Ngày 7 tháng 7, 6 giờ 35 phút sáng
Angkor Thom, Cămpuchia
Gray đi bộ cùng với những người khác tới những cánh cổng đồ sộ của khu vực Angkor Thom gồm những đền đài có tường bao bọc. Mặt trời buổi sớm, nằm rất thấp ở phía chân trời hắt ra những bóng dài trên con đường đất đắp cao chạy về phía nam. Những con ve sầu kêu inh ỏi cùng với dàn đồng ca buổi sớm của những chú ếch.
Trừ vài nhóm khách du lịch và hai vị sư mặc áo cà sa màu vàng, họ hầu như hoàn toàn đơn độc trên đường vào giờ buổi sớm này. Con đường chạy bằng cả chiều dài của một sân bóng đá, bao quanh mép ngoài hàng dãy các pho tượng: năm mươi tư vị thánh một phía, còn bên kia là năm mươi tư con quỷ. Tất cả nhìn xuống một cái hào, giờ đây cạn kiệt. Trước kia đã có thời cá sấu bơi lội, canh gác thị trấn hoành tráng và khu cung điện phía trong. Cái hào sâu, được ranh giới bởi một con đường đất đắp cao, giờ đây đã trở thành những vũng lầy tiêu điều đầy rêu và cỏ lác.
Khi họ bước đi, Vigor nhoai người ra đặt lòng bàn tay lên đầu một trong những pho tượng quỷ." Bằng xi măng" ông nhận xét." Hầu như những cái đầu tượng nguyên bản đã bị đánh cắp, mặc dù vài cái còn sót lại ở một số bảo tàng của Cămpuchia."
"Chúng ta hãy hy vọng cái chúng ta đang đi tìm không bị đánh cắp." Seichan nói một cách mơ hồ, rõ ràng vẫn còn bị sốc sau cuộc nói chuyện trong xe với Nasser.
Gray giữ một khoảng cách khỏi cô ta. Anh vẫn không chắc chắn giữa hai điệp viên của Hiệp hội ai là kẻ nguy
Tốp bốn mươi người của Nasser tản rộng ra ở phía trên và phía sau, một đội quân hộ vệ mặc quần áo ka ki, đội mũ nồi. Nasser đi sau họ vài bước, liên tục đảo mắt nhìn xung quanh. Một vài du khách cảm thấy tò mò trước đám đông người của họ, nhưng hầu như những người khác không ai để ý. Phế tích nằm ở phía trước đã thu hút toàn bộ sự chú ý của họ.
Ở phía cuối con đường, những bức tường đá ong mỏng manh cao ba mươi feet bao bọc cả bốn dặm vuông của thị trấn cổ. Mục tiêu của họ, Bayon nằm bên trong hàng rào. Những khu rừng rậm vẫn bao phủ thị trấn hoang tàn. Những cây cọ cao vút che khuất các bức tường, bọc lấy cái cổng cao tới tám mươi feet. Bốn khuôn mặt khổng lồ được tạc vào cái tháp bằng đá này, ngoảnh về bốn hướng.
Gray ngắm nhìn các khuôn mặt, đã bị nứt toác đi vì thời gian. Mặc dù có sự phá hoại của năm tháng nhưng ở đây vẫn toát lên vẻ yên bình trên các bức tượng: những cái trán rộng phủ lên đôi mắt nhìn xuống dưới trong khi những đôi môi dày cong lên một cách bí ẩn như bức tranh nàng Mona Lisa.
"Nụ cười Angkor?" Vigor nói, để ý sự quan tâm của họ. "Khuôn mặt là của Lokesvara, niềm hứng khởi."
Gray nhìn chăm chú hơn một chút, cầu mong sao cho sự hứng khởi đó cũng lan truyền sang gã Nasser. Gray nhìn đồng hồ. Còn hai mươi phút trước khi sang một giờ mới mà Nasser sẽ ra lệnh chặt thêm một ngón tay nữa của mẹ anh.
Để chấm dứt chuyện đó, họ cần có một số tiến bộ để làm hài lòng tên đốn mạt này, để có thể giữ hắn lâu hơn một chút. Nhưng cái gì đây?
Hơi thở của anh trở nên nặng nề hơn với ý nghĩ ấy. Mục tiêu của anh nằm lọt giữa hai thái cực : mong muốn nhanh chóng tiến lên phía trước và phát hiện ra các dấu vết để có thể ngưng bàn tay của Nasser, đồng thời một nhu cầu không kém phần mạnh mẽ nữa là làm chậm hắn càng lâu càng tốt để cho giám đốc Crowe có thêm thời gian tìm kiếm bố
mẹ anh.
Bị giằng xé giữa hai điều đó, Gray cố tập trung vào trọng tâm của mình.
"Hãy nhìn những con voi kia..." Kowalski nói rồi chỉ một cách thích thú vào chiếc cổng lớn. Anh ta bước vội lên trước, chiếc áo khoác dài lệt sệt phía sau chân.
Đi ngang qua cổng, Gray phát hiện một đôi voi trắng xám Ấn Độ, những cái vòi gần như đâm vào đá, mắt đầy những ruồi bâu. Một trong những du khách, chật vật với cái máy ảnh tổ bố đeo trên cổ đang loay hoay trèo lên lưng con vật khổng lồ nơi một cái yên lòe loẹt được buộc bên trên. Một cái bảng viết nghuệch ngoạc cắm trên một chiếc lốp ô tô cũ, viết bằng nhiều thứ tiếng. Cưỡi voi đến Bayon.
"Chỉ có mười đô la." Kowalski đọc.
"Tôi nghĩ chúng ta sẽ đi bộ." Gray đáp, làm anh chàng thất vọng.
"Đúng đấy, đi qua những đám phân voi. Còn lâu chúng ta mới trả khoản tiền mười đô la đó."
Gray đảo mắt rồi vẫy Kowalski đi theo tốp người của Nasser qua cửa bước vào Angko Thom.
Đi ngang qua bức tường, con đường đi bộ chạy thẳng trước mặt có những cây cao xòe bóng mát, rễ cuộn lên xù xì len lỏi qua vài tảng đá. Những hạt quả rơi từ cây nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Khu rừng trở nên rậm rạp hơn phía trước, che khuất tầm nhìn.
"Đi xa chừng nào?" Nasser hỏi, đi đến chỗ họ nhưng vẫn cách xa một bước, một tay đút túi áo.
Vigor chỉ về phía trước."Đền Bayon nằm ở trong rừng cách đây một dặm."
Nasser nhìn đồng hồ, rồi nhìn một cách đầy ý nghĩa về phía Gray, vẻ đe dọa rõ ràng.
Một trong những chiếc xe tuk tuk chạy ngang qua chỗ họ, phương tiện vận tải chính ở đây. Một cặp khách du lịch đang bấm máy ảnh, đầu đội mũ nồi, nói chuyện với nhau bằng tiếng Đức. Rồi họ lại biến đi về phía trước.
Gray bước theo con đường khói mịt mù, rảo bước hơn.
Kowalski nhìn chăm chú vào khu rừng rậm đầy cây cọ và tre. Bước chân anh ta đầy vẻ nghi ngại.
Vigor nói khi họ bước đi. "Hơn một trăm ngàn người dân đã có thời sống ở Angkor Thom."
"Sống ở đâu?" Kowalski hỏi. "Trong những ngôi nhà trên cây?"
Vigor chỉ tay về phía trước khu rừng. "Hầu hết nhà cửa, ngay cả cung điện cũng được làm bằng tre và gỗ, vì vậy chúng đã mục nát. Rừng xâm lấn hết. Chỉ có những ngôi đền được làm bằng đá. Nhưng nơi đây đã có thời là một thị trấn sầm uất với các chợ bán cá, rau, hoa quả và hương liệu, những ngôi nhà đầy rẫy lợn, gà. Những người xây dựng thị trấn đã đào ra hệ thống cống rãnh, kênh tưới tiêu để phục vụ cộng đồng dân cư. Nó còn có cả một vườn thú hoàng gia nơi những màn xiếc được trình diễn. Angkor Thom là một thị trấn sôi động, nhiều màu sắc và nhộn nhịp. Trong những ngày lễ hội, pháo hoa được bắn lên. Số lượng nhạc công nhiều hơn các chiến binh, họ chơi thanh la, phèng, gõ trống, thổi sáo và tù và..."
"Một dàn nhạc bình thường." Kowalski nhận xét, có vẻ không mấy ấn tượng.
Gray cố hình dung ra những thị trấn như vậy khi anh nghiên cứu khu rừng rậm.
"Thế điều gì đã xảy ra với những người dân?" Kowalski hỏi.
Vigor gãi cằm. "Mặc dù những gì chúng ta biết về cuộc sống hàng ngày, nhưng đa phần lịch sử Angkor vẫn còn là một bí mật hoặc ít nhất vẫn còn là giả thuyết. Những văn bản của họ được lưu giữ trên lá cọ gọi là sastras. Giống như những căn nhà ở đây không tồn tại. Vì vậy, lịch sử Angkor được thu thập từng mảng một từ việc nghiên cứu những văn bản được khắc trên các ngôi đền. Kết quả là hầu hết lịch sử vẫn còn là điều bí ẩn. Giống như những gì xảy ra với dân cư. Số phận thực sự của họ vẫn còn bị che phủ."
Gray đi kịp bước với ngài linh mục." Tôi nghĩ họ bị Thái Lan xâm chiếm, những người đã chà đạp lên nền văn minh cổ xưa Angkor."
"Đúng, nhưng nhiều nhà lịch sử và khảo cổ tin rằng sự xâm lược của Thái Lan chỉ là thứ hai và dân tộc Khơ Me đã bị yếu đi bằng một phương cách nào đó. Có một lý thuyết là người Khơ Me đã có ít khả năng quân sự hơn do sự chuyển đổi sang một hình thức hòa bình hơn của đạo Phật. Song lại có lý thuyết khác cho rằng hệ thống tưới tiêu rộng khắp đã làm cho vương quốc đi vào tình trạng bế tắc, khô cạn, làm yếu đi thị trấn, làm cho nó yếu ớt trước khả năng bị xâm lược. Nhưng cũng có bằng chứng lịch sử của sự bùng nổ lặp đi lặp lại và có hệ thống của nạn dịch."
Gray hình dung ra thành phố chết của Marco. Họ cũng đang đi trên những cánh đồng chết như trước kia, giờ đây phủ đầy rừng rậm. Thiên nhiên đã trở lại, xóa sạch bàn tay của con người.
"Chúng ta biết rằng Angkor vẫn còn sau thời Marco." Vigor nói tiếp."Có những lời kể rất hay về khu vực này từ nhà thám hiểm Trung Quốc Zhou Daguan, đúng một thế kỷ sau khi Marco đi qua đây. Vì vậy thuốc chữa đã được ban cho Marco có thể cho phép vương quốc này tồn tại, nhưng nguồn vi rút chắc vẫn còn và tiếp tục trong các vụ bùng phát dịch tiếp theo làm suy yếu vương triều. Ngay cả quân xâm lược Thái cũng không xâm chiếm Angkor. Họ để mặc cơ sở hạ tầng rộng lớn ở đây bỏ hoang và tàn phá, bỏ mặc rừng lan tràn. Có điều làm anh phân vân tại sao? Các ngài có nghe những câu chuyện đó không? Liệu họ có tẩy chay khu vực này một cách có chủ ý, tin rằng nó đã bị ma ám không?"
Seichan đến sát hơn với lời kể của Vigor. "Vậy ngài gợi ý rằng nguồn gốc vẫn có thể còn ở đây."
Vigor nhún vai. "Những câu trả lời hãy chờ ở Bayon." Ông chỉ về khu rừng phía trước.
Ở đó, một ngọn núi đất đá hiện ra, nhô lên cao, được chạm khắc bởi ánh sáng buổi sớm tạo ra các chùm sáng lên những tảng đá và ô tối. Những ngọn tháp thấp hơn bao bọc xúm xít xung quanh tạo thành một cái khung duy nhất. Ngôi đền gợi cho Gray một cái gì đó hữu cơ giống như một tổ mối, mộ t dãy hàng loạc choạc như thể hàng thế kỷ mưa gió đã xói mòn sa thạch tạo thành hình khối lỗ chỗ này.
Rồi một đám mây trôi ngang qua mặt trời làm cho bóng mây sâu thẳm, bồng bềnh. Từ khối nặng nề ấy, những khuôn mặt bằng đá hiện ra, với những nụ cười như thể những con nhân sư, đến với cả bốn góc, nhìn ra các hướng. Cái khối nặng nề trở nên rõ nét hơn khi hàng chục ngọn tháp nhô lên ở mọi cấp độ, xếp hàng gần san sát nhau, mỗi cái mang theo các hoạt tiết Lokesvara.
Vigor lẩm bẩm."Thắp sáng bởi ánh trăng tròn, một ngọn núi cao đứng sừng sững trên khu rừng được khắc bởi hàng nghìn khuôn mặt quỷ."
Làn da của Gray tê cứng. Anh nhận ra những lời đó trong văn bản của Marco. Đấy là nơi mà người xưng tội cho Polo, Friar Agreer, được nhìn thấy lần cuối ra đi về phiá ngọn núi khắc những khuôn mặt. Gray bỗng nhiên nhận thức được bàn chân anh chậm dần cùng với sự mệt mỏi. Anh buộc phải bước nhanh hơn.
Họ đã đi theo con đường của Marco tới đây...và giờ là lúc để đến những bước chân cuối cùng của người xưng tội cho Polo. Vậy Friar Agreer đi đâu?
*
* *
6 giờ 53 phút sáng
Khi ngôi đền hiện lên trước mặt họ, một không khí im lặng nặng nề bao trùm lên cả nhóm. Hầu hết các cặp mắt đều đổ dồn vào phế tích trước mặt nhưng Vigor tranh thủ lúc này nhìn những người đồng hành. Kể từ khi họ tới Angkor Thom, ông đã cảm thấy có sự căng thẳng không nói ra giữa Gray và Seichan. Mặc dù hai người chưa bao giờ là bạn đồng hành gần gũi nhưng vẫn luôn có sự thân mật căng thẳng giữa họ. Và mặc dù những cuộc tranh luận giữa họ luôn nóng bỏng, song khoảng cách vật chất giữa hai người đã giảm dần trong ngày qua, một sự thu hẹp dần khoảng cách cá nhân.
Vigor phân vân không biết liệu hai người có nhận thức được điều đó không.
Nhưng từ khi họ bước ra khỏi chiếc xe ở đây hình như đã có sự đảo lộn, đẩy lùi họ ra xa nhau. Không chỉ việc họ cách xa nhau ra, ông còn để ý một cảm giác nặng nề khi Gray nhìn Seichan lúc cô quay lưng lại và Seichan lại trở nên cứng rắn, cặp mắt nhíu lại, đôi môi mỏng hơn.
Seichan đến gần ông hơn, như thể cần sự an ủi nào đó từ ông nhưng không thể nói ra. Cặp mắt của ông vẫn dán chặt vào khu phế tích. Họ gần đến mức hơi thở thực sự của Bayon như có thể cảm nhận được.
Năm mươi tư ngôi đền túm tụm ở ba tầng nhô lên.
Song ấn tượng nhất là con số những khuôn mặt
được khắc.
Trên hai trăm.
Ánh sáng ban mai xua tan những bóng mây, tạo ra một ảo giác như thể những khuôn mặt đó đan g sống, chuyển động, quan sát những người đang tới.
"Tại sao lại nhiều như vậy?" Cuối cùng Seichan cũng lẩm bẩm bên phía ông.
Vigor hiểu cô ta đang hỏi về những khuôn mặt bằng đá. "Không ai biết cả." Ông trả lời. "Có người nói chúng đại diện cho sự cảnh giác, đề phòng, những khuôn mặt nhìn ra từ một trái tim thầm kín, giữ bên trong những bí mật. Người ta cũng nói rằng nền tảng của Bayon được xây dựng trên một kiến trúc cổ xưa. Những nhà khảo cổ đã phát hiện những căn phòng bao bọc bởi tường, nơi những khuôn mặt được giấu kín, luôn bị khóa trong bóng tối."
Ông vẫy tay về phía trước." Bayon cũng là ngôi đền cuối cùng được xây dựng dưới thời Angkor, đánh dấu sự chấm dứt của một giai đoạn xây dựng liên tục vắt qua hàng thế kỷ".
"Vậy tại sao họ lại dừng không xây dựng?" Gray hỏi, tiến đến gần hơn.
Vigor liếc nhìn anh. "Hầu hết các đền của Angkor đều dựa trên biểu tượng về khuôn mẫu của vũ trụ. Hàng loạt những hình chữ nhật, đại diện cho vũ trụ bao bọc một cái tháp tròn nằm ở giữa. Tháp giữa đại diện cho một ngọn núi kỳ ảo của huyền thoại Hindu, ngọn Meru, nơi cư trú của các vị thần.Bên cạnh đền thờ, tháp trung tâm hiện thân cho ngọn Meru, minh chứng sự thâm nhập của ngọn núi huyền diệu này từ trái đất đến thiên đường. Những câu chuyện kể về cả của cải lẫn mối lo sợ giấu kín bên trong những tầng dưới của tháp Bayon."
Vào lúc này, họ đã tới cuối con đường. Nó mở rộng tới một quảng trường ngoài trời bằng đá. Phần chính của ngôi đền vươn lên cao trước mặt họ. Hàng chục khuôn mặt nhìn xuống. Những du khách có thể nhìn thấy đang leo trèo trên ngôi đền ở các tầng khác nhau.
Họ tiếp tục đi tới, ngang qua một dãy xe tuk tuk. Phía trước một loạt các quán bên đường bày bán hoa quả các loại từ xoài, mít, me, chà là, ngay cả dưa hấu to như quả bóng. Những đứa trẻ gầy gò đi lại trong những quán hàng, làm cho không khí của thị trấn cổ xưa này sinh động lên đôi chút với tiếng gọi nhau, nô đùa của chúng. Ở bên kia đường mấy vị sư mặc áo cà sa vàng đang ngồi trên chiếu, đầu cúi xuống giữa khói hương nghi ngút.
Vigor khi đi ngang qua họ cũng thầm cầu nguyện cho sức mạnh, sự thông minh và được chở che.
Phía trước, Kowalski đã dừng trước một hàng quán. Một phụ nữ già nua khuôn mặt nhăn nheo, người cúi gập đang làm bữa ăn sáng, nướng những xâu thịt gà, thịt bò nướng cùng với rùa và thằn lằn. Anh chàng hà hít mùi vị đặc biệt của bữa sáng.
"Đây có phải là cua nước ngọt không?" Anh ta hỏi, cúi xuống hít mạnh. Món đồ ăn trông như có chút thịt, cả mấy cái càng cua, đen nhẻm vì qua lửa.
Người phụ nữ gật đầu lia lịa, cười toác miệng khi thấy anh chàng có vẻ thích. Bà ta nói rất nhanh bằng tiếng
Khơ Me.
Seichan bước tới chỗ anh ta, đặt tay lên vai."Đây là món ăn sáng rất quen thuộc ở Cămpuchia."
Kowalski rùng mình rồi quay đi. "Cảm ơn, tôi sẽ tiếp tục ăn món trứng thôi."
Một con khỉ con lẻn từ đống đổ nát túm lấy một bắp ngô từ chỗ bà ta rồi lao thẳng đến trước mặt Kowalski. Anh chàng to béo giật mình lùi lại, đâm sầm vào Gray, làm nghẽn lối đi.
Bàn tay của Kowalski thò vào túi áo.
Gray chặn anh ta lại, bấu vào khuỷu tay thật mạnh. Đôi mắt của anh liếc về phía Nasser rồi quay đi. "Đó chỉ là con khỉ thôi mà".
Kowalski lắc khỏi cánh tay của anh rồi nói. "Nhưng tôi không thích loài khỉ." Anh chàng to béo càu nhàu rồi lao lên trước."Tôi đã có một kỷ niệm không vui với chúng trước đây. Tôi không muốn nhắc đến nữa."
Vigor lắc đầu rồi dẫn họ vào lối vào phía đông của Bayon. Con đường đá nơi đây là một đống đổ nát với những phiến đá lớn, với những cây cọ mọc xen và các loại cây khác rễ ngoằn ngoèo. Họ đi ngang qua một lối vào ở tầng thứ nhất, trước những khuôn mặt quan sát chăm chú.
Họ đi vào sân bên trong, dọc những bức tường đầy các bức khắc nổi, từ đầu đến chân là những câu chuyện. Vigor liếc nhìn vào nơi gần nhất. Chúng mô tả cuộc sống hàng ngày, một người dân chài kéo lưới, một người nông dân gặt lúa, hai con gà trống đánh nhau, một người phụ nữ đang nấu ăn trên bếp than. Hình ảnh cuối cùng gợi cho Vigor đến cảnh người phụ nữ già nua bán hàng lúc nãy, một sự pha trộn giữa cái cổ xưa và ngày nay.
"Chúng ta bắt đầu ở đâu?" Gray hỏi, băn khoăn với diện tích sân chùa rộng tới mười mẫu Anh.
Vigor hiểu được sự băn khoăn của anh. Ngay cả ở đây, thật rõ ràng ngôi đền là một mê cung có ba kích cỡ gồm những lối, đường vòm cuốn vuông vức, những gian bày tối om, những bậc thang ngoằn ngoèo, những cái sân đình tràn đầy ánh sáng và những gian phòng trông giống như những cái động. Và xung quanh, các ngọn tháp nhô lên với những khuôn mặt kỳ dị.
Thật dễ bị lạc ở đây.
Ngay cả Nasser cũng cảm thấy điều này. Hắn vẫy một tốp người của hắn xiết chặt vòng vây xung quanh nhóm của Gray. Hắn cũng cử vài tên khác chạy lên trước chiếm lĩnh những vị trí trọng yếu ở cái sân rộng, bao vây hết lối ra, lập thêm một mức bảo vệ nữa.
Vigor cảm thấy cái thòng lọng xung quanh cổ nhưng có một lối ra duy nhất. Ông chỉ về phía trước.
"Trên bản đồ tôi đã nghiên cứu, bậc tiếp theo ở đây là một cái sân hình vuông nữa, giống như cái này. Nhưng tôi nghĩ chúng ta cần đi tiếp, thẳng tới tầng ba. Ở đó là thánh địa nằm chính giữa. Chúng ta có thể đi lối này tới đó."
Tuy nhiên , khi họ bước theo con đường vòng lên tầng thứ nhất, Vigor dừng lại trước một hình khắc đặc biệt trên bức tường phía bắc, to hơn những cái còn lại, chiếm cả một khu vực. Đôi chân của ông bỗng đi chậm lại khi đi ngang qua.
Nó mô tả hai thế lực - thần thánh và ma quỷ, cũng giống như bức tượng dọc lối đi. Những người trong tranh đang chơi trò kéo co với một con rắn lớn được dùng làm dây kéo. Giữa họ, con rắn quấn quanh một ngọn núi ngồi trên lưng một con rùa.
"Đó là cái gì?" Gray hỏi.
"Một trong những huyền thoại của đạo Hindu. Sự pha trộn của biển sữa." Vigor chỉ ra các chi tiết. "Phía bên này là thần thánh, gọi là Deva, còn bên kia là ma quỷ gọi là Asuras. Họ sử dụng thần rắn Vasuki như một cái chão để kéo ngọn núi thần. Từ sau đến trước rồi lại từ sau đến trước. Quấy cả biển cả thành một nồi cháo sữa. Chính từ loại cháo này mà một thứ bất tử có tên là amrita được quấy. Con rùa ở phía dưới ngọn núi là hiện thân của thần Vishnu, người đã giúp đỡ thần thánh và ma quỷ bằng cách giữ ngọn núi không cho bị chìm."
Vigor chỉ đến ngọn tháp trung tâm của Bayon. "Và giả sử như kia là ngọn núi đó hoặc ít nhất đại diện của nó ở đây, trên trái đất."
Gray liếc nhìn ngọn tháp cao mười lăm tầng, rồi lại quay về phía bức họa. Anh di ngón tay theo ngọn núi được khắc, lông mày nhíu lại: "Vậy điều gì xảy ra? Liệu thuốc luyện đan có được chế ra không?"
Vigor lắc đầu: "Theo câu chuyện, có một số điều phức tạp. Con rắn Vasuki bị ốm sau vụ kéo co đã nôn ra một lượng thuốc độc lớn. Nó làm cả thần thánh và ma quỷ đều ốm, đã dọa sẽ giết chết tất cả họ. Vishnu đã cứu họ bằng cách chính ngài uống chất độc, nhưng trong quá trình giải độc, ngài trở thành màu xanh, vì vậy ngài được gọi là cổ họng xanh. Và cùng với sự giúp đỡ của người, việc pha trộn tiếp tục chế tạo ra không chỉ thuốc trường sinh mà còn cả những thiên thần nhảy múa gọi là apsaras. Vậy tất cả chấm dứt."
Vigor cố giục mọi người bước tới nhưng Gray vẫn ở lại chỗ anh đang đứng, nhìn chăm chú vào bức họa, một cảm giác kỳ lạ trên khuôn mặt anh.
Nasser bước tới chỗ anh. "Thời gian đã hết." Hắn nói, đập tay vào chiếc máy di động. Giọng hắn đầy vẻ khinh bỉ. "Liệu mày có ý tưởng đột xuất gì không?"
Vigor cảm thấy lạnh toát người khi gã cố pha trò. Hắn xem ra có vẻ thích thú tra tấn Gray. Vigor đứng giữa họ, sợ Gray sẽ phản ứng xấu và đánh lại gã.
Nhưng thay vì đó Gray chỉ gật đầu. "Tôi có thấy."
Cặp mắt Nasser mở to, ngạc nhiên.
Gray đặt một bàn tay lên bức họa. "Câu chuyện ở đây. Đó không phải là một huyền thoại sáng tạo. Nó là câu chuyện của chủng vi rút Juda."
"Mày đang nói gì vậy?" Nasser hỏi.
Vigor cũng có cùng một câu hỏi.
Gray giải thích: "Từ những gì ngài kể cho chúng tôi về sự phơi nhiễm ở Indonesia, tất cả bệnh bắt đầu từ biển cả, trong khu vực sáng lên vì vi khuẩn. Biển được mô tả như sữa và màu trắng. Giống như trộn sữa."
Vigor thẳng người lên, bước tới chỗ Gray nhìn bức họa dưới góc cạnh mới. Ông đứng hai tay chống lên hông.
Seichan đến chỗ ông. "Giống như vi khuẩn gây độc, nhả chất độc và gây ra cái chết."
Nasser nhìn không tin mấy.
Gray nhắc lại. "Theo như huyền thoại này, có ai đó đã sống sót sau vụ phơi nhiễm và cứu loài người. Thần Vishnu. Ông ta uống thuốc độc, giải độc và biến thành màu xanh."
"Như thế ông ta phát sáng." Vigor lẩm bẩm.
"Giống như những người sống sót mô tả trong cuốn sách của Marco." Gray bổ sung. "Giống như người bệnh mà ngài đã mô tả. Tất cả phát ánh sáng màu xanh."
Vigor chậm rãi gật đầu. "Nếu như tôi đúng, đây là dấu vết đầu tiên chứng tỏ chúng ta đang đi đúng đường. Có thể còn thêm nữa để xem."
Đôi mắt của Nasser như khép lại, một chút bực tức, nhưng rồi hắn cũng chậm rãi gật đầu. "Tao tin là mày đúng, Chỉ huy Pierce. Rất tốt. Mày đã vặn lui kim đồng hồ thêm một giờ nữa."
Gray cố gắng che giấu nỗi nhẹ nhõm của mình, thở mạnh.
"Chúng ta hãy tiếp tục." Nasser nói.
Vigor kéo họ về phía chỗ khuất của những cầu thang ngoằn ngoèo. Đằng sau ông ta, Gray dừng lại một chút, nghiên cứu bức khắc họa. Anh dùng ngón tay di di dọc theo ngọn núi được khắc họa rồi trở lại về tháp chính giữa.
Đôi mắt của Gray gặp Vigor. Vigor để ý cái lắc đầu của chỉ huy khi anh quay đi.
Liệu Gray có biết gì thêm nữa?
Vigor khom người đi vào cầu thang hẹp. Trước khi Gray quay lại Vigor đã nhận thấy có một cái gì khác, một cái gì đó trên khuôn mặt của chỉ huy.
Nỗi lo sợ.
*
* *
7 giờ 32 phút sáng
Đảo Natuna Besar
"Họ không được đến đó..." Susan lại rên rỉ.
Cô ta nằm xoài trên những chiếc ghế sau của Mũi tên biển, lúc tỉnh lúc mê, gần như quay trở lại tình trạng hôn mê rối loạn tâm lý. Susan vùng vẫy kéo chiếc chăn chống cháy Lisa phủ lên người cô.
"Nằm yên đi!" Lisa khẩn khoản. "Cố nghỉ ngơi, Ryder sẽ quay lại ngay bây giờ."
Chiếc Mũi tên biển đã vọt lên rồi chạm phải phần đuôi của khoang nguyên liệu. Họ đã hạ cánh xuống một cái vịnh an toàn ở một hòn đảo nhỏ, một nơi nào đó ngoài khơi Borneo. Mưa tiếp tục rơi rào rào xuống từ những đám mây bay thấp là là nhưng sự giận dữ đen tối của cơn cuồng phong đã tan đi. Sấm vẫn ầm ì song tiếng nghe xa dần.
Vẫn còn đau đớn trước cái chết của Monk, Lisa nhìn chằm chằm qua tấm kính của chiếc Mũi tên biển. Trong khi chờ đợi, những suy nghĩ của nàng cứ dễ dàng trở về chuyện tự buộc tội. Lẽ ra nàng có thể làm được điều gì đó hơn. Đi nhanh hơn chẳng hạn. Nghĩ ra một điều gì đấy thông minh vào giây phút cuối. Thay vào đó, bàn tay giả của Monk vẫn cứ treo trên thanh chống của cánh con tàu. Ryder không thể thu nó lại.
Lisa liếc nhìn về phía cửa, mong Ryder sớm quay về. Ông đã dùng cạn sạch thùng xăng và đi tìm một máy điện thoại với một khoản tiền phòng bị mà ông đã cất giấu kỹ.
Nhưng cơ hội của ông xem ra cũng mong manh. Ngôi làng bên cạnh nằm dọc theo bờ biển bị bão đánh dồn dập với những mái nhà trơ trụi, những cây cọ đổ gãy gục và cả bãi biển ngổn ngang với những tảng đá bị lật tung cùng rác rưởi. Không có điện tại trạm bơm xăng của cảng. Ryder phải dùng tay tự bơm xăng rồi đưa một nắm tiền cho một người đàn ông ướt như chuột lột mặc áo phông và quần lửng để anh ta cho mượn một chiếc mô tô, và lời khẳng định là thế nào cũng tìm được điện thoại gần cái sân bay nhỏ của đảo.
Hòn đảo nhiệt đới Natuna Besar phục vụ cho ngành du lịch với những môn lặn và các trò câu cá thể thao song đã phải đi sơ tán vì cơn bão. Khu vực này trông như bỏ hoang.
Hầu hết những hòn đảo mà họ bay qua cũng ở trong tình trạng tiêu điều tương tự.
Từ trên không trung, Ryder đã phát hiện ra sân bay của đảo Natuna Besar. "Chắc chắn là có ai đó ở đây phải có điện thoại liên lạc vệ tinh mà chúng ta có thể mượn." Ông nói. "Hay chí ít thì cũng có cách để sửa được radio của chúng ta."
Đằng nào cũng phải nạp nhiên liệu nên họ đã hạ cánh gần cái vịnh an toàn. Giờ đây, Lisa đang chờ cùng với Susan.
Với tâm trạng lo lắng, nàng đặt tay lên trán ẩm ướt của Susan. Trong ánh sáng mờ mờ ở khoang ca bin, khuôn mặt của Susan giờ đây sáng lên với thứ ánh sáng sâu hơn, hình như toát ra từ xương cốt phía dưới của cô hơn là từ da. Nàng cảm thấy nong nóng ở bàn tay khi tiếp xúc với làn da của cô.
Nhưng đó không phải là cơn sốt.
Lisa bỏ tay ra song vẫn thấy nóng bỏng.
Cái quái quỷ gì vậy?
Cuống cuồng, nàng vội nhúng bàn tay của mình vào một lon nước rồi đổ nó vào cái chăn. Cơn nóng có vẻ giảm đi.
Lisa nhìn chăm chú vào ánh sáng bừng của làn da Susan, dụi dụi ngón tay vào đó. Điều này là mới. Loại vi khuẩn cyano chắc phải đang sinh ra một loại hóa chất nào đó. Và trong khi nó nung nóng da của Lisa thì Susan vẫn có vẻ kháng cự được và bảo vệ.
Điều gì đang xảy ra vậy?
Như thể đọc được suy nghĩ của nàng, Susan thò một cánh tay ra khỏi chăn. Bàn tay của cô vươn ra ô vuông ánh sáng yếu ớt từ mặt trời chiếu qua cửa sổ khoang. Vết sáng trong da của cô biến mất trước ánh sáng rực rỡ hơn.
Sự tiếp xúc xem ra cân bằng được Susan. Cô thở mạnh.
Ánh sáng.
Liệu có thể vậy chăng?
Tò mò, Lisa vớ lấy cánh tay của Susan và sát ngón tay ngang qua làn da được mặt trời chiếu sáng. Lisa rụt vội tay lại, lắc mạnh những ngón tay như thể vừa chạm vào một vật gì nóng bỏng. Nàng lại nhúng vào nước, những ngón tay sôi xèo xèo.
"Đó là ánh sáng mặt trời." Lisa nói to lên.
Nàng đã hình dung ra sự bùng nổ trước đó của Susan khi cô lần đầu tiên nhìn vào mặt trời đang lên. Lisa cũng nhớ một trong những đặc điểm độc đáo của cyanobacteria. Chúng là tiền nhiệm của các loài thực vật hiện đại. Vi khuẩn chứa đựng những lạp lục thô sơ, những lượng siêu nhỏ để biến ánh sáng mặt trời thành năng lượng. Khi mặt trời mọc, loài vi khuẩn này tăng trưởng mạnh, phát ra năng lượng theo một phương thức kỳ lạ.
Nhưng để làm gì?
Lisa liếc nhìn bản đồ hàng hải trên sàn. Nàng nhớ lại lời của Susan lúc nãy, chỉ vào một điểm trên bản đồ.
"Angkor." Lisa lẩm bẩm.
Lisa đã tự thuyết phục mình rằng đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng giờ đây nàng lại thấy không tin lắm. Nàng nhớ lại lúc nghe lỏm một cuộc nói chuyện khi bị trói nằm trên bàn mổ. Devesh đang nói chuyện trên điện thoại bằng tiếng Ả Rập. Nàng chỉ nghe được một từ.
Một cái tên.
Angkor.
Liệu đó có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên không?
Và nếu không thì Susan còn biết điều gì khác nữa?
Lisa nghi ngờ một cách để tìm ra. Nàng nghiêng người rồi ôm vai Susan trong cánh tay, giữ chiếc chăn ở giữa hai người. Lisa nâng Susan về hướng ánh sáng mặt trời ùa vào qua cửa sổ phía trước.
Susan rùng mình ngay khi khuôn mặt của cô chạm vào ánh sáng mặt trời. Mắt cô mở ra, con ngươi đen đảo về phía ánh sáng yếu ớt. Nhưng thay vì co giãn trong ánh sáng, con ngươi của Susan giãn nở ra, thu nhận thêm nhiều ánh sáng.
Lisa nhớ lại sự xâm nhập của vi khuẩn vào võng mạc của cô, khu trú xung quanh thần kinh thị giác, đường dẫn trực tiếp tới bộ não.
Susan cứng người phía dưới nàng. Đầu cô quay lại rồi trở nên vững hơn.
"Lisa." Cô nói, đầy lưỡi, lúng búng.
"Tôi đây."
"Tôi phải... hãy cho tôi đến đó trước khi quá muộn."
"Đến đâu?" Nhưng Lisa đã biết là nơi nào.
Angkor.
"Không còn thời gian nữa." Susan lẩm bẩm rồi quay mặt về phía nàng. Ngoài ánh sáng trực tiếp của mặt trời, sờ vào nóng bỏng, nhưng không phải bỏng rẫy. "Tôi... tôi không phải thuốc giải." Susan nói. "Tôi biết chị đang nghĩ điều gì. Nhưng tôi chưa... chưa được."
Lisa trợn mắt. "Cô nói gì vậy?"
"Tôi phải tới đó. Tôi có thể cảm thấy, trong xương. Một sự chắc chắn. Giống như nhớ lại một cái gì đó bị chôn vùi, ngoài khả năng của tôi có thể nhớ lại. Tôi biết là mình đúng. Chỉ có điều là tôi không thể giải thích được vì sao. "
Lisa nhớ lại lúc tranh luận ở trên con tàu khách. Về DNA, về sự phối hợp vi rút cũ trong gen của chúng ta, lịch sử tập họp gen... Liệu có phải vi khuẩn đang thức tỉnh điều gì đấy trong con người Susan?
Lisa nhìn người đàn bà rút tay lại tránh ánh sáng mặt trời và kéo một góc chăn che khuôn mặt của mình. Liệu có phải cô ta cũng biết điều đó?
Khi Susan vùi đầu vào trong chăn tránh khỏi ánh mặt trời, giọng của cô trở nên yếu ớt hơn. "Chưa sẵn sàng."
Tuy nhiên, một bàn tay của cô vẫn nắm cổ tay nàng.
"Cho tôi đến đó đi... tuy nhiên..." Susan rũ người xuống rồi tuột ra. "Hoặc là thế giới sẽ bị tiêu diệt."
Một cái gõ mạnh làm nàng giật mình.
Khuôn mặt đầy tàn nhang của Ryder hiện ra trên cửa sổ. Lisa cúi người về phía trước gạt cần khóa. Ryder trèo vào, cười rất tươi.
"Tôi tìm được một máy điện thoại vệ tinh! Mới sạc được một phần tư, nhưng cái của nợ này ngốn của tôi một khoản tiền có thể mua được một ngôi nhà nhỏ ven biển ở cảng Sydney."
Lisa cầm lấy cái thiết bị to tướng. Khi Ryder trở về ghế phi công, Lisa lên ngồi với ông ta ở phía trước. Mặc dù ướt như chuột lột nhưng ông trông giống như vừa trở về sau một trò vui, mắt ông sáng bừng với vẻ phấn khích. Song Lisa cũng để ý nét khắc khổ quanh góc môi. Ryder có thể thích thú với vụ mạo hiểm hoang dã này nhưng không thể đạt được mức độ thành công của ông ta nếu không có phần cốt lõi của thực tiễn.
"Tín hiệu vệ tinh sẽ khỏe hơn khi ở xa mỏm đá." Ông nói rồi mở động cơ, lăn chậm nó ra khỏi những mỏm đá cao.
Khi ông ta làm điều này, Lisa nhớ lại những gì Susan
đã nói.
Tôi chưa phải là thuốc giải, chưa phải...
Cả hai đã đi đến sự đồng thuận cùng nhau.
Ryder lấy ra bản đồ hàng hải rồi đặt nó lên bàn bánh lái. "Angkor cách đây bốn trăm năm mươi dặm về phía bắc. Tôi chỉ có thể bay con chim nhỏ này tới đó trong vòng một giờ rưỡi nữa."
Lisa nhấc chiếc điện thoại vệ tinh lên thấy vạch chỉ tín hiệu mạnh.
Nàng còn một người cuối cùng phải thuyết phục.
*
* *
8 giờ 44 phút chiều
Washington DC
"Lisa?" Painter hét lên vào ống nghe. Tín hiệu yếu, nhưng sự sốt ruột của ông không có thể làm gì được với đường dây kém. Chỉ để cảm thấy nhẹ người. Ông đứng sau bàn làm việc, thẳng lưng. "Em có khỏe không?"
"Khỏe... giờ đây. Em không có nhiều thời gian, Painter. Máy điện thoại không còn nhiều pin."
Lisa nhanh chóng kể lại tất cả những gì xảy ra, nói một cách thẳng băng như thể nói lại phần chuẩn đoán bệnh tới người bệnh, bám chặt lấy các sự kiện. Tuy nhiên, ông vẫn nhận ra sự run rẩy phía sau giọng nói. Ông muốn vượt qua điện thoại ôm lấy nàng, đẩy lui sự sợ hãi của nàng và ôm chặt nàng vào mình.
Tuy nhiên, khi nàng vẫn kể về bệnh tật, tình trạng điên loạn và ăn thịt người, ông ngồi phịch xuống ghế. Đầu ông gục xuống. Ông hỏi câu hỏi, điền vào vài chỗ trống. Nàng kể về một hòn đảo. Pusat. Ông chuyển những ghi chép cho trợ lý, để fax cho cấp trên, Sean Mcknight. Một tốp biệt kích Úc từ đội chống khủng bố đã chờ đợi mục tiêu, đóng ở Darwin, sẵn sàng cho cuộc hành quân ứng cứu. Trước khi Painter kết thúc câu chuyện thì những chiếc máy bay đã xuất kích rồi.
Nhưng có một mối hiểm nguy còn lớn hơn chiếc tàu chở khách bị bắt cóc.
"Chủng vi rút Juda?" Lisa hỏi. "Thế căn bệnh đã phát tán chưa?"
Painter chỉ có những tin xấu về điều ấy. Ngay cả có những ca đã được thông báo ở Perth, London và Bombay. Chắc là sẽ có thêm nhiều nơi nữa.
"Chúng ta cần người đàn bà đó." Painter kết thúc. "Jennings đang nghiên cứu tin rằng người sống sót như vậy sẽ là chìa khóa cho việc chữa bệnh."
Lisa đồng ý. "Cô ta là chìa khóa, nhưng chưa trở thành thuốc chữa được... chưa được."
"Em nói thế nghĩa là thế nào? "
Painter nghe nàng thở dài từ cách xa hơn nửa vòng
trái đất.
"Chúng ta đang thiếu một cái gì đấy. Một cái gì đấy gắn với một địa điểm ở Cămpuchia."
Painter nói: "Có phải em đang nói đến Angkor?"
Một hồi im lặng. "Vâng." Ông thấy sự ngạc nhiên trong giọng nói của nàng. "Vì sao anh...?"
Painter kể cho nàng nghe việc tìm kiếm của Hiệp hội theo hướng lịch sử và nơi nào chấm dứt.
"Thế Gray đang ở đó rồi à?" Lisa hỏi, đột nhiên bỗng hốt hoảng. Ông nghe nàng lầm bầm như thể trích dẫn lời của ai đó. "Họ không được tới đó." Giọng của nàng nghe chắc hơn. "Painter, có cách nào bảo Gray hoãn lại được không?"
"Tại sao vậy?"
"Em không biết." Giọng nàng nghe bắt đầu bập bõm. Máy đang hết pin. "Vi khuẩn đang làm điều gì đó trong bộ não của Susan. Bằng cách nào đấy đã tỏa nhiệt ra, sử dụng ánh sáng mặt trời. Cô ấy nói điều thúc giục phải tới Angkor."
Painter nhận ra điều nàng đang ám chỉ. "Giống như
loài cua."
"Cái gì?"
Painter kể lại những gì ông biết về những con cua trên đảo Giáng sinh.
Lisa hiểu ngay lập tức. "Susan chắc phải được tái tạo lại bằng cách đó. Một thói quen di trú do hóa chất tác động."
"Nếu vậy thì có thể cô ta đã nhầm lẫn về sự cần thiết phải tới đấy. Có thể chỉ là một bước đi mù quáng. Không có lý do gì phải mạo hiểm tới đó cả. Không cho đến khi mọi chuyện yên ổn. Loài cua, giống như động vật chân đốt, chỉ thô sơ..."
Nàng thôi không nói. Painter sợ mất liên lạc. Nhưng thỉnh thoảng Lisa lại làm như vậy khi bỗng nhiên nàng nghĩ ra điều gì. Nàng vừa tắt máy, sử dụng toàn bộ trí lực của mình theo đuổi một vài khía cạnh.
"Lisa?"
Phải mất một lúc nàng mới trả lời được.
"Susan có thể nói đúng đấy." Nàng lầm bầm, rồi nói to và dõng dạc hơn. "Em sẽ phải đi tới đó."
Painter nói rất nhanh, biết rằng họ sẽ lại bị mất liên lạc. Ông nghe thấy sự kiên quyết trong giọng nói của nàng và sợ rằng ông sẽ không còn thời gian để thuyết phục nàng nữa. Nếu như nàng tới Angkor, ông muốn nàng ở một nơi không nguy hiểm.
"Vậy thì hạ cánh xuống một cái hồ lớn gần khu phế tích." Ông nói. "Tonle Sap. Có một làng nổi ở đấy. Hãy tìm một chiếc điện thoại rồi liên lạc với anh nhưng hãy nằm im ở đó. Anh đang tổ chức một chiến dịch tại khu vực này."
Ông chỉ có thể nghe được lời nói cuối cùng của nàng, điều gì đó là nàng sẽ làm hết sức mình.
Painter cố nói lần nữa. "Lisa, thế em hình dung sự việc ra sao?"
Giọng của nàng lúc nghe được, lúc không. "Không chắc chắn lắm... sán gan... vi rút phải..."
Rồi cuộc gọi chấm dứt. Painter cố gọi lại lần nữa, nhưng ông không thể nào liên lạc được với nàng.
Một tiếng gõ cửa làm mắt ông ngước nhìn lên.
Kat lao vào, cặp mắt sáng ngời, má bừng lên. "Tôi nghe thấy rồi! Về tiến sĩ Cummings! Có phải vậy không?"
Painter nhìn chằm chằm vào Kat. Ông đã đọc được câu hỏi trong mắt người đàn bà, cả thân hình cô như đang chờ đợi câu trả lời. Lisa đã nói với ông. Điều đầu tiên. Nàng nói vội vàng, như thể muốn giải tỏa chính bản thân mình. Sau đó, Painter đã khuôn chuyện đó lại.
Nhưng đối mặt với Kat, với hy vọng, tình yêu của cô, sự thật đã giáng cho ông một đòn chí tử.
Ông đứng dậy rồi bước ra khỏi bàn.
Kat đọc được điều này trên khuôn mặt ông.
Cô lùi xa khỏi ông như có thể lẩn tránh được điều gì đó đang tới.
"Ồ, không..." Cô nắm lấy thành ghế, song nó tuột khỏi tay cô. Cô khuỵu xuống một bên đầu gối rồi cả người đổ xuống, lấy hai bàn tay ôm mặt. "Không..."
Painter đến bên cô trên nền nhà.
Ông không có lời nào để nói với cô cả, chỉ có đôi bàn tay.
Thế vẫn chưa đủ.
Ông ôm cô vào lòng, phân vân không biết còn bao nhiêu người nữa sẽ chết trước khi chuyện này kết thúc.
*
* *
8 giờ 55 phút chiều
Họ đang chạy ra khỏi nơi ẩn nấp.
Bà Harriet chờ ông chồng ở chỗ chân cầu thang dẫn đến tầng trên cùng. Bà đứng ở cửa cầu thang. Ông Jack đã bước ra phía kia để lại một vài dấu vết giả cho những con chó săn. Bà đã cởi chiếc áo sơ mi của ông chồng và giúp ông giấu từng mảnh áo vung vãi ở hai tầng dưới; vứt vào những căn phòng đóng kín cửa, nhét vào thùng rác, treo lên ngăn kéo ở những tủ văn phòng. Họ làm mọi cách để cho những kẻ săn lùng họ bối rối.
Ông Jack đã đi săn suốt cả cuộc đời mình. Vịt giời, trĩ, hươu... Ông đã có khá nhiều chiến tích trước khi vụ tai nạn mỏ dầu làm cụt một bên chân từ đầu gối trở xuống. Ông biết về loài chó.
Và ông cũng còn ba viên đạn trong khẩu súng lục cướp của tên lính. Bà Harriet vẫn mong còn chút hy vọng. Nhưng bà đã nghe thấy tiếng chó sủa ở phía dưới. Ả Annishen chắc đang đi lụt soát từng tầng một. Bà biết chúng đang lên đây, thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng gọi, dỗ dành họ.
Tất cả các lối ra đều bị bịt kín. Ngay cả ở lối thoát cứu hỏa. Không có tòa nhà bên cạnh nào gần để trèo sang cả. Và cả khu phố như thể từ lâu bị lãng quên. Không một ngọn đèn nào sáng trừ ở phía rất xa. Chẳng có ai nghe được cả để họ gọi hoặc kêu cứu. Họ đã cố thử một cái điện thoại rỉ nhoèn nhưng tất cả đều không liên lạc được.
Giống như những kẻ tuyệt vọng chạy chốn một vụ cháy ở tòa nhà cao tầng, họ không còn nơi nào đi ngoài việc trèo lên cao. Và chỉ còn một tầng nữa thôi. Tầng đó và mái nhà.
Bà Harriet nghe thấy tiếng xích tay loảng xoảng rồi chồng bà hiện ra trong bóng tối, chỉ mặc mỗi cái quần đùi, cầm khẩu súng. Ông khập khiễng bước tới bà.
"Bà đang làm gì ở đây vậy?" Ông thì thào giọng khắc khổ. Khuôn mặt ông mồ hôi đầm đìa. Bà nhận ra giọng bực tức của ông xen lẫn nỗi lo lắng cho bà. "Tôi bảo bà lên trên kia cơ mà!"
"Không có ông, tôi không đi."
Ông thở dài rồi choàng tay qua người bà. "Thôi chúng ta đi nào."
Họ bước lên tầng cao nhất, đi bằng cầu thang phía sau hẹp. Phía dưới họ, ở dưới bậc cầu thang, một thùng rác lớn đã bị dúi xuống từ lâu, chặn lối đi lên từ các tầng dưới.
Có thể sẽ an toàn.
Một tiếng gầm gừ khe khẽ làm tan ý nghĩ đó. Một cuộc giao chiến nghe vọng lại từ phía cầu thang dưới, cách xa chỗ thùng rác.
Cả hai như chết lặng.
"Có mùi gì ở đó vậy, cô gái?" Một giọng nói vang lên. Tiếng bước chân đi vào cầu thang phía dưới. Một ánh đèn pin sáng lên phía trên.
Bà Harriet và ông chồng nép chặt vào tường.
Tiếng gầm gừ nghe căng thẳng hơn.
"Đi lên trên đó. Đi tiếp nào, lách lên."
Ông Jack đẩy vợ lên cầu thang. Họ khẽ bước lên.
Phía dưới, tiếng gầm gừ đã nhẹ dần chỉ còn lại tiếng cào cào trên nền nhà.
"Này," một giọng nói. "Hãy chú ý. Tôi sẽ đi vòng lại." Giọng nói hướng xuống cầu thang dưới, rõ ràng tìm cách đi lối khác lên. Một tiếng tách bật máy bộ đàm theo sau anh ta cùng với tiếng báo cáo vào trong máy.
Họ đưa lũ chó lên tầng tiếp theo.
Khi hai ông bà chạy đến cửa sổ cầu thang tiếp theo, có tiếng sủa mạnh vọng lại phía họ, nửa sung sướng, nửa man rợ. Một vật gì đó to lớn lao lên cầu thang.
"Chạy, Harriet." Ông chồng giục.
Bà lao về phía trước rồi tiến đến cầu thang. Cửa tới tầng cuối cùng chỉ còn độ vài bước nữa, đóng lại. Đằng sau bà, ông Jack trượt chân trong bóng tối rồi ngã. Ông trượt hai bậc cầu thang, khẩu súng văng tới gần chân bà. Bà nhanh chóng nhặt lên. Khi bà đứng thẳng dậy, ánh sáng chiếu qua cánh cửa sổ nhỏ ở cầu thang đập vào mắt bà.
Những tia đèn pin loang loáng khắp tầng thượng tối om.
Annishen gọi to: "Chúng ta sẽ tìm kiếm ở đây rồi đi xuống, phải lùng sục bằng được chúng."
Harriet quay lại. Ông Jack quờ quạng về phía bà. Đằng sau ông, một thân hình đen trũi từ cầu thang phóng về phía chồng bà, tiếng gầm gừ theo sau.
Bà nâng khẩu súng lên. Nếu bà bắn, ả Annishen sẽ nghe thấy tiếng súng. Những kẻ săn đuổi họ sẽ biết nơi họ đang nấp và đổ xô vào đây trong giây lát.
Bà chần chừ quá lâu.
Gầm lên một cách man rợ, con chó to tướng nhảy chồm vào chồng bà.
*
* *
7 giờ 58 phút sáng
Angkor Thom
Seichan bước lui ra khi Gray đi vòng quanh bàn thờ giữa.
Họ phải mất tới hai mươi phút để đi đi lại lại, tìm kiếm đường vào khu vực thánh địa trung tâm của tầng ba tháp Bayon. Khu vực rộng tới mười mẫu Anh này quả là một mê cung với những hành lang tối om, sân bỗng nhiên tràn đầy ánh mặt trời. Những mái trần thấp gần chạm đầu, vài lối đi phải len từng người một và nhiều hành lang như ngõ cụt.
Đến khi họ tới một thánh địa bên trong, tất cả mọi người đều bụi bặm, mồ hôi đầm đìa. Buổi sáng đã nhanh chóng nóng lên, không khí ẩm bao trùm. Nhưng họ đã tới đích.
"Chẳng có gì ở đây cả." Nasser chua chát nói.
Seichan nhận ra thái độ của hắn, đọc được dáng đứng đầy đe dọa. Cô phân vân sự kiên nhẫn của hắn liệu có thể kéo tới buổi trưa không. Trừ phi có một tiến bộ nhanh chóng nào đó, cô nghĩ có lẽ hắn sẽ kết thúc mọi chuyện trong vòng một giờ nữa. Ra lệnh giết bố mẹ Gray. Xử tử tất cả bọn họ ở đây rồi đi tiếp.
Quả là thực tế.
Không hề có chút tưởng tượng nào.
Điều này làm cho hắn ta trở thành một tình nhân tẻ nhạt.
Phía trước, Gray bước vòng ban thờ lần thứ ba. Trông anh thật hốc hác, phủ đầy bụi đất, mái tóc đen bết vào trán. Máu khô bám chặt vào cổ áo khi anh bị người của Nasser dùng báng súng nện vào phía sau tai ở khách sạn.
Anh từ chối không nhìn vào cô.
Điều ấy làm cô bực tức, chủ yếu vì bị tổn thương và cô căm ghét điều đó hơn bao giờ hết. Cô đã tìm kiếm một cảm giác lạnh lùng, cái mà cô đã có thời sống một cách dễ dàng cho phép mình ngủ với Nasser để tìm kiếm điều cô cần như thể được đào tạo để làm.
Seichan hướng sự chú ý tới lũ lính gác, trở nên thực dụng, tìm cách thoát khỏi đây. Bọn chúng hầu hết là người địa phương, trong đó có nhiều tên Khơ Me đỏ, từ lâu đã được Hiệp hội tuyển mộ, thu nhặt từ sau khi tên độc tài diệt chủng Pôn Pốt sụp đổ. Chúng là những chiến binh dữ tợn. Chúng gác cả bốn lối ra tới căn phòng, hướng ra bốn phía. Nhiều tên nữa đang chiếm các vị trí xung quanh khu phế tích, làm nản lòng những du khách quấy rầy chúng.
"Theo những gì tôi đọc được về nơi này, một pho tượng Phật lớn đã có thời nằm ở đây." Ngài linh mục tuyên bố, đi cùng với Gray quanh ban thờ. Ông lấy tay chỉ vào hai phiến đá hình chữ nhật nằm chếch phía trên."Nhưng khi tôn giáo chuyển thành đạo Hindu, thì tượng Phật bị lật đổ rồi vứt xuống cái giếng lớn mà chúng ta đã đi qua khi tới đây."
Những vật trang trí duy nhất của căn phòng đá này là bốn khuôn mặt mờ mờ của Lokesvara. Chỉ có bốn khuôn mặt là nhìn vào trong về phía ban thờ và tượng Phật bị mất. Kowalski tựa vào một bức tượng rồi nhìn lên.
"Chắc phải là chỗ này." Gray nói, cuối cùng dừng lại. "Đây phải có lối đi xuống."
"Đi xuống đâu?" Nasser hỏi.
Gray giơ tay chỉ về phía ngài linh mục. "Ngài Vigor nhắc tới nền của tháp này đã bị chôn vùi dưới lòng đất. Sâu. Chúng ta cần tìm lối đi xuống dưới những căn phòng phía dưới. Và tôi tin là dưới ban thờ phải là một điểm để nhìn vào."
Vigor bước tới cạnh anh: "Tại sao anh nghĩ cái đó quan trọng?"
Gray gạt tóc khỏi trước trán, rõ ràng cân nhắc xem nói điều gì.
Nasser cũng đọc được sự lưỡng lự của anh."Chúng ta đã quá một giờ rồi," hắn gõ gõ lên mặt đồng hồ, "chỉ huy ạ."
Gray thở dài. "Bức bích họa chúng ta nhìn lúc nãy. Để trộn sữa. Mọi chi tiết của câu chuyện đều quan trọng. Con rắn, bể cháo, chất độc, sự đe dọa thế giới, người sống sót phát sáng. Nhưng có một chi tiết đứng ra ngoài như kỳ quặc không giải thích được. Nó không khớp với những cái khác."
"Đó là cái gì?" Nasser hỏi.
Seichan nhìn thấy anh có vẻ khó trả lời. Mỗi lời nói ra cùng với sự miễn cưỡng.
"Con rùa." Cuối cùng anh cũng nói.
Vigor gãi gãi cằm. "Con rùa trong bức tranh tượng trưng cho thánh Vishnu, một hiện thân của ngài. Trong hình dạng con rùa, ngài đã giúp cho ngọn Meru khi nó bị chao đảo khỏi bị chìm."
Gray gật đầu. "Trong bức khắc họa, con rùa được khắc ở dưới quả núi. Tại sao lại là một con rùa?" Anh tựa vào rồi thổi lớp bụi trên ban thờ. Anh vẽ ra nguệch ngoạc một quả núi nằm ở phía dưới một cái vỏ hình tháp.
Anh chỉ vào cái vỏ sò: "Thế các vị trông nó giống cái gì?"
Vigor cúi sát vào: "Một cái động. Chôn ở dưới chân ngọn núi."
Gray ngước nhìn lên tia sáng: "Và cái tháp tượng trưng cho ngọn núi đó."
Seichan xích lại gần hơn. "Anh nghĩ là có một cái hầm dưới tháp này ư? Phía dưới cái nền đã bị chôn vùi."
Anh trả lời cô, đôi mắt thoáng nhìn cô rồi quay đi. "Chỉ có một cách để tìm ra là chui xuống dưới nền rồi tìm kiếm lối vào cái hang đó."
Nasser cáu kỉnh. "Thế cái hang đó quan trọng đến mức nào?"
"Đấy có thể là nguồn gốc của chủng vi rút Juda." Vigor nói. "Có thể khi họ khai quật ngôi đền, họ đã chạm vào cái hang, để một vài thứ chôn sâu ở dưới đó."
Gray thở dài, mệt mỏi. "Nhiều vật mang bệnh đã xuất hiện trên trái đất khi loài người trải ra vào những khu vực thông thường không có người ở. Bệnh sốt vàng, sốt rét, bệnh ngủ. Ngay cả AID cũng xuất hiện khi một con đường được xây dựng ở một vùng hẻo lánh của châu Phi, đặt thế giới đối mặt với một loài vi rút chỉ tìm thấy ở một vài con khỉ. Vậy có thể khi những người Khơ Me canh tác và sinh sống ở khu vực này, có điều gì đó đã nảy sinh."
Gray gãi cổ. Cặp mắt anh nhìn chòng chọc vào Nasser.
Quá chăm chú.
Seichan cảm thấy anh vẫn còn giữ điều gì đấy. Cô nhìn một lần nữa nét vẽ nguệch ngoạc của anh. Quả núi và vỏ sò tượng trưng cho cái tháp và hang động. Vậy còn có cái gì nữa ở đây? Rồi cô hiểu ra.
Chính là con rùa.
Tất nhiên...
Mắt cô nhìn vào Gray.
Chắc anh cũng cảm nhận được sự chú ý của cô. Anh nhìn về phía cô, lơ đãng, nhưng cái nhìn đầy sức nặng. Anh hiểu cô đã nhận ra điều anh chưa muốn nói. Anh mong cô im lặng.
Cô lui lại khoanh tay trước ngực.
Anh lại nhìn một lần nữa rồi quay đi.
Seichan cảm thấy chút thỏa mãn. Hơn cả cô mong đợi.
Nasser hít một hơi dài rồi gật đầu. "Chúng ta phải tìm đường xuống dưới này."
Gray chau mày. "Tôi hy vọng có thể có dấu vết của một hành lang bí mật."
"Không sao." Nasser nói. "Chúng ta sẽ cho nổ lối vào".
"Tôi không nghĩ điều đó là khôn ngoan." Vigor nói hoảng hốt. "Nếu như đấy là nguồn gốc của chủng vi rút Juda, nó có thể rất độc dưới đó."
Nasser vẫn không lay chuyển. "Vì vậy ta sẽ cho các ngươi xuống dưới đó trước."
Để làm những con chim bạch yến ở một mỏ than.
Seichan lại nhìn vào mắt Gray. Anh không phản đối. Giống như Seichan, biết là có cái gì đấy lớn hơn nguồn gốc của chủng vi rút Juda dưới đó.
Cái mu con rùa có thể tượng trưng cho một cái hang -nhưng chính loài rùa lại tượng trưng cho thánh Vishnu - gợi ý hơn là một cái hang ở dưới tháp Bayon. Có thể có cái gì nữa chờ họ ở dưới đó.
Gray bước tới Nasser. "Liệu hợp tác như thế đã đủ để cho mẹ tôi thêm một giờ nữa không?" Anh hỏi, giọng căng thẳng.
Nasser nhún vai, đồng ý. Hắn di chuyển tới chỗ ánh sáng để có thể nhận được tín hiệu điện thoại rõ hơn.
"Tôi phải khẩn trương hơn vậy." Nasser nói, mở nắp điện thoại di động. "Giờ đã quá giờ rồi. Annishen không có nhiều kiên nhẫn. Không có thể nói cô ta đã làm gì ".
*
* *
9 giờ 20 phút chiều
Washington DC
Bà Harriet đứng chết lặng ở lan can.
Con chó lao vào thân hình nằm sóng soài của ông Jack trên cầu thang. Thật không thể biết được con chó thuộc loại gì trong bóng tối cầu thang chỉ biết nó rất to, gân guốc. Pit Bull, Rottweiller. Ông Jack lộn ngửa ra rồi đạp mạnh, nhưng con chó nhanh hơn, quen với tấn công. Gừ một tiếng, nó đợp ngay vào cổ chân của ông.
Ông Jack co chân rồi dùng chân kia đạp mạnh, thẳng vào ngực con chó.
Con chó rơi bịch xuống cầu thang vẫn còn ngoạm cái chân giả của ông. Ông Jack đã tháo cái chân giả để tự giải thoát mình.
Bà đỡ ông lên lan can.
Phía dưới con chó đập mạnh vào tường rồi đứng dậy. Nó vẫn ngoạm cái chân giả, hít hít mùi của ông. Tức tối, nó quẫy mạnh đập cái chân.
Bà Harriet kéo ông lên các bậc thang tiếp, đi qua cửa lan can khép chặt. Bà liếc nhìn qua cửa sổ nhỏ. Những ánh đèn pin tiếp tục tìm kiếm ở tầng trên. Vậy là ông bà chỉ còn một lối để đi.
Mái nhà.
Dưới cầu thang, con chó vẫn tiếp tục cắn xé cái chân giả, hài lòng với phần thưởng của nó.
Ông Jack tựa vào vai bà vợ. Ông lò cò rồi lết người trên cửa lên mái. Họ tìm kiếm lối ra và thấy nó bị khóa một cách hờ hững. Ở một góc, có ai đó đã dùng một cái búa bẻ gập góc dưới của cánh cửa bằng thép. Có thể chui qua được chỗ hở, từ đấy qua cánh cửa.
Khi đã ra ngoài bóng đêm, ông Jack dùng một cái que vứt ở đó để chèn cửa chặt lại. Chắc không giữ lâu được. Nhưng cũng không sao. Còn có tới dăm ba lối lên mái như vậy. Họ không thể chốt hết mọi cửa.
"Đi lối này." Ông Jack nói, chỉ tay. Ông đã xem xét cái mái rồi tìm ra một hệ thống điều hòa và thông gió, cũ nát. Nhưng vẫn còn đủ chỗ để giấu được hai người.
Song cũng không nhiều hy vọng.
Chẳng bao lâu lũ chó chắc sẽ đánh hơi thấy họ.
Họ đi ngang qua mái để tới chỗ nấp. Những ngôi sao sáng lấp lánh trên bầu trời cùng với ánh trăng màu bạc. Một chiếc máy bay bay ngang qua đầu, lấp lánh đèn tín hiệu.
Ông Jack choàng tay quanh bà, kéo bà gần hơn nữa.
"Anh yêu em." Ông nói.
Thật đó là sự thú nhận hiếm hoi, ít khi được nói ra. Điều mà chẳng bao giờ bà Harriet nghi ngờ, ngay cả lúc này khi ông nói một cách tự nhiên. Giống như nói rằng trái đất tròn. Đơn giản như một sự thật.
Bà tựa sát vào ông: " Em cũng yêu anh, Jack."
Bà ôm chặt ông. Bà không biết họ còn bao nhiêu thời gian nữa. Cuối cùng thì cuộc tìm kiếm dưới nhà cũng sẽ chấm dứt và ả Annishen sẽ hướng sự chú ý lên mái nhà.
Họ chờ đợi cùng nhau trong im lặng, đã sống cả cuộc đời cùng với nhau, chia bùi sẻ ngọt, nếm biết bao nhiêu đắng cay và vinh quang. Mặc dù không nói một lời nào, cả hai đều biết điều họ đang làm, ngón tay xiết chặt nhau. Họ đang nói lời vĩnh biệt nhau.