Tâm trạng đang rất tốt, nhìn cảnh vật trên đường, tôi bỗng thấy ngập tràn sắc xuân, một vẻ đẹp động lòng người.
Thế nhưng vừa mới xuống kiệu tôi đã thấy Lý Trường vội vã chạy tới, đích thân dìu tôi bước lên bậc thềm, nói: “May mà có nương nương tới! Hoàng thượng đang nổi nóng đấy, đuổi hết bọn nô tài ra ngoài. Xin nương nương hãy vào khuyên Hoàng thượng mấy lời đi, bọn nô tài biết ơn hết mực.” Tôi thấy hắn tỏ vẻ lo âu, khác hẳn với thường ngày, bèn nhủ thầm, Lý Trường theo hầu hạ Huyền Lăng nhiều năm, chuyện lớn chuyện nhỏ trong cung đề từng thấy cả, cũng coi như có tác phong khá điềm tĩnh, bây giờ tỏ ra hoang mang như vậy nhất định là đã xảy ra chuyện lớn rồi.
Thế là tôi bèn ôn tồn nói: “Bản cung tuy không rõ đã xảy ra chuyện gì nhưng nhất định sẽ đi khuyên Hoàng thượng. Lý công công yên tâm!” Rồi lại hạ giọng: “Chỉ là không biết đã xảy ra chuyện gì mà lại khiến Hoàng thượng giận dữ như vậy?”
Lý Trường làm bộ cúi xuống nhìn bậc thềm, đáp với giọng rất khẽ: “Hình như là vì một bản tấu chương của Nhữ Nam Vương.”
Tôi nghe vậy, trái tim chợt căng cứng, bước chân cũng hơi đờ ra, cơ hồ ngỡ rằng ca ca đã xảy ra chuyện. Thế nhưng tôi rất nhanh đã nghĩ lại, nếu ca ca xảy ra chuyện, Huyền Lăng nhất định sẽ cho người đi vỗ về Nhữ Nam Vương và điều động binh mã đề phòng tình huống bất trắc, đâu còn thời gian rảnh để nổi nóng trong thư phòng. Nghĩ vậy, tôi cũng yên tâm hơn đôi chút, lại hỏi thêm: “Ngươi có biết trong bản tấu chương đó viết những gì không?”
Lý Trường thoáng tỏ vẻ khó xử, cuối cùng vẫn đáp: “Hình như là một đạo tấu chương xin phong thưởng.”
Tôi hơi cau mày, lòng đầy ác cảm, gã Nhữ Nam Vương này đúng là quá tham lam, tháng trước con trai và con gái hắn vừa được phong làm Thế tử và Công chúa, vinh dự đã đạt tới tột cùng, thế mà thoắt cái đã lại muốn xin phong thưởng thêm, thật chẳng rõ là có yêu cầu gì nữa đây.
Thế nhưng ngẫm kỹ lại, tôi thấy hình như có sự khác thường, nếu Huyền Lăng không muốn ban phong thì hoàn toàn có thể trả tấu chương về, tặng thêm ít lụa là vàng ngọc là được, huống chi y xưa nay vốn chẳng phải là người tính tình bộp chộp, nóng nảy.
Đang nghĩ ngợi, trong điện chợt vang lên một tiếng “xoảng” thật lớn, kế đó là tiếng những mảnh vỡ lăn trên mặt đất. Hồi lâu sau, bầu không khí trong điện chìm vào sự tĩnh lặng đáng sợ tột cùng.
Tôi và Lý Trường đưa mắt nhìn nhau, trong lòng cảm thấy vô cùng nghi hoặc, không biết Huyền Lăng nổi giận như vậy rốt cuộc là vì chuyện gì. Lý Trường lộ rõ nét âu lo, thấp giọng nói: “Bây giờ e là chỉ có nương nương đi vào thì mới có thể khuyên giải được vài câu.”
Tôi gật đầu, đưa tay khẽ đẩy cánh cửa điện dát vàng khảm bạc màu đỏ tía. Điện phụ sâu thẳm mà rộng rãi, khung cảnh chìm trong tĩnh lặng, những tia sáng lập lòe ẩn hiện trên nền gạch màu vàng kim.
Trong chiếc lò hương tráng men vẽ hình chín quả đào đặt trên bàn đang đốt loại long diên hương mà y thường dùng, từng làn khói thơm mỏng manh chầm chậm lan tỏa khắp nơi trong điện, lại càng làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của nơi đây. Y ngồi trên chiếc ghế lớn điêu khắc hình rồng cuộn, một làn khói mỏng phớt qua trên mặt, sự tức giận kia dường như ngưng tụ lại nơi ấn đường, tựa hồ một mảng mây mù, tụ mà không tan.
Tôi lặng lẽ bước lại gần, nhất thời không dám tùy tiện cất tiếng hỏi, cũng không tiện nói gì, chỉ bê chiếc lò hương trên bàn đến đặt xuống bệ cửa sổ, lại mở cánh cửa sổ hướng về phía khu rừng ở sau điện ra, lập tức có một làn gió xuân ấm áp từ từ thổi vào.
Giọng nói của y toát ra vẻ mỏi mệt sau cơn giận dữ, nhẹ nhàng vang lên: “Sao nàng lại tới đây?”
Tôi khẽ thưa: “Dạ. Thầnhiếp tới rồi!”
Lúc này trời đã gần tối, ánh tà dương xuyên qua bức hình chạm rồng “Lục hợp đồng xuân” chiếu vào phòng, hắt xuống những mảng sáng lốm đốm màu đỏ dịu. Gió thổi qua khu rừng sau điện, những chiếc lá cây phát ra âm thanh xào xạc nhẹ nhàng, tựa như một cơn mưa nhỏ rả rích rơi dưới mái hiên.
Tôi nhón lấy một phiến lá bạc hà và một bông cúc hàng bạch hãy còn tươi trong chiếc đĩa bạc bỏ vào trong chén, đổ nước nóng vào, lại cho thêm mật ong và nước lạnh, đặt xuống trước mặt y, dịu dàng nói: “Hoàng thượng uống chút trà đi, uống xong sẽ có thể bình tĩnh trở lại.” Nói xong tôi cũng không nhắc tới việc gì khác, chỉ chấm đầu ngón tay vào một chút dầu bạc hà trong chiếc hộp mạ vàng, chậm rãi xoa bóp huyệt Thái dương cho y.
Y khẽ nhấp một ngụm trà, thần sắc hòa hoãn hơn ít nhiều, sau đó mới cất tiếng: “Sao nàng không hỏi tại sao trẫm tức giận?”
Tôi mỉm cười điềm đạm, “Hoàng thượng vừa rồi còn đang tức giận, đợi sau khi cơn giận tan bớt, nếu muốn nói thì tự khắc sẽ nói với thần thiếp thôi. Thần thiếp mà một mực truy hỏi, nhất định sẽ khiến Hoàng thượng càng thêm tức giận.”
Y lật tay lại khẽ xoa bàn tay tôi, lại chỉ tay vào bản tấu chương màu vàng trên bàn. “Nàng tự mình xem đi!” Giọng nói đầy nỗi căm hận của y còn chưa dừng lại: “Không ngờ Huyền Tế lại lớn gan như thế!”
Tôi vâng lời đưa tay cầm bản tấu chương lên, vừa mới liếc qua đã không kìm được cả kinh thất sắc.
Thì ra bản tấu chương này Nhữ Nam Vương không hề xin phong cho vợ con, mà yêu cầu truy phong cho người mẹ ruột Ngọc Ách phu nhân đã chết của mình thành Ngọc Ách Quý thái phi, đồng thời được dời mộ vào trong lăng phi tử của tiên đế.
Những phi tần có sinh con đẻ cái sau khi tiên hoàng qua đời đều được tấn phong làm Thái phi, an hưởng vinh hoa phú quý, đồng thời cũng được ban phong hiệu để thể hiện sự thục đức hiền lương. Khi tiên đế còn tại thế, mẹ ruột của Nhữ Nam Vương là nhất phẩm phu nhân, tuy sớm đã qua đời nhưng được truy phong cũng là điều hợp với lẽ thường.
Chỉ là bên trong còn có duyên cớ khác.
Khi tiên đế còn tại vị, huynh trưởng của Ngọc Ách phu nhân là Bác Lăng Hầu mưu phản, Ngọc Ách phu nhân vì thế mà bị liên lụy rất nhiều, cuối cùng còn qua đời trong u uất vì không được sủng ái. Mãi khi bà ta sắp chết, tiên đế mới tới thăm nhưng Ngọc Ách phu nhân lại cất lời oán trách, thể hiện rõ sự oán hận với tiên đế và Thư Quý phi. Tiên đế trong cơn giận dữ liền không cho phép Ngọc Ách phu nhân được táng trong lăng phi tử, cũng không truy phong, chỉ được chôn theo nghi lễ của Quý tần ở cùng một chỗ với Chiêu Hiến Thái hậu, người đã hại chết mẹ ruột của tiên đế.
Vì không có sự truy phong của tiên đế, mà Ngọc Ách phu nhân lại là em gái của tội thần, do đó Huyền Lăng thân là người kế thừa ngai vàng tất nhiên không thể truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi.
Tôi gấp bản tấu chương lại, sắc mặt hơi biến đổi. “Việc này… Nếu Hoàng thượng thực sự truy phong Ngọc Ách phu nhân thành Ngọc Quý thái phi theo như yêu cầu của Nhữ Nam Vương, vậy mặt mũi tiên đế phải đặt ở chỗ nào? Hoàng thượng biết phải làm sao?”
Huyền Lăng đập mạnh tay xuống một góc bàn, nói: “Khốn kiếp! Hắn rõ ràng muốn đặt trẫm vào chỗ bất hiếu, hơn nữa ngay đến thể diện của phụ hoàng cũng không để ý tới!”
Tôi thấy y giận dữ như vậy liền vội lật bàn tay y lại kiểm tra, chiếc bàn này được đóng từ gỗ lim, rất cứng, nơi góc bàn lại điêu khắc những đường nét phức tạp cầu kỳ, lòng bàn tay Huyền Lăng lúc này đã rỉ đầy máu.
Tôi không khỏi thầm xót xa, vội nắm chặt bàn tay y, dịu dàng nói: “Hoàng thượng hãy bớt giận, chớ nên vì hắn mà nổi nóng, kẻo lại tự làm hại thân thể mình, thực không đáng.”
Huyền Lăng nói: “Thực không thể nhẫn nhịn hơn được nữa! Cho dù trẫm chịu làm một đứa con bất hiếu thì Thái hậu sao có thể chấp nhận được chuyện này?”
Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Cái danh xưng ‘Ngọc Quý thái phi’ này cũng không ổn chút nào, Tứ phi Quý, Thục, Hiền, Đức xưa nay mỗi loại chỉ có một người, mà thân mẫu của Thanh Hà Vương là Thư Quý thái phi vẫn còn tại thế, nếu thật sự truy phong như vậy, ắt sẽ khiến Thanh Hà Vương rơi vào cảnh khó xử, như thế thì thực là làm ảnh hưởng đến tình huynh đệ nhiều quá.” Thấy Huyền Lăng lộ vẻ trầm tư, tôi nói tiếp: “Kỳ Sơn Vương Huyền Tuân là trưởng tử của tiên đế, lại do vị Thái phi có địa vị tôn quý nhất trong hậu cung hiện nay là Khâm Nhân Thái phi sinh ra, đến Khâm Nhân Thái phi còn chưa được phong là Quý thái phi hoặc Hiền, Đức thái phi cơ mà, chỉ e cũng sẽ khiến Kỳ Sơn Vương cảm thấy không phục.”
Những lời này của tôi có hơi thẳng thắn nhưng nếu làm theo yêu cầu của Nhữ Nam Vương, các vị Thân vương và Thái phi ắt sẽ cảm thấy không vui, như thế cả triều đình và hậu cung sẽ không còn yên ổn.
Mối quan hệ lợi hại bên trong Huyền Lăng sao có thể không hiểu, vì thế nên mới nổi trận lôi đình như vậy.
Huyền Lăng một mực không nói năng gì nhưng trên trán đã hằn rõ gân xanh, mãi lâu sau mới giận quá bật cười. “Nếu trẫm đồng ý với hắn, ắt sẽ làm mất lòng người ở tiền triều và hậu cung; còn nếu như không đồng ý, hắn nhất định sẽ ôm hận trong lòng, bao nhiêu công phu và sự bố trí trước đó coi như đều uổng phí.”
Sự phân tích của y có thể nói là vô cùng thấu triệt, tôi chỉ lặng im, hồi lâu sau mới nói: “Nếu hắn lập tức động binh, Hoàng thượng có được bao nhiêu phần thắng?”
Trong mắt Huyền Lăng lóe lên ánh tinh quang, nhưng ngay sau đó đã buồn bã nói: “Trong tay trẫm có mười lăm vạn quân, mười vạn phân bố ở khắp các quan ải, năm vạn tập trung tại phụ cận kinh sư.” Thoáng dừng lại một chút, y nói tiếp: “Lượng tinh binh Nhữ Nam Vương nắm trong tay không dưới năm mươi vạn, phân bố khắp toàn quốc.”
Tôi cả kinh, hỏi: “Vậy Hoàng thượng cần bao nhiêu thời gian mới có thể bố trí chu toàn mọi việc, đoạt lấy binh lực của hắn?”
Y đáp: “Nếu trong nửa năm tới người thân tín của trẫm biết được các động tĩnh trong Bộ binh cùng với họ tên quan chức của những kẻ thuộc phe Nhữ Nam Vương, rồi trẫm lại lệnh cho tướng lĩnh các nơi chia rẽ thu phục năm mươi vạn tinh binh của hắn, như vậy chỉ trong một năm, mọi việc sẽ được giải quyết”, rồi lại gượng cười, nói: “Có điều bây giờ hắn liên tục bức ép, chỉ sợ khi trẫm còn chưa kịp hiểu rõ về hắn thì hắn đã khởi binh tạo phản rồi.”
Thì ra y cũng phải kìm nén và có nhiều sự bất lực đến vậy. Tôi thân là nữ tử chốn hậu cung, cả ngày giam mình giữa bốn bức tường hoa lệ, kỳ thực chẳng hiểu mấy chuyện ở triều đường, lại càng không thể can thiệp. Còn về một chút chuyện triều chính mà tôi hay biết kia, nếu không vì có liên quan tới lợi ích của bản thân và gia tộc, tôi cũng không dám mạo hiểm đi nghe ngóng. Sự tiếp xúc giữa tôi và Huyền Lăng xưa nay chỉ diễn ra trong những giây phút thảnh thơi ở hậu cung và cũng tuyệt nhiên không có gì khác ngoài phong hoa tuyết nguyệt.
Bây giờ đột nhiên biết được điều này, trái tim tôi trào dâng nỗi niềm chua xót và thấu hiểu. Trong chốn cung đình, y có sự bất lực của y, tôi có sự bất lực của tôi. Bất kể là bậc đế vương hay kẻ khố rách áo ôm ngoài đường, có ai mà không sống trong sự bất lực của mình, xung quanh là đầy rẫy những kìm kẹp.
Tôi không kìm được dịu dàng khom người, lẳng lặng tựa đầu lên đầu gối y. Trên người y là chiếc áo bào đen thêu đầy hình rồng, những sợi vải màu vàng đó không hề mềm mại, cào nhẹ vào má tôi mang tới cảm giác ngứa ngáy. Tôi khẽ nói: “Vậy thì vì tính kế lâu dài, Hoàng thượng chỉ có thể nhẫn nại thôi!”
Thân thể y hơi chấn động, nếu không phải tôi đang tựa đầu lên gối y thì cơ hồ không thể nào phát giác chút chấn động ấy. Y ngẩng mặt, thở dài một tiếng. “Hoàn Hoàn, trẫm làm hoàng đế như vậy có phải là quá kém cỏi không?”
Trong lòng lập tức trào dâng nỗi niềm chua chát, tôi ngẩng đầu lên, kiên định nói: “Hán Cảnh Đế Lưu Khởi vì muốn bình định cái loạn bảy nước mà bất đắc dĩ phải giết chết Tiểu Thác; Quang Vũ Đế Lưu Tú vì muốn phục hưng nhà Hán mà ngay đến nỗi đau Canh Thủy Đế giết huynh trưởng của mình cũng phải nhẫn nhịn, thậm chí khi mới đăng cơ, để ổ định triều chính còn không thể sắc phong Âm Lệ Hoa mà mình yêu làm Hoàng hậu, chỉ có thể chọn con gái của nhà họ Quách. Nhưng cũng chính bọn họ đã bình định thiên hạ, mở ra một thời thịnh thế. Đại trượng phu có thể co có thể duỗi, Hoàng thượng nhịn nỗi đau nhất thời chỉ là để mưu việc dài lâu, chẳng phải do kém cỏi mà ấy gọi là co mình làm chính trị.”
Y đưa tay xoa nhẹ bờ vai tôi, thở dài, nói: “Hoàn Hoàn, những lời nàng nói luôn khiến trẫm cảm thấy thoải mái.”
Tôi lắc đầu, đáp: “Thần thiếp không hề có ý an ủi Hoàng thượng, chỉ nói theo sự thực.”
Trong giọng nói hờ hững của y toát lên vẻ dữ dằn, vang vọng giữa tòa cung điện âm u hiện giờ nghe ngập tràn sắc bén: “Không sai, trẫm quả thực phải nhịn.” Rồi y lại khẽ cười tự giễu: “Nhưng rốt cuộc trẫm nên nhịn thế nào đây?”
Tôi nắm chặt bàn tay y, cố kìm nén sự không cam tâm và căm phẫn trong lòng, ngẩng mặt lên, cố giữ thần sắc bình tĩnh, cất giọng nhẹ nhàng mà kiên định: “Xin Hoàng thượng hãy đồng ý với yêu cầu của Nhữ Nam Vương, truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi, đồng thời cho dời mộ vào trong lăng phi tử của tiên đế.”
Y khá ngạc nhiên, bàn tay không cẩn thận va phải chén trà bên cạnh. Chỉ nghe “xoảng” một tiếng, chén trà lập tức vỡ tan thành từng mảnh nhưng y lại coi như không nghe thấy, lật tay lại nắm chặt lấy cánh tay tôi. “Nàng cũng nghĩ phải như vậy sao?” Tôi vừa định nói, đã nghe có gã thái giám ở bên ngoài cất giọng hỏi dò: “Hoàng thượng…”
Tôi lập tức đứng dậy, lớn tiếng nói: “Không có gì, bản cung lỡ tay đánh rơi chén trà mà thôi, đợi lát nữa hãy vào dọn.” Ngoảnh lại thấy y đã lại gần, tôi vội vàng nói: “Hoàng thượng bớt giận. Xin Hoàng thượng đừng lại đây, lỡ bị mảnh sứ cứa bị thương thì phải làm thế nào.” Vừa nói tôi vừa nhanh nhẹn khom người gạt những mảnh vỡ chén đi.
Tôi quỳ trên mặt đất, mắt không chớp, nhìn chằm chằm vào y, nói rành rọt từng từ: “Xin Hoàng thượng hãy truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Hiền thái phi, tặng thêm phong hiệu, cho dời mộ vào lăng phi tử của tiên đế. Đồng thời tiến phong các vị Thái phi trong cung, ban tặng tôn hiệu và lễ hậu, đặc biệt cần phong mẫu thân của Kỳ Sơn Vương là Khâm Nhân Thái phi làm Thục thái phi, dưỡng mẫu của Bình Sơn Vương là Trang Hòa Thái phi làm Đức thái phi, cho đứng ngang hàng với Ngọc Ách phu nhân. Lại càng cần dâng tôn hiệu cho Thái hậu để tỏ lòng hiếu nghĩa của Hoàng thượng.”
Lời này vừa dứt, trên mặt Huyền Lăng lập tức lộ rõ nét vui mừng, bàn tay nắm cánh tay tôi càng chặt hơn, kéo tôi đứng dậy, vui vẻ nói: “Không sai! Hắn muốn truy phong cho mẫu thân của hắn, trẫm sẽ nhân dịp cầu chúc cho Thái hậu an khang mà tặng tôn hiệu cho tất cả các vị Thái phi, địa vị cũng phải ở trên mẫu thân của hắn, như vậy người ở tiền triều và hậu cung đều không thể dị nghị được nữa.”
Tôi cười tủm tỉm tiếp lời: “Đâu phải chỉ có vậy, làm như thế không những các quan ngự sử không thể nói gì, ngay đến các vị Thái phi và Vương gia cũng đều sẽ cảm kích ơn đức của Hoàng thượng, lại càng trung thành với Hoàng thượng hơn.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Chỉ là mẫu thân của Lục Vương gia là Thư Quý thái phi hiện đã xuất gia, cần phong tặng thế nào đây? Nếu bỏ riêng Thư Quý thái phi không phong tặng, chỉ sợ Lục Vương gia sẽ không vừa ý.”
Huyền Lăng không cho là đúng, tiện tay búng ống tay áo một cái, nói: “Lục đệ sẽ không để ý chuyện này đâu.”
Tôi mỉm cười khuyên nhủ: “Lục vương gia tuy không để ý nhưng có một số kẻ tiểu nhân sẽ vì vậy mà cho rằng Hoàng thượng xem nhẹ Lục Vương gia, thế thì thật không hay chút nào. Giờ đang là lúc huynh đệ đồng tâm, chớ nên để chuyện vô ý bị người ta coi là hữu ý, chi bằng Hoàng thượng hãy nghĩ cách để Lục Vương gia cũng được nở mày nở mặt.”
Tâm trạng Huyền Lăng đang tốt, bèn cười, nói: “Việc này thì có khó gì, Thư Quý thái phi đã xuất gia, tô hiệu không tiện gia phong nữa, trẫm sẽ tôn bà ấy làm Xung Tĩnh nguyên sư vậy.”
Tôi mỉm cười: “Vậy thì ổn rồi.”
Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng nói: “Bây giờ truy phong cho Ngọc Ách phu nhân chẳng qua là kế quyền nghi, vì bất đắc dĩ mà phải làm. Nếu sau này bình định được Nhữ Nam Vương, trẫm sẽ lập tức học theo cách tiên đế xử trí Chiêu Hiến Thái hậu, chỉ cho bà ta dùng hiệu Thái phi, linh vị không được để vào Thái miếu hưởng hương hỏa tế bái, quan tài không được đưa vào Hoàng lăng, hậu thế không được truy tặng tôn hiệu, bằng không khó mà tiêu trừ mối hận hôm nay!”
Nghe y dự tính như vậy, tôi chỉ im lặng. Nhữ Nam Vương một lòng mong mẫu thân vinh hiển, đâu hay rằng vinh nhục chẳng qua chỉ là nhất thời, lật tay một cái là có thể thay đổi, sự vinh hiển bây giờ rất có thể sẽ bị đổi thành nỗi nhục nhã vô tận ngày sau. Do đó tôi không tiếp lời, chỉ nói: “Có điều, gia phong Thái phi là việc của hậu cung, theo lý mà nói cần bẩm báo với Thái hậu, thông báo cho Hoàng hậu.”
Huyền Lăng nói: “Chuyện này là tất nhiên.”
Tôi ghé tai y, khẽ nói: “Hoàng thượng, chỉ cần chúng ta làm một cách tuần tự, nhất định có thể hiểu rõ bọn họ như lòng bàn tay. Ngoài ra về việc của huynh trưởng thần thiếp, thần thiếp có chút mưu kế thế này, xin Hoàng thượng nghe qua rồi định đoạt.”
Sau đó, tôi tỉ mỉ nói ra mưu tính của mình một lượt, Huyền Lăng nghe xong bèn cười, nói: “Vậy thì hay lắm. Nàng quả không thẹn là ‘giải ngữ hoa’ của trẫm, đến chủ ý như vậy mà cũng nghĩ ra được.”
Tôi mỉm cười, nói: “Hoàng thượng bận rộn việc thiên hạ, thần thiếp không hiểu gì về triều chính, chỉ có thể giúp được mấy chuyện vụn vặt này thôi.”
Y cười sảng khoái, nói: “Con đường ngàn dặm muốn đi hết cũng cần bước từng bước, những chuyện nhỏ mà nàng suy nghĩ cho trẫm chắc gì đã không phải là chuyện lớn?”
Sắc trời dần tối, ánh tà dương cuối cùng cũng bị thay thế bởi ánh trăng. Gió thổi rất nhẹ, mang theo mùi hương mát rượi của hoa ngọc lan, từ từ phả vào bên tóc mai tôi.
Tôi đứng dậy, thổi sáng mồi lửa trong tay, lần lượt đi thắp từng ngọn nến trong điện. Trong Nghi Nguyên điện sử dụng loại nến lớn bọc vàng, trên mỗi chiếc giá nến cắm chín ngọn nến, số lượng phải đến tới mấy trăm nhưng không có chút khói và mùi dầu nào, do đó không ảnh hưởng đến mùi thơm của hương liệu. Những ngọn nến dần sáng lên, soi rọi cả gian điện sáng rỡ như ban ngày.
Tôi đứng ngay cạnh chiếc giá nến cuối cùng, thổi tắt mồi lửa. Sau khi tâm tư xoay chuyển liên hồi, tôi rốt cuộc đã dằn lòng lại, cố gắng nín thở một cách khó khăn, cất giọng bình tĩnh và lạnh lùng như dòng nước suối dưới mặt băng: “Xin Hoàng thượng hãy ban thêm ân đức, khôi phục lại ngôi vị Hoa Phi cho Mộ Dung Phi.”
Huyền Lăng thoáng sững sờ, trong nháy mắt đã thu lại nét mừng rỡ trên mặt, bước tới cạnh tôi. “Nếu trẫm khôi phục ngôi vị cho nàng ta, há chẳng phải có lỗi với nàng? Hơn nữa, sao có thể khiến mọi người tâm phục?”
Trái tim tôi như đông cứng lại, cơ hồ không kìm được mà mặt biến sắc… Cứ đặt Mộ Dung Thế Lan ở một bên như vậy, tuy không sủng hạnh nhưng vẫn để ả được ăn ngon mặc đẹp, lẽ nào không có lỗi với tôi? Nếu cứ thế này, tôi thà để ả không được khôi phục ngôi vị. Một nữ tử như ả trừ phi đang lúc đắc chí buông lỏng đề phòng, nếu không rất khó để có thể tìm ra sơ hở, huống chi chỉ khi nào ngôi vị của ả được khôi phục thì gia tộc Mộ Dung mới thực sự yên tâm.
Suy nghĩ như vậy nhưng trong lòng tôi rốt cuộc vẫn ngập tràn nỗi bi thương và đau xót, trong mắt đã thấp thoáng ánh lệ. Việc sắc phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi đối với Huyền Lăng đã là rất miễn cưỡng và khó xử rồi, bây giờ tôi lại còn đề nghị khôi phục ngôi vị cho Mộ Dung Thế Lan, há lại chẳng miễn cưỡng và khó xử hơn?
Nhẫn nại, nhất định phải nhẫn nại. Giống như sợi dây cung, cần phải kéo căng thì mới có thể bắn được nhanh, mạnh, chuẩn. Những lời an ủi Huyền Lăng vừa rồi kỳ thực cũng là để an ủi chính mình mà thôi.
Cố kìm nén sự nghẹn ngào và cơn bi phẫn đã trào lên đến tận cổ họng, tôi bình tĩnh nói: “Việc truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi chỉ có thể làm yên lòng Nhữ Nam Vương, còn để làm yên lòng gia tộc Mộ Dung thì cần khôi phục ngôi vị cho Mộ Dung Phi. Dù Nhữ Nam Vương không có lòng xưng đế nhưng chưa chắc đã kìm được trước sự xúi bẩy của thuộc hạ, chỉ e những con người đó không ai không muốn làm khai quốc công thần. Hoàng thượng nếu chịu vỗ về Mộ Dung Phi, như thế ít nhiều cũng có thể tranh thủ tình cảm của gia tộc Mộ Dung, có thêm được một phần thắng.”
Y hơi nghiêng đầu qua một bên, nhìn tôi với vẻ không đành lòng. “Hoàn Hoàn, trẫm… làm vậy thì ấm ức cho nàng quá!”
Tôi chậm rãi quỳ xuống, nói: “Thần thiếp không sợ ấm ức. Vì Hoàng thượng, thần thiếp sẽ cố hết sức nhường nhịn Hoa Phi, không để xảy ra tranh chấp.” Nước mắt rốt cuộc vẫn tuôn rơi, là vì y, lại càng vì bản thân tôi.
Để vỗ về gia tộc Mộ Dung, sớm muộn gì y cũng sẽ khôi phục lại ngôi vị cho Mộ Dung Thế Lan, ít nhất cũng là Hoa Phi, mà nếu tình thế bức ép, chỉ e sẽ lại một lần nữa phong ả làm “phu nhân” cũng chưa biết chừng. So với như vậy, thà tôi đề nghị Huyền Lăng cho ả trở lại làm Hoa Phi ngay bây giờ, như thế, ít nhất Huyền Lăng cũng có thêm sự bất lực và uất ức khi phải hạ lệnh, đồng thời cũng cảm thấy xót xa và áy náy với tôi. Tâm trạng này của y càng lớn, địa vị của tôi sẽ lại càng vững chắc, sự sủng ái nhận được cũng sẽ nhiều hơn.
Tôi khẽ cười buồn bã, từ lúc nào mà tôi lại trở nên tự tư tự lợi, chỉ chăm bày mưu tính kế như thế? Sự thực này thật tàn khốc biết chừng nào.
Huyền Lăng chỉ im lặng, hồi lâu sau mới khẽ nói: “Được.”
Tiếng gió nghẹn ngào bên ngoài điện nghe đầy nỗi thê lương, giọng nói của Huyền Lăng lại rất âm trầm, dường như có treo một thứ gì đó nặng trịch. Ánh nến trong điện đung đưa qua lại khiến thần sắc y trở nên có chút mơ hồ. Y nói: “Trẫm bỗng nhớ tới chuyện về Hán Quang Vũ Đế mà nàng vừa kể, ông ta bất đắc dĩ phải lập Quách thị mà mình không yêu làm Hoàng hậu hòng ổn định cục diện triều đình, còn để nữ tử trong lòng là Âm Lệ Hoa đi hầu hạ Quách Hậu. Sự bất lực của trẫm ngày hôm nay thực giống với Quang Vũ Đế khi đó, vì chịu sự kìm kẹp của nhà họ Quách mà phải sủng hạnh một nữ nhân mình không hề yêu.”
Tôi khẽ lắc đầu. “Thần thiếp sao có thể so sánh với Âm Hoàng hậu được. Có điều thần thiếp xem sách sử, biết rằng về sau gia tộc của Quách Hoàng hậu mưu phản, Quang Vũ Đế phế bỏ Quách Hoàng hậu mà thay bằng Âm Lệ Hoa, ý nguyện coi như đã đạt thành.” Tôi chăm chú nhìn Huyền Lăng, nói tiếp: “Công tích của Hoàng thượng nhất định sẽ không thua gì Quang Vũ Đế.”
Y ôm chặt tôi, đột nhiên nói: “Hoàn Hoàn, nàng có biết tại sao nàng mất con, trẫm lại không mấy khi tới thăm nàng không?”
Nghe y đột nhiên hỏi như vậy, ký ức chua xót trong lòng tôi lập tức trào dâng, những lời vô tình nghe được ở sau Nghi Nguyên điện ngày đó rốt cuộc vẫn khiến tôi canh cánh trong lòng. Tôi ngoảnh đầu qua một bên, nói: ‘Chắc hẳn là vì thần thiếp tính tình ương bướng, sau khi mất con đã thương tâm quá độ mà mạo phạm tới Hoàng thượng.”
Y tỳ cằm lên trán tôi, giọng nói có chút xót xa mà gượng gạo: “Tuy tính nàng có hơi ương bướng, nhưng cũng không hoàn toàn là vì nguyên cớ này.” Giọng nói của y có chút chần chừ, nhưng đôi tay thì vẫn ôm chặt lấy thân thể tôi. “Nàng có biết tại sao Mộ Dung Phi lại không có con không?” Tôi bất giác cả kinh, không kìm được hơi rùng mình. Y lại nói tiếp, nhưng giọng nói như thể không phải giọng của y, có chút gì đó mờ mịt xa xăm và ngập tràn một nỗi đau cố kìm nén: “Hoan Nghi hương trong cung của nàng ta, trẫm chỉ ban cho duy nhất nàng ta… Bên trong đó có một vị xạ hương, ngửi phải quá nhiều sẽ khiến người ta không thể có con.”
Duyên cớ bên trong tôi có biết, nhưng y đột nhiên chính miệng nói với tôi như vậy, cảm xúc chủ yếu trong lòng tôi vẫn là ngạc nhiên.
Chân tướng đẫm máu này, tôi kỳ thực đã tự đoán ra được tám, chín phần mười, nhưng khi thực sự phải đối mặt với nó, đặc biệt là khi nghe y chính miệng nói ra với tôi, dù rằng người bị hại là kẻ mà tôi căm hận, trong lòng tôi vẫn có cảm giác không dám tưởng tượng, hết sức xốn xang.
Tôi cúi đầu, thương cảm không thôi. “Hoàng thượng, người nói với thần thiếp nhiều quá rồi!”
Y vẫn không chịu buông tay ra, chỉ nói: “Nàng nghe trẫm nói, nàng quỳ ở trong cung của nàng ta có nửa canh giờ mà đã sẩy thai, trong lòng trẫm thấy bất an, sợ rằng nguyên do là vì nàng đã ngửi phải Hoan Nghi hương. Mỗi lần nhìn thấy nàng nhớ con khóc lóc, oán hận Hoa Phi, sự bất an của trẫm lại càng nặng nề, cảm thấy nàng trách Hoa Phi cũng như là trách trẫm, trách trẫm đã hại chết đứa con của chúng ta.”
Tôi không sao kìm nén nổi, trong lòng như có muôn vàn bộ vuốt sắc đang cào cấu, giằng xé, khiến tôi đau thắt từng cơn. Nước mắt lã chã tuôn rơi, tôi chỉ biết ra sức nắm chặt lấy vạt áo y mà khóc nghẹn ngào, không nói nổi một lời.
Giọng nói của y nặng nề như mảnh rừng đọng đầy tuyết trắng: “Nàng có cảm thấy trẫm không phải là một người cha tốt không?”
Tôi lắc đầu buồn bã. “Không…” Hồi lâu sau mới khó nhọc hé miệng: “Người làm vua cần có sự quyết đoán của người làm vua…”
Y vỗ nhẹ lên bờ vai tôi, cất giọng đau thương: “Trẫm cũng có sự bất lực của trẫm. Hoa Phi không thể có con, bằng không một khi nàng ta sinh hạ hoàng tử, Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung nhất định sẽ đưa đứa bé đó lên ngôi đế, như vậy ngay đến chỗ dung thân, trẫm cũng chẳng còn. Nhưng như lời nàng nói, trẫm lại không thể không sủng hạnh nàng ta để xoa dịu lòng người. Trẫm đưa ra hạ sách như vậy, không ngờ lại làm liên lụy đến nàng.”
Tôi đột nhiên nhớ lại một chuyện, mở to hai mắt, kinh hãi nói: “Vậy năm xưa Hoa Phi sẩy thai…”
Y chậm rãi gật đầu. “Lần đó Đoan Phi đã phải gánh tiếng oan.”
Tôi rơi lệ nói: “Chuyện này rõ là cực kỳ cơ mật, sao Hoàng thượng lại nói với thần thiếp?”
Trong ánh mắt y thấp thoáng ánh lệ. “Trẫm là một vị vua nhưng đồng thời cũng là một người cha. Trẫm giết chết đứa con của mình, há có thể không đau đớn?” Y nghiêng đầu qua một bên. “Bao nhiêu đứa con của trẫm đều không giữ được, lẽ nào chính là vì sự báo ứng của ông trời?”
Những lời này khiến tôi nhớ đến cuộc đối thoại giữa Hoàng hậu và y trong hôm tôi mất con, sự đau đớn và sợ hãi trong lòng càng thêm sâu sắc. “Hoàng hậu nương nương… cũng biết việc này sao?”
Y thở dài một tiếng.“Phải, đó là thuốc do Nghi Tu đích thân chuẩn bị.” Tiếng thở dài đó như một tảng đá lớn nặng nề đè xuống trái tim tôi, y nói tiếp: “Trẫm thân là thiên tử, nhưng cũng có vô khối chuyện không thể làm, nàng có hiểu không?”
Tôi vẫn nghẹn ngào khóc lóc, nhưng khóc lóc oán hận thì có ích gì? Đứa con của tôi thật sự đã không còn trên đời này nữa. Hiện thực ghê sợ dần được hé lộ trước mắt tôi, mà đây chẳng qua chỉ là một góc u tối trong cuộc sống ở chốn hậu cung rộng lớn này. Cho dù Hoa Phi lòng dạ tàn độc nhưng ả cũng có chỗ đáng thương.
Tôi cố nín nhịn cơn chua xót sục sôi trong lòng, y là kẻ quân vương, thứ y muốn có nhất là thiên hạ. Đến Đường Thái Tông còn gây ra biến cố Huyền Vũ Môn, đến Đường Huyền Tông còn ép chết cô ruột Thái Bình Công chúa và ba đứa con ruột của mình cơ mà.
Tôi dằn lòng, lạnh lùng nói: “Không thể không giết.”
Lời này vừa nói, đầu gối tôi bất giác trở nên mềm nhũn. Tôi có thể nói gì đây, phản bác gì đây? Cái chết của đứa bé trong bụng Hoa Phi y biết, Hoàng hậu biết, chắc hẳn Thái hậu cũng có biết. Tôi có thể có dị nghị gì được? Huống chi đây là chuyện từ bao nhiêu lâu trước đây rồi.
Mà bàn tay tôi cũng đâu phải chưa từng dính máu.
4
Sau khi bước chân qua cánh cửa hậu cung, tôi sớm đã không còn là cô bé Chân Hoàn ngây thơ, ương bướng ngày xưa nữa rồi.
Tôi không phải là một nữ tử lương thiện, đơn thuần. Tôi đã ép Tần Phương nghi và Lệ Quý tần phát điên, còn chính miệng hạ lệnh thắt cổ chết Dư thị. Tôi cũng nào có trong sạch và vô tội gì. Giống như bao con người đang sống và sống một cách thoải mái trong cung, tôi cũng phải đạp lên thân xác của người bên cạnh mà sống.
Còn sự oán hận đối với Huyền Lăng sẽ chỉ xé tan tôi, bức bách tôi đến mức không còn đường nào để đi, cũng không có đường lùi.
Y nói: “Hoàn Hoàn, nếu trẫm không nói với nàng, cái chết của đứa bé rốt cuộc sẽ trở thành gút thắt giữa trẫm vààng.”
Y cũng chỉ vô tình thôi, tôi có thể làm gì? Gút thắt về việc mất con đã được cởi bỏ phần nào sau những lời chân thành này, và tôi cũng chỉ có thể tha thứ cho y, tha thứ cho sự bất lực và bất đắc dĩ của y. Nước mắt lã chã rơi, tôi chậm rãi nói: “Nếu không vì Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung, Hoàng thượng cũng không cần làm như vậy; nếu không vì sự ngang ngược, tàn độc của Hoa Phi, đứa bé trong bụng thần thiếp cũng sẽ không bị như thế.” Thoáng dừng lại, tôi nói tiếp: “Nhưng sau này, Hoàng thượng nhất định phải trả lại công đạo cho thần thiếp.” Y nghiêm túc nói: “Trẫm hứa với nàng.”
Tôi cố gắng gật đầu thật mạnh, cả thể xác và linh hồn đều mỏi mệt, cuối cùng đưa tay tới ôm lấy y, rơm rớm lệ nói: “Tứ lang!”
Tiếng gọi lần này hoàn toàn thật lòng. Đã lâu lắm rồi, tôi không thật lòng gọi y như vậy, khuôn mặt y lộ rõ nét chấn động và vui mừng, cúi xuống hôn tôi. Nụ hôn ấy nóng bỏng mà quen thuộc, loáng thoáng như của ngày xưa, nhưng rõ ràng đang diễn ra trong ngày hôm nay, chính vào thời khắc này.
Y rất chân thành, chân thành một cách bất ngờ, khiến sự khúc mắc giữa tôi và y giảm bớt đi nhiều, làm tăng thêm sự thấu hiểu giữa hai chúng tôi.
Nơi đáy lòng tôi thầm thở dài một tiếng, tôi lặng lẽ nhắm mắt lại.
Dưới vầng trăng sáng, tôi cũng ôm chặt lấy y, dịu dàng đáp lại sự nhiệt tình có chút thô bạo của y. Sự thấu hiểu lúc này đủ để duy trì mối quan hệ giữa hai chúng tôi, giúp chúng tôi có thể cùng nhau tiến thoái vờ ở bên nhau trong những ngày tháng sau này.