Lằn Ranh Sinh Tử Chương 8

Chương 8
Ông Sando dỗ dành chiếc xe cho nó leo lên con đường mòn và vượt qua gờ đất cuối cùng. Xe đi rất chậm nhưng tôi cũng chẳng có gì vội vã. Khi ông tắt máy chiếc xe thì tiếng ầm ầm của sóng biển nghe thật dễ sợ. Ông đeo ống nhòm vào trong khi tôi cố nhìn kỹ về phía nam, qua vùng ánh sáng bình minh. Bên kia sự xôn xao dưới chân các vách đá, mặt biển êm ả một cách lạ thường. Lại còn có một luồng gió nhẹ từ phía sau lưng chúng tôi thổi ra ngoài khơi, như thế có nghĩa là bão còn ở xa khoảng một ngày nữa. Ánh nắng ban mai làm cho mặt nước óng ánh hiền lành và trong mấy phút liền chẳng có gì nhiều để ngắm, chẳng có gì cả, và tôi cảm thấy một sự nhẹ nhõm chạy qua trong người. Tôi thấy là mình đã qua khỏi cơn nguy khốn. Rồi ở một dặm ngoài kia tôi nhìn thấy một màu sáng trắng đột ngột. Một vòi nước phun lên từ vỉa đá ngầm trông như đám bụi được hất tung lên từ một đoàn xe tải lớn, và sau một vài giây thì tiếng động của nó vang đến tận chỗ chúng tôi. Giờ đây đó là thứ tiếng khiến cho một đứa con trai bừng tỉnh từ một cảm giác dễ chịu mơ màng.
- Nào, Pikelet, ông Sando nói. Coi như chúng ta nổi hứng sáng nay vậy.
Tôi gần như không vác nổi tấm ván Brewer. Nó dài đến mười bộ và không thể ôm lọt trong cánh tay gầy guộc của tôi, nên tôi đội nó chông chênh lên đầu theo cách của người xưa trong thời kỳ dùng ván balsa và bánh lái chữ D. Bãi đất trống xung quanh chúng tôi sực nức hương vị cay nồng, và xôn xao vì sự tấn công của những con chim hút mật. Chúng tôi đi bộ về hướng tây đến một nơi mà tất cả những hòn đá cuội đều bị phủ đầy địa y. Tôi đi theo sau ông Sando. Chúng tôi không trò chuyện gì với nhau. Tôi nhìn những cơ bắp chuyển động trên cái lưng trần của ông. Bộ đồ lặn tuột xuống tới eo, hai cánh tay áo bằng cao su neopren đong đưa hai bên đùi ông.
Phải mất nửa tiếng đi bộ. Tôi quá phiền lòng về Loonie đến nỗi có lúc cả mấy phút liền, tôi đã quên mất cái sợ. Nếu là tôi thì với một cánh tay bị gãy phải canh chừng và lòng biết ơn đối với sự đùm bọc và vì tình cảm bạn bè với nhau, nhất định tôi sẽ không gọi ai là hèn nhát cả – không ai cả, dù là bạn bè hay kẻ địch. Khi ấy tôi chưa đủ lớn để biết rằng mình chỉ có thể gọi một người khác là hèn nhát dựa trên một cơ sở an toàn vững chắc, khi thấy chắc chắn về lòng can đảm của mình hoặc do sự tin tưởng sai lầm vào lòng can đảm ấy. Nhưng Loonie luôn có một sự tự tin tuyệt đối. Có lúc tôi nghĩ nó là một cái hồ chứa không đáy và đúng ra là vô bổ của sự can đảm thể chất. Chính đặc điểm rõ rệt này đã làm Loonie bị méo mó đi ít nhiều, khiến cho nó không có được những tình cảm tế nhị. Khi đến tuổi trung niên, tôi nhìn lại Loonie với một sự ngỡ ngàng u ám. Nó là một người bạn thực sự, nhưng không được như tôi hình dung, và có lẽ là buổi sáng hôm ấy đã đánh dấu bước đầu sự bất bình của tôi, vì mặc dù ngán ngại nó nhưng tôi vẫn căm ghét nó về những gì nó nói. Thế nhưng có thể là tôi đã mang ơn nó về ngày hôm ấy, vì càng suy gẫm lâu về sự cộc cằn của nó trong lúc đi bộ trên các mỏm đá với ông Sando bên cạnh, tôi càng thấy tức. Chính sự tức giận này chứ không phải gì khác đã củng cố thêm sự quyết tâm của tôi và không để cho tôi bỏ cuộc.
Chúng tôi đi xuống một triền dốc nhiều lùm bụi, xác xơ vì gió giập, nơi sương mù của biển phả mạnh vào mặt, rồi đến một vách đá dốc đứng. Chúng tôi chuyền các tấm ván xuống từng chặng cho đến cuối cùng tôi và ông Sando cùng đứng trên mép cao của một hòn đá phía trên một khe vực dậy sóng. Suốt thời gian này, ông Sando luôn nói năng với tôi một cách dịu dàng, giống như một người tập ngựa. Sau mỗi đợt sóng xô vào rồi lại rút ra, rãnh sâu bên dưới chúng tôi bị tháo cạn nước và phô bày ra một vườn treo những tảo bẹ và con hà. Khi nước trở lại thì nó dâng cao thành một vùng xanh đến tận chân chúng tôi. Chốc chốc, một con sóng trải rộng qua khỏi hòn đá rồi vỡ ra thành một đám bọt nước.
- Bỏ cái phần dễ đi, ông Sando nói. Khi nước dâng lên trở lại thì phải tập trung chú ý. Chọn thời điểm của con sóng và đón lấy con to nhất. Hãy nhập vào phía sau của nó. Nếu không làm thế thì trên đường đi cậu sẽ bị kẹt lại giữa chừng và con sóng kế tiếp sẽ xô cậu vào vách đá. Phải kiên nhẫn, Pikelet nhé. Nếu phải chờ đến nửa giờ thì cũng ráng chờ, nghe chưa?
Tôi gật đầu. Ông chân phải của tôi bị rung giật, tôi cảm thấy nó như bị tách ra khỏi phần cơ thể mình. Kích thước của các con sóng, chiều dài của tấm ván, bóng dáng sừng sững của vách đá – cái gì cũng ngoài sức tưởng tượng của tôi.
Tôi nhìn ông Sando chui người vào trong nửa trên của bộ đồ lặn và nhấc lấy tấm ván Brewer lớn màu cam. Ông ta bẹo vào má tôi và cười. Ánh nắng long lanh trên bộ râu và đôi mắt của ông, hai hàm răng ông khỏe và trắng.
- Cậu vẫn còn muốn làm chuyện này chứ?
Tôi không còn tin ở mình nữa để mà trả lời. Tôi chỉ nhấc tấm ván ở bên cạnh ông lên và đứng run rẩy trong chiếc quần soóc.
Dở ẹt, ông nói vừa khi một mảng nước lớn màu xanh tràn lên bàn chân chúng tôi. Tôi tự hỏi những người bình thường thì sẽ làm gì lúc này?
Thế rồi, trong khi nước biển gần như phủ lấy chúng tôi thì ông lao tới với tấm ván như một tấm chắn, rồi đáp xuống một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng chèo theo con nước rút ra. Chỉ một lát sau ông ta đã ra tới miền nước sâu ngoài xa, bên kia của vùng nước xao động.
Tôi nhìn xuống và chờ cho con sóng trở lại. Ông Sando đang ngồi thẳng người chờ đợi. Những con chim quang quác đằng sau chúng tôi. Những hòn đá ướt dầm bọt nước. Nước róc rách tuôn ra từ các khe rãnh cho đến khi sóng biển đột ngột trở lại, và khi ông Sando gọi lớn thì tôi nhún chân nhảy xuống.
Con đường chèo đi thật dài và không có phương hướng cho nên có vẻ lờ mờ, hư ảo. Tôi theo sau hai bàn chân màu vàng của ông Sando và hoà mình vào trong nhịp điệu ấy. Nửa giờ sau, còn cách vỉa đá độ hai trăm mét thì tôi đã ngồi cạnh ông ta trong sự tĩnh lặng như mơ. Có lẽ nhờ hơi ấm mặt trời, sự vận động, và thực tế là chúng tôi đã chèo đi trong một cơn tĩnh lặng kéo dài, nên tôi cảm thấy an toàn và hạnh phúc. Nhưng khi con sóng đầu tiên đập vào Old Smoky thì tất cả sự bình yên ấy đã tiêu tan.
Chúng tôi đang ở trong vùng nước sâu, khá an toàn theo tình hình và tôi chưa hiểu hết được qui mô những gì mà tôi được thấy, nhưng khi nhìn thấy chóp đỉnh con sóng này chồm qua vỉa đá ngầm thì một nỗi ghê sợ chạy qua khắp người tôi. Chỉ nghe tiếng rít của bọt nước theo sau đỉnh sóng cũng đủ kinh hãi, nó giống như âm thanh của một tấm kim loại vỡ ra nhiều mảnh. Con sóng vỗ vào lườn đất cạn, âm thanh truyền đi trong nước và đập vào ngực tôi.
Ông Sando gọi lớn. Ông đưa hai cánh tay lên và ngả đầu ra sau. Con sóng trải rộng ra, gầm gừ và cuối cùng phun vào trong cõi sâu tĩnh lặng của eo biển, nên khi đi đến chỗ của chúng tôi thì nó chỉ còn là một dòng nước lớn với một lớp váng bọt sóng.
- Xác định được vị trí không?
- Được – Tôi nói dối.
Nếu có chút xíu ý niệm về một nơi nào để đi tới, thì hẳn là tôi đã chèo thẳng trở về các vách đá và leo ngay ra rồi. Nhưng vùng đất đằng sau tôi chẳng có gì là đặc biệt, chỉ là một mảng xám đen lẩn khuất sau các đợt sóng.
Ông Sando chèo tới eo biển sát vỉa đá ngầm, nơi các ngọn sóng dồn vào thật nhiều nhưng không vỡ hẳn ra. Sợ chỉ còn lại một mình, tôi liền đi theo ông. Ông ta chèo đi rồi dừng lại, chèo đi rồi dừng lại nhiều lần, liên tục kiểm tra và điều chỉnh vị trí của mình. Ông ra hiệu cho tôi tới gần ông hơn vì có một loạt sóng mới đang di chuyển vào. Lúc đầu tôi chỉ có thể nhìn thấy một loạt những lằn tối đen ở một quãng xa, rồi những con sóng này trở thành một đoàn tàu đâm thẳng về phía chúng tôi, càng lúc càng tăng dần kích thước và tốc độ cho đến khi chúng hoá thành những con sóng riêng biệt, oằn oại và chen chúc nhau thật mạnh khiến tôi thấy mình như phải nhìn ngược lên những gờ đất cao dãi nắng. Tôi cảm thấy như toàn bộ lớp da của biển đang bị kéo căng ra để thích ứng với chúng, và tôi đinh ninh là mình sắp bị vùi dập đến nơi, cho dù đang ở trong vùng sâu an toàn của eo biển.
Chúng tôi ngồi lì trong khi bốn đợt sóng đi qua bên cạnh. Thế rồi ông Sando chèo đi và tự đặt mình vào thế bất an. Tôi cứ ngồi yên, không đi đâu cả. vẫn trong tư thế ngồi, ông ta nhô lên phía trên đợt sóng kế tiếp, bị nhấc bổng lên trời mà không tỏ vẻ gì, rồi một hồi lâu sau đó ông ta bị khuất hẳn đi sau đám bọt nước. Khi tôi nhìn thấy được ông thì ông đang chèo vào đường đi của một con sóng lớn chưa từng thấy. Khi con sóng này tràn qua trên vỉa đá ngầm thì dựa trên phần còn nhô ra của ông ta, tôi thấy có vẻ như ông đang bị kéo ngược lên trên triền dốc lô nhô của con sóng. Một lát sau, con sóng này vỡ ra thành những mảng, những sợi, và phun toả hơi nước phía sau ông, tôi thấy ông Sando hiện ra, bị ngã gập chân vào trong lỗ sâu bên dưới. Dù bị một vết rách ngoài da, ông vẫn giữ cho hai bàn chân từ mấy tầng cao đáp xuống nhẹ nhàng, khi ông lướt qua bên cạnh, tôi bắt gặp nụ cười tươi rói của ông và tôi biết là ông vẫn an toàn.
Khi quay trở lại, ông Sando vừa chèo vừa hát. Ông tạt nước về phía tôi và tìm mọi cách để đẩy tôi ra khỏi chỗ ngồi. Đôi mắt ông sáng long lanh, tôi chưa từng thấy ông rạng rỡ như thế.
- Này – Ông cười – Cậu đã học được ít nhiều rồi đó.
- Tôi chỉ nhìn thôi – Tôi nói, phập phồng lo âu.
- Ồ, không!
- Vâng. Thật thế mà.
- Đừng có lần nào cũng loanh quanh như vậy, ông bạn.
- Không.
- Đừng bao giờ quá dễ dãi với mình.
- Có thể là thế là thế – Tôi hổn hển nói.
- Tôi thấy là bạn đang sẵn sàng rồi đấy, Pikelet.
- Ồ…
Tôi lắc đầu rồi lầm lì bơi ra vùng biển sâu tím thẫm với vị đắng trong miệng.
Những hòn núi nước từ phía nam nhô lên, chúng ầm ầm chạy qua, tự ngấu nghiến mình, phun ra hàng tấn bọt nước, và sức mạnh gần tàn của chúng xô vào đôi chân lập cập của tôi. Có quá nhiều nước di chuyển ngoài kia, một sự quá tải âm thanh và chấn động, mọi thứ đều ở một tầm mức mà tôi không thể tin nổi. Tôi bắt đầu thở sâu và gấp. Chỉ sau đó tôi mới thấy phục sự khôn khéo của ông Sando buổi sáng hôm ấy. Dù cảm nhận được sự hoảng sợ của tôi nhưng ông đã không động tới tôi. Nếu ông đến gần tôi hoặc tìm cách vồ lấy tấm ván của tôi để trấn an tôi thì hẳn là tôi đã làm toáng lên rồiề Tôi đã hoảng loạn vì sợ hãi, cả hai chúng tôi đều đang ở một dặm xa ngoài biển, và như vậy tình hình càng nên nguy kịch. Nhưng ông ta biết phải làm gì.
Nên bảo cậu thế nào đây, ông nói. Chúng ta hãy tạm nghỉ một lát. Mình không nên làm đợt này. Hãy thử một lần khác xem.
Tôi không nhìn vào ông. Tôi không thể rời mắt khỏi vùng chân trời. Giờ đây chúng tôi đang ở trong một cơn tạm lắng, nhưng không dễ chịu chút nào. Tôi cảm thấy ông đang chèo về phía đông, nhưng tôi cứ mải nhìn về phía nam, có vẻ như cái cổ tôi đã bị khoá vào vị trí ấy. Ông đã đi xa, không còn ở gần vỉa đá ngầm. Tôi chỉ còn lại một mình. Một mình thôi. Cơ thể tôi nhận biết trước khi đầu óc tôi theo kịp. Tôi cố tranh thủ liếc nhìn một cái. Ông Sando ở cách tôi hơn năm chục mét. Ông đang ở ngoài kia, trong vùng an toàn cách xa vỉa đá ngầm, và ông đang vẫy tay, kêu gọi. Giọng nói của ông không gì là cấp bách. Ông có vẻ uể oải rõ rệt. Tôi nghe trong giọng nói của ông một thứ thẩm quyền làm ta yên lòng, một sự thân quen tác động đến tôi. Ông trông có vẻ vững vàng và thoải mái với hai bàn tay đặt trên đùi, hai khuỷu tay khuỳnh ra như những cánh chim hải âu, và tôi cảm thấy quãng trống ngoài kia thật lộng gió. Tôi bị lôi cuốn. Tôi nhìn trở ra ngoài biển, nhưng không chắc mình có đi được không. Ông Sando vẫn giữ vẻ đùa cợt ngoài kia, còn trong tôi thì trào dâng nỗi sợ hãi. Tôi nghe hơi thở của mình hổn hển và trở nên nhọc nhằn. Tôi bị choáng váng. Đột nhiên, tôi thấy sợ phải ở đây một mìnhề Có vẻ như tôi đã cố chống lại sự hoảng loạn của mình và bật dậy. Tôi quay tấm ván về phía ông ta, nằm úp xuống và chèo đi. Khi ra đến nơi, tôi thở hồng hộc.
- Mình lặn nhé – Ông nói bình thản – Tôi xuống dưới đáy trước đây.
Không nói thêm một lời nào nữa, ông đứng lên trên tấm ván Brewer và phóng xuống vùng nước giữa hai chúng tôi. Tôi ngồi đó trong nỗi lo sợ, lại cũng chỉ có một mình. Tôi không chịu nổi nữa, ông ta phải biết là có tôi theo sau chứ.
Ở ngoài này quá sâu, không thể nhìn thấy được đáy biển đầy cát, nhất là khi tôi không có một tấm mặt nạ, nhưng tôi có thể lờ mờ nhận ra hai lòng bàn chân của ông Sando khi ông quẫy bơi. Tôi bám theo ông, và chỉ sau vài phút, tôi đã có thể lao thẳng đứng xuống một cách điềm tĩnh. Bộ phổi tôi đã nạp đủ ôxy nhờ sự hít thở dài hơi, và tôi không chịu sức nâng của bộ áo lặn buộc phải chống chọi nên tôi có thể theo kịp ông Sando khá nhanh, và chỉ sau vài giây tôi đã vượt qua ông. Tôi nghe tiếng máu chảy lùng bùng hai bên thái dương. Ngực tôi như sắp sụp vào. Mỗi một bọt nước đều làm tôi đau đớn. Tôi cảm thấy mình như một ngôi sao chổi đang tắt lịm dần. Cuối cùng, khi đã bơi hết tốc độ và không còn tin tưởng nữa thì tôi dừng lại; khi nhìn lên phía trên, tôi thấy hình bóng lờ mờ của ông Sando còn ở cách mình một quãng. Ở dưới sâu này, biển có sự tĩnh lặng thông thường của nó, hết sức êm ả và thân thuộc. Do một cảm nhận sinh vật, tôi tự nhận thức về mình. Đây chỉ là biển, là nước. Chẳng lẽ tôi không biết phải làm gì dưới nước hay sao? Từ từ trở về cùng với cái nhu cầu nóng bỏng phải thở là sự tự tin trước đây của tôi. Tôi biết mình đang làm gì. Tôi đang có sự chủ động. Tôi mơ hồ thấy dấu hiệu tán thành của ông Sando và tôi phóng ngược trở lên mặt nước. Hai chúng tôi cùng trồi lên với màng bọt khí vây quanh và khi gặp được không khí, cách xa mấy tấm ván nổi trên mặt nước độ vài mét thì một luồng hơi nóng chạy qua người tôi và tôi biết là mình đã bình yên.
Ngày hôm ấy tôi lại băng qua vỉa đá ngầm và cưỡi hai con sóng. Những lần cưỡi sóng này cũng chẳng cho tôi thêm được bao nhiêu kinh nghiệm, và tôi chỉ nhớ được một phần của sự trải nghiệm này thôi, đó là những giây phút chập chờn, những chi tiết kỳ lạ. Chẳng hạn như tiếng vỗ ngắt quãng của nước lên tấm ván. Một ảo giác như ta đang ở cùng một độ cao với những vách đá đằng xa. Sự thanh thoát thần tiên khi lướt qua trên đầu ngọn sóng giữa một đám bụi nước và cảm giác hưng phấn. Sự sống sót là một ký ức mạnh mẽ nhất mà tôi còn lưu lại: cái cảm giác bước đi trên nước.
Ông Sando chèo đến và nắm lấy bàn tay tôi như một người anh hay một người cha, còn tôi thì nói lắp bắp. Tôi cảm thấy mình như lạc vào cõi tiên, còn ông Sando thì chỉ phì cười. Nhưng tôi còn muốn nhiều hơn thế nữa. Tôi đang khao khát một đợt cưỡi sóng thứ ba, một cách nào đó để biến nó thành sự thực.
Tôi ngồi lại vài phút trong khi ông Sando đón bắt con sóng kế tiếp. Ông làm việc ấy có vẻ dễ dàng, và tôi bỗng thấy nó dễ dàng thật. Tôi thậm chí không thể chờ cho đến khi ông chèo trở lại. Tôi chèo thẳng ra vùng biển động, và chỉ một thoáng chốc vì quá tự tin, tôi đã lọt vào trong đường đi của một thứ gì lớn cỡ toà thị chính của thành phố Angelus. Tôi không hiểu làm sao tôi đã cuống cuồng vượt qua được, cho đến khi tôi đứng được trên hai chân mình và cảm thấy toà nhà lớn kia như đang phồng to và biến dạng ở dưới chân tôi.
Trong khoảng nửa giây tôi nhìn thấy hình bóng vỉa đá ngầm ở dưới xa. Tấm ván nặng rơi tuột khỏi chân tôi như một chiếc lá và tôi nhoài người xuống dưới mặt nước mà không có nó, nhấp nhô nhảy lên nhiều lần mà không sao vượt khỏi mặt nước. Tôi như ngã xuống một loạt bậc thang – một loạt bậc thang có vẻ như không bao giờ dứt, đổ xuống người tôi và hất tôi lên trời rồi dìm tôi xuống trở lại, khiến cho tôi bị lao đầu tới trước, băng qua trên vỉa đá ngầm trong nỗi khiếp đảm. Tôi bị nẩy lên, phóng tới và va đụng, gần như không còn thấy gì trong khi băng ngang lườn đất cạn, và khi vỉa đá ngầm không còn nữa thì sự cuốn xoáy đã vùi tôi xuống quá sâu và quá nhanh đến nỗi tôi chẳng còn chút hy vọng gì giữ được thăng bằng cho khỏi ù taiẽ Tôi biết là không nên chống chỏi, nhưng tôi dường như cứ làm như thế mỗi khi không bị nước cuốn. Tôi nhô lên sặc sụa, ngột ngạt, quẫy đạp trên mặt nước như muốn vươn tới một nguồn ôxy thanh khiết hơn.
Lúc ông Sando đến bên tôi thì tôi lấy lại đôi chút bình tĩnh, nhưng ông đã nhìn thấy tất cả. Tôi đã đi xa hai trăm mét từ nơi tôi đón ngọn sóng, và chiếc quần soóc của tôi không còn nữa.
- Được đấy – Ông cười nói – Chuyến này có lợi cho cậu đấy.
Ông kéo tôi lên tấm Brewer của ông và chẳng nói gì về sự ở truồng của tôi. Tấm ván của tôi nằm sáng loáng ở đằng xa. Ông để cho tôi nằm ở đó một lát rồi ông mới bơi ra bắt lấy nó, và khi bơi trở vào, ông ta quyết định dừng lại. Tôi chèo tấm ván theo đằng sau ông và mong đừng có ai nhìn thấy.
Chúng tôi đã không đi tìm Loonie buổi chiều hôm ấy, nhưng biết chắc là cuối cùng nó cũng sẽ xuất hiện. Bà Eva cho chúng tôi ăn món cá bằm và để mặc chúng tôi huyên thuyên trò chuyện cho đến khi mỏi mệt và cùng lặng thinh. Khi mây bão phủ đen bầu trời, chúng tôi treo võng nằm ngoài hàng hiên, ngọn gió ở đây nóng ấm một cách rờn rợn. Tôi bị đau rát và lừ đừ nên thiếp ngủ ngay. Tiếng chim ác là và các loài chim biển huyên náo trên đầu, những tiếng líu lo mà tôi cảm thấy mình chỉ có thể hiểu nếu cứ lơ mơ nửa ngủ nửa thức.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t104227-lan-ranh-sinh-tu-chuong-8.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận