lên văn phòng "làm việc". Tôi còn nghe thấy tiếng thằng Ba Tàu van vỉ:

- Ngộ thành thật khai páo, không dám giấu giếm.

- Mày chết, dám mang tài sản quốc gia ra nước ngoài, gây bệnh "chảy máu vàng ". Không thành thật khai báo, mày bị chồng án.

Tiếng thằng láu cá:

- Còn đó cán bộ à, tất cả ở dưới ao cá tra. Trong phòng giam tranh cãi loạn cào cào, tiếng Việt chen tiếng Hoa. Tôi chẳng hiểu gì hết và chẳng cần hiểu làm gì. Tôi khoan khoái vì được tháo dạ sau mười ngày ẩn ức. Tôi mơn man thăm dò cái nhọt mới u lên trên trán tôi hồi đêm qua như con bê nhú sừng non. Tôi hy vọng những cái nhọt sẽ lặn đi sau khi chất độc tháo khỏi cơ thể. Nhưng tôi không được nằm yên, tôi cùng tất cả các bạn tù vượt biên được lệnh ra tập trung ngoài sân.

ở đó tôi nhìn thấy bà cán bộ trưởng trại mang quân hàm đại úy công an ngồi uy nghi ở chiếc "ngai" sau cái bàn rộng. Bên cạnh có hai cán bộ chấp pháp. Tôi nhớ mặt một người đã hỏi cung tôi và tịch thu gói thuốc cán ngoại cùng cái bật lửa gaz hôm bị bắt. Chúng tôi ngồi chồm hổm dưới sân. Bà đại úy trưởng trại mặt đen hầm hầm, đôi mắt sắc như lưỡi dao mã tấu liếc nhìn khắp mặt chúng tôi thu hồn phách, giọng bà đanh đá, nhưng cũng tình nghĩa đáo để:

- Tết cả các người đều đầu đen máu đỏ, tại sao lại cố tình không hiểu lượng khoan hồng của cách mạng. Dù các người một lần lầm lỡ hay nhiều lần- lầm lỡ cách mạng vẫn tha thứ và khoan hồng. Các người có hiểu thế không?.

Bà ta im lặng một lát. gã láu cá, kẻ đưa tay đầu tiên hô:

- Hiểu!

Thằng nọ đẩy tay thằng kia hô theo, trong đồ có cả tôi Khí thế hào hùng như hô khẩu hiệu trong mít tinh. Bà trưởng trại hài lòng, giọng dịu lại, hòa nhã hơn:

- Vậy thì các người phải thành thật khai báo và nghe theo phương án của ban giám hiệu. Nhà nước cách mạng hôm nay quyết định thu hồi tất cả những tài sản bị thất thoát, các người trộm cắp tài sản của nhân dân, toan mang ra nước ngoài, may mà phát hiện kịp. Nhà nước đã khoan hồng, vậy các người phải thành thật. Cách mạng lấy cái tình đối với các người, các người phải xứng đáng.

Có tiếng ai đó nói nhỏ bên tai tôi:

- Nói thế mà nghe được..

Tôi hết hồn suýt khẽ. Bên trên đầu tôi tiếng bà đại úy trưởng trại vẫn oang oác, đanh thép khi mềm mỏng khuyên lơn, khi đe dọa nhằm mục đích tất cả người tù đều phải thành thật khai báo đã nuốt bao nhiêu vàng, cuối cùng bà hỏi:

- Sáng nay những ai không đi cầu cá?

Tất cả im lặng, bà đại úy hài lòng:

- Hà... vậy là tất cả đều có đi, có ai bón không đi được không?

Đám đông im lặng. Nụ cười bà trưởng trại cởi mở:

- Nếu có ai còn táo bón chưa đi cầu được, tôi lệnh cho y tế trại cấp thuốc để "hanh thông đường đại tiện".

Gã lắm điều ngồi cạnh tôi bình phẩm lãng nhách:

- Chẳng tốt lành gì đâu.

Tôi cau mặt khó chịu.

Tiếng bà đại úy dõng dạc:

- Bây giờ lần lượt từng người lên đây thành thật khai báo với cán bộ.

Người thứ nhất lên, gã đàn ông cao lớn được hỏi họ tên xong, vào phần chính:

- Sáng nay anh có đi cầu được không?

- Dạ có.

- Anh nuốt mấy chỉ vàng?

- Dạ, một chỉ.

- "Náo", anh đã thành thật khai báo chưa, cái bụng to như cái chum kia mà chỉ nuốt có chỉ vàng thôi sao, ít lắm cũng phải ba chỉ.

Mặt gã đàn ông to con cắt không còn giọt máu, gã xuống giọng:

- Dạ, có hai chỉ thôi, cán bộ.

Người cán bộ chấp pháp xẵng giọng:

- Đã thành thật khai báo chưa?

- Em xin thề.

- Thôi được, người kế tiếp, Lâm Tô Hà..

Hàng chục người đã được thành thật khai báo.

Nhưng nhìn mặt họ tôi vẫn thấy gian gian. Kẻ được lấy ra làm gương là gã "láu cá tìm vàng". Gã khai đã nuốt năm chỉ vàng, nuốt không nổi nữa phải nhờ người khác nuốt giùm. Sáng hôm nay đã cho ra hết rồi...

Người cán bộ chấp pháp đập bàn, la:.

- Mày nhờ ai nuốt, chỉ mặt coi..

Chúng tôi vờ vịt để thằng xỏ lá kia đừng chỉ bậy vào mặt mình. May mắn thay, chẳng đến đỗi nào, gã vẫn còn chút xíu lương tâm. Gã lắc đầu:

- Bị bắt ban đêm, tôi nhờ đại nên không nhớ rõ.

Gã đưa mắt nhìn tôi, tôi cúi xuống, run bỏ xừ.

- Nghĩa là mày có mang theo nhiều vàng lắm?

- Còn phải hỏi, tôi là thằng giầu mà.

- Cái ngữ mày mà giầu à?

Gã cười khẩy:

- Tùy ý, tôi chỉ biết tôi là một thằng trùm, đầu nậu đào vàng, có nhằm nhỏ gì ba cái lẻ tẻ vài ba ký vàng, cái đồ bỏ sông bỏ biển...

Thằng láu cá đối đáp đâu ra đó nghe có lý quá, cán bộ không hỏi đến nữa. Riêng tôi lo ngay ngáy. Nếu tôi thành thật khai báo thì tôi: sẽ nói chẳng nuốt chỉ nào hết vì có đâu mà nuốt. Tôi mang tiếng là kẻ vượt biên nhưng không mất tiền, nhờ quen biết tôi đi ké thôi. Nhưng nhìn mặt tôi, ai mà tin được. Tôi đeo kính trắng gọng vàng, trán hói, mặt mũi phương phi coi ra vẻ lắm. Trông tưởng là kẻ có tiền. Khi xuống tàu thấy tôi đi một mình, một em "nhí" cô đơn đã để mắt đến tôi, muốn tìm bạn đồng hành cho có đôi. Tôi chưa kịp thả lời ong bướm, mới sơ khởi đá lông nheo là đã bị "tó" rồi. Khách đi tàu xì xào về tôi: "May quá chuyến này mình đi lại có bác sĩ, chủ tàu tổ chức chu đáo thật. Thế có bỏ mẹ tôi không, cái mặt mày mà nói không tiền, chó cũng không tin được. Thôi thì cũng liều, tùy cơ ứng biến. Điều chờ đợi tất nhiên phải đến. Tôi đứng trước người cán bộ chấp pháp:

- Anh nuốt bao nhiêu "cây"?

- Dạ đâu có nuốt.

- Tầm bậy, hãy thành thật khai báo.

Không thể thành thật khai báo được, máu bố láo dậy lên trong đầu tôi, vẫn phải nói đỡ đòn:

- Dạ đâu có nhiều thế để nuốt.

- Vậy thì cũng có nuốt chớ gì, mấy chỉ?

Tôi liếc nhìn danh sách những người khai báo trước tôi người nào cũng nuốt chỉ không hà, không ai nuốt phân hết. Tôi phải tìm cho mình một con số tương đối:

- Thưa, hai chỉ.

Người cán bộ chấp pháp đập bàn cái rầm:

- "Náo", nhè anh mà nuốt hai chỉ thôi sao, cách mạng không tin.

Anh ta sắp sửa nổi giận. Tôi sợ, miệng lắp bắp.

Người cán bộ nổi cơn thịnh nộ, có thể tôi ăn ngay cái bạt tai. Khi đó thằng láu cá đầu nậu đào vàng đứng bật dậy, chỉ mặt tôi:

- Thưa cán bộ, em có ý kiến, em tố cáo cái anh này không thành thật khai báo. Sơ bộ em biết anh này nuốt tới năm chỉ chớ không phải hai.

Thằng khốn nạn ra mặt chơi đểu tôi rồi. Tôi toan cãi thì nó mồm năm miệng mười:

- Thưa cán bộ, em nhớ ra rồi, em có gởi anh ta ba chỉ nhờ nuốt giùm, em chọn mặt gởi vàng chớ bộ, của ảnh hai chỉ, của em ba chỉ có phải là năm chỉ không, em thành thật khai báo cách mạng khoan hồng cho em. Nếu cách mạng tìm lại được cho em xin vài chỉ để em bồi dưỡng sức khoẻ tốt còn lao động sản xuất đền tội ác với nhân dân.

Người cán bộ cấm gã láu cá không cho đôi co với tôi nữa. Ông ta gằn giọng:

- Vậy thì tôi ghi năm chỉ nhé.

Tàn dư máu bố láo tăng cao độ trong đầu tôi. Ném lao phải theo lao, tôi tố vượt chỉ tiêu: - Dạ, thưa cán bộ, anh bạn trẻ nói đúng, tôi có nuốt giùm ảnh ba chỉ. Phần tôi không phải hai chỉ mà bốn chỉ lận, vị chi là bảy chỉ mới đúng.

Người cán bộ ghi ngay bảy chỉ vào cạnh tên tôi:

- ờ được, thành thật khai báo như vậy là tốt, đáng được tuyên dương.

Tôi trở về chỗ mặt vênh lên như kẻ có tiền thật.

Thằng láu cá nhếch nụ cười đểu với tôi:

- Em bái phục, cho em được tôn đàn anh là sư phụ. Đồng chí sư phụ.

Xong công tác chúng tôi được đưa về phòng giam. Thằng đểu lăn ngay ra sàn gãi háng xành xạch vê ghét búng vung vít.

Phía ngoài phòng giam, cán bộ xôn xao. Bà trưởng trại họp ngay phiên khẩn cấp đột xuất cắt cử công tác:

- Đồng chí kế toán lấy máy tính ra cộng đàng hoàng coi.

- Dạ, có tính rồi, trên ba trăm chỉ.

Tiếng bàn tán xôn xao, cuối cùng bà trưởng trại ra lệnh, rõ là cấp chỉ huy lãnh đạo có nghiệp vụ cao:

- Thôi hơn bù kém, kể cả những kẻ không có sợ quá khai bậy. Tôi lấy chỉ tiêu trung bình là hai trăm chỉ, vậy là mình đã thâu về được hai mươi lượng, cũng chẳng thiệt thòi gì, có phải hy sinh cái ao cá này cũng được thôi. Đồng chi tài vụ kế toán sửa soạn thu hoạch, các đồng chí khác làm tốt công tác đạt chỉ tiêu lãnh đạo đề ra. Bây giờ mình bắt đẩu phương án hai. Đồng chí trực ban khẩn trương tập trung tất cả tù hình sự ra ao cá. Lưới hết cá tra mang vô nhà bếp làm thịt, mổ bụng, kiểm tra kỹ lưỡng.

Gã láu cá giẫy lên, cái miệng gã oang oác:

- Xin báo cáo với anh em, thực đơn của chúng ta hôm nay có thêm món cá tra kho gừng. Một chỉ vàng một miếng cá, rẻ chán. Tôi có năm miếng.

Gã quay sang tôi chọc quê:

- Bác sĩ" có bảy miếng cá!

Tôi vặc ra một câu chửi tục tằn.

Cái mặt thằng láu cá vẫn cười cợt nhơn nhơn. Gã lại gãi xành xạch vê ghét búng lung tung, nặn mụn nhọt, bóc vẩy ghẻ bôi lên tường.

Tôi kết luận gã là thằng nghịch ngợm pha thêm liều lượng mất dậy. Loại "trôi sông lạc chợ". Tôi bực hắn, nhưng làm quái gì được, chỉ hậm hực xứng. Tù hình sự bị lùa hết ra khỏi phòng giam, căn phòng trở nên rộng rãi. Tôi lăn ra ngủ một

giấc thoải thái. Tôi mơ thấy màu vàng, không biết có phải kim loại màu vàng không? Thức dậy buổi trưa, được ăn bữa cơm cá tra kho, ai cũng khen ngon, sau mười ngày vắng bóng thịt cá. Bọn tù hình sự ăn cơm ngay tại hiện trường. Qua lỗ châu mai, tôi nhìn cái ao cá bị tát sạch, đám tù đầu mình lấm lem như lươn ngụp lặn mò tìm.

Tiếng cãi nhau, tố cáo nhau chí choé.

- Báo cáo cán bộ, em thấy thằng Hải cùi nuốt nguyên sợi dây chuyền. -

- Nói láo, nước ọc vào miệng, tao vuốt ngực chớ có nuốt gì đâu. Đứa nào nói láo xe cán. Tao thấy thằng Minh thẹo nuốt nè.

Cứ như thế, lời tố cáo vang rân dây chuyền cả một khoảng ao. Cuối cùng, tôi nghe tiếng bà trại trưởng dịu dàng:

- Thôi được cứ năng nổ lao động rồi về phòng, đưa cả mấy thằng làm bếp hôm nay vào phòng giam hết. Không một đứa nào được phép ở ngoài phòng.

Ngay buổi chiều hôm ấy, tù vượt biên chúng tôi được lệnh bộ Nội Vụ di lý đi nơi khác. Tôi không biết chuyện gì xảy ra sau đó ở trại tạm giam khủng khiếp này, ngoài điều trông thấy bọn từ hình sự, kể cả tù phụ trách nhà bếp được uống thuốc xổ do y tế trại cấp phát.

Tất cả bị nhốt km trong phòng giam, bị buộc phải uống thuốc xổ, liều lượng mạnh. Phía ngoài phòng có cán bộ võ trang túc trực nghiêm túc kiểm tra qua song sắt.

Mùi thối hoăng từ phòng giam bốc ra. Lúc bị giải ra xe, thằng láu cá bị cùm dính với tôi chung một còng, nói một câu bâng quơ:

- Hay, hay thật, một cách tìm vàng không giống ai. Sư phụ, đáng mặt sư phụ.

Tôi chẳng biết thằng ba trợn đó đang nói với tôi hay với ai.

Khi chúng tôi được giải qua sân ra ngoài xe ở cổng, tôi nghe tiếng chửi nhoi của đám tù hình sự bị nhốt. Một gã tù già, trần truồng dái cú lòng thòng đeo song sắt chửi đặc giọng Bắc Kỳ 1975: - Địt mẹ những thằng vượt biên, chúng mày làm khổ ông, chúng nó không tìm thấy kim loại màu vàng, chúng nó mổ bụng ông như mổ cá "cha " thì chúng mày chết mẹ với ông. Ông oán ông thù chúng bay. Tiên nhân cha quân vượt biên khốn nạn. Tiếng chửi ray rứt theo mãi chúng tôi lên xe. Thằng láu cá cười bò lăn, giống giằng cái còng số 8 làm cổ tay tôi đau nhói.

Xe dập dình leo qua cầu cao đổ dốc vào thành phố về Chí Hòa. Thằng láu cá vẫn cười nghiêng ngả.

Tôi nhăn mặt.

Tôi không thể không có quyết định dứt khoát khi chấp nhận thuê cái chuồng heo bốn thước vuông làm nhà ở, che mưa đụt nắng cho hai vợ chồng và cái bào thai vợ đang mang. Dầu gì tôi cũng không thể lôi nàng lếch thếch, lang thang đi khắp đầu đường xó chợ, gầm cầu, công viên. Tuy trời đất mênh mông tha hồ màn trời chiếu đất, đâu cũng có thể là nhà. Nhưng căn bản vẫn là một mái nhà, an cư mới lạc nghiệp. Nói chuyện ấy mà buồn cười. Tôi còn nghiệp đâu mâ lập. Tôi vốn là nhà văn nhà báo hành nghề thời chế độ cũ, nay đã hết thời, chẳng còn ai dùng đến nữa. Tôi tạm thời gác bút, không nghĩ đến chuyện viết lách làm văn nghệ nữa. Tôi tìm một nghề khác, đang trên đường tìm kiếm. Tôi trả tiền cò (hoa hồng) cho mụ dắt mối nhà. Đúng ra bây giờ là một cái phòng, nguyên là một cái chuồng heo đủ chỗ cho một con nái xề với một bầy con. Cái chuồng heo trong một dấy chuồng heo, nay đã được ngăn phòng ra cho thuê. Tiền thuê tính theo gạo, 15 kí gạo một tháng. Thôi cũng được. Nhà không có điện, tất cả phải thắp đèn dầu, nước thì có giếng chung, ỉa đái có ao cá tra gần đó, thoải mái đổ chất thải nuôi bầy cá đói. Vợ chồng tôi tự giấu thân phận mình, tôi khai tên tuổi, trình độ văn hóa với chủ nhà, tôi chỉ biết đọc biết viết, vợ tôi thì mù chữ. Có vậy mới mong hoà nhập được với đám cư dân ở đây, nếu muốn kiếm miếng ăn. Chốn này là vương quốc Ve Chai, buôn bán đồ phế liệu. Tân Phú, nơi mà trước đây linh mục Đinh Xuân Hải trị vì như một lãnh chúa, chính quyền hồi đó cũng phải nể vì. Tôi nhìn thấy tại nơi đây có hướng làm ăn tốt cho mình. Căn nhà tôi thuê, nay gọi là nhà, không gọi là chuồng nữa. ở hương lộ 14, nhà ở sâu trong ruộng. Trên cánh đồng hoang, trên nghĩa địa phơi đầy bao ni lông phế liệu, được giặt phơi. Hầu hết cư dân nơi đây là bọn khố rách áo ôm sống bằng nghề nhặt bao ni lông, sắt thép, vỏ đạn phế thải. Thu gom, phân loại ra bán lại cho vựa ve chai. Vì cơm gạo, tôi gia nhập làng ve chai học nghề. Tôi đường cùng rồi, không làm thì lấy gì

mà ăn, trả tiền nhà linh tinh đủ thứ, còn phải lo cho cái bào thai của vợ tôi đang mang, mỗi ngày một lớn. Đến khi nào đó vợ chồng tôi có một hài nhi chào đời. Thương con như con chó con mèo biết thương con. Dù đời sống nghiệt ngã thế nào, tôi cũng phải giữ lấy huyết thống của mình. Tôi nghĩ thế. Như một thách thức. Tôi trở nên hung dữ và dễ nổi giận, đã có lần nổi giận vì có người nhân danh đạo đức loài người dám ra lời bắt vợ tôi phải phá cái bào thai đi vì họ cho rằng đứa bé này ra đời là nghiệp chướng.

Tôi thây kệ cuộc đời này lâu rồi, nhưng không thây kệ giọt máu của tôi. Người ta cho tôi là kẻ nghèo khổ hết thời, vô tích sự, lại ngang chướng. Thây kệ họ, bố mẹ vẫn mong mỏi ngày con ra đời, dù trong bão táp mưa sa, trong nghèo đói khốn khổ. Tôi thầm hứa vậy.

Bà chủ nhà đưa vợ chồng tôi vào phòng xem nhà. Bà đứng tuổi, vợ của một ông đại tá đã về hưu. Năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc, rồi vượt Trường Sơn trở về Nam chiến đấu "chống Mỹ cứu nước". Bà vẫn ở lại miền Nam bí mật hỗ trợ cuộc chiến đấu của chồng.

Nay thì ông đã trở về, ông ở căn nhà ngoài chợ với bà nhỏ. Bà lớn được quyền thừa hưởng trọn vẹn căn nhà xưa, vườn và ao cá. Quyền lực ông to rộng nhưng đối với vợ lớn rất có tình có nghĩa. Bà chủ nhà tôi lấy làm hài lòng về chồng. Chúng tôi xem căn phòng bé tẻo teo, đại tá phu nhân nói:

- Hai vợ chồng bay ở đây là vừa gọn vừa xinh. Này tao nói nhé, vợ mày bầu bì đi thuê nhà rất khó, mày biết chủ nhà nào cũng kiêng kị người thuê nhà có bầu. Nhưng nhà tao có truyền thống cách mạng nên không kiêng kị gì hết, tiền nhà rẻ mạt, chỉ mười lăm kí gạo một tháng, tính bằng tiền như thuế má của nhà nước vẫn tính, chẳng ai thiệt thòi. Đúng đó, trước kia nhà này là dãy chuồng heo, nhưng tao thấy nuôi heo không có lợi, tao bèn thôi nuôi để cho thuê lấy phước. Này đừng

cười tao, tao cho chúng mày thuê là làm phước, tao còn lạ gì tụi bay, toàn là thứ trôi sông lạc chợ, lính ngụy, lưu manh, không một mảnh giấy tùy thân, không hộ khẩu, mất quyền công dân, đâu phải người chân chính lương thiện. Vậy mà tao dám chứa chấp, công an phường mó đến tụi bay là không được với tao rồi. Ông ấy nhắc "máy" lên một cái, lính công an "teo bu ri", xin được thả ngay tụi bay về "nguyên quán". Ông là người có uy ở vùng này. Nói đến chú Bẩy ưng ai mà không biết, trưởng công an phường, trưởng phường đội, ủy ban đều là hàng con cháu ông hết. Bay cứ nói ở nhà Bảy ưng chẳng ai dám đụng đến bay. Tụi bay do tao quản lý.

Bà đại tá Bảy ưng nói một hơi. Trong hoàn cảnh này tôi thấy bà nói có lý và đúng quá. Quả thật vợ chồng tôi đang kẹt trong hoàn cảnh đúng như vậy. Bà là một bà tiên, ông Bảy ưng là một ông Bụt ban cho thế nhân những điều ước. Điều ước nào cũng được đáp ứng, hài lòng. Căn phòng tuy hơi nhỏ một chút, nhưng cũng đủ chỗ cho vợ chồng tôi, ở góc nhà có kê một cái giường hai người nằm. Bà chủ nhà mau mắn:

- ấy cái giường này của con mẹ thục nhà trước, nó trốn đi không trả tao một tháng tiền nhà nên bỏ lại đấy. Nếu vợ chồng bay có tiền trả tao được hai ngàn rưởi thì lấy xài luôn. Còn không mẹ kia nó chuộc lại tao chịu thôi. Hoặc tụi bay có giường thì cứ khiêng tới mà xài.

Tôi lắc đầu:

- Dạ không, tất cả đồ đạc chúng tôi chỉ có trong hai cái giỏ xách với mấy cái nồi niêu xoong chảo chở trên chiếc xe đạp kia.

Bà chủ nhà chặc lưỡi:

- Vợ chồng bay quả là nghèo, đến cái giường cũng không có, vợ mày bụng mang dạ chửa, bộ nằm đất sao? - Dạ, cũng có manh chiếu rách lót miếng ni lông bên dưới nằm đỡ, dạ cũng có cái mùng...

- à thôi vậy cũng được, mà thôi tạm thời tao cho vợ chồng bay mượn đỡ cái giường này, vay mượn được ai tiền thì trả tao sau. Tao kỳ hạn cho bay một tuần. Chớ hôm nay tao biết bay cũng không có đủ tiền trả tao cái giường. Thấy người nghèo khổ tao cứ rớt nước mắt, tao không đành lòng đặng, tao có đạo đức cách mạng.

Vợ chồng tôi cảm ơn bà Bảy, thiệt tình tôi cũng không biết làm sao...

- Được được đừng nói nhiều, chuyện làm phước mà, này, mà tao cũng nói trước, mày trả tiền được sớm là cái giường của mày, còn mẹ kia đến chuộc sớm thì ráng mà chịu nghe.

- Dạ, bà Bảy cứ yên tâm.

Bà chủ nhà trở ra, vợ chồng tôi chuyển đồ từ xe đạp vào nhà giải chiếc chiếu rách lên giường. Việc đầu tiên, vợ tôi ngả lưng lên cái giường mượn tạm ấy:

- Gớm ê cả người, anh chở em trên xe đạp ấy đường xóc ơi là xóc.

Tôi nhìn vợ hài lòng:

- Thấy sao, cái giường được không?

Sao không được, mình nằm đất bao lâu rồi, bây giờ nằm giường mà không được nữa sao.

Tôi mỉm cười tự tin:

- Mình sẽ có cái giường này, anh có thể mượn được tiền để mua. Cái giường gỗ chắc chắn như thế này chỉ có hai ngàn rưởi thì cũng không mắc mỏ gì.

- Anh chỉ được cái lúc nào cũng lạc quan.

- Không lạc quan sống sao được, em nhớ mình sẽ còn có con.

Suốt một buổi chiều tôi sắp đặt nhà cửa, một cái bếp nho nhỏ, chén đũa nồi niêu xoong chảo tôi nhặt ván vụn ở quanh nhà kê gạch lên cũng xếp được gọn ghẽ. Nhà cũng có chỗ lui ra lui vào. Tôi càng trở nên lạc quan về căn nhà mới của mình, như thuở nào cách đây hai mươi năm, tôi có một căn nhà do tôi làm chủ. Buổi chiều đầu tiên tôi nằm lăn lộn trên sàn gạch bông mát mẻ. Nỗi vui mừng ấy không chỉ có trong đầu mà còn thấm cả vào da thịt. Căn nhà đó nay vẫn còn, nhưng tôi không được ở nữa, vì nếu tôi ở là phạm pháp, tôi cư ngụ bất hợp pháp trên căn nhà tôi làm chủ. Đơn giản là tôi không được cấp hộ khẩu trên căn nhà ấy. Tôi vẫn chưa có quyền công dân, mà chẳng biết bao giờ mới có. Tôi kéo theo người vợ trẻ sống bơ vơ giữa chợ đời. Hai vợ chồng tôi sống như con sâu cái kiến. Phần thua thiệt nhiều nhất vẫn nghiêng về phía vợ tôi. Nếu nàng không theo tôi, một kẻ hết thời, trở nên bần cùng khố rách áo ôm thì đâu đến nỗi này.Với độ tuổi trung niên mà sức lực đang trên đà tàn tạ sau những năm dài học tập cải tạo, lao động kiếm ăn, liệu tôi có bảo vệ được nàng không. Nàng mang trong bụng cái bào thai, huyết thống của tôi. Tôi sẽ phải làm việc, lao động cật lực, bỏ ngoài tai ngoài mắt mọi lời đàm tiếu, tiếng thị phi. Tôi có thêm sức mạnh. Ngày mai tôi gia nhập nghề ve chai, lượm lặt

bao ni lông, tôi lang thang trên những bãi rác, để đố phế thải được tái sinh, dù chất lượng có kém đi nhưng vẫn còn xài được. Tôi loanh quanh trong căn nhà nhỏ và nghĩ đến đứa con sẽ chào đời, nơi ăn nằm của nó, giấc ngủ yên trong tiếng ru hời của mẹ. Tôi phải lo cho bầu sữa được căng, con tôi không bị khát sữa mẹ nó. Tôi lãng mạn rồi, lãng mạn này đưa đến lãng mạn khác. Tôi nhìn lên trần nhà chuồng heo có cái xà ngang khá vững chãi. Tôi nói với vợ:

- Anh sẽ treo lên cái xà ngang này một cái thúng, lót vải rách và che miếng vải mùng để làm cái võng cho con, vừa tầm tay em đưa, ru con ngủ.

Vợ tôi cười lộ chiếc răng khểnh:

- Ông này chỉ lãng mạn, sao không tính đến một cái nôi hay cái võng mà lại là cái thúng. - Đây không phải sáng kiến của anh, anh vay mượn của đồng bào thổ mán ở miền thượng du Bắc Việt hồi anh còn nhỏ tản cư lên đó. Em công nhận không, sáng kiến ấy hay đáo để, đứa bé nằm trong cái thúng, đi đâu, làm gì cũng mang theo được, cứ treo lên cây vừa làm việc vừa trông chừng nó, lớn hơn nữa thì thả nó lê la, chạy chơi quanh quanh. Anh đi một ngày đàng, học một sàng khôn.

Vợ tôi cười rũ:

- Thôi ông ơi, ông đừng mơ mộng nữa, tôi nghe thảm quá rồi.

Tôi cho vợ tôi trẻ người non dạ nên không nghĩ xa chứ tôi có mơ mộng bao giờ, tôi hơn nàng ở chỗ biết nhìn xa hơn lỗ mũi mình. Tôi trở nên kiêu ngạo một mình,

cho mình là người chồng vững tay chèo, biết lèo lái con thuyền gia đình con con. Việc người ta liệu cơm gắp mắm. Tôi sẽ có tất cả, sẽ...

Vợ tôi đưa tôi về thực tế.

- Này anh, nhà mình sắp hết gạo rồi đó, chỉ ăn được bữa chiều nay, sáng mai nữa thôi, còn tiền mua mắm muối...

Tôi đang hưng phấn, nói với vợ: - Thôi chiều nay mình không ăn cơm nhà, mình ra chợ ăn hủ tíu, em gầy lắm, nên bồi dưỡng tí nước xương thịt để lấy chất bổ nuôi con. Mọi chuyện để mai tính.

Chúng tôi ra khỏi nhà, không cần khóa cửa, thời buổi thanh bình chẳng còn sợ trộm cắp. Vả lại, tôi còn cái đếch gì mà mất nữa.

Ra khỏi cửa, tôi gặp vợ chồng con cái người hàng xóm, cũng thuê chuồng heo ở như vợ chồng tôi. Anh chồng, chị vợ đang thui một con gì đó nho nhỏ trên bếp lưa. Anh chồng cười mời tôi:

- ở lại nhậu với tôi, thịt con linh miêu này ngon đáo để. Mình trước lạ sau quen, lại là hàng xóm...

Tôi đành xin lỗi vì phải đi có công chuyện. Anh chồng vui vẻ:

- Thôi vậy sáng mai đi quán bà "Ba Đít Láng" uống cà phê với tôi. ở đây thiếu gì công chuyện mần ăn. Nơi đất lành chim đậu mà.

Tôi đạp xe chở vợ tôi ra chợ Tân Phú, vợ tôi nói:

- Buổi trưa ra ngoài giếng, em thấy anh này mới đập chết một con mèo của nhà ai đó. Có lẽ anh ta nói linh miêu là con đang bị nướng đó.

Sau này thì tôi biết từ chó, mèo, chuột chù, chuột cống, gà vịt, cá tra dưới ao thấy bóng anh ta đều lặn sâu lánh xa. Một tay săn lùng miếng ăn nguy hiểm. Cả vợ lẫn chồng đều là loại lưu manh chuyên nghiệp. Cái gì cũng có thể làm được, miễn là có tiền có ăn. Anh ta nói đó là bản năng sinh tồn. Buồn cười thật, tôi chót giấu thân phận mình là một kẻ dốt nát nên chẳng có lời nào phản bác. Tôi chán cho đời, nhắp chén rượu khan, mặc kệ mẹ đời. Tôi hùng hục đi làm như con trâu. Đời sống lưu manh của những kẻ phạm pháp đường cùng vây chặt lấy đời sống nhỏ bé của tôi. Tôi có bị ảnh hưởng hay không thì hạ hồi phân giải. Tôi đang sững trong vũng bùn, nơi gió tanh mưa máu. Đồng tiền kiếm lương thiện quả có khó khăn. Cái bao tử đương nhiên thiếu thứ để bóp nặn, xay nghiền. Cái bụng vợ tôi không to được, có lẽ bào thai cũng èo một lắm. Có được chất bổ béo nào đâu để nuôi lớn. Những cái đạp nghịch ngợm của bé cũng yếu ớt, không như con người ta. Tôi lo lắng không biết là chính đáng hay vẩn vơ do đời sống thường xuyên thiếu thốn xúc tác vào đầu.

Những tiếng chửi thề, văng tục nổ giòn rôm rộp về miếng ăn miếng uống của vợ chồng hàng xóm và những người quanh vùng, quả tôi khó mà hoà đồng hòa nhập được với họ. Nhưng vẫn cứ phải sống chung, và cố giữ hòa khí. Tôi vẫn coi đời sống này là tạm mà.

Ngày hôm sau tôi lên Sài Gòn, tìm đến người bạn xưa. Anh Nhã. Tôi với anh là bạn từ lứa tuổi choai choai kéo dài cả mấy chục năm trời. Tôi tin anh là người thân duy nhất, vì tôi không đối xử xấu với bạn bao giờ. Chẳng những chúng tôi thân nhau mà hai bên gia đình cũng thân nhau. Sau này khi tôi khổ, tôi không mặc cảm vẫn lui tới anh và gia đình anh bên ấy. Ngược lại, anh cũng lui tới với tôi. Đời sống gia đình anh Nhã khá hơn tôi nhiều. Không có những ngày đói rã họng như tôi. Đời sống anh bình bình, không sóng gió khi có cuộc đổi đời. Tuy không làm gì, nhưng anh có "ngoại viện", những thùng đồ từ ngoại quốc của người thân gửi về anh tương đối đều đặn. Vợ anh cũng buôn bán nhì nhằng. Nhưng chị ở bên nhà mẹ đẻ nên anh rảnh rang chỉ phải lo săn sóc đứa con gái, để cháu tiện đi học. Khi buồn anh tới bạn bè, trong đó có tôi, uống chén trà, ly rượu cho đỡ sầu đời. Thường thì anh là người chủ chi.

Tôi đến anh Nhã khi anh vừa ngủ dậy. Tôi nói vợ chồng tôi mới dọn nhà. Anh nói "thế à" rồi tiếp: "Tôi đi với bạn, xem vợ chồng bạn sống ra sao.

Anh Nhã chắt ra từ trong hũ một chai rượu thuốc ngâm mang theo. Anh mua thêm ít đồ mồi. Anh vẫn giữ phong độ của một tay chơi thuở nào. Anh có vẻ ngậm ngùi khi thấy đời sống quá cực khổ của vợ chồng tôi. Cụng ly với tôi, anh nói một câu chữ:

- Gặp thời thế thế thời phải thế... Ráng chịu đựng đi.

Tôi vào thực tế, nói đến cái giường:

- Vợ chồng tôi cần một cái giường, nhà tôi còn sinh nở, có cháu bé...

- Thì cái giường này cũng được rồi, cần gì mới me.

- Giường này của người ta cho mượn, có hạn định chỉ trong bảy ngày, nếu không mua kể như không có, lại nằm đất. Nằm đất thì tội vợ tôi quá. Tôi mượn bạn hai ngàn rưởi thôi để mua lại cái giường này.

Anh Nhã cười:

- ồ được thôi nhưng hiện giờ tôi không mang theo tiền, để lúc khác vậy. Thôi ăn nhậu đi.

Tôi cố với vát:

- Bạn giúp tôi, cố có trước hạn định.

- Chuyện nhỏ.

Tôi tin tưởng bạn. Tôi có một buổi chiều thoải mái. Anh bạn hàng xóm cũng sang góp vui, anh ta ăn nhậu một cách tục tằn, ba hoa và chửi thề luôn miệng. Anh ta nói đến thời vàng son đã qua của anh. Những ngày học tập cải tạo. Những tên trại anh đã đi qua, anh thuộc hàng "sĩ quan chế độ cũ, về những tên trại cải tạo anh ta nói sai bét, toàn là trại giam cưỡng bức lao động cho loại tội phạm hình sự, lưu manh. Rồi đây anh và gia đình anh phải được hưởng qui chế đặc biệt, vì anh là "lính đánh thuê cho Mỹ". Tôi muốn nổi nóng, nhưng dằn lại được và cả anh bạn tôi cũng dằn nóng. Vì tôi đã dặn bạn giấu thân phận mình ở chốn này. Một thằng lưu manh láo khoét, hoàn toàn láo lếu lại đa ngôn. Một loại người càng nói càng sai, nhưng cứ nói, vì với hắn "mục hạ vô nhân". Đến sẩm tối, anh bạn tôi đậy nút chai rượu lại, coi như ngưng bữa nhậu. Anh hàng xóm vẫn chưa đã:

- Này, đi đâu thế, mình chưa hết chuyện mà, thời của mình.

- Xin lỗi, thời của anh chứ không phải thời của chúng tôi.

- Vậy thì để lại rượu đi

- Không được, giọt rượu là giọt máu, đương nhiên là tôi phải mang đi, tôi và bạn tôi có chuyện riêng cần nói.

Anh hàng xóm nát rượu trơ trẽn:

- Tôi bị gạt ra ngoài?

Đúng thế, tôi nói là chúng tôi có chuyện riêng mà.

Ra khỏi nhà, anh Nhã nói với tôi:

- Tôi muốn nổi nóng rồi, vì bạn mà tôi nhịn.

- Đúng vậy tôi đã phải và đang sống chung chạ với những loại người ấy, đó là điều khổ tâm cho tôi. Tôi thông cảm bạn. Hàng ngày tôi đi làm. Công việc tôi không phải nhặt bao ni lông mà xé bao thuê, đem giặt sạch rồi phơi khô, phân loại. Mùi hôi thối đựng trong bao ni lông khiến người xé bọc muốn nôn oẹ tại chỗ nhưng vẫn phải chịu đựng. Vợ tôi, không giúp gì được trong cái thứ nghề quái gở này. Nàng có thể ói ra mật xanh, mật vàng, nàng đang có thai. Không thể để nàng kéo dài tình trạng ốm nghén bất đắc dí.

Bà chủ vựa ve chai của tôi còn rất trẻ, son phấn loè loẹt vàng đeo đỏ người. Bà mới giàu và cũng mới cưới chồng, một tay chơi nửa đời nửa đoạn nào đó nói giọng Bắc kỳ cố sửa giọng nhưng vẫn ngọng, khi nổi giận đến mất khôn. Anh ta đủ cái hách dịch để điều khiển bọn người làm thuê như tôi, mà anh gọi là "công nhân viên". Vợ anh là "giám đốc", anh là "phó giám đốc điều hành". Cái xe Honda đời cũ của anh mua lại tân trang sáng loáng một cách hợm hĩnh chạy vòng vòng trên bãi phơi bao, sân ngồi xé bao và nhà giặt bao, mùi át xít trong xà bông bột của các hãng xà bông tổ hợp xông lên chóng mặt. Chị vợ ngồi thu gom mua phế liệu rành rọt đến độ không một bạn hàng nào qua mặt được. Tiếng chị ta choe choé suốt ngày:

- Này, mang đi vựa khác mà bán nghe, vựa này không mua đâu.

- Sao vậy, bao ni lông mà, cân lên rồi trả tiền như mọi khi...

- Mọi khi thì mua được, nhưng lần này thì không mua. Tôi mua của người khác chớ không mua của chú. Tại sao?

- Muốn biết hả, thông Tư đâu, mày xổ tung bao ni lông đó ra, nếu không có độn đá thì tao cùi...

Quả nhiên trong bao ni lông ấy có tới bốn hòn đá xanh, cân nặng đến hơn ba kí lô. Miệng bà giám đốc vựa ve chai Thành Công quang quác: - Rõ chưa nào, thôi mang đi vựa khác, nhớ nhặt lại mấy hòn đá bỏ vào bao, nhà anh đừng hòng qua mặt con này. Con này có thừa kinh nghiệm.

Anh bán bao ni lông đành năn nỉ bán giá hạ để lấy tiền mua gạo sống qua ngày. Một bạn đồng nghiệp xé bao ni lông cạnh tôi nói:

- Đừng hòng qua mặt con Ngọc Tũn này, nó chuyên nghề nhặt bao ai lông từ hồi sáu tuổi. Bây giờ thì nó giầu lên làm chủ. Sang rồi nó đổi tên từ Ngọc Tũn thành Ngọc Tuyết..

- Tôi muốn hỏi về cái tên trong hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân kia.

- Đúng, tên trong hộ khẩu và chứng minh thư nhân dân bây giờ là Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết. Có tiền là xong hết. - à, thì ra chị muốn bỏ luôn chữ Thị quê mùa, thay vào đó chữ Thanh cho sang, xứng đáng với cuộc đổi đời, với địa vị sang cả của chị.

Tôi vẫn còn thắc mắc tại sao từ một con bé nghèo đói bẩn thỉu lại trở thành bà chủ giàu có như vậy. Sự thắc mắc ấy được giải tỏa ngay. Cô bé gập may, một lần ngồi xé bọc ni lông thuê cho người ta, chị thấy một bao ni lông đầy những khoeo vàng. Chị thủ chị giấu và trở nên giàu có, nhất nghệ tinh nhất thân vinh, chị theo nghề truyền thống. A ra vậy, hèn chi khâu xé bọc ni lông, người ta xé rất kỹ. Ai cũng mang một hoài vọng, hy vọng mà người ta không chê là hão huyền. Biết đâu lại không có một bà già lẩm cẩm nào đó gói vàng vào bọc ni lông giấu con chấu rồi quên, liệng đi. Mùi hôi thối từ những bao phế liệu xông lên nồng nặc, những con chó đứng vây quanh đang muốn chôm vồ một cái bao nào đó tha chạy.

Một con cún đã vồ được một bao, cong đuôi té chạy. Tiếng người la lối:

- Bắt nó, bao ni lông lụa...

Lụa là tên gọi thứ bao ni lông có màu trắng tinh mềm nhuyễn, loại Một. Anh phó giám đốc điều hành gầm lên:

- Bắt ló đập chết ngôn, à thằng lào đập được tao cho nuôn xác ló, nhớ để cho tao miếng chả chìa...ờ thằng Lam hả, tao cho mày nàm nính bảo vệ, chiến đấu với mấy con chó.

Tiếng con chó kêu đến "đắng" một cái, nhả cái bao ni lông đựng phân, dấy lên tê tê... Kẻ đập được con chó chính là thằng Nam, người lùng săn trộm, hàng xóm nhà tôi. Phân vãi tung toé, thối hoăng, còn cái bao ni lông được lấy lại.

Anh phó giám đốc điều hành cố vẻ hài lòng:

- Nàm thế nà đúng, không để thất thoát nguyên vật niệu của cơ sở. Phải giết chết, phải ăn thịt những con chó tham nhũng. Những cục phân té đổ vung vãi được đám chó ăn cướp dọn đến loáng là xong. Một anh ngứa miệng nói không ngãi trước nghĩ sau với đám chó đang tranh ăn:

- ồ lẹ lên tụi bay, ông phó giám đốc biết lại mệt bây giờ.

Anh phó giám đốc ngồi ghếch chân lên chiếc xe Honda tân trang. Nhậy cảm, ra họng liền:

- Ê thằng kia, nói gì vậy? Tao mà đi ăn tranh cứt với chó à?

- Tôi có nói gì đâu, tại anh nghĩ như thế.

- Tao cho mày nghỉ việc.

- Làm thì làm, mà nghỉ thì nghỉ, trả tiền thuê cho tôi đi

- Mày muốn vậy hả, dễ thôi. Mày đừng tưởng mày nà công nhân viên, mày nà cu ni, tất cả đều nà cu ni, thứ không có biên chế. Đừng lói chuyện nuật pháp với tao, tao nà luật mà luật nà tao. Truyền đời cho chúng bay biết, ông đi từ bắc chí lam đã từng nàm ông nớn. Thằng lào, con lào không muốn nàm lữa thì nghỉ. Không có luật nao động bồi thường cho bất cứ đứa lào. Có nàm thì có ăn. Không kỷ luật thép với chúng mày thì không xong.

Tôi biết tôi đang sống ở đâu, đang làm gì, tôi câm họng suốt một con giáp, mười hai năm trời. Tôi vầy vò những chiếc bọc ni lông thuộc loại hàng "hắc quẩy. Tôi thuộc tên hàng như cháo, như những tay chuyên nghiệp. Những bao ni lông phế liệu được tái sinh và tôi cũng được xào nấu tái sinh nhiều lần.

Tôi về đến nhà người mệt nhoài, buổi chợ chiều muộn mằn, đồ ăn mua được đều là thứ ế ẩm, mà cũng chẳng có gì giá trị vì số tiền tôi kiếm được trong suốt một ngày làm việc cật lực chẳng đáng là bao, gạo cho hai người ăn, đồ ăn thì khiêm nhượng miễn là mặn miệng để nuốt trôi cơm. Tôi muốn làm thêm "ca" đêm, là đi giặt bao ni lông thuê, nhưng vợ tôi cản:

- Thôi anh, hồi này anh yếu lắm rồi, anh lại húng hắng ho, coi chừng anh nhiễm ho lao, đám phế liệu bẩn thỉu như thế anh hít ngửi cả ngày... Có được hai bữa cơm là quí rồi, buổi sáng anh cũng có được ly cà phê, nắm xôi, điếu thuốc. Mình sống qua ngày chớ có làm giàu làm có gì đâu.

- Mình còn phải lo cái giường, em cũng cần tí thịt cá bồi dưỡng cho cái thai.

- Biết rồi, không can gì đâu, hồi này em ăn được, đồ ăn chẳng có gì mà em ăn tới gần ba chén cơm đấy. Còn tiền mua cái giường anh Nhã đã hứa cho mượn.

- Mượn thì cũng phải trả, dù là bạn bè...

Đang nói đến bạn thì anh Nhã đến. Tôi cười nói:

- Bạn linh thế, tôi biết bạn đến đúng hẹn mà.

Anh Nhã cười, ngồi ghé xuống một góc đầu giường, đặt xị rượu xuống, rượu trắng và một cái ly con con, chúng tôi thường uống "xây tua ", nghĩa là người này uống cạn giao ly cho người kia xoay vòng. Cuộc uống "xây tua" đều đặn thì phần mỗi người là tám ly con đủ sừng sừng, không hẳn say mà cũng không đủ tỉnh táo. Nhưng cũng dễ quên buồn. Nhã róc rượu anh mời tôi uống trước: - Rượu đế nếp Bà Bóng Gò Đen đấy, nước nhất nhé. Uống say êm lắm, không nhức đầu, tôi đặt nó từ Gò Đen Long An đó, hôm nay nó mới mang lên. Một can hai mươi lít, quí lắm nên tôi phải lấy luôn để dành uống. Xị này tôi mang tới cho bạn uống, tôi chỉ nhâm nhi chút chút với bạn cho vui thôi, ồ quên mất rồi, tôi không mang theo tí đồ mồi nào.

- Có đấy, tôi còn mấy miếng thịt Tam Tạng.

- Thịt Tam Tạng?

Tôi mang ra món tàu hủ kho tương, hai đôi đũa, giải thích:

- Tôi gọi món tàu hủ kho này là thịt Tam Tạng cho sang. Vì thịt cá dị ứng với khẩu vị vợ chồng tôi từ lâu rồi. Hai vợ chồng tôi lại có bệnh viêm màng túi, nên phải

kiêng kỵ kỹ lưỡng, nhiều hôm chúng tôi hạt muối cắn đôi, phòng bệnh hơn chữa bệnh. Thầy thuốc dặn thế. Tôi uống rượu và lòng cảm thấy hưng phấn, vợ chồng tôi sẽ có một cái giường. Có thể sau xị rượu này tôi sẽ hùng dũng lên đập cửa má Bảy đang ở nhà trên trả tiền. Cái giường thuộc về tôi, tôi thuộc về cái giường, cái giường sẽ là thành viên thân thiết của gia đình tôi. Nó sẽ là một đồ vật yêu quí như con chó, con mèo trong một gia đình. Ngược lại, tôi phải săn sóc nó, khi nó long đinh tôi đóng lại, nước véc ni tróc nham nhở tôi sẽ mua hộp sơn sơn lại cho sáng sủa. Lúc tôi đang hứng khởi như vậy, đang mơ mộng như bản chất tôi thì anh bạn bèn "pạc xơ cờ..." Lý do anh chưa cho tôi mượn được số tiền tôi yêu cầu để mua lại cái giường. Một thoáng sững sờ, nhưng rồi tôi giữ được bình tĩnh ngay nghe anh nói:

- Đến hẹn rồi mà đồ ngoại quốc của tôi chưa về tới. Thế có kẹt không chứ, hôm nay còn mấy ngàn, cái thằng bán rượu Gò Đen lại mang lên, tôi trả hết cho nó rồi. Đúng cái rượu bạn vừa uống đó, ngon như thế mà mình không mua thì uổng. Tôi hứa với bạn tôi nhớ chứ, hay là bạn xoay tạm ở đâu, rồi tôi sẽ đưa bạn sau vậy Tôi hỏi bà già thì không tiện, vì mẹ con tôi mới có chuyện xích mích, mà hỏi bà xã tôi lại không tiện nữa vì vốn buôn bán của bả. Bạn biết bản thân tôi có làm gì ra tiền đâu. Này, bạn có thể nói với bà chủ nhà thư thả được không?

Tôi đặt ly rượu xuống:

- Chắc chắn là không rồi, tôi cũng chẳng xoay được ở đâu hết. Tôi chỉ biết xoay đằng trước ra đằng sau thôi. Nhưng thôi, bạn đừng quan tâm đến chuyện đó nữa. Đối với tôi là chuyện lớn nhưng đã là chuyện nhỏ rồi. Trước đây chúng tôi từng nằm đất, đừng vì chuyện ấy mà sứt mẻ tình bạn.

Tôi vốn là kẻ nông nổi, không ngờ tôi lại ăn nói bình tĩnh như thế. Nhìn vợ, tôi thấy nàng cũng rất bình tĩnh. Nàng đã rửa xong mớ bát đĩa, đang xếp vào rổ trên cái kệ dã chiến do tôi đóng. Xị rượu ngon tôi không uống hết, đậy nút lại đưa bạn tôi mang về. Tôi tự đo lường được thân phận mình.

Tôi tiễn bạn ra về, hình như trời đang về khuya. Chốn ngoại thành này vắng vẻ. Hương lộ 14 ai đóng lên ở ngã ba đường cái tên mới đường âu Cơ, tổ tiên dân tộc tôi, tôi nhìn mờ mờ thấy dưới ánh điện vàng. Tôi trở về ngôi nhà chuồng heo. Vợ tôi đã lên giường nằm, mùng đã buông, cái mùng vá chằng vá đụp màu cháo lòng. Tôi cài cửa tắt đèn, chui vào mùng. Bóng tối âm u, ngoài mùng muỗi reo vo vo, ngoài trời gió nổi. Có một con cá tra nào đó quậy trong ao. Mái tôn hở, tôi nhìn thấy một ngôi sao đơn độc trong trời đêm. Thốt nhiên thở dài.

Vợ tôi nắm tay tôi:

- Đừng buồn anh, em chịu đựng được mà. Người ta nắm kẻ có tóc chứ ai nắm kẻ trọc đầu.

- Đừng nói thế thêm mích lòng.

Tôi đặt tay lên cái bụng lúp xúp của vợ. Bé đang cựa quậy, nhưng sao yếu quá. Tôi im lặng trong đêm. Ngôi sao ở khe hở mái tôn hồi nãy đã di chuyển theo vòng quay trái đất. Tôi không nhìn thấy nữa. Con dế mèn ngoài đầu hè cất tiếng gáy hoà nhập với nhiều âm thanh côn trùng khác. Cái giường ngày mai hết hạn cho mượn.

Lồng ngực tôi nặng nề, tôi bật lên tiếng ho.

Sáng sớm tinh mơ tôi đã mò ra quán cà phê bà Ba Đít Láng ở chợ Tân Phú. Quán cà phê bình dân không trưng bảng hiệu mà lại mang cái tên tục tĩu như thế Nhất định là cái tên của bọn giang hồ, quân khố rách áo ôm đặt cho, nhưng nguyên do tôi vẫn chẳng rõ vì sao. Quán đông khách như được quỉ thần phù hộ trong khi cà phê bắp rang, pha túi dở òm. Tôi mua một cái dầu cháo quẩy vừa uống cà phê vừa nhai. Đúng ra chẳng ngon lành no nê gì mà chỉ đỡ buồn miệng, có cảm tưởng mình có lương thực, đang nhai nuốt nó. Như kẻ sắp chết đói nhai cỏ, rễ cây, đánh lừa cái dạ dày khốn khổ của mình.

Tôi thắc mắc về tên quán cà phê, nhưng rồi cũng biết. Chẳng phải hỏi ai, cứ nghe khách giang hồ nói chuyện với nhau rồi khắc biết thôi.

Bà chủ quán góa chồng, sống với hai cô con gái đã đỡ đần được mẹ. Bà tuy hơi đứng tuổi nhưng vẫn còn nét mặn mà, là niềm mơ ước của nhiều tay chơi tỉnh lẻ, những mong làm nên chuyện "rổ rá cạp lại". Nhưng lâu rồi, niềm mơ ước ấy vẫn chưa được đáp ứng dù lời ong bướm dập dình quanh người thiếu phụ tuổi đời đang ở độ "ngon lành". Thể hình tròn trịa, nụ cười tươi hết cỡ như đóa hoa mãn khai lấn lướt cả hai đóa hoa hàm tiếu của hai đứa con gái. Bà Ba không xe xua trưng diện, tứ thời cái áo bà ba cổ tròn màu xanh, màu tím, màu mỡ gà hoặc màu trắng thắt eo hông ôm lấy cái quần đen vải Mỹ A láng bóng, tròn vo, mượt mà khiến nhiều tay hảo ngọt vùng Tân Phú phải hít hà thèm muốn. Một tay chơi hết thời, nửa đời lỡ, giờ làm nghề nhặt bọc ni lông thấy chịu không đặng, nhân buổi uống cà phê sáng, do bạn bè thách thức và cũng muốn bày tỏ tình cảm bằng thái độ bạo dạn, anh ta xoạng bậy "cái chảo" láng mướt của bà. Bà chửi, suýt đánh. Công an bèn túm lên phường bắt làm kiểm điểm rồi đưa đi giáo dục qua lao động hết ba tháng trời. Tên quán cà phê bà Ba Đít Láng có từ đó.

Quán ngày một phát triển, đông khách, bà Ba Đít Láng không có tình thì cũng có nghĩa. Bà có một dịp lên thăm người khách hàng bị đi học tập vì bà, đồ tiếp tế hậu hĩnh, không quên một bình cà phê biếu bạn. Như một lời hứa hẹn, nhờ anh ấy mới có tên quán mà ai cũng biết, đông khách. Cuộc tình, nếu có thể gọi như thế, dừng lại ở đó hay đi đến đâu tôi không biết. Nhưng người khách hàng "tội lỗi" xưa cũng có trở lại và được uống cà phê miễn phí. Lại được bà Ba Đít Láng sai vặt, còn hai cô con gái thì lườm nguýt, dầu mỏ ra chửi:

- Chú tưởng đã làm được dượng tôi mà lên mặt. Uống cà phê thí mà còn đòi cà phê sữa, coi có được không?

Bà Ba Đít Láng khóa cửa động đào hay mở có Trời biết. Tất cả đều bù trật trong cái ồn ào của buổi sáng quán cà phê bình dân đông khách.

Tôi cặm cụi lao động xé bọc ni lông cho tổ hợp phế liệu Thành Công của Thị Ngọc Tũn hy vọng vay mượn được tiền, trừ lương mỗi ngày có tính lời để mua lại cái giường. âu đó cũng là niềm vui, tặng phẩm sinh nhật cho vợ. Tôi chưa vô tích sự. Hai ngày nữa thôi, tôi sẽ cầm được số tiền "lớn " ấy, khi bà chủ đã đủ tin cậy ở tôi. Cái giường sẽ thuộc về gia đình tôi. Tôi hưng phấn, tay nghề mỗi lúc một cao, xé đến loáng đã được cả kí bọc ni lông, bất kể dơ bẩn. Thây kệ những cơn ho rũ rượi làm mềm cả thân xác. Phiên chợ chiều muộn màng, chợ chẳng còn gì, không lẽ bắt vợ ăn hoài cái món thịt Tam Tạng, nàng sẽ lả người đi mất, và cái bào thai, con tôi sẽ yếu không giẫy đạp nữa thì khốn, nó bị suy dinh dưỡng khi còn nằm trong bụng mẹ. Tôi vào quán cơm bình dân mua ít thịt kho, cái trứng vịt kho và chén canh khổ qua nhồi thịt. Tất cả được đựng vào bao ni lông mà nhà hàng cho là bao sạch. Tôi chấp nhận, lom khom xách đồ ăn về cho vợ trong niềm hạnh phúc tràn trề. Canh khổ

qua mát, miếng thịt, rừng kho nước dừa khiến gia đình tôi ngon miệng, con tôi tha hồ giẫy đạp trong bụng mẹ nó. Không biết phải gọi là hồi sinh hay tái sinh cho đúng. Thây kệ sao cũng được ăn mừng cái giường, cũ người mà mới ta.

Tôi bước chân vào nhà trong niềm hưng phấn, nhưng buồn ngay khi thấy nàng, vợ tôi ngồi bệt dưới đất. Nàng ngồi trên tấm chiếu rách. Tôi kêu lên:

- Sao lại thế này?

- Người thuê nhà cũ đã đến chuộc lại cái giường mất rồi.

- Kỳ vậy, anh đã khất với bà Bảy...

Vợ tôi thở dài đến thượt một cái:

- Ai biết được, đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn.

- Để anh lên nói chuyện với bà Bảy.

- Kệ anh, nhưng em biết chẳng ăn thua gì đâu.

Anh nói gì thì cứ nói, coi chừng bị bứng ra khỏi nhà, mình sẽ mất an toàn. Có người đến đòi thuê căn nhà này giá cao hơn đấy. Lại có đặt cọc, mình ganh nổi với họ không? Anh liệu lời mà nói.

Mẹ kiếp, lại còn thế nữa. Nhưng tôi vẫn nói để vợ an lòng:

- Anh biết, anh tin ở cách ăn nói của mình. Đại tá Bảy ưng chẳng từng khen anh là người ăn nói có văn hóa đó sao. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Vợ tôi đang buồn cũng phải bật phì cười, cái răng khểnh mới duyên làm sao, hớp hồn tôi: - Anh chỉ được cái vậy, ai bơm vào cho cứ tưởng thật. Thôi em sửa soạn cơm, a hôm nay cơm có thịt, có canh, có trứng. Sao mà sang quá vậy? Lẹ lên rồi về ăn nghe. Tôi lên gặp bà Bảy. Bà đang ngồi xỉa trầu thuốc dưới ánh đèn điện từ cái bóng máng trên bình "ắc quy. Thấy tôi, bà hỏi ngay:

- Mày lên tao về vụ cái giường, phải không?

- Dạ đúng vậy, má Bảy đã hứa...

Bà Bảy nhổ một miếng cất trầu vào cái lon sữa bò:

- Tao đã gia hạn cho mày, người ta đến chuộc, tao làm sao được.

- Hai ngày nữa tôi đủ tiền mà.

Bà Bảy nhìn nhanh tôi:

- Tao biết, nhưng không làm sao được, người thuê nhà cũ cũng nghèo như mày vậy. Tao không đành, giúp đứa này bỏ đứa kia. Cứ công bình mà làm. Tao là người có đạo đức cách mạng.

Bà Bảy nhìn lên bức chân dung vẽ truyền thần của chồng là đại tá Bảy ưng, đủ cả cân đai mũ mãng. Bà vững lòng tin truyền sang cả tôi phải nghĩ là nền đạo đức của bà đúng, rất đúng.

- Tao nói vậy, phải không mày?

Tôi mềm lòng gật đầu:

- Dạ phải, chỉ mong má Bảy giúp cho vợ chồng tôi một việc khác.

- Khất tiền nhà phải không?

- Dạ không, một chuyện khác.

- Cứ "trình bày" hợp lý tao chấp nhận.

- Vợ tôi có thai, nằm đất thì hại sức khỏe quá...

- ờ ờ, cũng đúng, vậy thì mày mang một cái giường khác vế mà nằm.

- Cái giường tre cũng mắc, tôi không đủ tiền mua, đồ cũ họ cũng nói trời thần lắm.

- Vậy hả, mày tính sao?

Thấy tôi liếc nhìn cái giường nhỏ ở góc nhà, bà Bảy giẫy lên:

- Không được đâu, cái giường ấy tao không bỏ không, của con tao đấy. Nó đi bộ đội chiến đấu ở phía Tây Nam tổ quốc, chống Khờ Me đỏ, lâu lâu nó về nó phải có giường nằm nghỉ ngơi. Mày biết nó cũng là sĩ quan ở binh đoàn Cửu Long, con dòng cháu giống.

Tôi cười:

- Dạ không phải, tôi không mượn giường, mà cũng không mua lại nữa.

Đến lượt má Bảy ngạc nhiên:

- Vậy là cái gì? Nói rõ ra nào!

- Muốn xin má Bảy cho đóng xuống sàn bốn cái cọc, tôi đi tìm ván cốt pha về làm mặt, kê làm giường cách mặt đất cho đỡ ẩm thấp.

Bà Bảy rơ miếng thuốc xỉa trên hàm răng có dính quết trầu màu đỏ, móc miếng thuốc lên môi thành một cục to bằng trái tắc. Suy nghĩ một lát rồi lắc:

- Cũng không ổn, mày biết sàn chuồng heo tao đổ bê tông, mày đào bới tầy quầy ra, hư nền nhà tao. Mai mốt tao nuôi heo, heo phải nằm sàn, ỉa đái tùm lum. Chớ heo có nằm giường bao giờ. Cái giường của mày cố định ở đó coi sao được. Tao bác ý kiến "ngông cuồng" của mày. Tao thiệt hại quá, ông chồng đại tá nhà tao rầy la tao. Thấy cũng thương, mà tao biết làm sao được.

Tôi thua, năn nỉ vô ích với một người có đạo đức cách mạng như bà Bảy, được huấn luyện cứng như thép

Tôi lui về chốn chuồng heo. Tôi nghĩ đến câu chuyện đại tá Bảy ưng nói với tôi, ngày ông và đồng đội "xẻ dọc Trường Sơn", nằm bờ nằm bụi để có ngày hôm nay. Giải phóng cho nửa phần đất nước, thống nhất đất nước. Các vị ấy gian khổ biết bao nhiêu. Sự đau khổ của vợ chồng tôi có nhằm nhỏ gì. Ba cái lẻ tẻ. Cần phải lấy đó mà làm gương.

Đêm hôm ấy ngủ đất, nằm lạnh lưng nên tôi ho hơi nhiều, vợ tôi cũng ho và trăn trở không ngủ được, cái cống thoát nước trên đầu nằm chảy róc rách, muỗi bay vo vo góp sức phá thêm giấc ngủ chập chờn... Tôi biết rằng miếng ni lông mỏng rách trải dưới cái chiếu rách không ngăn nổi khí lạnh dưới nền sàn, nếu có miếng dầy hơn? Nhưng làm sao được. Tôi nằm tính toán thâu đêm. Tôi không kêu trời mà chỉ hiểu thấu thêm câu nằm gai nếm mật, hiểu giá trị anh hùng của những người xẻ dọc Trường Sơn. Đẹp đẽ biết bao, hào hùng biết bao! Con ngựa chướng trong người tôi muốn lồng lên phi nước đại. Buổi sáng hôm sau tôi đi làm sớm, uống vội ly cà phê đen nhỏ ở quán cà phê bà Ba Đít Láng. Tôi đến cơ sở gặp bà chủ:

- Tôi xin rút lại lời xin mượn tiền bà.

- Vậy hả? Có món khác rồi chăng?

- Không, thứ tôi định mượn tiền bà để mua, người ta bán mất rồi.

- Chú mua món gì vậy?

Tôi không thể giấu được bà chủ, tình thật kể lể câu chuyện cái giường cũng là câu chuyện giải tỏa ẩn ức. Bà chủ vựa ve chai của tôi tỏ ra thông cảm và nhân hậu. Luôn miệng nói "thế à" và câu "tội nhỉ".

Cuối cùng bà nói:

- Tiếc rằng nhà tôi không có dư cái giường nào, chớ không, tôi cho chú mượn. Mình cùng cảnh nghèo với nhau dễ thông cảm. Được thôi, nếu thấy, tôi sẽ mua giùm chú, một cái cũ cũ cũng được chớ gì. Hồi trước thiếu gì, tôi phải chẻ làm củi, nay lại không thấy nữa.

Tôi nghĩ bụng tôi cần ngay hôm nay, chứ chuyện mai sau thì nói làm gì. Tôi hùng hục làm việc, đến chiều trời bới nắng, tôi được cắt ra thu gom bao ni lông phơi ngoài ruộng mang về cất trong kho. Bao ni lông khô ran vì hôm nay trời nắng và nóng đến 39 độ, tôi loáng thoáng nghe đài phát thanh nói thế khi đang ngồi xé bọc ni lông, mồ hôi chảy ròng ròng. Thế mà vẫn có cả trăm người lui cui trên bãi rác đổ nắng lửa, phơi lưng với trời, gục mặt trên đất, bãi rác lúc nào cũng như chực bốc cháy. Những con người như đám thiêu thân. Những đôi mắt trẻ thơ nguyên xanh trong, dưới cái nắng gay gắt đó biến màu đỏ, màu vàng như mắt khỉ, mớ tóc rối chuyển sang màu rơm rạ. Bao nhiêu con người lang thang kiếm ăn như bầy chó hoang. Tôi thương cho họ, chính là thương tôi, tôi cũng đang ở hoàn cảnh đó. Tôi mơ ước một ngày nào đó được nói lên cảnh này, nhưng không vì vậy mà hận thù ai cả. Một tinh thần rất Việt Nam, thụ động mà không thụ động: Ngồi buồn mà trách ông xanh, khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.

Trời tắt nắng, tôi thu gom được hết bao ni lông phơi đóng bao, thồ lên xe đạp chở về kho. Có thể ngay tối nay có người sẽ phân loại, một bộ phận khác phân loại rồi chở đi nhà máy tái sinh qui tụ ở quận 5 tức vùng Chợ Lớn. Những đồng bào người Hoa cần cù chịu khó làm ông chủ lớn, đón gió. Có tổ chức nhịp nhàng như trong cỗ máy hay một tổ kiến. Tôi nhìn thấy cái vĩ đại trong hoạt cảnh xã hội, tôi ghi nhận như người quay phim ghi nhận những thước phim tư liệu. Tôi xổ tung mớ ni lông, đặt lên bàn cân tạ có trừ bì. Tôi khám phá ra những bao ni lông thật to rộng, mỗi cái phải to bằng cái chiếu con, dài cỡ hai thước, ngang cũng tám mươi phân,

ni lông khá dày. Có thể người ta dùng để bọc một cỗ máy gì chăng, nay là dạng phế liệu, đã được giặt sạch, phơi khô. Tôi nở nụ cười. Thực tế tôi đang nghĩ đến một cái giường vừa hẫng hụt khỏi niềm mơ ước. Bây giờ tôi phải lót ổ để nằm, tấm ni lông mỏng rách lót dưới một cái chiếu rách không thể ngăn khỏi chướng khí ẩm thấp chốn chuồng heo. Tôi cần một cái ổ lành lặn, dầu cho là tạm thời thay cho cái giường. Sáng kiến loé trong đầu tôi nhưng tôi phải thực thà, tôi tới chị chủ vựa:

- Tôi cần hai miếng ni lông lớn kia, bà có thể để lại cho tôi giá đặc biệt được không? Chị chủ vựa ve chai nhíu mắt nhìn hai tấm ni lông tôi đã nhặt ra. Sau một phút suy nghĩ cắn môi thoa son đỏ loét hình trái tim, chị gật gật:

- Cần dùng có công chuyện hả, được thôi. - Bà chủ cho biết bao nhiêu tiền, tôi cân cả hai tấm được hai kí tư, dạng ni lông lụa dầy.

Tất cả đều có giá của nó và đã phân loại, tôi nói theo đúng kinh nghiệm của kẻ trong nghề.

Bà chủ lại nhíu mắt, ghếch một chân lên ghế. Tôi nhìn thấy những móng chân sơn màu tím xẩm. Nhưng gót chân thì vẫn nứt nẻ dài, đen xì, chứng tỏ bà có một thời cực nhọc từng lang thang trên những bãi rác. Sự lao động của bà được đền đáp mang đến vinh quang. Bà cắn môi rồi nở nụ cười, kiểu nụ cười của một ngôi sao, trong làng cải lương hay tài tử nữ phim ảnh Hồng Lông:

- Được thôi, nhưng chú thì tôi không bán mà tôi biếu chú đấy. Chú đàng hoàng, lương thiện, lại biết chữ, chồng tôi nói thế. Vì hoàn cảnh chú phải làm nghề này. Tôi ngạc nhiên, nhưng cũng phải cảm ơn một người có lòng tốt, có con mắt tinh đời. Họ biết gì về mình, khi tôi đã ngụy trang, đã ẩn mình, giấu tung tích như một kẻ tội phạm đang bị truy nã. Khi tôi không có một tội gì, tôi chỉ muốn không ai biết đến tôi, không ai nhớ ra tôi thôi.

- Tôi chỉ biết đọc biết viết!

Không đâu, chồng tôi biết rõ chú mà, thôi được ngày mai chú làm lại sổ sách giùm tôi thật rõ ràng. Cái thằng thư ký của tôi nó mới học đến lớp ba, sổ sách làm teng beng, nhầm lẫn thất thoát bao nhiêu tiền bạc.

- Còn công việc xé bọc?

- Sẽ có người khác làm thay chú. Cháu nâng đỡ chú lên địa vị cao hơn, người tài mà, chồng cháu nói quyết không bỏ sót nhân tài.

Tôi để ý thấy cô chủ xưng cháu với tôi. Tôi có được bơm lên không. Cô ta như một nữ hoàng tự hạ mình xuống đám tiện dân, hết một tên nâng lên hàng kẻ sĩ. Cuộc đời có lắm chuyện bất ngờ. Như trước đây ba mươi năm, tôi đang làm cu li bên kho 5 Khánh Hội được chủ thầu bốc lên làm cai cu li rồi lên địa vị cao hơn nữa. Rồi tôi trở thành nhà văn nhà báo trong những sự bất ngờ. Lại là chuyện hạ hồi phân giải.

Tôi cám ơn cô chủ, ôm hai tấm ni lông về nhà, không quên hứa sáng mai sẽ trở lại cùng anh thư ký coi việc sổ sách cũ. Tôi chỉ muốn giúp anh ta thôi chứ không có ý tranh việc.

Tôi về nhà, vứt đi tấm ni lông rách ở dưới, trải lên hai tấm ni lông mới, lành lặn, cái bao có hai lớp. Tôi giải tấm chiếu rách lên là có một cái ổ khá xinh xắn. Tôi nói với vợ: - Thôi cũng được, anh sẽ mua một cái chiếu mới lành lặn, trước khi mua cái giường.

Từ nãy vợ tôi không nói gì, nàng quan sát tôi như con chim mái quan sát con chim trống làm tổ. Lòng tôi thấy vui vui. Vợ tôi nói:

- Sao hôm nay anh vui thế?

- Anh sẽ kể cho em nghe tối nay, khi ngủ giường mới.

- Cái ổ mới mới đúng.

- Cái tổ chim bồ câu được không?

- Khỉ ơi là khỉ!

Căn nhà nhỏ của tôi vang tiếng cười. Có phải hạnh phúc đó không? Chỉ vợ chồng tôi biết với nhau. Ngoài sân tôi nghe tiếng bà Bảy ưng xoe xoè chửi vợ chồng thằng Nam ở chuồng heo cùng dấy:

- Mày thiệt tệ, ăn cắp ăn trộm quanh hàng xôm láng giềng, giờ có con gà mái đẻ nhà tao mày cũng câu luôn, lông gà còn đây mày chối cãi cái gì. Bao nhiêu lần

mày ăn cắp trứng, lưới trộm cá tra của tao, tao thương hại không nói đến, chớ tao không đui. Nhà tao không chứa quân ăn trộm ăn cắp. Tao muốn bay ra khỏi nhà tao, càng sớm càng tốt, tao thí luôn cho số tiền nhà vợ chồng bay còn thiếu tao...

Tiếng con vợ thằng Nam năn nỉ:

- Má tội nghiệp cho vợ chồng con, vì hoàn cảnh mà phải vậy thôi, chớ trước đây chúng con cũng sống trong nhà cao cửa rộng vậy. Anh ấy đi học tập cải tạo về...

- Câm ngay, chúng mày nói láo, chẳng phải ông nọ bà kia gì ở chế độ cũ được đi học tập cải tạo mà là đôi vợ chồng lưu manh chuyên nghiệp trộm cắp vặt bị tù nên mới có tư cách ấy. Tao không đui, vợ chồng mày đâu phải như vợ chồng nhà người ta. Con vợ thằng Nam oé lên, tôi nghe giọng điệu nó chĩa sang vợ chồng tôi nói xiên nói xỏ. Tiếng thằng Nam ồm ồm: - Thôi bà ơi, bà đừng nói đụng chạm đến danh dự tôi. Bà khen đứa này chê đứa kia. Tôi lưu manh nhưng cũng không lưu manh bằng kẻ khác sống ở đây. Tôi chỉ bần cùng sinh đạo tặc. Có sao đâu, đời mà... Cái nhà bà cho thuê là cái chuồng heo chớ là gì mà báu giá thế.

Bà Bảy ưng tức cành hông, giọng bà gay gắt:

- Ngay sáng mai tụi bay đi khỏi đây, nếu không tao cho công an xúc bay đi đổ ngoài bãi phế liệu.

- Xong ngay, bà đuổi hết chứ? Hay chỉ một gia đình tôi?

Nguồn: truyen8.mobi/t123194-than-phan-ma-troi-chuong-2.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận