Người đã đi khỏi Alia,
Lòng của thiên đường!
Linh thiêng, linh thiêng, linh thiêng!
Những liên đoàn cát lửa
Đối diện Hoàng đế của chúng ta.
Người vẫn thấy
Dù không có mắt!
Quái vật đang tiến đến Người!
Linh thiêng, linh thiêng, linh thiêng!
Phương trình:
Người giải vì
Cái chết tử đạo!
- Bài hát về Mặt Trăng Rơi của Muad’dib
Sau bảy ngày phát sốt với những hoạt động liên quan tới phóng xạ, Vương thành yên ắng một cách bất thường. Trong buổi sáng nay, người người ở khắp xung quanh, nhưng họ thì thầm, đầu chụm vào nhau, và họ đi nhẹ chân. Một vài người gấp gáp với dáng đi rón rén lạ lùng. Người lính đặc nhiệm đi vào từ sân trước làm người ta nhìn dò hỏi và nhíu mày trước tiếng ồn mà những người mới tới tạo ra khi họ bước nặng nề và lịch kịch dựng vũ khí. Dù vậy, những người mới tới nhận ra tâm trạng bên trong này và cũng bắt đầu đi với dáng điệu rón rén đó.
Chủ đề về bom thạch thiêu vẫn trôi nổi khắp nơi. “Anh ấy nói ngọn lửa có màu xanh lá-xanh biển và bốc mùi địa ngục.”
“Elpa là thằng ngốc! Hắn bảo hắn thà tự tử còn hơn lắp mắt của Tleilaxu.”
“Tôi không thích nói chuyện về mắt.”
“Muad’dib bước qua tôi và gọi tên tôi!”
“Sao Người thấy được mà không có mắt?”
“Mọi người đang ra đi, anh nghe tin chưa? Người ta sợ hãi lắm. Các vị Naib bảo họ sẽ tới khu động Sietch Makab để họp Đại Hội Đồng.”
“Họ đã làm gì với Người Ca Tụng?”
“Tôi thấy họ đưa ông ấy vào phòng nơi các vị Naib họp. Tưởng tượng thử Korba là tù nhân mà xem!”
Chani dậy sớm, bị sự tĩnh lặng trong Vương thành đánh thức. Khi dậy, nàng thấy Paul ngồi cạnh mình, hốc mắt không tròng hướng tới nơi vô hình nào đó ngoài bức tường xa trong khuê phòng của họ. Điều mà bom thạch thiêu đã gây ra bằng ái lực đặc biệt đối với mô mắt, phần da thịt bị hủy hoại đã bị cắt bỏ. Thuốc tiêm và mỡ bôi cứu được phần da khỏe hơn quanh hốc mắt, nhưng nàng cảm thấy bức xạ đã ăn sâu hơn.
Cơn đói cồn cào siết lấy nàng khi nàng ngồi dậy. Nàng ăn đồ ăn đặt cạnh giường - bánh mì hương dược, phó mát.
Paul chỉ đồ ăn. “Em yêu, em không tránh được điều này đâu. Tin ta đi.”
Chani ngừng cơn run khi chàng hướng tròng mắt rỗng về phía nàng. Nàng bỏ cuộc không bắt chàng phải giải thích. Chàng nói thật lạ lùng: “Ta được rửa tội trong cát và nó khiến ta đánh mất cái tài có được đức tin. Ai còn buôn bán đức tin nữa? Ai sẽ mua? Ai sẽ bán?”
Những lời chàng nói có nghĩa gì?
Chàng từ chối dù chỉ là xét đến việc lắp mắt của người Tleilaxu, dù chàng hào phóng mua chúng cho những người cùng bị thương như mình.
Đã thỏa mãn cơn đói, Chani trượt khỏi giường, liếc lại nhìn Paul, thấy chàng mệt mỏi. Những đường dữ dằn quanh miệng. Mái tóc đen dựng lên, rối tung sau giấc ngủ không mang lại sự chữa lành. Chàng mới có vẻ ủ dột và xa cách làm sao. Sự luân phiên giữa ngủ và tỉnh giấc không thay đổi được điều đó. Nàng buộc mình quay đi, thì thầm: “Tình yêu của em… tình yêu của em…”
Chàng rướn lại gần, kéo nàng về giường, hôn lên má nàng. “Chúng ta sẽ sớm quay lại sa mạc của chúng ta,” chàng thì thầm. “Chỉ còn vài điều nữa phải làm ở đây thôi.”
Nàng run rẩy trước sự dứt khoát trong giọng chàng.
Chàng siết chặt tay quanh nàng, thì thầm: “Đừng sợ ta, Sihaya của ta. Hãy quên điều huyền bí và chấp nhận tình yêu. Tình yêu không có điều huyền bí. Nó đến từ sự sống. Nàng không cảm thấy sao?”
“Vâng.”
Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực chàng, đếm nhịp đập trái tim. Tình yêu trong chàng gọi linh hồn Fremen của nàng - xối xả, dạt dào, hoang dại. Một sức mạnh lôi cuốn ôm lấy nàng.
“Ta sẽ hứa với nàng một điều, nàng yêu,” chàng nói. “Con chúng ta sẽ trị vì Vương quốc mà Vương quốc của ta không so sánh nổi. Thành tựu về cuộc sống, nghệ thuật và tinh hoa của nó...”
“Lúc này chúng ta đang ở đây!” nàng phản đối, kìm lại tiếng nấc khan. “Và… em cảm thấy chúng ta có quá ít… thời gian.”
“Chúng ta có vĩnh hằng, nàng yêu.”
“Chàng có thể có vĩnh hằng. Em chỉ có phút giây này.”
“Nhưng đây là vĩnh cửu,” chàng vuốt trán nàng.
Nàng áp người vào chàng, môi đặt trên cổ chàng. Áp lực khuấy động sinh mạng trong lòng nàng. Nàng thấy nó xao động.
Paul cũng cảm thấy nó. Chàng đặt tay lên bụng nàng, nói: “A, người trị vì bé nhỏ của vũ trụ này, hãy đợi đến lúc của con. Khoảng khắc này là của cha.”
Rồi nàng tự hỏi tại sao chàng luôn nói về sinh mạng trong nàng như thể nó là duy nhất. Các bác sĩ chưa nói với chàng sao? Nàng tìm kiếm trong trí nhớ, tự thấy lạ lùng rằng chủ đề này chưa bao giờ được nêu lên giữa họ. Chắc chắn chàng phải biết nàng mang trong lòng một cặp song sinh. Nàng do dự muốn hỏi. Chàng phải biết. Chàng biết mọi việc. Chàng biết mọi việc về bản thân nàng. Tay chàng, miệng chàng - mọi phần của chàng đều biết rõ nàng.
Lúc này nàng nói: “Phải, chàng yêu. Đây là vĩnh cửu… và đây là thật.” Và nàng nhắm chặt mắt lại để hình ảnh tròng mắt tối sẫm của chàng không đẩy linh hồn nàng từ thiên đường xuống địa ngục. Dù phép thuật rihani mà chàng dùng để mã hóa cuộc đời họ có như thế nào, song da thịt chàng vẫn là thật, không thể phủ nhận sự vuốt ve của chàng.
Khi họ dậy mặc quần áo, nàng nói: “Giá người ta biết được tình yêu của chàng…”
Nhưng tâm trạng chàng đã thay đổi. “Nàng không thể xây dựng chính trị trên tình yêu,” chàng nói. “Dân chúng không quan tâm tới tình yêu; nó quá lộn xộn. Họ ưa sự chuyên quyền hơn. Tự do quá đẻ ra hỗn loạn. Chúng ta không thể để như thế, phải không nào? Và làm sao mà nàng biến sự chuyên quyền thành đáng yêu được?”
“Chàng không phải kẻ chuyên quyền!” nàng phản đối trong khi buộc khăn. “Pháp luật của chàng rất công bằng.”
“A, pháp luật,” chàng nói. Chàng bước tới cửa sổ, kéo rèm như thể chàng nhìn được ra ngoài. “Pháp luật là gì? Kiểm soát? Pháp luật lọc hỗn loạn rồi thì cái gì sẽ lọt qua? Sự thanh bình? Pháp luật - lý tưởng cao xa nhất và bản chất tầm thường nhất của chúng ta. Đừng nhìn quá sát vào pháp luật. Làm thế thì nàng sẽ thấy sự diễn dịch duy lý, ngụy biện hợp pháp, tiền lệ thuận lợi. Nàng sẽ tìm thấy sự thanh bình, đó chỉ là từ khác để nói về cái chết.”
Môi Chani mím chặt lại. Nàng không thể phủ nhận sự thông thái và khôn ngoan của chàng, nhưng tâm trạng này khiến nàng sợ hãi. Chàng chống lại chính mình và nàng cảm nhận được những xung đột nội tâm. Cứ như thể chàng đã nhặt lấy câu châm ngôn Fremen: “Không bao giờ tha thứ - không bao giờ quên,” và tự dùng nó quất lên mình.
Nàng bước tới cạnh chàng, nhìn qua chàng vào một góc. Hơi ấm ban ngày dần tăng đã bắt đầu kéo gió Bắc ra khỏi những vùng được bảo vệ này. Ngọn gió tô điểm bầu trời phản trắc đầy đám lông chim nâu nhạt và dải pha lê với đường nét lạ lùng màu vàng và đỏ tuôn tràn. Ngọn gió lạnh và cao vời vợi, đập vào Tường Chắn với hàng suối bụi.
Paul cảm thấy hơi ấm của Chani bên cạnh mình. Trong giây lát chàng hạ tấm màn lãng quên lên thị kiến. Chàng có thể chỉ đứng đây với đôi mắt nhắm. Dù vậy Thời gian không chịu đứng yên vì chàng. Chàng hít vào bóng tối - không sao trời, ráo hoảnh. Nỗi ưu phiền làm tan vật chất cho tới khi những gì còn lại là nỗi kinh ngạc thấy các âm thanh làm ngưng tụ vũ trụ của chàng ra sao. Mọi thứ quanh chàng đều dựa vào thính giác đơn độc của chàng, chỉ lùi lại khi chàng chạm vào sự vật: tấm màn, bàn tay Chani… Chàng thấy mình lắng nghe hơi thở của Chani.
Đâu là sự bấp bênh của những thứ chỉ có thể xảy ra song không chắc chắn xảy ra? chàng tự hỏi. Trí óc chàng mang gánh nặng ghê gớm của những ký ức bị cắt xén. Trong mỗi khoảnh khắc thực tại có vô khối dự đoán, những điều mang cái số không bao giờ được trở thành. Cái tôi vô hình trong chàng nhớ lại những quá khứ sai lạc đó, gánh nặng của chúng đôi khi đe dọa nhấn chìm hiện tại.
Chani dựa vào cánh tay chàng.
Chàng cảm thấy cơ thể mình qua cái chạm tay của nàng: da thịt đã chết cuốn theo những con triều của thời gian. Ở chàng sặc mùi những ký ức đã thoáng nhìn thấy vĩnh cửu. Nhìn thấy vĩnh cửu là bị phơi bày trước những bốc đồng của vĩnh cửu, bị áp chế bởi các chiều vô tận. Tính bất diệt sai lầm của sự tiên tri đòi hỏi sự trừng phạt: Hiện tại và Tương lai đồng hóa vào nhau.
Lại một lần nữa, thị kiến dâng lên từ cái lỗ đen, đeo bám lấy chàng. Nó là mắt chàng. Nó khiến cơ bắp chàng chuyển động. Nó dẫn lối chàng vào khoảng khắc tiếp theo, giờ tiếp theo, ngày tiếp theo… cho tới khi chàng thấy mình luôn ở đó!
“Đã đến lúc chúng ta đi rồi,” Chani nói. “Hội đồng…”
“Alia sẽ ở đó thế chỗ ta.”
“Con bé có biết phải làm gì không?”
“Nó biết.”
Ngày của Alia bắt đầu với đội lính đầy kín sân duyệt binh bên dưới nơi ở của nàng. Nàng nhìn xuống cảnh náo loạn như phát cuồng ấy, nghe những tiếng lao xao ồn ào đáng sợ. Nàng chỉ hiểu được cảnh đó khi nhận ra người tù họ dẫn theo: Korba, Người Ca tụng.
Nàng chải chuốt như vẫn làm mỗi sáng, thỉnh thoảng lại bước ra cửa sổ, theo dõi bước tiến triển nôn nóng của sự việc dưới đó. Mắt nàng cứ hướng tới Korba. Nàng cố nhớ ông ta như người chỉ huy rậm râu và lỗ mãng của đợt quân thứ ba trong cuộc chiến tại Arrakeen. Không thể nhớ nổi. Korba đã trở thành một gã công tử bột da trắng mặt trơn, lúc này mặc áo thụng lụa Parato với kiểu may tinh tế. Nó để hở tới thắt lưng, để lộ cổ áo xếp nếp phẳng phiu đẹp đẽ và áo trong thêu đá quý màu xanh. Dây đai tía đeo quanh thắt lưng. Những ống tay áo lộ ra qua lỗ tay của bộ áo thụng được may thêm vào những gờ dài mượt như nhung màu đen và xanh sẫm.
Vài vị Naib ra đây để quan sát sự đối đãi được ban cho một đồng bào Fremen. Họ phản đối ầm ĩ, khiến Korba càng cam đoan mình vô tội. Alia nhìn lướt qua mặt những người Fremen, cố gợi lại trong trí nhớ con người họ ngày xưa. Hiện tại làm mờ quá khứ. Tất cả bọn họ đều đã trở thành những kẻ theo đuổi khoái lạc, khuôn mẫu của lạc thú mà hầu hết người đời thậm chí không tưởng tượng ra nổi.
Nàng thấy những cái liếc mắt lo lắng của họ thường đảo qua khung cửa vào gian phòng nơi sắp diễn ra cuộc họp. Họ đang nghĩ tới thị lực mù của Muad’dib, biểu hiện mới của quyền năng bí hiểm. Theo luật của họ, người mù phải bị bỏ lại trên sa mạc, dâng nước của mình cho Shai-hulud. Nhưng Muad’dib không mắt lại thấy họ. Họ cũng không thích những tòa nhà này, cảm thấy mình yếu ớt ở một nơi xây dựng cao trên mặt đất. Cho họ một cái hang thích đáng khoét từ đá ra là họ sẽ bớt căng thẳng - chứ không phải ở đây, không phải với vị Muad’dib mới đang chờ bên trong.
Khi quay người bước xuống dưới để đến dự cuộc họp, nàng bắt gặp ở cạnh cửa lá thư lẽ ra nàng đã để trên bàn: thông điệp mới nhất từ mẫu thân họ. Dù Caladan luôn được sùng kính đặc biệt vì đó là nơi Paul đã sinh ra, Lệnh bà Jessica nhấn mạnh rằng bà từ chối biến hành tinh của mình thành bến đỗ của hajj.
“Không ai nghi ngờ rằng con trai mẹ đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử,” bà viết, “nhưng mẹ không thấy đó là lời bào chữa cho việc quy phục sự xâm lấn của bọn tiện dân.”
Alia chạm vào lá thư, có cảm giác tiếp xúc lẫn nhau lạ lùng. Lá thư này đã từng ở trong tay mẹ nàng. Lá thư này - thật là một phương thức cổ xưa - nhưng riêng tư theo cách không thể bắt được bằng thu thanh. Được viết bằng Ngôn ngữ Thời Chiến của nhà Atreides, nó thể hiện một dạng liên lạc bí mật gần như không thể phá được.
Nghĩ tới mẹ khiến Alia khổ sở với phút hướng nội mơ hồ như thường lệ. Sự biến chuyển nhờ hương dược đã trộn lẫn tinh thần mẹ và con gái, buộc nàng đôi lúc nghĩ về Paul như người con trai mình đã sinh thành. Cái phức hợp đồng nhất thể hàm chứa trọn vẹn có thể khiến nàng nhìn chính cha mình như người tình. Các bóng ma nhảy nhót hân hoan trong tâm trí nàng, những con người của khả năng.
Alia đọc lại lá thư trong khi bước xuống đoạn dốc hướng về phòng khách lớn nơi những nữ chiến binh cận vệ đang chờ nàng.
“Con đã tạo ra một nghịch lý chết người,” Jessica viết. “Chính quyền không thể cùng lúc vừa tự khẳng định mình vừa là tôn giáo. Trải nghiệm tôn giáo cần tính tự phát mà luật pháp chắc chắn sẽ kiềm chế. Và con không thể cai trị mà không có luật pháp. Cuối cùng luật pháp của con sẽ phải thế chỗ cho đạo đức, thế chỗ cho lương tâm, thế chỗ cả cho thứ tôn giáo mà con nghĩ con dùng để cai trị. Nghi lễ thiêng liêng phải xuất phát từ lòng tôn kính và nỗi khát khao mộ đạo vốn dĩ sau nhiều nhọc nhằn sẽ sinh ra lượng đạo lý đáng kể. Mặt khác, chính quyền là cơ quan văn hóa đặc biệt hấp dẫn với những hồ nghi, chất vấn và bất đồng. Mẹ thấy cái ngày mà nghi lễ chiếm chỗ đức tin và chủ nghĩa tượng trưng thay thế cho đạo đức đang đến.”
Mùi cà phê hương dược chào đón Alia khi nàng bước vào phòng khách lớn. Bốn nữ chiến binh mặc áo choàng cận vệ xanh đứng nghiêm khi nàng bước vào. Họ đi theo nàng, sải bước vững chắc trong sự hiên ngang của tuổi trẻ, mắt cảnh giác đề phòng mọi rắc rối. Họ có gương mặt cuồng tín không mang dấu vết kính sợ. Từ họ toát ra phẩm chất bạo lực đặc biệt của người Fremen: họ có thể giết người thản nhiên mà không hề ân hận.
Về điều này, ta hoàn toàn khác, Alia nghĩ. Dù không thế thì bùn cũng đã lấm đủ nhiều trên cái tên Atreides rồi.
Lời nói đến trước nàng. Một tiểu đồng phóng đi, khi nàng vào sảnh dưới, để gọi toàn đội lính đặc nhiệm. Sảnh đường u ám và không có cửa sổ, chỉ được soi sáng bằng vài quả đèn cầu vặn nhỏ. Đột nhiên cửa vào sân duyệt binh mở rộng phía cuối, để lọt vào tia sáng ban ngày chói lòa. Bên ngoài, những người lính với Korba ở giữa chập chờn xuất hiện trong tầm mắt với ánh sáng đằng sau lưng họ.
“Stilgar đâu?” Alia gặng hỏi.
“Ngài đã ở trong rồi,” một nữ chiến binh đáp.
Alia dẫn đầu vào trong phòng. Đây là một trong những nơi hội họp khoe mẽ nhất của Vương thành. Ban công cao với hàng ghế êm ở một bên. Dọc theo ban công, màn xếp màu cam được kéo lên khỏi những ô cửa cao. Ánh nắng chói chang tràn vào từ không gian mở với vườn và vòi phun nước. Phía cuối phòng bên tay phải là cái bệ với chiếc ghế lớn đơn độc.
Bước tới chiếc ghế, Alia liếc về sau, lên trên và thấy khu ghế đầy các vị Naib.
Lính ngự lâm tập hợp trong khoảng trống mở bên khu ghế, Stilgar đi cùng họ, một câu khe khẽ chỗ này, một mệnh lệnh ở chỗ kia. Ông không tỏ dấu hiệu đã thấy Alia tới.
Korba được dẫn vào, ngồi ở cái bàn thấp bên cạnh có gối nệm trên sàn phòng dưới bệ. Dù ăn mặc lộng lẫy, Người Ca tụng lúc này mang vẻ người già cáu kỉnh và ngái ngủ cuộn trong áo thụng trước hơi lạnh bên ngoài. Hai lính cận vệ đứng sau ông ta.
Stilgar tiến đến bệ khi Alia ngồi xuống.
“Muad’dib đâu?” ông hỏi.
“Anh trai ta ủy quyền cho ta chủ tọa với tư cách là Mẹ Chí tôn,” Alia đáp.
Nghe thấy vậy, những vị Naib trên hàng ghế bắt đầu lên giọng phải đối.
“Yên lặng!” Alia ra lệnh. Trong tĩnh lặng đột ngột, nàng nói: “Không phải Luật Fremen nói rằng Mẹ Chí tôn chủ tọa trước vấn đề liên quan tới chuyện sinh tử hay sao?”
Khi trọng lượng câu nói của nàng đã thấm, sự im lặng bao trùm lên các vị Naib, nhưng Alia thấy ánh mắt giận dữ trên các hàng khuôn mặt. Nàng gọi tên họ trong đầu mình để thảo luận tại Hội đồng - Hobars, Rajifiri, Tasmin, Saajid, Umbu, Legg… Những cái tên mang theo chút gì của Xứ Cát… Umbu Sietch, Tasmin Sink, Hobars Gap…
Nàng tập trung vào Korba.
Thấy sự chú ý của nàng, Korba nâng cằm lên, nói: “Thần cam đoan mình vô tội.”
“Stilgar, hãy đọc cáo buộc đi,” Alia nói.
Stilgar lấy ra một cuộn giấy hương dược nâu, bước lên phía trước. Ông bắt đầu đọc, giọng mạnh mẽ trang nghiêm như thể hòa theo những tiết tấu ẩn kín. Những lời ông đọc sắc sảo, rõ ràng, đầy trung thực:
“... rằng ông đã hiệp lực với những kẻ phản bội để thực hiện âm mưu hủy diệt Chúa tể và Hoàng đế của chúng ta; rằng ông đã lén lút gặp một cách đê hèn với kẻ thù nhiều loại của vương quốc, rằng ông…”
Korba liên tục lắc đầu với vẻ giận dữ đau đớn.
Alia ủ ê lắng nghe, cằm đặt trên nắm tay trái, đầu nghiêng về hướng đó, tay còn lại đặt dọc theo tay vịn ghế. Từng mẩu thủ tục nghi thức bắt đầu rơi khỏi nhận thức, được lọc qua cảm giác lo lắng của chính nàng.
“... truyền thống thiêng liêng... ủng hộ quân đội và người Fremen ở mọi nơi... theo Luật, bạo lực đáp ứng bạo lực... Ngôi Hoàng đế oai nghiêm... tước bỏ mọi quyền...”
Chuyện vô nghĩa, nàng nghĩ. Vô nghĩa! Tất cả - vô nghĩa... vô nghĩa... vô nghĩa...
Stilgar kết thúc: “Do đó vấn đề này được đem ra xét xử.”
Trong sự im lặng ngay sau đó, Korba lắc người về phía trước, tay nắm chặt đầu gối, cổ nổi gân vươn ra như chuẩn bị nhảy. Lưỡi ông ta liếm giữa răng khi nói.
“Thần không phản bội lời thề Fremen, dù bằng lời nói hay hành động! Thần yêu cầu được đối mặt với người buộc tội thần!”
Một phản đối khá là đơn giản, Alia nghĩ.
Và nàng thấy nó đã ảnh hưởng đáng kể tới các vị Naib. Họ biết Korba. Ông ta là một người trong họ. Để trở thành một vị Naib, ông ta đã chứng tỏ lòng can đảm và cẩn trọng của người Fremen. Korba không xuất chúng nhưng có thể tin cậy. Không phải người chỉ huy một cuộc Thánh chiến, có lẽ vậy, nhưng là lựa chọn tốt để cử làm sĩ quan hậu cần. Không phải quân viễn chinh, nhưng là người nuôi dưỡng những đức hạnh xa xưa của người Fremen: Bộ tộc cao hơn tất thảy.
Những lời cay đắng của Otheym mà Paul thuật lại lướt qua đầu Alia. Nàng nhìn những hàng ghế. Bất cứ ai trong những người này cũng có thể thấy mình ở hoàn cảnh của Korba, vài người vì lý do xác đáng. Nhưng một vị Naib vô tội cũng nguy hiểm như kẻ có tội ở đây.
Korba cũng cảm thấy vậy. “Ai đã buộc tội thần?” ông ta gặng hỏi. “Thần có quyền của dân Fremen được đối mặt với người buộc tội thần.”
“Có lẽ ông tự buộc tội mình,” Alia nói.
Trước khi ông ta kịp che giấu, sự kinh hãi bí hiểm thoáng vụt qua mặt Korba. Nó có ở đó cho bất cứ ai muốn đọc: Với quyền năng của mình, Alia chỉ cần đích thân buộc tội ông ta, nói rằng nàng có bằng chứng từ miền bóng tối, miền alam al-mythal.
“Kẻ thù của chúng ta có đồng minh Fremen,” Alia nhấn mạnh. “Bẫy nước đã bị phá hủy, các dòng qanat nổ tung, cây trồng nhiễm độc và các lưu vực dự trữ bị cướp bóc…”
“Và giờ - chúng đã ăn trộm một con trùng từ sa mạc, mang nó đến thế giới khác!”
Tất cả đều biết giọng người mới tới - Muad’dib. Paul bước vào từ cửa Đại sảnh, chen qua những hàng lính và bước tới cạnh bên Alia. Chani tháp tùng chàng, đứng lại ở bên lề.
“Bệ hạ,” Stilgar nói, không chịu nhìn thẳng mặt Paul.
Paul hướng tròng mắt rỗng của mình vào hàng ghế, rồi xuống Korba. “Sao, Korba - không lời ca tụng nào ư?”
Những tiếng thì thầm vang lên trên hàng ghế. Chúng to lên, những từ và câu đơn độc nghe thấy rõ được: “… luật cho người mù… cách của Fremen… vào sa mạc… ai dám phá vỡ…”
“Ai nói ta mù?” Paul gặng. Chàng đối diện hàng ghế. “Ngài, Rajifiri? Ta thấy ngài hôm nay mặc đồ vàng, và cái áo xanh bên dưới vẫn vướng bụi từ trong phố. Ngài lúc nào cũng xộc xệch như vậy.”
Rajifiri làm cử chỉ xua xua, ba ngón tay chống lại quỷ dữ.
“Tự chỉ những ngón tay đó vào mình đi!” Paul quát. “Chúng ta biết ác quỷ ở đâu!” Chàng quay lại Korba. “Tội lỗi hiện trên mặt ông, Korba.”
“Không phải tội của thần! Thần có thể có kết giao với những kẻ có tội, nhưng thần không…” Ông ta sững lại, sợ hãi nhìn lên những hàng ghế.
Nhận ám hiệu từ Paul, Alia đứng lên, bước xuống sàn phòng, tiến tới cạnh bàn của Korba. Từ khoảng cách không đầy một mét, nàng trừng mắt nhìn xuống ông ta, im lặng và đe dọa.
Korba co rúm người trước sức nặng của ánh mắt. Ông ta cựa quậy không yên, liếc lo lắng về những hàng ghế.
“Ông tìm mắt ai trên đó?” Paul hỏi.
“Người không thấy gì hết!” Korba buột miệng.
Paul dìm xuống sự thương xót thoáng qua dành cho Korba. Ông ta mắc kẹt trong cái bẫy của thị kiến cũng chặt như bất cứ ai đang có mặt. Ông ta chỉ đóng một vai, không hơn.
“Ta không cần mắt để thấy ông,” Paul nói. Rồi chàng bắt đầu mô tả Korba, mọi cử động, mọi sự co giật, mọi cái nhìn hốt hoảng và van vỉ về phía những hàng ghế.
Sự tuyệt vọng dâng lên trong Korba.
Nhìn ông ta, Alia thấy ông ta có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Ai đó trên những hàng ghế hẳn phải nhận ra ông ta đang suy sụp, nàng nghĩ. Ai? Nàng quan sát gương mặt các vị Naib, để ý dấu hiệu bội phản nhỏ trên các khuôn mặt giấu giếm… tức giận, sợ hãi, hoang mang… tội lỗi.
Paul im lặng.
Korba ráng sức khoác lên vẻ vênh vang thảm hại để nài nỉ: “Ai đã buộc tội thần?”
“Otheym buộc tội ông,” Alia nói.
“Nhưng Otheym đã chết!” Korba phản đối.
“Làm sao ông biết?” Paul hỏi. “Qua hệ thống gián điệp của mình? Ồ, phải! Chúng ta biết về các điệp viên và người đưa tin mà ông có. Chúng ta biết ai đã mang bom thạch thiêu từ hành tinh Tarahell tới đây.”
“Đó là để phòng thủ cho Qizarate!” Korba buột miệng.
“Nó rơi vào tay những kẻ phản trắc bằng cách ấy phải không?” Paul hỏi.
“Nó bị đánh cắp và chúng thần…,” Korba im lặng, nuốt nước bọt. Mắt đảo sang trái, rồi phải. “Ai cũng biết thần l 31cd tiếng nói của lòng yêu thương Muad’dib.” Ông ta nhìn lên những hàng ghế. “Người đã chết làm sao buộc tội một người Fremen được?”
“Tiếng nói của Otheym chưa chết,” Alia nói. Nàng ngừng lời khi Paul chạm lên tay mình.
“Otheym gửi chúng ta tiếng nói của ông,” Paul nói. “Nó nêu những cái tên, những hành động bội phản, địa điểm và thời gian gặp gỡ. Ông thấy thiếu một số gương mặt trong Hội đồng Naib chứ Korba? Merkur và Fash đâu rồi? Keke Khập Khiễng không đến cùng chúng ta hôm nay. Và Takim, ông ta đâu?”
Korba lắc đầu sang hai bên.
“Họ đã bỏ chạy khỏi Arrakis với con sâu họ đánh cắp được,” Paul nói. “Thậm chí nếu ta có trả tự do cho ông lúc này, Korba, Shai-hulud sẽ đòi nước của ông vì đã nhúng tay vào vụ này. Tại sao ta lại không trả tự do cho ông, Korba? Hãy nghĩ tới tất cả những người đã bị mất mắt, những người không nhìn được như ta. Họ có gia đình và bạn bè, Korba. Ông sẽ đi đâu để trốn khỏi họ?”
“Đó chỉ là tai nạn!” Korba van vỉ. “Dù sao đi nữa họ cũng sẽ nhận mắt Tleilaxu…” Lại một lần nữa ông ta ngừng lời.
“Ai biết mắt kim loại sẽ mang tới sự lệ thuộc gì?” Paul hỏi.
Những vị Naib trên các hàng ghế bắt đầu thì thầm bàn luận với nhau, nói sau những bàn tay đưa lên. Giờ thì họ lạnh lùng nhìn Korba.
“Phòng ngự cho Qizarate,” Paul lẩm bẩm, quay lại lời cầu xin của Korba. “Một thiết bị hoặc phá hủy hành tinh hoặc tạo các tia J làm mù những người quá gần nó. Korba, tác động nào ông cho là để phòng ngự? Đạo Qizarate định dựa dẫm vào việc lấy mất mắt của những kẻ theo dõi mình sao?”
“Đó chỉ là tò mò thôi, Bệ hạ,” Korba van vỉ. “Chúng thần biết Cổ Luật nói rằng chỉ các Gia tộc được nắm giữ thiết bị nguyên tử, nhưng Qizarate phục tùng… phục tùng…”
“Phục tùng ông,” Paul nói. “Quả thật đáng tò mò.”
“Thậm chí dù chỉ là tiếng nói của kẻ buộc tội thần, Người phải cho thần đối mặt với nó!” Korba nói. “Một người Fremen có quyền đó.”
“Ông ta nói đúng, Bệ hạ,” Stilgar lên tiếng.
Alia ném cái nhìn sắc sảo sang Stilgar.
“Luật là luật,” Stilgar nói, nhận thấy sự phản đối của Alia. Ông bắt đầu trích dẫn Luật Fremen, xen vào bình luận của chính mình về việc Luật liên quan như thế nào.
Alia trải qua cảm giác lạ lùng rằng mình nghe thấy lời Stilgar trước khi ông nói ra. Sao ông lại nhẹ dạ đến thế được? Stilgar chưa bao giờ nghi thức và bảo thủ hơn lúc này, chưa bao giờ hăng hái trung thành với Luật Xứ Cát hơn thế. Cằm ông rướn ra hùng hổ. Miệng nhát gừng. Có thật là ở ông không có gì khác ngoài sự phô trương thái quá này không?
“Korba là người Fremen và phải được xét xử theo Luật Fremen,” Stilgar kết luận.
Alia quay đi, nhìn ra những cái bóng ban ngày hắt xuống tường bên kia vườn. Sự thất bại khiến nàng kiệt quệ. Họ đã kéo dài chuyện này lâu tới tận giữa sáng. Giờ thì sao? Korba đã bớt căng thẳng. Điệu bộ của Người Ca tụng nói lên rằng ông ta phải chịu đòn đánh thiếu công bằng, rằng mọi thứ ông ta đã làm đều là vì yêu thương Muad’dib. Nàng liếc nhìn Korba, ngạc nhiên trước cái vẻ lên mặt quỷ quyệt lướt qua mặt ông ta.
Ông ta gần như đã nhận được thông điệp, nàng nghĩ. Ông ta hành động như một người đã nghe thấy đồng đội hét lên: “Hãy vững vàng! Cứu viện đang tới!”
Trong khoảng khắc, họ đã nắm giữ chuyện này trong tay - thông tin người lùn đưa ra, manh mối về những kẻ khác trong mưu đồ, tên của những người chỉ điểm. Nhưng thời điểm then chốt đã trôi đi. Stilgar? Chắc chắn không thể là Stilgar. Nàng quay sang nhìn người Fremen già.
Stilgar đáp ánh mắt nàng không nao núng.
“Cảm ơn ngài, Stil,” Paul nói. “Vì đã nhắc chúng ta về bộ Luật.”
Stilgar nghiêng mình. Ông tiến lại gần, nói những lời câm lặng theo cách mà ông biết cả Paul và Alia đều đọc được. Thần sẽ vắt kiệt hắn và giải quyết chuyện này.
Paul gật đầu, ra hiệu cho lính gác sau lưng Korba.
“Giam Korba vào phòng giam với mức an ninh tối đa,” Paul nói. “Không ai được tới thăm, trừ luật sư. Về luật sư, ta chỉ định Stilgar.”
“Hãy để thần chọn luật sư cho mình!” Korba la lên.
Paul quay lại. “Ông phủ nhận sự công bằng và phán đoán của Stilgar?”
“Ồ, không, Bệ hạ, nhưng…”
“Dẫn ông ta đi!” Paul quát.
Lính gác kéo Korba dậy khỏi gối nệm, dồn ông ta đi ra.
Với những lời thì thầm mới, các vị Naib rời khỏi hàng ghế. Người phục vụ xuất hiện dưới những hàng ghế, tiến tới cửa sổ, kéo màn xếp màu cam lại. Ánh sáng màu cam phủ lên căn phòng.
“Paul,” Alia nói.
“Lúc chúng ta thúc đẩy bạo lực,” Paul nói, “phải là lúc chúng ta hoàn toàn kiểm soát được nó. Cảm ơn ông, Stil; ông nắm phần mình tốt lắm. Ta chắc chắn rằng Alia đã xác định được các vị Naib thông đồng với hắn. Chúng không thể không tự để lộ mình.”
“Hai người sắp đặt chuyện này?” Alia gặng hỏi.
“Nếu ta ra lệnh xử tử Korba ngay lập tức, các Naib sẽ hiểu,” Paul nói. “Nhưng cái thủ tục nghi thức không cứng nhắc tuân theo Luật Fremen này - họ cảm thấy quyền của chính mình bị đe dọa. Vị Naib nào thông đồng với hắn, Alia?”
“Chắc chắn là Rajifiri,” nàng nói nhỏ. “Và Saajid, nhưng...”
“Đưa danh sách đầy đủ cho Stilgar,” Paul nói.
Alia nuốt nước bọt, họng khô khốc, cùng chia sẻ nỗi sợ hãi chung trước Paul trong giây phút này. Nàng biết chàng đi giữa họ mà không có mắt như thế nào, nhưng sự tinh vi của nó khiến nàng khiếp sợ. Chàng nhìn thấy hình dáng họ trong không gian của thị kiến! Nàng thấy rằng đối với chàng mình là một hình thể lung linh trong thời gian thiên văn, thống nhất với hiện tại hoàn toàn chỉ nhờ lời nói và hành động của chàng. Chàng nắm giữ tất cả họ trong lòng bàn tay thị kiến của mình!
“Đã quá giờ thiết triều sớm, Bệ hạ,” Stilgar nói. “Nhiều người - tò mò… sợ hãi…”
“Ông có sợ không, Stil?”
Câu trả lời chỉ là tiếng thì thầm. “Có.”
“Ông là bạn ta nên không việc gì phải sợ ta,” Paul nói.
Stilgar nuốt nước bọt. “Vâng, Bệ hạ.”
“Alia, hãy lo buổi triều sớm,” Paul nói. “Stilgar, nêu hiệu lệnh đi.”
Stilgar tuân mệnh.
Chuyển động xôn xao vang lên từ cửa lớn. Một đám đông bị đẩy dạt khỏi căn phòng đầy bóng tối để mở đường cho các quan chức. Nhiều điều cùng lúc xảy ra: lính của gia tộc huých cùi chỏ, la hét, chửi bởi để đẩy lùi đám đông Người Cầu xin và các Luật sư áo choàng lòe loẹt đang cố ních qua. Các Luật sư vẫy những tờ giấy vời họ đến. Thư ký Cuộc họp sải bước trước họ qua khoảng trống nhờ lính gác dẹp ra. Ông mang theo Danh sách Ưu tiên, những người được phép tiến tới trước Ngai vua. Vị thư ký, người Fremen tên là Tecrube, đi với vẻ hoài nghi mệt mỏi, trưng ra cái đầu cạo trọc, bước chân nặng nề.
Alia bước tới chặn ông ta, cho Paul đủ thời gian lẩn đi với Chani qua hành lang kín dưới bệ. Nàng thoáng có cảm giác ngờ vực Tecrube khi ông tò mò tọc mạch nhìn theo Paul.
“Ta phát ngôn cho anh trai ta hôm nay,” nàng nói. “Hãy để những Người Cầu xin lên từng người một.”
“Vâng, thưa Lệnh bà.” Ông quay lại, xếp đám đông thành hàng lối.
“Thần vẫn còn nhớ thời mà Người không nhầm chủ ý của anh trai Người,” Stilgar nói.
“Ta đã xao lãng,” nàng nói. “Ở ông có sự thay đổi lớn lao, Stil. Nó là gì vậy?”
Stilgar đứng ngây đơ, sửng sốt. Dĩ nhiên người ta có thay đổi. Nhưng lớn lao ư? Đây là cách nhìn đặc biệt về mình mà ông chưa bao giờ gặp phải. Sự lớn lao là một thứ đáng ngờ. Kẻ thù của Vương triều chọn sự lớn lao để làm lung lạc quần chúng không kiên định. Korba đã trượt khỏi đức hạnh Fremen để tìm sự lớn lao cho Đạo Qizarate. Và ông ta sẽ chết vì thế.
“Người thật vô lý,” Stilgar nói. “Người không tin thần ư?”
Sự đau khổ trong giọng ông khiến biểu cảm của nàng dịu lại, nhưng giọng điệu nàng thì không. “Ông biết ta không nghi ngờ ông. Ta luôn luôn đồng ý với anh trai ta rằng việc gì đã được đặt vào tay Stilgar thì chúng ta có thể quên đi một cách thoải mái.”
“Vậy tại sao Người lại bảo thần đã… thay đổi?”
“Ông đang chuẩn bị để bất tuân anh trai ta,” nàng nói. “Ta đọc được điều đó ở ông. Ta chỉ hy vọng rằng nó sẽ không hủy diệt cả hai người.”
Đám Luật sư và Người Cầu xin đang tiến đến. Nàng quay đi trước khi Stilgar kịp phản ứng. Dù vậy gương mặt ông tràn ngập điều mà nàng đã cảm thấy trong lá thư của mẹ mình - luật pháp thế chỗ cho lương tâm và đạo đức.
“Con đã tạo ra một nghịch lý chết người.”
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !