Quần Jean May Mắn Chương 11

Chương 11
Từ khi được giới thiệu với Brian McBrian lần đầu, Tibby biết họ đã tìm được đúng đích đến cho một cuộc gặp mặt kinh tởm.

Cậu ta là bức tranh biếm họa của một bức tranh biếm họa về một kẻ thua cuộc. Cậu ta vừa gầy giơ xương vừa ẻo lả, da thì trắng nhợt như váng sữa. Cậu ta bị hội chứng trụi lông mày, tóc dầu màu lông chó, đeo hai cái dây đeo quần màu rêu, và có cái kiểu nói chuyện phun nước bọt ra khắp nơi. Tibby phải chuyển vụ này cho Bailey.

Cậu ta đang chơi trò Chúa Rồng trong khi họ dựng cảnh. Tibby nhìn Bailey với những tiếng ậm ừ khâm phục trong cổ họng khi cô bé gắn chiếc mic bên ngoài vào một tay cầm mic dài thay thế tạm thời. Với tất cả những tiếng ồn ào trong và ngoài cửa hàng, chẳng tài nào có được một buổi phỏng vấn chấp nhận được nếu không có một chiếc mic trực tiếp. Có đúng là Bailey chưa bao giờ làm việc này không?

Tibby bắt đầu bằng việc dàn cảnh. Nó di chuyển từ cận cảnh một chiếc Hostess Snowball màu hồng giả tạo sang một cái giá có tờ báo công bố đứa con thuộc chủng tộc khác của Vanna White, sang tiếp một bức hình của Slim Jims trên kệ. Nó kết thúc khung hình tiếp theo với hình ảnh chàng trai làm việc sau quầy tính tiền. Ngay lập tức anh này giơ hai bàn tay lên che mặt, mặc dù Tibby đã là một phóng viên điều tra của chương trình 60 Phút. “Không quay phim! Không quay phim!” anh ta rống lên.

Tibby bắt được một cảnh khuôn mặt đang cười của Bailey khi con bé di chuyển đến phía trước cửa hàng. Nó quay một cảnh Brian từ phía sau, các đoạn xương của cậu ta nhô ra khi vật lộn với con rồng; sau đó nó ngừng quay để bố trí phỏng vấn. “Sẵn sàng chưa?” nó hỏi.

Cậu ta quay lại. Bailey đặt cái mic ngay ngắn lại. “Dây đang bị xoắn,” cô bé nhắc cậu ta.

Cậu ta không làm dáng hay cứng đờ ra hoặc có cái đầu cứng ngắc ở một góc kỳ quặc như nhiều người khác khi đứng trước máy quay. Cậu ta chỉ đơn giản nhìn ngay vào cái mic.

“Vậy, Brian, chúng tôi nghe nói anh đến cửa hàng Seven-Eleven này khá thường xuyên,” Tibby nói, mặc định rằng những người này điếc đặc đối với sự giễu cợt.

Cậu ta gật đầu.

“Anh thường có mặt vào giờ nào?”

“À, từ hơn 1h đến độ 11h.”

“Cửa hàng này đóng cửa đúng 11h à?” Tibby hỏi, miệng nhếch thành một nụ cười tinh quái.

“Không, đó là giờ giới nghiêm của tôi,” cậu ta giải thích.

“Thế còn trong năm học thì sao?”

“Trong năm học tôi sẽ tới đây trước 3 giờ 5 phút.”

“Tôi hiểu. Anh không có hoạt động nào sau giờ học hay gì khác?”

Brian có vẻ như đã nắm được ẩn ý của câu hỏi. Cậu ta chỉ về phía cửa kính trước của cửa hàng trông ra khu đậu xe và nói: “Hầu hết mọi người sống ngoài kia.” Cậu ta chỉ vào trò chơi “Tôi sống ở đây,” và gõ gõ vào kính màn hình.

Tibby dần dần mất bình tĩnh trước sự trung thực và cái nhìn ngang hàng của cậu ta. Nó nghĩ mình sẽ dọa được một người như Brian.

“Vậy hãy kể cho chúng tôi nghe về trò Chúa Rồng,” nó nói, bắt đầu cảm thấy mình hơi chùn lại.

“Tôi sẽ chỉ cho cô xem,” cậu ta nói, thả hai đồng 25 xu vào chiếc máy thu tiền. Điều này rõ ràng lý giải cho việc tại sao cậu ta đồng ý với việc quay phim.

“Bàn 1 là cánh rừng. Đó là năm 436 sau Công nguyên. Cuộc thám hiểm vĩ đại đầu tiên để đi tìm Chén Thánh.”

Tibby quay camera hướng vào màn hình máy trò chơi, nhìn qua vai cậu ta. Hình ảnh không được rõ như nó muốn, nhưng cũng không đến nỗi xấu quá.

“Có tổng cộng 28 bàn, trải dài từ thế kỷ thứ 5 sang đến thế kỷ 25 sau Công nguyên. Chỉ có một người trên chiếc máy này đã chơi được đến bàn 28.”

“Đấy là anh à?” Tibby hỏi, hơi nín thở.

“Đúng, là tôi,” cậu ta trả lời. Vào ngày 13 tháng Hai.

Tibby - nhà quay phim tài liệu đầy khinh bỉ - biết đó là một điều tuyệt vời. Nhưng vì một số lý do nhất định, nó cảm thấy hơi chút ấn tượng dù đã cưỡng lại. “Có lẽ hôm nay anh sẽ lên đến bàn đó lần nữa,” nó nói.

“Có thể lắm,” Brian đồng tình. “Kể cả nếu tôi không lên được bàn đó, thì ở đây cũng có cả thế giới.”

Cả Tibby và Bailey đều liếc mắt qua vai Brian để nhìn trò chơi, trong đó Brian là một chiến binh to lớn đầy cơ bắp đan g đứng với một nhóm quân toàn những chiến binh trung thành và một phụ nữ đẫy đà để chiến đấu.

“Bạn thậm chí chẳng đánh lại được một con rồng trước bàn 7,” cậu ta giải thích.

Ở bàn 4, có một cuộc chiến đấu trên biển. Ở bàn 6, những kẻ phá hoại đốt làng của Brian và cậu ta đã cứu thoát tất cả phụ nữ và trẻ em ở đó. Tibby nhìn tay cậu ta lướt thoăn thoắt và chắc chắn trên các phím khác nhau. Cậu ta chẳng cần nhìn các phím.

Sau khi con rồng thứ hai xuất hiện, Tibby nghe thấy tín hiệu hết pin và chiếc camera tắt phụt, nhưng nó vẫn xem cậu ta chơi tiếp.

Sau một vòng vây hãm dài tại một lâu đài trung cổ, Brian dừng trò chơi và quay lại.

“Tôi nghĩ là pin của cô hết rồi,” cậu ta nói.

“Ừ đúng rồi,” Tibby nói một cách thờ ơ. “Đó là viên pin thứ ba của tôi. Tôi không còn viên nào nữa. Có lẽ chúng ta sẽ hoàn tất nốt cảnh quay sau vậy.”

“Được thôi,” Brian đồng ý.

“Anh có thể chơi tiếp nếu muốn,” Tibby nói.

“Tôi sẽ chơi tiếp,” cậu ta nói.

Bailey mua cho mỗi người bọn họ một chiếc bánh hoa quả Hostess và họ ngồi xem phiên bản trận chiến anh hùng của Brian suốt 24 bàn trước khi nhân vật của Brian bị một con rồng phun lửa thiêu cháy.

 

Eric đang hướng dẫn một buổi tập chạy khác vào lúc 5h. Bridget không chắc liệu anh có vui khi gặp nó không.

“Hôm nay chúng ta đã giảm thời gian xuống còn 6 phút 55 giây,” Eric tuyên bố với nhóm. “Một lần nữa các bạn lại hiểu được cơ thể của mình. Các bạn biết khi nào làm quá sức. Ở đây rất nóng. Vì vậy hãy thả lỏng. Chạy chậm lại nếu cần. Đây là tập chạy chứ không phải chạy thi.” Anh ta nhìn ngay vào Bridget.

“Sẵn sàng chưa?” Anh ta hỏi sau khi đã cho họ vài phút khởi động.

Dường như anh ta tự quay lại rất nhanh với ý tưởng rằng Bridget sẽ chạy cùng anh ta dù anh ta có chạy nhanh hay chậm. “Em đúng là một vận động viên đấy, Bee,” anh ta nói với nó bằng một giọng thận trọng. “Ngày hôm nay em đã thực sự biểu diễn đấy.” Anh ta nghĩ nó đã làm quá sức. Rõ ràng là như vậy.

Bridget cắn môi ngượng ngùng. “Em đã quá căng thẳng. Đôi khi như vậy.” 

Anh ta làm bộ mặt như không hề ngạc nhiên. “Em trình diễn thế là cho anh xem đấy,” nó thừa nhận.

Anh ta có vẻ như kìm lại những suy nghĩ của mình một giây khi nhìn thẳng vào mắt nó. Sau đó anh ta quay lại để xem người chạy tiếp theo còn cách bao xa. “Bee, đừng,” anh ta lí nhí.

“Đừng gì cơ?”

“Đừng… đừng… như thế.” Anh ta không có vẻ như đã tìm được đúng từ muốn nói.

“Tại sao không? Tại sao em không được phép thích anh?”

Anh ta sửng sốt trước sự thẳng thắn của nó. Anh liếc nhìn nó và rền rĩ. “Nghe này, tôi… tôi thật sự rất hãnh diện. Tôi rất vinh dự. Ai mà lại không hãnh diện chứ?”

Bridget mím chặt môi. Hãnh diệnvinh dự không phải là những từ nó muốn nghe. Dù sao nó cũng không tin mấy từ đó.

Anh ta tiếp tục tăng tốc để họ tiếp tục chạy xa hơn. “Bridget này, em rất xinh đẹp. Em thật đáng kinh ngạc, và em là một tài năng, và rất… rất… thu hút.” Giọng anh ta đã mềm mại hơn. Mắt anh ta gặp mắt nó. “Không phải tôi đã không chú ý đâu. Hãy tin tôi, tôi đã chú ý.”

Bây giờ thì nó cảm thấy hy vọng.

“Nhưng tôi là một huấn luyện viên và em… mới chỉ 16 tuổi.”

“Thế thì sao?” nó nói.

“Trước hết điều này là không đúng, và thứ hai là điều này hoàn toàn vi phạm quy định.”

Bridget hất một mớ tóc ra phía sau tai. “Đó không phải là những quy định mà em quan tâm.” 

Gương mặt Eric lại nghiêm nghị. “Tôi không có sự lựa chọn nào về những quy định này cả.”

Mặc dù bữa sáng với Bapi đã trở thành một thủ tục thường ngày, vẫn có một không khí ngại ngùng thế nào đó. Nhất là sau những gì đã xảy ra.

Sáng nay món bột rán Rice Krispies của nó được cắn xộp xoạp thô bạo, kêu roàm roạp và bôm bốp trong khi Bapi lặng lẽ ăn món bột ngũ cốc Cheerios. 

Nó nhìn ông, thử tìm xem lúc nào thích hợp để nói chuyện. Nó cố bắt được ánh nhìn từ đôi mắt màu xanh xám giống màu mắt nó. Nó muốn trông có vẻ chân thành và hối lỗi, nhưng món bột bắp ồn ào của nó đã làm rối loạn hiệu ứng đó rồi. Hình ảnh những mũi khâu nhỏ thành đám trên làn da nhăn nheo của ông đã làm nó day dứt tận đáy lòng vì hổ thẹn.

“Bapi, cháu...”

Ông ngẩng đầu lên. Nét mặt ông có vẻ rất quan tâm.

“Ôi, cháu chỉ...” Giọng nó run run. Nó đang nghĩ gì thế nhỉ? Bapi thậm chí còn không nói tiếng Anh.

Bapi gật đầu và đưa tay lên đầu nó. Đó là một cử chỉ ngọt ngào. Đó có nghĩa là tình yêu thương và sự bảo vệ, nhưng đó cũng có nghĩa là Chúng ta không cần phải nói về chuyện đó.

Nó ước gì Effie đã không ngủ gà gật sáng hôm đó. Lena thì đã quá mệt và bối rối để có thể đến thú nhận với Effie đêm qua, và ông bà nó lại không hề nhắc gì về điều đó cả.

Effie hỏi về miếng băng trên má ông, nhưng Bapi nhún vai, lẩm bẩm bằng tiếng Hy Lạp. Bây giờ thì Lena muốn kể cho em gái nghe toàn bộ câu chuyện và ít nhất để cho cô nàng Effie tài tình kiểm chứng thực tế, kể cả nếu đó là sự trừng phạt. Sau đó nó kể với bà, và sau đó bà có thể giải thích cho Bapi. Như thế sẽ tốt hơn. Nhưng Effie vẫn đang ngủ.

Ăn sáng xong, Lena lên gác xếp các dụng cụ vẽ của nó lại. Những việc lặp đi lặp lại cũng tốt cho một tâm hồn xao động. Nó mở rộng cửa sổ vào lúc Kostos thường đi ngang qua và dừng lại ở quán cà phê trên phố, trước khi quay xuống đồi về lò rèn, nhưng sáng nay chả thấy anh đâu. Dĩ nhiên là anh không đi qua rồi.

Rời nhà, nó quyết định hôm nay sẽ đi xuống đồi. Ánh nắng phản chiếu trên những bức tường trắng đập vào mắt nó, rải ánh sáng vào tận trong đầu nó và chiếu sáng những góc bụi bặm ít khi được chăm sóc trong đó.

Nó đi ngang nhà của Kostos. Do đường lượn của vỉa hè, ngôi nhà của anh nằm ở một vị trí mà nếu bạn tình cờ đi ngang qua, và nếu lúc đó cánh cửa nhà anh tình cờ lại đang mở, bạn sẽ có thể nhìn thẳng đến phòng khách của ngôi nhà.

Nó chầm chậm đi ngang qua. Không có dấu hiệu hoạt động gì. Đi xa hơn xuống phía dưới đồi, nó tự đi theo hướng mà nó nghĩ là sẽ đến lò rèn. Có lẽ nó sẽ đi ngang qua anh. Có lẽ nó sẽ nói chuyện với anh hoặc ít nhất sẽ làm vẻ mặt rằng nó biết mọi thứ đã vượt quá xa ngoài tầm kiểm soát.

Nó không nhìn thấy anh. Nó đi tiếp. Khá thờ ơ, nó dựng giá vẽ ngay bên dưới nhà thờ yêu thích. Nó lấy ra cây bút chì than của mình, sẵn sàng phác họa hình dáng ngọn tháp chuông. Tay nó ngập ngừng vì tâm trí đang đi lang thang.

Nó cất cây bút chì đi. Hôm nay, để thay đổi, nó không thấy thích dành những khoảng thời gian quý giá cho riêng Lena nữa. Nó thu dọn đồ vẽ và quay lại quả đồi. Có lẽ lần này nó sẽ gặp Kostos trên đường. Có lẽ nó sẽ đi mua sắm với Effie như Effie đã luôn luôn muốn, và mua một trong những chiếc bát gỗ ôliu dành cho khách du lịch dở hơi kia.

Có lẽ nó sẽ tìm ra cách để kể cho bà nó nghe chuyện đã xảy ra.

Ừm, nó đã tự bảo mình rằng xét một cách tích cực, Kostos không làm phiền nó nữa cũng hay. Nhưng cái mặt tích cực đó hình như cũng không tích cực lắm vào lúc này.

 

Carma thân,

Bọn tớ đã xuống chơi ở khu có núi lửa. Tên nó là Tres Virgenes(1)_. Còn Quattro Virgenes, có thể đó chính là bọn tớ. Tớ thề là tớ có thể ngửi thấy mùi khói, mặc dù người dẫn đường cho chúng tớ nói rằng những núi lửa này đã ngừng phun từ thế kỷ trước.

Sau đó bọn tớ lặn lội xuống phía Nam qua những hẻm núi để xem các tác phẩm nghệ thuật trên đá của người da đỏ cổ đại. Đầu tiên đó là những cảnh săn bắn, và sau đó là một bức tranh lớn sau một loạt những tác phẩm điêu khắc dương vật khổng lồ. Diana và tớ đã cười bò đến ngã lăn ra đất. Những huấn luỵện viên đi cùng chúng tớ vẫn cố gắng đưa chúng tớ đi. Thật là chết cười. Ước gì cậu có thể ở đây cùng chúng tớ nhỉ.

Ôi, những niềm vui thú điên rồ của vùng Baja.

Yêu cậu,

Bee

Hết chương 11. Mời các bạn đón đọc chương 12!

Nguồn: truyen8.mobi/t40167-quan-jean-may-man-chuong-11.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận