Mặc dù dân làng Isav nài nỉ cậu ở lại lâu hơn, Taran vẫn từ biệt họ và chậm rãi cưỡi ngựa trở về Merin. Chuyện đánh bại Đội Quân của Dorath không để lại dư vị gì, bởi vì ý nghĩ của cậu vẫn biến chuyển không ngừng nghỉ; những câu hỏi của cậu vẫn không có câu trả lời; và cậu càng chán nản hơn bao giờ hết. Cậu không nói gì nhiều về chiến công của mình ở Isav với Annlaw, và chính Gurgi, nom như sắp sửa nổ tung vì tự hào, mới là người kể lại chuyện gì đã xảy ra với họ.
“Đúng, đúng thế!” Gurgi kêu lên. “Bọn cướp xấu xa đã phải kêu la bỏ chạy! Ôi, chúng đã khiếp sợ cậu chủ nhân từ biết bao. Và sợ cả Gurgi can đảm nữa! Và chú bò khổng lồ hùng hổ vừa giẫm vừa đạp, với cặp sừng sắc nhọn vừa húc vừa đẩy!”
“Cháu phải lấy làm hài lòng mới phải chứ, chàng trai Lang Thang,” Annlaw nói với Taran, từ nãy đến giờ cậu vẫn lặng im. “Cháu đã giúp những người dân lương thiện giữ được tính mạng và nhà cửa của họ.”
“Drudwas bảo với cháu rằng cháu không còn là người lạ nữa, mà là một người bạn. Cháu rất mừng vì điều đó,” Taran đáp lại. “Cháu chỉ ước,” cậu nói thêm, “rằng cháu không phải là người lạ đối với chính mình mà thôi. Cháu có thể giúp ích được gì chứ?” Cậu kêu lên. “Với bản thân mình, với bất kỳ ai khác? Cháu chẳng thấy mình làm được việc gì có ích cả.”
“Người dân làng Isav sẽ bác lại lời cháu cho mà xem,” người thợ gốm trả lời. “Và có thể còn có nhiều người khác luôn vui vẻ đón chào một lưỡi gươm kiên cường và một trái tim can đảm đấy.”
“Một tên đánh thuê ấy à?” Taran cay đắng đáp. “Và đi theo cùng một con đường như Dorath ư?” Cậu lắc đầu. “Khi còn nhỏ cháu luôn mơ ước được đi phiêu lưu, giành về vinh quang và danh dự với những chiến công của mình. Giờ thì cháu nghĩ những thứ ấy chỉ là phù phiếm mà thôi.”
“Nếu cháu nghĩ chúng là phù phiếm thì cháu đã thấy được bản chất thật của chúng rồi đó,” Annlaw đồng tình. “Rất nhiều kẻ đã theo đuổi vinh quang, và đã để mất nhiều hơn những gì họ giành được. Nhưng ta không định nói là cháu nên đi làm một tên đánh thuê...” Ông bỗng ngừng bặt và trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu. “Để thấy được bản chất thật của chúng,” ông lẩm bẩm, nhắc lại những lời ban đầu của mình. “Có lẽ... có lẽ...” Người thợ gốm chăm chú ngó Taran.
“Truyền thuyết ở Vùng đất Tự do có kể về việc một người có thể nhìn thấy bản chất thật của mình ra sao. Chuyện ấy có thật không hay chỉ là chuyện tầm phào thì ta không đoán được,” ông thợ gốm chậm rãi nói tiếp. “Nhưng truyền thuyết kể lại rằng nếu muốn biết được bản chất thật của mình thì chỉ cần nhìn vào Tấm Gương Llunet.”
Annlaw nói khẽ, nhưng đối với Taran những lời của ông chẳng khác nào sét đánh ngang tai.
“Tấm Gương Llunet ư?” Taran kêu lên. Kể từ khi rời khỏi thung lũng của Craddoc, cậu đã bỏ mặc mọi ý nghĩ về Tấm Gương, giấu kín nó và quên bẵng nó đi, và những tháng ngày trôi qua đã che phủ nó tựa như lá khô phủ lên một nấm mồ vậy. “Tấm Gương ư,” cậu nhắc lại, giọng nghẹt đi, “trước kia nó là mục đích cuộc hành trình của cháu. Cháu đã thôi không tìm kiếm nó nữa. Giờ thì cháu lại thấy được nó khi mà cháu không hề tìm kiếm ư?”
“Cuộc hành trình của cháu ấy à?” Annlaw hỏi vẻ bối rối. Ông đã đứng lên và nhìn Taran vẻ quan tâm. “Cháu chưa hề kể cho ta một điều gì về việc này cả, chàng trai Lang Thang ạ.”
“Cháu không có gì đáng tự hào để kể lại cả,” Taran đáp.
Nhưng giờ đây, trong khi Annlaw lặng lẽ lắng nghe, với một vẻ ân cần trên khuôn mặt của ông, dần dần Taran lại có thể kể về Caer Dallben, về Orddu, về những nơi mà cuộc hành trình đã đưa cậu tới, về cái chết của Craddoc và nỗi tuyệt vọng của bản thân cậu. “Nếu là trước kia,” Taran kết luận, “thì cháu sẽ không đòi hỏi gì hơn ngoài việc tìm thấy Tấm Gương. Giờ thì ngay cả nếu có nó trong tay thì cháu cũng sợ không dám nhìn vào nó.”
“Ta hiểu rõ nỗi sợ của cháu,” người thợ gốm khẽ đáp. “Tấm Gương có thể khiến lòng cháu thanh thản - hoặc là càng làm cháu phiền muộn hơn. Điều mạo hiểm của nó là như thế đấy. Quyền lựa chọn thuộc về cháu.”
“Nhưng hãy biết điều này, chàng trai Lang Thang ạ,” Annlaw nói tiếp, trong khi Taran im lặng cắn môi, “nó không phải là một tấm gương như cháu tưởng đâu. Nó nằm gần đây, ở Dãy Núi Llawgadarn, cách chưa đầy hai ngày đường, trong một cái hang ở đầu Hồ Llunet. Tấm Gương Llunet chỉ là một vũng nước mà thôi.”
“Một vũng nước ư?” Taran kêu lên. “Phép màu gì đã cho nó quyền lực ấy? Bởi vì hẳn nó phải có bùa phép.”
“Nó có phép thần,” người thợ gốm trả lời, “đối với những ai tin là như vậy.”
“Thế còn ông thì sao ạ?” Taran hạ thấp giọng hỏi. “Ông đã nhìn vào nó chưa ạ?”
“Điều đó thì ta chưa làm,” Annlaw đáp. “Bởi vì ta biết rõ mình là ai. Annlaw Thợ Gốm. Bất chấp nó đem lại cho ta cái gì, hiểu được điều ấy thôi cũng đã đủ cho cả đời ta rồi.”
“Còn cháu,” Taran lẩm bẩm, “điều gì sẽ đủ cho cả đời cháu đây?” Cậu không nói gì một hồi lâu. Cuối cùng cậu ngẩng đầu lên. “Đúng như vậy. Cháu sợ phải nhìn vào Tấm Gương, sợ biết được điều mà nó sẽ cho cháu biết. Nhưng cháu đã biết rõ cảm giác hổ nhục là như thế nào rồi,” cậu cay đắng nói, “chẳng lẽ cháu còn phải biết cả cảm giác đớn hèn nữa hay sao?
“Sáng mai,” Taran tiếp tục, “sáng mai cháu sẽ đi tìm Tấm Gương Llunet.”
Quyết định của Taran không an ủi được cậu là bao. Khi ánh bình minh đầu tiên ló rạng, trong lúc cậu và Gurgi đang đóng yên cho hai con ngựa, những nỗi hoài nghi của cậu khiến người cậu lạnh ngắt còn hơn cả màn sương buốt giá của tiết thu muộn. Tuy nhiên, bởi vì đã quyết tâm, nên cậu vẫn nhanh chóng lên đường, rời khỏi Merin và đi theo hướng bắc về phía Dãy Núi Llawgadarn, lấy cái chóp cao của Đỉnh Meledin làm mốc chỉ giới, bởi vì chính ở chân núi Meledin, theo như lời Annlaw nói với cậu, thì cậu sẽ tìm được chiếc hang. Hai người bạn lặng lẽ thúc ngựa đều bước, chỉ dừng lại khi trời đã tối đến mức họ không còn thấy được đường để dẫn hai con ngựa đi nữa. Họ cắm trại trên tấm thảm lá thông êm mượt, nhưng một cảm giác lo ngại đã kéo tới xâm chiếm hai người lữ hành và họ không ngủ được mấy.
Sáng hôm sau họ lại thu dọn đồ đạc và cưỡi ngựa đi dọc theo đỉnh một rặng đồi. Chỉ một lát sau Taran đã kêu lên và chỉ xuống dưới. Hồ Llunet nằm trải dài thành một hình bầu dục, lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Mặt nước hồ phẳng lặng, xanh ngăn ngắt, và chính cái Hồ nom cũng như một tấm gương hoàn hảo phản chiếu lại rặng cây mọc bên bờ hồ trong đáy sâu của nó. Cách đó một quãng, Đỉnh Meledin vươn lên, cao vút nhưng có vẻ như đang lơ lửng giữa những đám mây mù vẫn còn bám vào các vách núi.
Tim Taran đập nhanh hơn trong khi hai người bạn tìm đường trèo xuống bờ hồ. Khi đến gần núi Meledin hơn mặt đất bỗng đột ngột dốc ngược xuống và những khoảng đồng cỏ hẹp bỗng chuyển thành những hẻm núi nông. Hai người bạn buộc ngựa gần một con suối đang đổ từ trên vách núi xuống. Taran đã thấy được cái hang và vội vã chạy về phía đó, với Gurgi lóc cóc theo sau.
“Kia rồi!” Taran reo lên. “Kia rồi! Tấm Gương đấy!”
Ở chân núi Meledin, mưa gió đã xói vào vách núi một cái hang rộng chưa đầy vài bước chân. Những dòng nước nhỏ rỉ xuống từ các hòn đá phủ đầy rêu ở hai bên vách hang. Taran lao về phía đó. Tim cậu đập thình thịch; mạch máu ở cổ tay cậu như đang bốc cháy. Thế nhưng khi lại gần hơn, cậu chậm bước lại, và nỗi sợ đè nặng như một sợi xiềng quanh chân cậu. Đến miệng hang, cậu dừng lại một lúc lâu. Gurgi lo ngại liếc nhìn cậu.
“Nó đây rồi,” Taran khẽ nói. Cậu bước về phía trước.
Trong lòng hang, giữa một cái vũng nông ăn vào lớp đá nhẵn ở nền hang, Tấm Gương Llunet nằm như một cái khiên bằng bạc được đánh bóng, tỏa sáng lấp lánh bất chấp bóng tối trong hang. Taran chậm rãi quỳ xuống bên rìa. Nước trong cái vũng sâu chưa tới một ngón tay, từng giọt từng giọt một đang nhỏ từ dòng nước luồn lách chảy trên vách hang xuống. Hàng bao nhiêu năm trôi qua rồi mà nó vẫn không đầy lên được đến miệng. Nhưng mặc dù nông, làn nước vẫn như một viên pha lê sâu vô tận với các mặt cắt liên tục thay đổi và tỏa ra những tia sáng trắng rực rỡ.
Gần như không dám thở, chỉ sợ sẽ làm gợn mặt nước phẳng lặng sáng ngời, Taran cúi xuống gần hơn. Khắp hang lặng ngắt như tờ, và dường như chỉ một mẩu rêu khô rơi xuống cũng đủ để phá vỡ hình bóng phản chiếu trên mặt nước. Tay cậu run lên khi cậu nhìn thấy khuôn mặt của chính mình, bám đầy bụi đường và rám nắng. Cậu hết lòng muốn quay đi, nhưng lại bắt mình ngó kỹ hơn nữa. Cặp mắt đang đánh lừa cậu sao? Cậu quỳ xuống gần hơn chút nữa. Điều cậu nhìn thấy khiến cậu kêu lên một tiếng vì không tin nổi vào mắt mình.
Cùng lúc đó Gurgi hoảng hốt thét lên. Taran nhảy bật dậy và quay ngoắt lại trong khi Gurgi chạy tới co rúm bên cạnh cậu. Đứng trước mặt cậu là Dorath.
Mặt y lởm chởm đầy râu, mái tóc vàng bẩn thỉu của y rủ cả xuống mắt. Chiếc áo da ngựa của y bị chém rách một bên và đôi ủng bám đầy bùn. Trong tay y là một bát thức ăn mà y dùng ngón tay bốc lên cho vào miệng. Y nhe răng cười với Taran.
“Rất vui được gặp lại ngươi, Ông hoàng Chăn Lợn,” Dorath nói, miệng vẫn nhai nhồm nhoàm.
“Ta thì không vui chút nào vì phải gặp lại ngươi, Dorath ạ,” Taran kêu lên và rút gươm ra. “Ngươi có muốn gọi Đội Quân của ngươi đến để trợ giúp hay không? Hãy gọi chúng đi, gọi tất cả những tên đã bỏ chạy ở Làng Isav ấy!” Cậu giơ gươm lên và bước tới trước.
Dorath cất tiếng cười hô hố. “Ngươi định đánh trước khi ta kịp rút gươm ra sao?”
“Nếu vậy thì hãy rút gươm ra đi,” Taran ném trả vào mặt hắn.
“Ta sẽ rút gươm ra, khi nào ta ăn xong,” Dorath nói. Hắn khịt mũi vẻ khinh khỉnh. “Thanh gươm của ngươi xấu xí quá, tên chăn lợn ạ, xấu hơn cả cái mặt của Gloff nữa.” Y nhe răng ra cười một cách xảo quyệt. “Thanh gươm của ta đẹp hơn, mà ta lại chẳng phải mất chút công sức nào để giành được nó. Đội Quân của ta ấy à?” y nói thêm. “Ngươi muốn ta gọi chúng đến ư? Chúng bị điếc. Một nửa trong số chúng đã bị đất dưới mồ bịt chặt lỗ tai rồi. Ta đã thấy ngươi ở Isav, và đoán rằng chính ngươi đã tập hợp đám dân làng ngu ngốc lại. Than ôi, ta không có thời gian để ở lại và chào hỏi ngươi.”
Dorath đưa mu bàn tay lên quệt ngang miệng. “Trong số những kẻ chạy thoát khỏi Isav thì hai tên hèn nhát đã bỏ trốn và ta không hề gặp lại chúng. Hai tên khác bị thương nặng. Hai tên này thì ta đã tự tay đẩy nhanh chặng đường của chúng đến với đàn quạ ăn xác thối, và chúng không còn làm ta vướng chân nữa. Nhưng không sao. Ta sẽ sớm tìm được những kẻ khác để thay thế thôi.
“Trong lúc này thì như thế lại càng tốt,” y nói tiếp. “Ta sẽ không phải chia sẻ kho báu của ngươi với bất kỳ ai cả.”
“Kho báu ấy à?” Taran kêu lên. “Chẳng có kho báu nào hết! Hãy rút gươm ra, Dorath, nếu không thì ta sẽ giết ngươi khi ngươi còn tay không, như ngươi từng làm với ta vậy.”
“Đừng có dối trá nữa, thằng chăn lợn kia,” Dorath gầm gừ. “Ngươi vẫn tưởng ta là đồ ngu ngốc hay sao? Ta đã biết về cuộc hành trình của ngươi, và những đoạn đường quanh co mà ngươi đi không đánh lừa ta được đâu. Cái túi yên của ngươi không đựng thứ gì đáng giá; ta đã tự mình kiểm tra rồi. Vì vậy hẳn ngươi vẫn chưa lấy được kho báu.”
Y bước tới bên Tấm Gương. “Có phải đây là kho báu của ngươi không? Ngươi đã tìm thấy cái gì vậy hả tên chăn lợn? Một vũng bùn à? Nó che giấu điều gì?”
Taran hét lên, nhưng trước khi cậu kịp xông vào Dorath thì tên chiến binh đã dận gót ủng nặng nề của y vào vũng nước với một tiếng chửi thề, khiến cho nước bắn lên tung tóe.
“Nó không có gì cả!” Dorath gầm lên, mặt rúm ró lại vì giận dữ.
Taran há hốc miệng và loạng choạng lùi lại. Dorath tuốt gươm ra.
“Ta đã ăn xong rồi đấy, thằng chăn lợn kia,” Dorath quát lớn.
Y chém mạnh xuống, và lao vào tấn công tới tấp khiến cho Taran lảo đảo chạy ra khỏi hang. Gurgi la lên phẫn nộ và ôm cứng lấy tên chiến binh, y liền giơ bàn tay mạnh mẽ túm lấy nó và ném nó vào vách hang đá. Miệng gầm gừ, Dorath lao theo Taran.
Cậu vội bò dậy và vung gươm lên để đỡ cú đâm của tên chiến binh. Dorath nhổ bọt và lại lao tới, đẩy Taran về phía con dốc. Trong khi tên chiến binh chồm lên cậu, Taran bị mất thăng bằng, loạng choạng ngã về phía sau, và khuỵu một bên gối xuống.
Với một tiếng cười giễu cợt, Dorath vung món vũ khí của mình lên, và Taran thấy lưỡi gươm trước kia đã thuộc về cậu giờ lóe lên sáng chói trong khi Dorath vận hết sức chém nó xuống. Taran cảm thấy cái chết đang bổ nhào xuống đầu mình và vội đưa thanh gươm của mình lên hòng cố gắng một lần cuối để đỡ cú đánh.
Hai thanh gươm đập vào nhau với một tiếng “chát” chói tai. Lưỡi gươm của Taran run lên trong tay cậu và cú va chạm đẩy cậu ngã xuống đất. Thế nhưng lưỡi gươm của cậu vẫn còn nguyên vẹn. Chính thanh gươm của Dorath lại bị gãy vụn.
Miệng chửi thề, Dorath ném cái chuôi gươm vô dụng vào mặt Taran, xoay ngoắt lại và chạy trốn về phía rặng thông dọc bờ hồ. Nghe tiếng chủ mình huýt sáo gọi, con ngựa hồng của Dorath lao từ đám cây ra. Taran nhảy bật dậy để đuổi theo tên cướp đang trốn chạy.
“Cứu, cứu với!” Giọng Gurgi la lên từ trong hang. “Cậu chủ nhân từ ơi! Ôi, cứu Gurgi đang bị thương với!”
Nghe thấy vậy, Taran liền dừng lại mặc cho Dorath nhảy lên yên ngựa và phóng đi. Taran lao vào trong hang. Ở đó, Gurgi đang nằm rên rỉ và cố gắng ngồi dậy. Taran vội quỳ xuống và nhìn thấy trán con vật bị thương khá nặng, nhưng Gurgi hoảng sợ nhiều hơn là bị đau. Cậu dìu nó ra khỏi hang và đặt nó ngồi tựa vào một tảng đá.
Taran không quay lại chỗ Tấm Gương Llunet. Cậu đã thấy rằng nó trống rỗng, nước trong vũng bắn tung tóe khắp nền đá, và chỉ còn lại vết ủng bùn lầy của Dorath. Cậu ngồi xuống bên cạnh Gurgi và gục đầu vào hai bàn tay. Suốt một hồi lâu cậu không cử động hay nói một lời nào.
“Đi nào,” cuối cùng cậu lên tiếng, đỡ Gurgi đứng dậy. “Đi nào. Chúng ta còn một quãng đường dài phải qua đấy.”
Ánh sáng đang tỏa ra từ lều của Annlaw. Đêm đã gần tàn rồi mà Taran thấy người thợ gốm vẫn đang khom mình ngồi bên chiếc bàn quay.
Annlaw đứng dậy khi Taran chậm rãi bước qua ngưỡng cửa. Trong một lát không ai nói gì. Người thợ gốm lo lắng nhìn khuôn mặt của Taran, rồi rốt cuộc ông cũng hỏi, “Cháu đã nhìn vào Tấm Gương chưa, chàng trai Lang Thang?”
Taran gật đầu. “Cháu đã nhìn được một lát. Nhưng giờ thì không ai còn nhìn vào nó được nữa. Nó đã bị phá hủy rồi.” Cậu kể về Dorath và chuyện xảy ra ở Hồ Llunet. Khi Taran kể xong, ông thợ gốm buồn bã lắc đầu.
“Nếu vậy thì có nghĩa là cháu không thấy được gì cả ư?” Annlaw nói.
“Cháu đã biết được điều cháu muốn biết,” Taran đáp lại.
“Ta sẽ không gặng hỏi cháu nữa, chàng trai Lang Thang ạ,” Annlaw nói. “Nhưng nếu cháu thực lòng muốn cho ta biết thì ta xin sẵn sàng lắng nghe.”
“Cháu đã nhìn thấy chính mình,” Taran trả lời. “Trong lúc ngắm nhìn, cháu nhìn thấy sức mạnh - cũng như sự yếu đuối. Lòng kiêu hãnh và tính tự phụ, lòng can đảm và sự sợ hãi. Về sự khôn ngoan thì chỉ có chút ít. Còn ngốc nghếch thì lại rất nhiều. Cháu cũng thấy rất nhiều thiện ý; nhưng còn nhiều ý định bị bỏ dở chưa được hoàn thành. Rốt cuộc thì, than ôi, cháu thấy mình cũng giống như bất kỳ người nào khác mà thôi.
“Nhưng cháu cũng đã thấy được điều này,” cậu nói tiếp. “Mặc dù con người có thể giống nhau thật đấy, nhưng mỗi người vẫn khác nhau như những bông tuyết vậy, không ai giống hệt người khác cũng như không có hai bông tuyết nào giống nhau. Ông nói với cháu rằng ông không cần phải đi tìm Tấm Gương, bởi vì ông đã biết mình là Annlaw Thợ Gốm. Giờ thì cháu cũng đã biết cháu là ai: là bản thân mình và không phải là ai khác. Cháu là Taran.”
Annlaw không trả lời ngay. Rồi sau đó ông nói, “Nếu cháu đã biết được điều này thì cháu đã hiểu được bí mật sâu xa nhất mà Tấm Gương có thể cho cháu biết rồi đấy. Có lẽ nó có phép thần thật.”
“Chẳng có phép thần nào hết,” Taran trả lời. Cậu mỉm cười. “Nó là một vũng nước, vũng nước đẹp nhất mà cháu đã từng thấy. Nhưng chỉ là một vũng nước thôi, không hơn không kém.
“Mới đầu,” cậu nói tiếp, “cháu ngỡ là Orddu đã phái một tên xuẩn ngốc đi tìm kiếm một điều xuẩn ngốc. Nhưng không phải vậy. Bà ta muốn cháu thấy được chính điều mà Tấm Gương cho cháu thấy. Bất kỳ dòng suối, bất kỳ con sông nào cũng có thể cho cháu thấy cùng một hình bóng phản chiếu như vậy, nhưng khi ấy thì cháu sẽ không hiểu được điều đó như cháu hiểu được lúc này.
“Còn về nguồn gốc của cháu thì,” cậu nói thêm, “giờ nó chẳng còn quan trọng gì nữa. Tình cảm gia đình chân chính chẳng liên quan gì đến dòng máu cả, cho dù nó có mạnh mẽ đến mức nào đi chăng nữa. Cháu nghĩ tất cả chúng ta đều là họ hàng, là anh chị em, tất cả đều là con cái, là cha mẹ. Trước kia cháu muốn đi tìm dòng dõi của mình, giờ thì cháu không cần tìm nó nữa. Những người dân ở Vùng đất Tự do đã dạy cho cháu biết rằng nhân cách của con người trưởng thành thì không thể tự nhiên có được mà phải tự mình giành lấy. Ngay cả Vua Smoit ở Vương Quốc Candiffor cũng đã nói với cháu như vậy, nhưng cháu đã không chịu nghe ông ấy.
“Llonio nói rằng cuộc đời là một tấm lưới may mắn; với ông Thợ Rèn Hevydd cuộc đời là một lò rèn; và với bà Thợ Dệt Dwyvach thì nó là một khung cửi. Họ đều nói đúng, bởi vì cuộc đời là tất cả những thứ ấy. Nhưng ông,” Taran nói, nhìn thẳng vào mắt người thợ gốm, “ông đã cho cháu thấy cuộc đời còn là một điều khác nữa. Nó còn là đất sét đang chờ được nặn thành hình, như tảng đất sét thô trên chiếc bàn quay của người thợ gốm vậy.”
Annlaw gật đầu. “Thế còn cháu, chàng trai Lang Thang, cháu định sẽ nặn khối đất sét của mình ra sao?”
“Cháu không thể ở lại Merin được,” Taran trả lời, “mặc dù cháu rất yêu quý nơi này. Caer Dallben đang chờ đợi cháu, nó vẫn luôn chờ đợi cháu. Cuộc sống của cháu là ở đó, và cháu rất vui sướng được quay trở về, bởi vì cháu đã đi xa lâu quá rồi.”
Sau đó họ ngồi im lặng: Taran, Gurgi, và Annlaw Thợ Gốm. Khi ánh bình minh ló rạng, Taran siết chặt bàn tay người thợ gốm và từ biệt ông.
“Chúc cháu thượng lộ bình an, chàng trai Lang Thang,” Annlaw gọi với theo, trong khi Taran trèo lên lưng Melynlas. “Đừng quên chúng ta, bởi vì chúng ta cũng sẽ không quên cháu đâu.”
“Cháu vẫn có thanh gươm cháu tự rèn lấy,” Taran tự hào đáp lớn, “tấm áo choàng cháu tự dệt lấy, và chiếc bát cháu tự nặn. Và tình bạn của những người ở vùng đất tươi đẹp nhất trên toàn Prydain này. Không ai có thể tìm được kho báu nào quý giá hơn.”
Melynlas cào cào đất vẻ sốt ruột, và Taran bèn buông cương cho con tuấn mã phóng đi.
Vậy là Taran rời khỏi Merin cùng với Gurgi đi bên mình.
Và trong lúc phóng đi, dường như cậu nghe thấy những giọng nói gọi với theo, “Hãy nhớ đến chúng tôi! Hãy nhớ đến chúng tôi!” Cậu quay lại, nhưng Merin đã nằm cách xa phía sau rồi, không còn nhìn thấy nữa. Từ rặng đồi một cơn gió nổi lên, thổi lớp lá khô xào xạc về phía quê nhà ở Caer Dallben. Taran liền đi theo ngọn gió.
**** HẾT TẬP 4 ****
Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!