Tuổi Thơ Dữ Dội Chương 12

Chương 12
Trong vòng chưa đầy một ngày một đêm mà cả chiến khu Hoà Mỹ,

từ Tiền chiến khu đến Xê-ca Bảy và không chỉ riêng bộ đội, cán bộ, công nhân viên mà cả nhân dân làng Hoà Mỹ, đều biết chuyện em Quỳnh-sơn-ca đội viên đội Thiếu niên Trinh sát trung đoàn, tác giả bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến" là con trai út độc nhất, là "hũ mắm treo đầu giàn", của tên đại Việt gian, Phó tổng trấn Trung kỳ. Và chính tay tên đại Việt gian đó đã viết thơ, cử hai chị người nhà, một già một trẻ, mang lên chiến khu, gửi tận tay Ban chỉ huy trung đoàn, cùng với nhiều thuốc men; nhiều đồ lề quý giá mua từ ngoại quốc xin cho em được trở về Huế với gia đình. Sau đó em sẽ được xuất dương sang nước Thuỵ Sĩ để chữa bệnh và học hành cho đến lúc thành tài. Ban chỉ huy Trung đoàn đã cho phép em tự do lựa chọn, muốn ở thì ở, muốn về thì về. Hai chị người nhà của em hiện đang ở tại chỗ ìán của đội Thiếu niên Trinh sát với hai bị đồ đạc gánh một gánh nặng. Nếu em thuận về, họ sẽ đưa em về theo.

Chuyện của Quỳnh được sôi nổi bàn tán khắp nơi chiến khu. Mọi người thi nhau phỏng đoán, đánh cuộc với nhau.

Người bảo em sẽ về, người bảo em sẽ ở lại. Nhân đó, người ta nhắc lại chuyện quản Hậu, quản khố đỏ cũ, là trung đoàn trưởng đầu tiên của trung đoàn Trần Cao Vân. Mặt trận Huế vỡ quản Hậu đã bỏ trốn theo Tây. Rồi chuyện ông Tuân, trưởng ban quân nhu của trung đoàn, xách một túi bạc mấy chục vạn đi vô chiến khu Hương Thuỷ, để gửi về Huế mua thuốc men cho bộ đội. Ông ta đã để túi bạc lại chiến khu đi về đồng bằng, mượn cớ tìm bắt liên lạc với cơ sở rồi nhảy tót luôn về Huế theo Tây…

Người lớn làm đến chức to như rứa còn trốn theo Tây, huống hồ đây là con nít. Chú ta xin về là cái chắc!

- Cái nước Thuỵ Sĩ mà chú ta sắp qua ở là nước mô rứa hè?

- Cái nước chuyên nghề làm đồng hồ đó. Đồng hồ Thuỵ Sĩ tốt nhất thế giới: Ô-mê-ga, Mô-va-đô, Vi-le, Pơ-ranh-ta-ni-a…

- Mấy chú liên lạc ở đội anh Thắng tui biết hết, không biết Quỳnh là chú mô?

- Cái thằng nước da trắng xanh, đi phải chống nạng mà bữa trước đi ngang qua quán, tui gọi vô cho ăn bát chè g ạo, hắn cứ nắc nỏm khen hoài là ngon ghê, ngon ghê đó.

- Chính thằng nớ à? Ngó hắn còn nhỏ thó, ốm o hơn cả thằng Bộ-xương-cách-trí nữa hè?

- Không biết cả vạn quốc, có nước mô nhiều bộ đội con nít như ở Xê-ca Hoà Mỹ mình không hè?

- Kháng chiến mình cũng thiệt lắm chuyện lạ? Bữa ni còn đang thèm cục đường đen rệu cả nước miếng, áo quần rách thì láy dây chuối buộc túm buộc tó, sốt rét thì uống nước mưa hoà ký ninh… Rứa mà chỉ cần gật đầu một cái là dã qua ngồi bên nước Thuỵ Sĩ, tay đeo đồng hồ vàng sáng giới, đi ô tô, ở nhà lầu, mặc lụa, mặc gấm, chơi đàn chơi địch… sướng hơn cả hoàng tử Bảo Long!(1)

- Rứa mà chắc chi chú ta đã chịu gật?

- Gật chớ chi mà không gật!

- Mấy ông cách mạng nòi gặp phải trường hợp ni e cũng chênh vênh nữa là…

- Cứ đợi coi mới biết, chuyện đời nhiều khi rất cắc cờ.

Từ các trạm gác tiền tiêu, trong các ụ súng bắn máy bay, trong các lán trại từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy, công binh xưởng, trạm quân lương, xưởng bào chế… trong các quán hàng, hiệu "Coiffeur de luxe" của ông Đỡm, quán bán bánh sắn của mụ Tào… đến đâu cũng nghe bàn tán chuyện em Quỳnh. Năm đó là năm gian khổ trầm trọng nhất của cuộc kháng chiến chín năm ở chiến trường Bình Trị Thiên. Nhiều người bền gan quyết tử, nhưng cũng không ít người xao xuyến phân vân… Có người đã bước tới mấp mé ranh giới của sự ngã lòng, khiếp nhược; trong tâm tư sâu kín đã manh nha ý muốn đầu hàng, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, mà danh từ hồi đó gọi là "dinh tê".

Vì một sự hết sức tình cờ mà chú bé chiến sĩ mới mười ba tuổi này đã trở thành đại diện cho cả hai bên: bên bền gan và bên ngã lòng. Người ta mượn chú để công khai bộc bạch lòng mình trước giờ phút nghiêm trọng của kháng chiến. Mỗi bên đều muốn níu kéo chú đứng về phía mình để khẳng định niềm tin hoặc để biện hộ cho sự ngã lòng khiếp nhược.

Người ta hồi hộp chờ đợi cái phút chú gặp mặt người nhà để nói lên sự quyết định lựa chọn của chú.

Bởi vậy khi thấy anh So-moóc-chê cõng Quỳnh trên lưng, cùng với bác sĩ bệnh viện trưởng và mấy chị y tá, hộ lý, từ phía Xê-ca Một đi ra Tiền chiến khu, nhiều người đã bỏ dở công việc đang làm, đi theo coi, đông như một đám rước.

Nằm nép trên tấm lưng rộng lớn lực lưỡng của anh xạ thủ moóc-chê tám mốt, Quỳnh nom càng mỏng mảnh, bé bỏng xanh xao. Nếu anh So không vòng hai cánh tay ra sau lưng ôm chặt lấy cặp giò và cái mông con nít của em, e gió thổi bay. Đoạn đường từ Xê-ca Bảy ra đến Tiền chiến khu khá xa, phải trèo qua nhiều dốc núi và lội qua nhiều con suối. Nằm trên lưng anh So, Quỳnh cũng thấy thấm mệt. Em đựa mái dầu tóc tơ bù rối vào cái cổ trần bò mộng của anh, nhắm nghiền mắt, thiu thiu ngủ. Gió thổi lộng. Đi qua kết hết lớp cây rừng che khuất, cái màu nắng chói chang rực rỡ của vùng Tiền chiến khu, và tiếng người chuyện trò bàn tán, đã đánh thức em. Em ngẩng đầu lên, mắt hấp háy vì chói nắng. Em ngoảnh lại nhìn những người đi theo sau đông như đám rước. Em tủm tỉm cười với tất cả thay cho lời chào hỏi. Cặp mắt em vốn đã to lúc này trông càng to hơn, như choán hết gương mặt hốc hác, xanh xao, mái tóc bù rối gió thổi tung và tràn ngập nắng chiến khu.

Không hiểu sao có mấy anh, mấy chị ngó vào cặp mắt em, tự nhiên ứa nước mắt:

- Coi hắn ngó mình tề, hắn cười tề… Cái mặt hắn răng mà dễ ghét…- Một chị vừa thút thít khóc vừa nói vậy.

Những người đi theo sau, đều biết em tuy là chú bé nhưng lại là một nghệ sĩ, đã viết nổi một bài hát đẹp và quyết liệt như một lời thề của tất cả những người bền gan sống chết với chiến khu. Ánh nhìn và nụ cười của em vừa thơ dại, bé bỏng, vừa sâu sắc thâm trầm. Qua ánh nhìn và nụ cười đó, người ta đều cảm thấy chú bé này hiểu rất rõ họ muốn gì ở em, chờ đợi gì ở em…

Anh So cõng Quỳnh bước vào lán, nhẹ nhàng đặt em ngồi xuống sạp nứa. Phút chốc cái lán rộng thênh thang đã chật ních những người. Họ chen chúc, vòng trong vòng ngoài. Đứng vây quanh sát bên em là đội trưởng Thắng, bác sĩ Thiền, và hai phụ nữ gia nhân của viên Phó Tổng trấn Trung kỳ. Thím Ba là vú nuôi, o Hường là chị em cô cậu ruột với Quỳnh, sống với gia đình em từ nhỏ và cùng đi học với chị Kiều Trang của em.

Hai người phụ nữ cùng ôm chùm lấy Quỳnh và oà lên khóc.

Qua gẩn một ngày một đêm ở chiến khu, họ lần đầu tiên đã được nếm ít nhiều mùi vị gian khổ của kháng chiến. Suốt đêm qua họ không ngủ. Họ thao thức cố hình dung đứa con nuôi, đứa em của họ, mà ngày ở nhà được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, bây giờ sinh sống ra sao, mặt mũi hình dạng ra sao… Nhưng họ không thể nào tưởng tượng nổi đứa con trai út độc nhất của cụ lớn Tuần Vi, giàu sang quyền thế nức tiếng của thành phố Huế, lại đến nỗi rách rưới, ốm đau, xanh xao, hôi hám như cái chú bé mà họ đang ôm riết trong vòng tay. Một nỗi thương xót ghê gớm làm cho cả hai người muốn chảy tan thành nước mắt. Trái lại, thấy vú nuôi và người chị ăn mặc sang trọng, thơm tho, béo tốt, cứ ôm chặt lấy mình mà khóc, Quỳnh có vẻ xấu hổ và ngượng với những người đang đứng vây quanh. Em hơi đẩy hai người ra, nói giọng như gắt:

- Tề… Vú với chị khóc chi mà khóe hoài rứa? Làm như em chết rồi không bằng…

- Ôi chao, con mà đau ốm, ăn ở cách ni rồi con cũng chết mất thôi con ơi!… Thím Ba nước mắt giọt ngắn giọt dài, rên rỉ.

- Chị với vú mà còn khóc nữa là em bỏ em vô trong tê ngay.

Quỳnh chỉ tay về phía núi.

Câu doạ của Quỳnh thế mà hiệu quả. Hai người chặm nước mắt và vội nín khóc. Từ ngày còn ở nhà hai người đã được biết cái thằng Quỳnh của họ mặt mũi hiền lành như con gái nhưng bướng bỉnh, gan liều cả nhà phải khiếp. Nó đã định làm cái gì, thích cái gì là tìm cách làm cho bằng được. Một lẩn, chị Kiều Trang ngồi thêu, bị cái kim chích vô ngón tay, đau quá, chị khóc thút thít. Nó đang ngồi tập đàn, bỏ đàn chạy lại, nói với chị. "Cái kim chích như kiến cắn mà chị cũng khóc! ôốc dôột?". Chị bực cãi lại: "Em có bị chích mô mà em biết. Em mà bị, em còn khóc bằng mấy chị?". Nó cầm lấy cái kim, nói: "Đã rứa, em chích cho chị coi?". Tưởng nó nói doạ, ai ngờ nó chích thiệt. Nó đâm gần lút nửa cái kim vô bắp chân rồi rút ra. Bỏ cái kim còn đỏ lòm cả máu vô hộp khâu, rồi bước cà nhắc đến bên cây đàn, thản nhiên ngồi xuống tập tiếp. Rồi cái hôm cụ Tuần xé mất cuốn vở nhạc của nó, nó lầm lì nói: "Ba làm rứa, con bỏ nhà con đi Vệ Quốc Đoàn!". Cũng tưởng nó nói dọạ, ai ngờ nó trốn nhà nó đi thiệt, đi từ ngày đó cho đến nay…

Vú Ba và chị Hường kể chuyện ba mạ, chuyện nhà cho Quỳnh nghe. Hai người mở bị soạn hết đồ lề của ba mạ gửi lên cho em, để đầy trên sạp nứa. Mấy bộ áo quần ka-ki, ga-bạc- đin, phơ-la-nen, mấy cái áo len dài tay, cộc tay, cái nào ở cổ cũng có đính nhãn hiệu nước ngoài, cái mền len mỏng, thuốc uống, thuốc tiêm toàn loại thật hiếm, thật đắt tiền, rồi sữa hộp, cá hộp, thịt hộp, nét-cà-phê, chanh bột hộp, sô-cô-la, bích quy, cả thuốc lá thơm Cờ-ra-ven-na… với vỏ bọc choáng lộn, màu sắc sặc sỡ, những hình vẽ và chữ đề tiếng nước ngoài…

Tất cả cái đống đồ lề đó bốc lên mùi xa lạ, mùi cuộc sống của những gia đình giàu sang, quyền thế ở các thành phố giặc tạm chiếm. Nhiều người đứng vây chung quanh, mắt như bị hút chặt vào cái đống đồ lề quý giá, ngon lành đó, và gần như choáng váng vì thèm muốn. Nó hiện ra giữa cảnh sống vô cùng gian khổ của chiến khu với tất cả sức hấp dẫn ghê gớm của chủ nghĩa vật chất. Nó như một lời mời mọc, dụ dỗ về cảnh sống của một miền "địa đàng" có thật và đang ở cách họ không xa. Bên kia con sông Ô Lâu, dọc theo con đường quốc lộ rải nhựa khoảng bốn chục cây số là đến nơi…

Họ hết nhìn đống đồ lề lại nhìn Quỳnh - chủ nhân của đống đồ lề: Còn Quỳnh, em đưa mắt dửng dưng lướt nhìn đống đồ lề, rồi cúi xuống đất, nhìn cái lối đi gồ ghề, cháy đen nhiều chỗ vì lửa đốt sưởi suốt mùa lạnh và những ngày chiến khu mưa.

Gương mặt thơ ngây của em vụt tối và đanh lại, nom em càng vàng rõ, xanh xao đến phát sợ. Em nói, mắt vẫn nhìn xuống đất, giọng nghẹn lại vì đau đớn:

- Vú và chị về nói lại với ba mạ em… Em nghe chuyện ba, em rất xấu hổ. Tội của ba với kháng chiến to lắm. Mà em còn nhỏ quá, em không đủ sức để chuộc được tội cho ba… Nói với mạ em, ở đây em chẳng cần chi hết. Em chỉ cần tiếng tốt của ba, của mạ của gia đình thôi… Nước Thuỵ Sĩ làm chi có sông Ô Lâu, làm chi có Xê-ca Một, Xê-ca Hai, Xê-ca Ba… Xê-ca Bảy?… Qua bên đó em làm chi có đứa bạn trèo hết lên các ngọn cây cao thành phố để tìm lá thuốc về chữa bệnh cho mạ… Mà em thì thích sông Ô Lâu, thích Xê-ca, thích bạn em hơn. Còn ba thứ đồ ni - em ngẩng lên, khoát tay chỉ đống đồ lề bày ngổn ngang trên sạp nứa - vú với chị dẹp hết vô bị mang về, một viên thuốc em cũng không uống, một cái bánh em cũng không ăn mô!

Thân h ình em bỗng rung lên từng đợt như ngọn lá trước cơn gió bất thần nổi lên. Em đang cố hết sức chống chọi với cơn sốt rét đang dâng lên từ bụng, từ ngực. Hai bàn tay em bóp chặt cái thành sạp nứa, rồi cố nói với giọng thật bình thản:

- Vú với chị về đi. Khi mô Huế giải phóng em sẽ xin phép cấp chỉ huy về thăm cả nhà…

Em chợt nhìn lên chỗ đầu nằm của Mừng, thấy trên cái bao tải rách, đặt một hộp sữa guy-gô sáng trắng. Em cau mặt, chỉ hộp sữa, hỏi Mừng đứng sát ngay bên cạnh:

- Ở mô mà cậu có rứa?

- Chị Hường cho mình sáng ni… - Mừng bối rối nhìn bạn trả lời.

- Răng cậu lấy làm chi? - Mặt em sa sầm, nghiêm lại hỏi. - Thứ bột đó ăn vô là dễ mắc nghẹn làm cậu chẳng biết chi cả!

- Mình lấy định mang vô cho Quỳnh mà…

- Mình thích ăn quả ươi bay hơn! Cậu tệ quá, cả tuần ni chẳng thấy cậu đem vô cho mình quả ươi bay mô? Mình thèm ươi bay của cậu rệu cả nước miếng… Cậu định đem hộp đó vô cho mình thì chừ cậu đưa đây.

Mừng phóc lên sạp, cầm hộp sữa đưa cho Quỳnh. Em đặt hộp sữa bột vào giữa đống đồ lề, nói:

- Vú với chị mang luôn cả hộp ni về. Bạn em nó không biết, nó tưởng ăn được!

Những người vây quanh nhìn Quỳnh với cảm giác gần như hoảng sợ. Trong lúc nói những câu đó, gương mặt trẻ thơ của em hiện lên vẻ sắt đá đến lạnh người.

Chị Hường nắm chặt hai cổ tay gầy guộc của em, khóc không thành tiếng, nước mắt ròng ròng, làm tóc dính bết vào má, vào cằm.

- Chao ôi, răng mà em sắt đá dữ rứa? Em không viết được cho ba, cho mạ, cho chị, một cái thư hay răng?

- Em chẳng biết viết chi… - Quỳnh lắc đầu buồn bã. - Mà em không có sẵn giấy bút ở đây…

Mừng quệt nước mắt vào ống tay áo, nói với Quỳnh:

Hay cậu gửi cái tờ chữ nhạc "Sông Ô Lâu kháng chiến" về cho ba mạ, cho chị, để ba mạ với chị được ngó thấy mặt chữ của cậu?

- Tưởng anh Hinh lấy tờ đó rồi?

- Mình mới lên đòi lại anh bữa trước.

Mừng lôi tờ báo Giết giặc để dưới cái bao tải, mở ra. Bên trong tờ báo gấp làm tư em để bản nhạc của Quỳnh được vuốt thẳng hết nếp nhăn. Quỳnh cầm lấy bản nhạc viết sau tờ đơn thuốc, đọc lại một lần, rồi rút mẩu bút chì trong túi áo, sửa lại một vài chỗ. Em ký tên dưới bản nhạc, trao cho o Hường.

- Chị nói với ba mạ là thơ của thằng Quỳnh gửi cho ba mạ đó!

Gương mặt em vụt trở nên xanh lét, cả hai vành tai cũng xanh. Em gần như cúi gập người để chống chọi với cơn sốt lúc này đang tràn ngập cơ thể em. Như có một sức mạnh ghê gớm từ bên trong thúc đẩy, em vụt ngồi thẳng dậy, rướn người lên hết sức như sợi dây đàn lên đến cung bậc cao nhất mà nó có thể lên. Trông dáng điệu em lúc này sao mà giống hệt con sơn ca sắp vỗ cánh bay thẳng vút lên bầu trời! Và hết sức bất ngờ em bỗng cất tiếng hát. Em hát chính bài hát của em "Sông Ô Lâu kháng chiến".

Sông Ô Lâu ngân nga soi núi biếc chập chùng

Soi đoàn quân quyết tử hiên ngang…

Mọi người đứng lặng sững sờ, kinh ngạc nhìn em. Cặp mắt em mở to, sáng long lanh như có lửa cháy bên trong. Mọi người đều có cảm giác là không phải chỉ miệng em hát mà cả con người em, từ mái tóc tơ bù rối, vầng trán trắng xanh như cẩm thạch, cái cổ gầy ngẵng như cổ gà con, những mạch máu xanh xanh sau làn da con nít trong bủng, những ngón tay ngón chân bé bỏng, mỏng manh và dễ vỡ như đồ chơi, đến cả cái áo quân trang rộng thùng thình mà em xin được của tnột anh nào đó với những miếng vá to tướng đủ màu, đều lung linh, ngân nga và rực sáng âm nhạc… Vừa hát hết câu thứ nhất, cả gương mặt em đã chan hoà nước mắt. Cả những dòng nước mắt sáng loà, đầm đìa trên hai má em cũng đang hát!

Càng hát, gương mặt em càng tái xanh như người đang mất máu. Tưởng chừng như máu trong những mạch xanh xao của em đang chảy tràn ra khỏi thân thể em theo cùng với những câu hát. Đang ngồi, em vụt đứng thẳng dậy chênh vênh bên mép sạp nứa. Khi hát đến hai câu cuối cùng:

Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau

Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu…".

Toàn thân em run bắn. Cặp mắt mở to bỗng dạỉ đi. Ánh lửa cảm hứng rực sáng trong đáy mắt em vụt tắt ngấm như một ánh chớp. Và em ngã nhào từ trên sạp nằm xuống đất, bất ngờ đến nỗi không ai kịp đưa tay ra đỡ. Một dòng máu đỏ gắt từ trong miệng trào ra, giàn giụa trên vành môi mở he hé của em. Anh So-súng-cối nhào tới, bế xốc em lên ôm chặt vào lòng.

Cặp mắt ành mở trừng trừng nhìn như chết lặng, gương mặt xanh lét với cặp môi trẻ thơ he hé giàn giụa máu hồng của thằng em chiến sĩ, mà nửa giờ trước đây, anh còn cõng nó trên lưng. Anh bỗng kêu thét rung chuyển cả gian lán.

- Quỳnh! Quỳnh!

Bác sĩ Thiền tay run run vạch mi mắt em ra. Ông khoát tay ra hiệu cho chị y tá nước mắt đầm đìa đang run rẩy lấy thuốc ở ống tiêm vào xi-ranh:

- Thôi o ạ, muộn mât rồi! Mắt em đã giãn đồng tử…

Lúc đó vây quanh em có đến hàng trăm người. Phần lớn là các chiến sĩ đã quần nhau suốt năm mươi lăm ngày đêm với giặc ở mặt trận Huế. Họ đã được chứng kiến không ít những cái chết của đồng đội trong các đợt xung phong. Nhưng chưa một ai nhìn thấy một cái chết lạ lùng, đột ngột, dữ dội, như cái chết của người chiến sĩ mới mười ba tuổi ấy.

Lễ mai táng Quỳnh-sơn-ca cừ hành vào sáu giờ chiều ngày hôm sau (để đề phòng máy bay giặc). Huyệt đào trên đỉnh đồi thấp tím ngắt hoa sim dại, nhìn thẳng xuống một khúc lượn của dòng sông Ô Lâu. Dưới chân đồi trải dài ra đến mép sông, xạc xào lau sậy.

Không có gỗ ván để đóng áo quan, và cũng không muốn bọc thi thể em trong vải bạt áo súng, các anh ở công bi nh xưởng đã hạ một cây xoan rừng thân to bằng hai người ôm. Các anh cắt một khúc dài chừng hai thước, khoét thủng ở giữa, đo vừa bằng người em. Các chị y tá nấu nước lá vằng, lá bội, lá ngái rừng, tắm rửa cho em. Các chị gội đầu cho em bằng lá sả. Cái bao tải rách quân trang đông xuân của em được gấp nhỏ, kê dưới đầu em làm gối. Bộ đàn chai tự tạo, cái đũa gõ đàn, được xếp dọc hai bên mình em. Các chị xếp cả vở nhạc kịch "Đi tìm thuốc cho mẹ" em đang viết dở dang với nhừng tờ đơn thuốc bỏ đi và những ngọn lá vả rừng, lên ngực em: Các chị cúi hôn vầng trán trong như sáp, bất động của em, nước mắt lã chã.

Một chị rủ rỉ nói với em, với giọng âu yếm dỗ dành như vẫn thường dỗ em gắng ăn hết chén cháo: "Chị để đờn, để giấy bút cho em đó, để về dưới nớ em viết tiếp những bản nhạc…".

Trung đoàn trưởng đến viếng em, đắp lên mình em lá cờ đỏ sao vàng.

Gần như cả chiến khu đến dự lễ mai táng em, đứng đen đặc cả ngọn đồi. Trước khi lấp đất, đội đồng ca nhà Văn hoá đại chúng xếp hàng bên thành huyệt, hát bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến". Hát đến câu thứ hai những người dự lễ cùng bật lên cất tiếng hát theo.

Pun-xắc, anh chiến sĩ hàng binh người Đức, chĩa khẩu ga- răng lên trời - khẩu súng chiếm được trong trận Cầu Nhi - bắn liền một kẹp đạn. Mọi người xúm lại lấp đất, vừa lấp, vừa khóc, vừa hát. Bài hát về dòng sông gan góc, chảy bất tận trong cuộc kháng chiến trường kỳ.

Chú thích:

(1) Con trai của Vua Bảo Đại.

 

Nguồn: truyen8.mobi/t73568-tuoi-tho-du-doi-chuong-12.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận