Vừa đi vừa nhảy tránh những vũng nước mưa, những người đàn ông lần lượt đến, chân không, và ống quần thì xắn cao đến đầu gối.
Viên thị trưởng lệnh cho vợ đãi họ cà phê và những lát chuối xanh rán trong khi hắn phát đạn cho họ để nạp vào súng. Ba băng kép, cùng với một nắm xì gà, diêm, và một chai Frontera cho mỗi người.
“Tất cả đây đều do Nhà nước trả tiền. Khi nào quay về, các người sẽ phải ký vào hóa đơn cho ta.”
Những người đàn ông ăn và uống ngụm rum đầu tiên trong ngày để đốt nóng bộ máy cơ thể mình.
Antonio José Bolívar Proaño phần nào vẫn tách biệt khỏi nhóm và không hề chạm đến cái đĩa thiếc.
Lão đã ăn sáng từ sớm và lão biết sẽ khó chịu biết bao nhiêu nếu phải đi săn với một cái bụng no nê. Một người đi săn lúc nào cũng nên lên đường với cái bụng hơi đói một chút, vì cơn đói sẽ chuốt sắc các giác quan. Lão mài con dao rựa, chốc chốc lại nhổ nước bọt lên lưỡi dao, rồi nheo một mắt lại nhìn nó để kiểm tra độ sắc.
“Vậy kế hoạch của ông là thế nào?” một người hỏi.
“Đầu tiên là đến chỗ Miranda. Sau đó hẵng xem đã.”
Tên béo rõ ràng không phải là một nhà chiếc lược cực kỳ. Sau khi kiểm tra một cách phô trương khẩu Smith&Wesson vốn được dân địa phương gọi là mitigueso, hắn tự nhồi mình vào bộ đồ vải dầu màu xanh làm nổi rõ thêm những đường nét phì nộn của hắn.
Cả bốn người kia, không ai nói một câu gì. Họ đang tận hưởng niềm thích thú ngắm hắn túa mồ hôi như một cái vòi hoen gỉ không ngừng nhỏ nước.
Ông sẽ thấy ngay thôi, Cóc Nhớt ạ. Ông sẽ thấy nóng bức đến mức nào trong cái áo vải dầu đó. Rồi ông sẽ tự nướng mình đến nỗi nổ cả hai hòn ra trong ấy mất thôi.
Chỉ trừ viên thị trưởng, ai cũng đi chân không. Mấy chiếc mũ rơm đã được cho vào túi nhựa; xì gà, đạn, và diêm nằm an toàn trong cái túi con bằng vải bạt tráng cao su. Họ khoác những khẩu súng săn chưa nạp đạn lên vai.
“Xin thứ lỗi, nhưng đôi ủng cao su này sẽ gây khó khăn khi đi lại đấy ạ,” một người lên tiếng.
Tên béo vờ như không nghe thấy và phát lệnh lên đường.
Họ nhanh chóng bỏ ngôi nhà cuối cùng của El Idilio lại phía sau và tiến thẳng vào rừng rậm. Ở đó mưa bớt sầm sập hơn nhưng nước mưa thì chốc chốc lại ào xuống từng dòng nặng trĩu. Cơn mưa không thể nào xuyên qua nổi vòm lá dày của rừng già. Nước mưa tích tụ lên trên lá, và khi các cành cây không chịu nổi sức nặng nữa thì đổ ào xuống, mang theo đủ thứ mùi.
Tiến độ của họ khá chậm chạp vì bùn đất và những cành, những cây cứ xòa xuống lối đi nhỏ hẹp bằng một thứ sinh lực tươi mới.
Họ chia thành các nhóm nhỏ để đẩy nhanh tốc độ. Phía trước, hai người mở lối bằng dao rựa, theo sau là viên thị trưởng thở phì phò và ướt đầm đìa từ trong ra ngoài, và hai người còn lại đi sau rốt thì phát sạch những lá cỏ đã trốn thoát khỏi hai lưỡi dao đi trước.
Antonio José Bolívar là một trong hai người gác phía sau.
“Nạp đạn đi. Nên đề phòng là hơn,” tên béo ra lệnh.
“Tại sao chứ? Tốt hơn là nên giữ cho đạn khô trong túi.”
“Ở đây ta là người ra mệnh lệnh.”
“Bất cứ điều gì ông nói thôi, thưa quý ông. Suy cho cùng, đạn dược là tiền của Nhà nước mà.”
Bốn người vờ như nạp đạn vào súng.
Sau năm giờ đi bộ, họ mới giải quyết được hơn một kilômét một chút. Hết lần này đến lần khác, họ phải dừng lại chỉ vì đôi ủng của tên béo. Chân hắn liên tục ngập lút vào trong bùn cùng tiếng kêu ùm ụp của đất nhão, cứ như là nó sắp nuốt chửng cái thân thể phì nộn ấy, và hắn cứ luống cuống ngọ nguậy thì thụp khiến thân người càng chìm xuống sâu hơn nữa. Cả bốn người phải tóm chặt cánh tay hắn mà kéo lên, để rồi chỉ đi được thêm vài bước nữa là hắn lại ngập trong bùn đến tận đầu gối.
Đột nhiên, hắn mất một chiếc. Cái chân không của hắn nhấc lên, tái nhợt và nhẹ bẫng, nhưng để giữ thăng bằng hắn lập tức cắm lút chân xuống cái hố mà chiếc ủng đã biến mất.
Lão già và người cùng đi phía sau cố giúp hắn thoát ra.
“Ủng của ta! Tìm ủng cho ta,” tên béo ra lệnh.
“Bọn tôi đã báo trước với ông là chúng sẽ cản trở mà. Nó mất rồi. Bắt chước bọn tôi đây này; dẫm lên cành cây khô mà đi. Ông sẽ thấy đi chân không dễ hơn nhiều, và nhanh hơn nữa.”
Nổi giận, viên thị trưởng cúi sấp xuống, cố gắng đào bùn lên bằng hai tay không. Vô ích. Hắn chỉ bốc lên được vài nắm bùn đặc đen nhớt, chẳng thấm tháp gì đối với mặt bùn phẳng lặng.
“Nếu là ông tôi sẽ chẳng làm thế,” một người nói. “Ông không biết được cái giống kinh dị gì đang náu dưới ấy đâu.”
“Đúng vậy,” lão già thêm. “Như bọ cạp chẳng hạn. Chúng tự chôn mình dưới ấy suốt cho tới khi mưa tạnh, và chúng không thích bị làm phiền đâu. Bọn ấy rất hung dữ.”
Viên thị trưởng, vẫn còn lom khom, phóng về phía họ một ánh mắt căm thù.
“Chúng mày nghĩ tao nuốt trôi những lời lẽ vớ vẩn ấy à? Chúng mày định dọa tao bằng mấy chuyện đàn bà xó bếp đấy sao?”
“Không, thưa quý ông. Hãy đợi một chút.”
Lão già chặt một cành cây, chẻ một đầu thành cái nĩa, rồi đâm nhiều lần xuống đám bùn nổi bọt. Khi lão nhấc nó lên và cẩn thận gạt sạch bằng dao rựa, một con bọ cạp lớn rơi xuống đất. Mình nó đầy bùn, nhưng cái đuôi mang nọc độc dựng thẳng đứng thì trông rất rõ.
“Ông thấy chưa? Với mồ hôi mồ kê thế kia thì ông cũng chỉ là một mẩu thức ăn mặn cho cái giống này thôi.”
Viên thị trưởng không nói năng gì nữa. Hắn chằm chằm nhìn con bọ cạp đang cố lặn trở lại xuống mặt bùn tĩnh lặng và bình yên của nó, rút khẩu súng lục ra, xả liền sáu viên đạn vào con côn trùng. Rồi, hắn tháo chiếc ủng bên chân kia ra, liệng vào bụi cây.
Bây giờ, cùng với tên béo đi chân không, tốc độ đi của cả nhóm đã nhanh hơn, nhưng cũng chỉ được một chút thôi, vì họ phải tốn thời gian leo dốc. Tất cả đều trèo lên rất dễ dàng rồi dừng lại để nhìn viên thị trưởng hì hục với cả tứ chi, tiến hai bước thì trượt lùi bốn bước.
“Khi leo dốc thì phải dùng mông ấy, thưa quý ông,” một người gào lên. “Nhìn bọn tôi làm đây này. Xoải chân thật rộng ra trước khi đặt bàn chân xuống đất. Ông đang đi hai đầu gối bằng nhau cứ như một bà sơ đi qua sới chọi gà vậy. Dang rộng ra và dùng cái bàn tọa ấy.”
Tên béo, hai tròng mắt đã hằn những tia máu đỏ căm thù, cố bò lên theo cách của mình, nhưng thân hình húp híp khiến hắn cứ tụt xuống mãi, cho tới khi những người đàn ông phải xếp thành hàng mà kéo hắn lên, chuyền hắn từ tay người nọ sang tay người kia.
Đoạn đường xuống dốc thì khá nhanh. Viên thị trưởng bắt bốn người ngồi xuống, hoặc phía trước hoặc phía sau hắn. Hắn luôn đến đích đầu tiên, mình đầy những bùn và vụn cây cỏ.
Sẩm tối, những đám mây giông lớn tụ lại trên trời. Họ không nhìn thấy, nhưng đoán được sự có mặt của chúng nhờ bóng tối phủ xuống khiến rừng già càng trở nên khó thâm nhập.
“Chúng ta không thể đi tiếp được. Không thấy cái gì hết,” viên thị trưởng nói.
“Có lý đấy,” lão già đáp.
“Được, vậy chúng ta dừng ngay ở đây,” viên thị trưởng ra lệnh.
“Mọi người ở lại đây. Tôi sẽ đi tìm một chỗ nào an toàn. Không lâu đâu. Hút thuốc đi, để tôi còn tìm được đường quay lại.” Lão già đưa khẩu súng của mình cho một người trong nhóm. Rồi lão đi, bóng tôi nuốt chửng lão, còn những người ở lại đứng túm tụm hút xì gà, khum khum lòng bàn tay che chắn.
Lão không tốn nhiều thời gian tìm ra khu đất bằng phẳng. Lão đi quanh chỗ ấy, đo đếm bằng sải chân và thăm dò đám cây dại bằng lưỡi dao. Chợt con dao rựa dội lại một tiếng rung kim khí và lão già thở phào thỏa mãn. Lão tìm đường trở lại chỗ cũ nhờ mùi thuốc lá, báo rằng đã tìm được chỗ có thể nghỉ đêm.
Tất cả cùng đến khu đất cao ấy, và hai người bắt đầu đi chặt những lá chuối dại. Số lá ấy họ phủ lên mật đất và ngồi xuống thưởng thức một phần Frontera xứng đáng.
“Tiếc là chúng ta không đốt được một đống lửa. Sẽ an toàn hơn nhiều nếu có một đống lửa,” viên thị trưởng phàn nàn.
“Như thế này tốt hơn,” một người nói.
“Ta không thích thế này. Ta không thích bóng tối. Ngay cả bọn man rợ cũng tự biết bảo vệ bằng lửa cơ mà,” tên béo nói bằng giọng nài xin.
“Nghe đây, thưa quý ông, ở đây chúng ta được an toàn. Nếu con thú kia có lảng vảng đâu đó gần đây, chúng ta không thấy được nó, nhưng nó cũng chẳng thấy gì hết. Nếu đốt lửa lên, chúng ta sẽ cho nó cơ hội nhìn thấy chúng ta, mà chúng ta vẫn không thể thấy được nó vì bị ánh lửa làm lóa mắt. Đừng có lo nữa và cố ngủ đi. Tất cả đều cần nghỉ ngơi thật tốt. Và hơn cả là phải giữ yên lặng!”
Những người khác gật gù đồng ý với lão già và, sau một cuộc hội ý ngắn, đồng ý thay phiên nhau canh gác. Lão sẽ canh phiên đầu tiên và có trách nhiệm đánh thức người thay phiên mình.
Nỗi kiệt sức vì chuyến đi rừng nhanh chóng xâm chiếm tất cả. Họ nằm ngủ cuộn tròn hai tay ôm lấy hai chân, mũ che mặt. Tiếng mưa rơi khỏa lấp hơi thở khẽ khàng của họ.
Antonio José Bolívar ngồi khoanh chân, lưng tựa vào một thân cây. Chốc chốc lão vuốt ve lưỡi dao và lắng nghe chăm chú âm thanh của rừng già. Tiếng đập nước liên tục của một thứ gì đó rất lớn cho lão hay rằng họ đang ở gần một nhánh sông hoặc một khúc suối rộng. Vào mùa mưa, cứ mỗi cơn mưa lại dội vô số côn trùng trên cành cây xuống, và lũ cá lại được ăn uống no say. Chúng nhảy tưng lên vui sướng, tọng đầy bụng cho tới khi no nên thỏa mãn.
Lão vẫn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy một con cá sông thật sự. Hồi ấy đã lâu lắm rồi, khi lão còn là một tay mơ với rừng già.
Một chiều đi săn, lão ngửi thấy người mình bốc mùi vì đầm đìa mồ hôi, và khi lão tới gần một con suối, tất cả những gì lão ao ước chỉ là được dầm mình xuống nước. May thay, một người Shuar kịp thời trông thấy và hét lên.
“Đừng nhảy xuống. Nguy hiểm đấy.”
“Piranha ư?”
Anh chàng Shuar giải thích rằng chúng không phải là loài nguy hiểm. Piranha sống tập trung ở vùng nước sâu lờ đờ, không bao giờ ở nơi có dòng chảy nhanh. Chúng là loài cá biếng nhác và chỉ trở nên linh hoạt khi bị cơn đói thôi thúc hoặc khi thấy mùi máu. Rõ ràng là lão chưa bao giờ gặp vấn đề với cá piranha cả. Lão học từ người Shuar cách bôi nhựa cây cao su lên khắp người để khiến chúng phải tránh xa. Nhựa cao su rất ngứa ngáy, nóng rát, như chỉ chực lột da người ra, nhưng những phản ứng đầu tiên ấy biến mất ngay khi gặp nước mát, và lũ piranha bơi xa ra ngay khi chúng thoáng thấy có mùi ấy.
“Kinh khủng hơn cả piranha,” anh chàng Shuar nói, và với một cái khoát tay, anh chỉ về một chỗ trên mặt nước. Antonio José Bolívar nhìn thấy một thân hình tối sẫm dài hơn một mét vụt bơi qua.
“Cái gì thế?”
“Một con cá trê to.”
Một con cá khổng lồ. Sau này lão bắt được vài con cá trê dài đến hai mét, nặng phải hơn bảy mươi cân, và lão cũng phát hiện ra chúng vô hại, nhưng sự thân thiện của chúng lại dễ gây chết người.
Khi nhìn thấy có người bơi trong nước, chúng sẽ lao tới để vui đùa, chúng quẫy đuôi mạnh tới mức có thể làm gãy xương sống của người ta như chơi.
Có lẽ tiếng quẫy nước liên tục mà lão đang nghe thấy đây là của một con cá trên lớn đang nhét cho đầy bụng các loại mối, ong nghệ, bọ que, châu chấu, dế, nhện, hoặc những con rắn bay mảnh dẻ bị cơn mưa lớn cuốn trôi.
Đó là tiếng động đầy sức sống giữa đêm đen. Như người Shuar vẫn nói: Ban ngày là người và rừng. Ban đêm, người là rừng.
Lão lắng nghe chăm chú cho tới khi nó lặng dần.
Người gác kế tiếp thức dậy sớm. Vừa đi anh ta vừa vặn người khiến xương kêu răng rắc.
“Tôi ngủ đủ rồi. Đi nằm một chút đi. Chỗ tôi nằm còn ấm và dễ chịu đấy.”
“Tôi không mệt. Tôi thích ngủ lúc sáng sớm hơn.”
“Có cái gì nhảy nhảy trên nước phải không?”
Lão già vừa định kể cho anh ta về con cá, thì một tiếng động phát ra từ lùm cây cắt ngang.
“Lão có nghe thấy không?”
“Yên. Yên.”
“Có thể là gì được nhỉ?”
“Tôi không biết. Nhưng nó khá to. Đi gọi mọi người dậy nhưng đừng gây tiếng động đấy.”
Anh chàng chưa kịp đứng dậy thì cả hai đã bị lóa mắt bởi luồng ánh sáng trắng chói cùng bao nhiêu ánh phản chiếu từ lùm cây ướt đẫm.
Đó là viên thị trưởng, bị tiếng động đánh thức, đã mang cây đèn pin tới.
“Tắt đi,” lão già gằn giọng.
“Tại sao? Có gì đó ở đây, ta muốn xem đó là cái gì,” tên béo đáp lại, lia ánh đèn khắp tứ phía và lên đạn.
“Tôi nói là ông hãy bỏ cái của ấy xuống!” lão già hất cây đèn trên tay viên thị trưởng xuống.
“Lão làm cái quái…”
Lời của tên béo chìm đi trong tiếng đập cánh ồn ĩ, và một dòng chất lỏng hôi thối đổ xuống đầu tất cả.
“Xin chúc mừng. Chúng ta phải đi ngay, nếu không bọn kiến sẽ tới giành giựt chỗ cứt tươi này ngay tức thì.”
Viên thị trưởng đờ người không nói năng. Hắn mò mẫm lấy cây đèn và dò bám theo cả nhóm khi tất cả rời khỏi chỗ nghỉ đêm.
Mọi người nguyền rủa sự ngu ngốc của tên béo, lầm bầm trong hơi thở.
Họ đi thật xa, tới tận một khoảng rừng thưa, nơi cơn mưa ào ạt đổ xuống quất thẳng vào người.
“Cái gì thế? Chuyện gì vậy?” tên béo hỏi ngay khi hắn dừng lại.
“Cứt. Ông không ngửi được à?”
“Ta biết là cứt. Trên đó là một bầy khỉ à?”
Một màn sáng mờ đục bắt đầu rọi tỏa lên bóng dáng những người đàn ông và khoảng rừng xung quanh.
“Trong trường hợp nó còn có ích cho ông, thưa quý ông, thì khi nghỉ lại đêm trong rừng người ta phải chọn một chỗ có cây bị cháy hoặc cây đã hóa đá. Lũ dơi tụ tập ở đó, và chúng là loại chuông báo hiệu tốt nhất. Bằng cách bay đi theo hướng ngược với tiếng động chúng ta nghe được, những con thú nhỏ này sẽ cho ta biết tiếng động từ đâu đến. Nhưng quý ông đây, với chiếc đèn quý báu và cái mồm toang toác, đã xua chúng đi mất rồi, và chúng còn tưới đẫm phân lên bọn ta nữa chứ. Giống như tất cả các loài thú gặm nhấm khác, chúng rất nhạy cảm; chỉ cần một dấu hiệu nguy hiểm nhỏ nhất chúng cũng sẽ tống ra sạch sẽ những gì có trong người để được càng nhẹ càng tốt. Thôi, lau chùi cho sạch đi, kẻo bọn muỗi sẽ thịt ông đấy.”
Viên thị trưởng bắt chước mọi người gột sạch đám phân dơi hôi thối trên người. Khi tất cả xong xuôi, thì ánh sáng cũng đã đủ để họ tiếp tục hành trình.
Họ đi suốt ba tiếng đồng hồ, vẫn về hướng Đông, vượt qua những khúc suối rộng, các khe núi, những khoảng rừng thưa nơi họ vừa đi vừa ngửa cổ, há miệng đón nước mưa mát lạnh, cho đến khi gặp một cái vịnh bé, họ dừng lại kiếm thứ gì lót dạ.
Họ gom nhặt hoa quả và tôm càng, thứ tên béo đã từ chối không chịu ăn sống. Vẫn còn lèn mình trong bộ đồ vải da dầu màu xanh, hắn run rẩy vì lạnh và phàn nàn rằng không thể đốt lửa được.
“Sắp đến nơi rồi,” một người lên tiếng.
“Đúng vậy. Nhưng chúng ta sẽ đi tránh sang một bên, vòng đến đó từ phía sau. Sẽ dễ hơn nếu đi lần theo sông, nhưng nó là một con thú thông minh và hẳn đang chờ ở đó để khiến bọn ta bất ngờ,” lão già nhận định.
Những người khác đều đồng ý và vuốt xuôi đồ ăn cùng những ngụm Frontera lớn.
Khi họ nhìn thấy tên béo tất tả đi tới núp mình phía sau bụi cây gần đó, họ huých nhau.
“Quý ông đáng kính không muốn cho bọn mình thấy mông đít của hắn kìa.”
“Hắn ngu ngốc đến mức rồi sẽ ngồi lên một tổ kiến mà cứ tưởng là hố xí cơ đấy.”
“Tôi cá là hắn sẽ xin ít giấy chùi đít nữa cơ,” ai đó lại thì thầm, làm rộ lên những tiếng cười hức hức cố nén.
Sau lưng hắn, người ta pha trò chế giễu Cóc Nhớt, cái tên mà người ta chẳng bao giờ quên gọi mỗi khi vắng mặt hắn. Nhưng trận cười của họ bị cắt ngang bởi một tiếng hét kinh hoàng, ngay sau đó là một loạt súng bắn điên cuồng. Sáu phát hào phóng từ một khẩu súng ngắn giờ trơ nhẵn đạn.
Viên thị trưởng xuất hiện, vừa kéo quần vừa hét lên với họ.
“Đằng kia! Đằng kia! Ta đã trông thấy nó. Nó ở ngay phía sau, định tấn công ta, chắc có vài viên trúng nó rồi. Đằng kia! Đuổi theo nó, tất cả đuổi theo!”
Tất cả nạp đạn và nhanh chân đuổi theo phía tên béo chỉ. Họ bám theo vết máu rớt lộ liễu, thứ càng làm tăng thêm niềm háo hức của viên thị trưởng, và cuối cùng đến chỗ một con thú có cái mũi dài đang quằn quại giãy chết. Bộ lông lốm đốm màu vàng đẹp đẽ bị nhuốm đầy bùn và máu. Con vật nhìn họ với đôi mắt mở to và tiếng rên rỉ yếu ớt thoát ra từ cái mõm dài hình kèn trumpet.
“Nó là một con thú vòi. Tại sao ông không chịu nhìn trước khi bóp cò cái thứ đồ chơi chết tiệt kia hả? Giết thú vòi là điềm xấu lắm. Ngay cả bọn đần độn cũng biết rõ như vậy. Nó là con thú vô hại nhất trong khắp khu rừng này.”
Họ đều cúi đầu, động lòng trước số phận tội nghiệp của con thú, trong khi tên béo nạp thêm đạn, thậm chí còn chẳng thèm thanh minh.
Quá nửa ngày họ đã trông thấy tấm biển Alka-Seltzer phai màu chỉ cửa hiệu của Miranda. Đó là một tấm thiếc màu xanh hình vuông với những chữ cái gần như không thể đọc được nữa mà chủ hiệu đã đóng đinh cao trên một thân cây bên cạnh căn lều.
Họ tìm thấy người đàn ông đi khai hoang ấy ở cách cửa lều vài mét. Lưng bị rạch banh ra; hai vết móng cào từ xương vai cho tới tận thắt lưng. Vết thương sâu trên gáy làm lộ hẳn ra chỗ xương sống đốt cổ.
Người đàn ông nằm sấp mặt, tay vẫn nắm chặt con dao rựa.
Không bận tâm đến thứ kiến trúc ma thuật của lũ kiến, sau một đêm đã xây dựng được một chiếc cầu bằng lá và nhánh cây để tiện xử lý cái xác, họ lôi nó vào trong cửa hiệu. Bên trong, một cây đèn dầu còn leo lét và mùi mỡ cháy tỏa khắp lều.
Khi tới gần chiếc bếp lò đốt dầu, họ phát hiện nguồn gốc của thứ mùi ấy. Bếp vẫn còn ấm. Nó đã dùng đến giọt nhiên liệu cuối cùng và đốt cháy cả bấc. Cái chảo trên bếp vẫn còn hai cái đuôi cự đà đã thành than.
Viên thị trưởng xem xét cái xác.
“Ta không hiểu. Miranda là một tay già đời ở đây, chẳng phải là kẻ dễ run sợ. Nhưng có vẻ như hắn đã sợ tới mức không kịp nghĩ đến chuyện tắt bếp. Tại sao hắn không khóa trái cửa ở trong nhà khi nghe thấy tiếng con mèo rừng ấy? Khẩu súng còn treo kia. Tại sao hắn không dùng?”
Tất cả đều có chung những câu hỏi ấy.
Viên thị trưởng lột chiếc áo vải dầu ra, một dòng lũ mồ hôi chảy ồ xuống khiến lão ướt sũng cho tới tận ngón chân. Vừa nhìn cái xác, họ vừa hút xì gà và uống rượu. Một người bắt đầu sửa lại cái bếp lò, và, với sự cho phép của tên béo, họ mở mấy hộp cá mòi.
“Ông ấy là người không đến nỗi tệ, thật đấy,” một người nói.
“Từ khi bà vợ bỏ đi, ông ấy cô đơn hơn cả cây gậy chống của người mù,” người khác nói thêm.
“Hắn có người thân gì không?” viên thị trưởng hỏi.
“Không. Ông ta đến đây với em trai, nhưng người em đã chết vì sốt rét mấy năm trước rồi. Vợ ông ta bỏ đi với một tay chụp ảnh du lịch, người ta nói bà ấy đang sống ở Zamora. Có thể bác trưởng tàu biết bà ấy ở đâu đấy.”
“Ta đoán hắn cũng phải kiếm chác khá từ cửa hiệu. Các người có biết hắn làm gì với số tiền kiếm được không?” viên thị trưởng lại hỏi.
“Tiền ấy à? Ông ta bài bạc hết cả, còn không gỡ lại nổi để mà lấy hàng nữa. Ông không để ý thôi chứ ở đây là như vậy cả. Rừng già khiến bọn tôi buồn chán phát ngấy lên. Nếu không có mục đích gì cụ thể để nhắm vào, thì bọn tôi sẽ chỉ suốt ngày lang thang đi đi lại lại lòng vòng mà thôi.”
Tất cả gật đầu xác nhận cùng với một niềm tự hào kỳ quái. Đúng lúc ấy lão già bước vào.
“Ngoài kia còn một cái xác nữa.”
Họ chạy vội ra và, dầm mình trong mưa, trông thấy xác chết thứ hai. Y nằm ngửa với cái quần tụt xuống. Hai vai đầy vết móng vuốt và cái cổ họng bị xé toạc đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Con dao rựa cắm xuống dưới đất cạnh đó cho thấy y đã không kịp dùng đến nó.
“Tôi nghĩ là tôi đã hiểu rồi,” lão già nói.
Họ đứng quanh cái xác, và qua biểu hiện của viên thị trưởng, họ thấy là tên béo cũng đang cuống quýt tìm kiếm lời giải cho chuyện này.
“Cái xác này là Plascencio Puñán, một người thuộc dạng ít giao thiệp. Cả hai hẳn đang chuẩn bị ăn uống với nhau. Mọi người có thấy mấy cái đuôi cự đà cháy đen không? Chắc Plascencio đã đem chúng đến. Quanh đây chẳng có con cự đà nào cả, vậy chắc y đã bắt chúng trong chuyến đi rừng mấy ngày trước đó. Mọi người không biết y. Y là một kẻ đi thăm dò. Y muốn đá quý. Y không có ý đồ kiếm vàng, giống như hầu hết những thằng điên đi theo con đường này; y cho là người ta có thể tìm thấy ngọc lục bảo nếu đi sâu vào trong rừng. Tôi còn nhớ y nói chuyện về Colombia và những viên đá xanh to bằng nắm tay. Tên khốn đáng thương. Hẳn y muốn đi giải quyết và phải ra ngoài. Đó là lúc con thú phát hiện ra y, núp xuống, dựa vào con dao rựa của y. Mọi người có thể thấy nó đã tấn công trực diện như thế nào rồi đấy, đâm ngập móng vuốt vào vai y và cắn ngập răng vào cổ họng y. Có lẽ Miranda đã nghe thấy tiếng kêu la và chạy ra, kịp trông thấy đoạn kinh khủng nhất. Ý nghĩ duy nhất của ông ta là thắng lừa bỏ chạy. Nhưng rồi ông ta cũng chẳng chạy được bao xa.”
Một người lật cái xác sấp xuống. Những mẩu phân còn bám đầy lưng y.
“Thì, ít nhất y còn kịp đi ỉa,” anh ta nói, và họ bỏ cái xác nằm úp mặt lại đó, để cơn mưa dữ dội rửa sạch dấu vết hành vi cuối cùng của y trên trần gian.