“Cây thấp lè tè mà quả sai trĩu trịt,
Chim công hiền lành mà xòe đuôi rực rỡ;
Chỉ có bậc hiền nhân mới tài đức vẹn toàn,
Chỉ có loài tuấn mã mới phi nhanh như bay.”
(Cách ngôn Sakya)
Những ngày sau đó, tôi chỉ cho phép Yamkhin mỗi ngày được đến thăm tôi một lát, tất cả những cô hầu mà Kangtsoban đưa đến từ Shalu tôi đều không gặp. Tôi biết Yamkhin là tai mắt của Jichoi ở Sakya nên tôi buộc phải để cô ta thấy tôi an toàn, khỏe mạnh, nếu không Jichoi sẽ sinh nghi. Mỗi lúc Yamkhin đến thăm, tôi đều hết sức thận trọng, không để cô ta phát hiện ra tôi đã mang thai, tránh việc Jichoi biết được, sẽ cử thầy thuốc đến khám xét.
Kháp Na nhìn anh trai, băn khoăn:
- Đại ca, Đại hãn nhớ huynh đúng là chuyện rất quan trọng, nhưng đâu nhất thiết phải lập tức lên đường. Huynh gấp gáp như vậy, phải chăng còn vì việc khác?
Vẻ mặt Bát Tư Ba bỗng trở nên trầm lặng:
- Drakpa Odzer cho người gửi thư mật về báo với ta rằng, pháp vương Chongi của phi Phaktru Kagyu đã đến Trung Đ, hiện đang trú ngụ trong cung điện của Đại hãn. Ông ta giỏi ăn ni, nhiu phép thuật nn rt đợc lòng Đại hãn.
Khp Na kinh ngạc:
- Ông ta đến đ khi no? V sao phi Sakya khng h hay biết chuyện ny?
- Ông ta m thầm đến đ, mục đích rt rõ rng: mun thừa dịp ta khng c mặt ở Trung Đ, ginh ly sự tín nhiệm của Đại hãn, hòng thay thế địa vị của phái Sakya!
Bát Tư Ba vô cùng lo lắng:
- Ta bảo Rinchen ở lại Trung Đô là để giữ gìn và duy trì sự ủng hộ của Đại hãn đối với giáo phái chúng ta. Có điều, Rinchen tuy uyên thâm Phật pháp nhưng lại không giỏi ứng biến, khó mà đối phó được với Chongi. Drakpa Odzer rất lo lắng nên mới viết thư mời ta về Trung Đô gấp, lại đúng lúc Đại hãn muốn triệu ta về, ta cũng đã hoàn thành xong hệ thống chữ viết Mông Cổ. Chuyến đi lần này là hoàn toàn hợp tình hợp lý.
Kháp Na vẫn đầy trăn trở:
- Nhưng ở đây còn biết bao việc chưa xong. Thành trì của giáo phái còn chưa khai công, hai phái Drikung và Phaktru tuy bề ngoài chịu khuất phục nhưng vẫn ngấm ngầm giở trò phá hoại, chống đối. Việc thống nhất đất Tạng vẫn bộn bề, dang dở!
- Thế nên ta muốn đệ ở lại. Lúc ta vắng mặt thì đệ sẽ là trụ cột của giáo phái, mọi việc lớn bé sẽ do đệ quyết định. – Bát Tư Ba nắm chặt tay em trai, xúc động. – Ta biết đệ không muốn nhưng đệ buộc phải thay ta hoàn thành những phần việc còn dang dở này. Kháp Na, hãy hứa với ta, giúp ta gánh vác trọng trách này!
Kháp Na vẫn rất bối rối:
- Đại ca…
- Ta hứa với đệ, sau khi đến Trung Đô và hoàn tất mọi việc, ta sẽ lập tức quay về Sakya, giải thoát đệ khỏi trách nhiệm nặng nề này.
Rồi chàng quay sang ngắm nghía bụng bầu của tôi, ánh mắt tràn đầy hy vọng:
- Đến lúc đó, có lẽ cháu trai của ta đã biết gọi “bác ơi” rồi!
Kháp Na khẳng khái đáp:
- Huynh cứ yên tâm về Trung Đô, đệ nhất định sẽ làm tròn trách nhiệm.
Bát Tư Ba quyết định ngày 25 tháng 6 sẽ khởi hành về Trung Đô. Trước ngày lên đường, Kháp Na bận rộn không ngơi chân ngơi tay, vì phải chuẩn bị hành trang cho anh trai và tiếp quản mọi công việc của Lâu Cát nên thời gian chàng dành cho tôi rất ít. Tôi không thể ra khỏi Lang Như Thư Lầu nên đành đi dạo một mình trong sân vườn, vừa đi vừa trò chuyện với em bé trong bụng để giết thời gian.
Một ngày trước khi Bát Tư Ba lên đường, lòng tôi phấp phỏng lo âu. Tôi rất muốn đến gặp để chào tạm biệt chàng. Từ Sakya đến Trung Đô, cả đi vả về cũng phải mất hai năm, Bát Tư Ba còn phải ở lại đó một thời gian nữa, điều đó có nghĩa, phải chừng ba năm sau, tôi mới gặp lại chàng. Ba năm tới đây, vì phải nuôi con nhỏ, tôi sẽ không thể làm người đưa tin cho hai anh em họ như trước kia được nữa. Cứ nghĩ đến đây, lòng tôi thắt lại, trái tim hoang mang, trống trải. Ở bên anh em họ hơn hai mươi năm, chưa bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ có lúc mình phải xa Bát Tư Ba lâu đến vậy.
Kháp Na không có nhà, mình tôi thơ thẩn ngoài vườn. Vì muốn tâm trạng của tôi được thoải mái, Kháp Na đã nhờ Kunga Zangpo tìm kiếm loài hoa đẹp nhất ở mãi cùng Tiền Tạng, đem về trồng trong vườn. Lúc này đang là mùa hạ, mùa dễ chịu nhất ở Sakya, hoa nở khắp vườn, cây xanh lá biếc, hương thơm ngào ngạt nhưng vẫn không sao khiến tâm trí tôi thư thái được. Tôi nhớ Bát Tư Ba, tôi muốn gặp chàng! Nỗi niềm thầm lặng mà da diết ấy cứ cuồn cuộn trào dâng trong tôi, không sao nguôi ngoai.
Đang định niệm chú hóa thành Kangtsoban để đi gặp Lâu Cát, vừa quay đầu lại, tôi đã bắt gặp bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm ngoài cổng, vẫn là bóng dáng cao gầy, cô độc ấy, vẫn đôi mắt trong suốt, long lanh ấy đang nhìn tôi chăm chú, đôi đồng tử u buồn như sương mai trên dãy núi phía xa. Tôi mãi mãi không bao giờ hiểu hết những điều thầm kín ẩn chứa trong đôi mắt ấy, nhưng lúc nào đôi mắt ấy cũng khiến tôi nhớ nhung da diết.
- Lâu Cát...
Nước mắt trào ra, tôi vội vàng quay đi, lau nước mắt rồi ôm bụng ra đón chàng.
- Sao chàng lại đến đây? Kháp Na đâu rồi?
- Kháp Na đang bàn giao chìa khóa nhà kho cho bản khâm nên chỉ có mình ta đến.
Chàng tựa người vào cánh cổng, bối rối cúi nhìn ngón chân mình, khẽ nói:
- Ta... ta muốn gặp riêng em để chào từ biệt.
Tim tôi đập mạnh, sống mũi cay cay. Kể từ ngày làm vợ Kháp Na, tôi dành trọn tâm tư cho chàng, chưa khi nào gặp riêng Lâu Cát thế này. Tuy trái tim vẫn đập rộn ràng mỗi lúc nhìn thấy bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm ấy như một thói quen khó bỏ nhưng tôi biết, chúng tôi đã không còn duyên nợ gì, chỉ có thể thương nhau, nhớ nhau như những người bạn, người thân mà thôi.
Tôi sụt sịt, xúc động:
- Trên đường đi chàng phải giữ gìn sức khỏe, chịu khó ăn uống, ngủ nghỉ thật đầy đủ. Đừng lo lắng chuyện ở nhà, Kháp Na sẽ xử lý tốt mọi việc.
Chàng vẫn cúi đầu như thế, chỉ ậm ừ đáp lại mỗi lời dặn dò của tôi. Thực ra, tôi biết chàng sẽ không nghe tôi đâu. Tôi ngước lên nhìn gương mặt gầy guộc, tiều tụy của chàng, không nén nổi tiếng thở dài:
- Lâu Cát, chỉ cần hứa với em một điều thôi: đừng để gầy thêm nữa.
Cuối cùng thì chàng cũng chịu ngẩng lên, ánh mắt lấp lánh như muốn chiếu rọi đến tận cùng u tối. Rất lâu sau, chàng mới quay đi, cất giọng thì thào:
- Được, ta hứa với em!
Kể từ lúc đó, hai chúng tôi hầu như không nói với nhau câu gì, nhưng cả hai đều không muốn thốt lên lời giã biệt, cứ lặng lẽ như thế. Mặt trời ngả về tây, cái nóng oi bức của mùa hạ được gió chiều làm cho dịu lại. Vạt áo tăng ni của chàng bay bay theo gió, dưới ánh hoàng hôn ngày muộn, bóng dáng ấy như còng xuống rất nhiều bởi trên vai chất đầy trọng trách. Gương mặt cương nghị, thâm trầm thoáng nét hiền hòa và nụ cười hồn hậu. Chàng khẽ bảo:
- Lam Kha, ta đi đây!
Tôi nắm chặt bàn tay, móng tay cắm vào da thịt, truyền đến cảm giác nhói đau. Chàng lùi lại, đặt tay lên thành cửa, ánh mắt không rời khỏi tôi, bàn chân dùng dằng không dứt:
- Chia tay lần này, không biết khi nào mới có thể gặp lại. Điều khiến ta nuối tiếc nhất là không được tận mắt chứng kiến ngày đứa bé chào đời.
Tôi cuống quýt dõi theo bàn chân chuẩn bị bước qua bậc cửa của chàng, vội vã gọi:
- Trước lúc ra đi, chàng có muốn chào em bé không?
Đôi mắt chàng mở to kinh ngạc, nụ cười rạng rỡ trên môi, niềm hân hoan chẳng thể che giấu. Chàng rảo bước lại gần tôi, ánh mắt đổ dồn vào cái bụng bầu của tôi, cánh tay chầm chậm chìa ra, xúc động, run rẩy. Nhưng ngay khi sắp chạm tới, ánh mắt chàng đột nhiên thoáng vẻ kinh hãi, hoảng sợ, rồi chàng lập tức rụt tay về, hơi thở hổn hển. Chàng lùi lại, lấy lại vẻ mặt điềm tĩnh như thường lệ:
- Ta là tăng nhân đã thọ giới Cụ túc, không thể có cử chỉ khiếm nhã đó được.
Tôi ngỡ ngàng, lắc đầu cười buồn:
- Em không có ý gì cả. Em chỉ nghĩ chàng và Kháp Na đều rất mực yêu thương đứa bé này nên hẳn rất muốn biết liệu nó có được an toàn, khỏe mạnh hay không thôi.
Ánh hoàng hôn trải một đường viền vàng son trên lớp lớp tầng mây xa tít tắp, ánh sáng nơi đường chân trời dần tt lịm. Đi mt chng rực sng nhức nhi. Chng chầm chậm cúi gập ngời trc ti:
- Lam Kha, hãy v Khp Na, v Sakya v... v ta m sinh hạ đứa trẻ ny thật khỏe mạnh, an ton nhé!
Nc mt ti tro ra, đy l lần thứ hai chng trịnh trọng cúi ngời trc ti thế ny. Lần đầu v Khp Na, lần thứ hai l v đứa trẻ.
Rồi chng hít một hơi thật sâu, thốt lên hai tiếng sau cùng:
- Bảo trọng!
Nói rồi, chàng quay đầu, rảo bước. Bóng dáng ấy đột ngột khuất sau cánh cổng, chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm nhuộm trong nắng vàng, nửa vai bên này hiển hiện rõ nước da bánh mật khỏe khoắn. Tôi thì thầm:
- Lâu Cát, hãy bảo trọng!
Tôi thẫn thờ ngước nhìn lên, nền trời đã ngả từ màu xanh lam sang gam màu tối sẫm. Gió nhẹ dìu dặt thổi tới, mang theo hương hoa nồng nàn, đủ khiến người ta nghiêng ngả. Tôi giật thót mình khi nhận ra có ai đó xuất hiện, lập tức quay đầu lại. Kháp Na đang đứng ngoài cổng, chăm chú nhìn tôi. Tôi thở phào:
- Kháp Na, chàng về từ khi nào vậy?
Thính giác của tôi đã mất đi sự nhạy bén nên ngay tiếng bước chân của chàng cũng không nhận ra.
Chàng trầm ngâm một lúc mới trả lời:
- Ta vừa về tới.
Chàng chậm rãi bước lại gần tôi, nhìn thấy đám hoa vàng đang nở rộ nơi góc tường, chàng liền đưa tay ngắt một bông, cài lên tóc tôi:
- Loài hoa này tuy không đẹp nhưng mùi hương của nó rất nồng nàn. Kunga Zangpo bảo rằng, hoa này gọi là Tuyết Sơn Nhất Chi Khao [1], chỉ mọc ở vùng Nyingchi thuộc đất Tạng. Để đưa giống hoa này về trồng ở Sakya, Kunga Zangpo đã bỏ ra rất nhiều công sức.
Tôi ngắm nhìn những bông hoa màu vàng tươi, rung rinh trong gió, khẽ lắc đầu:
- Em cảm thấy hương hoa này quá nồng, ảnh hưởng rất nhiều đến khứu giác của em. Tuy chàng vì em mới tốn công tốn sức như vậy nhưng em thấy lo, nhỡ xảy ra chuyện gì, mùi hương của loài hoa này sẽ trở thành chướng ngại vật.
- Khứu giác của em mất đi sự nhạy bén vì mang bầu, đừng đổ lỗi cho hoa chứ! Ta thấy đất đai ở Sakya quá ư khô cằn, được ngày ngày ngắm nhìn hoa cỏ rực rỡ thế này thật là sảng khoái.
Chàng tươi cười ôm vai tôi, dắt tôi vào phòng.
- Đừng nghĩ ngợi nhiều, sau khi sinh con, khứu giác và thính giác của em tự khắc sẽ khôi phục như xưa.
Tuy nói vậy nhưng không hiểu sao mí mắt tôi cứ giật liên tục. Có điều gì đó khiến tôi bồn chồn không yên. Và nỗi âu lo đeo đẳng ấy chỉ năm ngày sau đã ứng nghiệm, như sét đánh, gây nên nỗi đau đớn không bao giờ nguôi ngoai trong cuộc đời tôi.
Ngày Bát Tư Ba lên đường, tôi không ra khỏi Lang Như Thư Lầu, chỉ có Kháp Na đi tiễn. Kháp Na cưỡi ngựa theo đoàn người rất lâu, mãi đến đoạn núi non điệp trùng, núi tuyết đan cài thảo nguyên mênh mông, hai anh em họ mới bịn rịn từ biệt. Bát Tư Ba căn dặn chu đáo, Kháp Na rơi nước mắt hết lần này đến lần khác. Không giống những lần chia ly trước đây, vì lần này trên vai mỗi người đều mang những trọng trách lớn lao, mà họ lại khó lòng trao đổi tin tức với nhau giữa nghìn trùng xa cách.
Bát Tư Ba phải thúc giục mãi, Kháp Na mới chịu thúc ngựa quay về Sakya. Bát Tư Ba đứng trên đồi cao, dõi theo bóng em trai cứ xa dần, xa dần rồi khuất hẳn. Còn tôi, một mình ngồi trong Lang Như Thư Lầu, mí mắt cứ giật liên tục, lòng bồn chồn, lo lắng. Hương hoa ngào ngạt ào đến, tôi ngước nhìn những tầng mây xám ùn ùn kéo tới, che khuất vầng thái dương, kéo theo đó là tiếng sấm sét rền vang đất trời. Bầu không khí trở nên ngột ngạt vô cùng, mây đen bao phủ khắp vùng Sakya.
Hai anh em họ không hề biết rằng, cuộc “sinh ly” này đã trở thành “tử biệt”.
~.~.~.~.~.~
- Tôi có một thắc mắc. Với sự nâng đỡ, ủng hộ của triều đình nhà Nguyên, phái Sakya đã xây dựng chính quyền của giáo phái mình trên đất Tạng, nhưng dường như quyền hành của họ hết sức hạn chế. Này nhé, phái Drikung và Phaktru có thể ngang nhiên chống đối Sakya, các giáo phái và vạn hộ hầu khác đều là những thế lực rất mạnh trong khu vực họ cai quản, thế nên đôi lúc Bát Tư Ba không thể không xuống nước với họ. Vậy thì, phải chăng chính quyền Sakya chỉ có quyền lực trên danh nghĩa?
- Những điều cậu vừa nói không phải không có lý nhưng không thể căn cứ vào đó để kết luận chính quyền Sakya chỉ là một chính quyền trên danh nghĩa.
Tôi ngẫm ngợi một lát, nói tiếp:
- Đúng là những giáo phái và vạn hộ hầu này có quyền tự quyết độc lập trong phạm vi cai quản của mình, thậm chí một số giáo phái còn cử người trực tiếp đến chính quyền trung ương để bái kiến Nhà vua, nâng cao thanh thế của giáo phái mình. Đó là vì Tây Tạng đã bị chia năm xẻ bảy suốt thời gian dài nên Bát Tư Ba không thể lập tức tước bỏ quyền lợi của họ. Chàng mới chỉ tước đi một phần nhỏ quyền lợi của họ mà gây nên cuộc phân tranh kéo dài mấy chục năm đấy thôi.
- Cũng phải, có kẻ nào bằng lòng san sẻ miếng ngon của mình đâu chứ!
- Bởi vậy, chính quyền Sakya mà Bát Tư Ba xây dựng nên là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh lịch sử thực tế của Tây Tạng khi đó. Về sau, phái Phaktru thời nhà Minh, phái Gelug thời nhà Thanh đã tiếp tục duy trì mô hình cai trị này của chính quyền Sakya, tức là vẫn duy trì một phần quyền tự quyết và đất đai sở thuộc của các giáo phái khác.
Tôi chuyển đề tài, đưa ánh mắt sắc lẻm về phía chàng trai trẻ:
- Không nên thấy các giáo phái khác vẫn có được đất đai tự quản mà đánh giá rằng chính quyền Sakya chỉ là chính quyền trên danh nghĩa. Điều quan trọng nhất là, triều đình nhà Nguyên đã trao quyền quản lý các giáo phái và mười ba vạn hộ hầu này vào tay phái Sakya, chứ không phải bất cứu giáo phái nào khác. Tuy một số giáo phái đã được sắc phong nhưng những tước vị chẳng thể so sánh với quyền lực của phái Sakya cả về phạm vi và mức độ. Những giáo phái này buộc lòng phải tuân thủ mệnh lệnh của cả triều Nguyên và chính quyền Sakya. Tuy không hài lòng, nhưng họ cũng chỉ có thể âm thầm phản đối, không kẻ nào dám công khai chống đối. Bởi vì, hành động đó sẽ bị coi là chống lại người Mông Cổ, có thể sẽ phải chuốc lấy sự trừng phạt thảm khốc.