Mặc dù vậy chúng tôi cũngkhông vội về nhà làm gì. Linh tính mách bảo chúng tôi đang được sống những ngàythanh thản cuối cùng trước khi bước chân vào vòng điên đảo của thực tế, và vậylà chúng tôi gia hạn thị thực ở Delhi để ngao du thêm vài tuần trên đất nước ẤnĐộ kì bí.
Nhưng, đối với cuộc chơi lãng mạn thì không có kết cục nàothảm hại hơn một trận kiết lị amip.Tôi nằm bẹp một tuần liền trong một nhàthương Ấn Độ nhơ nhuốc và cầu khẩn Alex chớ bỏ tôi chết ở cái nơi địa ngục này.Bốn hôm sau chúng tôi bay về tới Newark. Mẹ tôi sầu muộn đặt con gái ngồi trênghế sau của ô tô và phóng thẳng về nhà. Xét về mặt nào đó thì ước muốn của nhữngbà mẹ Do Thái như mẹ tôi đã thành hiện thực: mẹ có cớ để lôi tôi đi hết phòngkhám này đến phòng khám khác, cho đến khi tin tưởng tuyệt đối rằng lũ kí sinhtrùng khốn nạn đã bị tống khỏi cơ thể con bé yêu của mình. Phải đến bốn tuầnsau tôi mới có lại cảm giác thoát khỏi bàn tay thần chết, và thêm hai tuần nữathì tôi lờ mờ nhận ra rằng không thể sống ở nhà được. Bố mẹ thật tuyệt vờinhưng liên tục bị hỏi đi đâu khi ra vào cửa-hoặc đã ở đâu khi về đến nhà- thì dễphát điên lắm. Tôi gọi điện cho cô bạn Lily và hỏi cô ấy có thể cho tôi tạm trútrên cái đi văng trong căn hộ mini ở Harlem không. Cô ấy đồng ý, thật quá tử tế.
Mồ hôi như tắm, tôi thức dậy trong căn hộ mini ở Harlem. Đầuóc nhức như búa bổ, dạ dày sôi cồn cào, thần kinh căng như dây đàn. Chết rồi -bệnh lại tái phá t- tôi thất kinh. Lũ kí sinh trùng đã tìm được đường quay lại,và tôi sẽ không giũ nổi chúng cho đến khi cuối đời. Biết đâu lại có những di chứnggì kinh khủng hơn? Có thể tôi mắc một chứng bệnh sốt xuất huyết hiếm và có thểtiến triển chậm? Sốt rét? Hay thậm chí vi khuẩn Ebola? Tôi nằm cứng đơ, đangchuẩn bị tinh thần đón nhận cái chết sắp tới thì những hình ảnh đêm qua chợt hiệnra. Một quán bar đặc khói thuốc đâu đó ở East Village. Những âm thanh quỷ quáicó tên là Jazz Fusion Music. Một thứ đồ uống màu hồng chóe trong ly chuyên rótMartini-khiếp, tởm quá. Bạn bè ghé qua chào mừng tôi quay về cố hương. Một lờichúc, một ngụm rượu, lại một lời chúc tiếp theo. Ơn chúa, thì ra không phải mộtdạng sốt xuất huyết hiếm hoi, mà chỉ là một cơn váng đầu sau cuộc phê. Tôikhông ngờ rằng với mười cân thịt sút sau trận kiết lị thì tửu lượng giảm đitrông thấy. Với 52 kg và chiều cao 1,75 mét thì lẽ ra không nên tham gia mộtđêm đập phá như vậy (tuy vậy sau này nghĩ lại thì té ra những số cân đo ấy quáhợp lí khi làm cho một tạp chí thời trang.)
Tôi dũng cảm duỗi tứ chi ê ẩm trên chiếc đi văng trên đó tôiđã co quắp ngủ từ một tuần nay, tập trung tuần bộ tinh thần nén cơn buồn nôn trựctrào lên. Không khó khăn lắm để làm quen trở lại đất Mỹ với những đồ ăn, cáchhành xử, vòi hoa sen tắm đã lâu đời. Duy chỉ có việc ăn nhờ ở đậu này thì hơikhó tiêu. Nếu sống tằn tiện và vét nốt mấy đồng tiền Thái và Ấn Độ còn sót lạithì khoảng một chục hôm nữa thì là tôi nhẵn túi, và cách duy nhất để xin đượctiền phụ huynh là quay trở về cái vòng luẩn quẩn vô tận với những lời ca thán.Chỉ nghĩ đến đấy là tôi lao ngay ra khỏi ổ, và cái ngày định mệnh của tháng Mườimột ấy với việc không đầy một tiếng nữa là phải có mặt trong cuộc phỏng vấn đầutiên trong đời. Cả tuần vừa qua, khi người ngợm còn uể oải, dặt dẹo, tôi ườnxác trên cái đi văng nhà Lily cho đến khi cô ta phải tống tôi ra khỏi nhà, ítnhất mỗi ngày vài tiếng đồng hồ. Không biết phải làm gì cho hết thì giờ, tôimua một vé tàu điện ngầm, lãng đãng đi cả một ngày ngang dọc thành phố và nộp hồsơ xin việc ở tòa soạn của tất cả các tập chí lớn: sơ yếu lí lịch và một tấm làđơn khá cẩu thả trình bày rằng tôi muốn làm trợ lý biên tập và nhặt nhạnh vàikinh nghiệm đầu đời trong nghề viết lách. Tôi còn quá mệt mỏi và ốm yếu để quantâm xem có ai đọc mấy thứ đó không, huống hồ là hy vọng sẽ được gọi đến phỏng vấn.Song hôm qua điện thoại của Lily réo chuông, và kì diệu thay, một người ở phòngnhân sự Elias Clark muốn gọi tôi tới “hàn huyên”. Tôi không chắc đó có là mộtcuộc phỏng cấn thật sự hay không, nhưng trong trạng thái của tôi từ “hàn huyên”nghe sướng tai hơn.
Tôi chiêu một vài viên thuốc đau đầu với một cốc Pepto và bớitrong đống quần áo để tìm ra một chiếc áo khoác và quần, trong không hẳn hợpnhau lắm một cách lí tưởng nhưng ít nhất cũng quấn quanh được bộ xương còm nhomcủa tôi.Một chiếc áo sơ mi màu lam cái khuy, tóc buộc đuôi ngưa trông không đếnnỗi khó coi, một đôi giày sục khá xơ xác, thế là đủ bộ. Không ngon mắt lắm, tôibiết, thậm chí hơi phản cảm, nhưng buộc phải chấp nhận thôi. Chẳng nhẽ họ đuổihay nhận mình chỉ vì bộ cánh bên ngoài sao, tôi nghĩ bụng. Rõ rồi. Tôi còn ngâythơ lắm.
Tôi có mặt đúng mười một giờ để vào phỏng vấn. Và tái mặtkhi trông thấy một loạt những thân hình mảnh mai chân dài đến nách đang đứng chờthang máy. Họ nói như không để môi mọc da non, đệm vài tiếng gót giày cao gótkêu lách cách đanh nhọn trên nền nhà. Lũ cẳng sếu kia, tôi nghĩ bụng. Quá hoànhảo (thang máy đến rồi) Hít vào, thở ra tôi tự nhủ, không được nôn ra ở đây,không được nôn, mi đến đây để chuyện trò đôi chút về việc làm trợ lí biên tập,rồi quay về ngay với chiếc đi văng nhà Lily. Mi không được nôn. Vâng, tất nhiêntôi thích làm việc cho Reaction! The buzz cũng hay đấy, tất nhiên. Sao cơ ah?Tôi được phép chọn sao? Được à, cho phép tôi suy nghĩ một hôm nữa để quyết địnhgiữa mấy chỗ ấy và Maison vous. Rất hân hạnh!
Mấy giây sau, một biển in chữ KHÁCH được dán xộc xệch trên bộcánh cũng khá xộc xệch của tôi trước khi tôi lao người vào thang máy (Khi tôi kịpnhận ra rằng tất cả khách khứa đều chỉ dán hờ hững nó trên túi, và thậm chí vứtluôn vào sọt rác, chỉ có hạng lơ quơ quê mùa mới dán nó lên ngực - thì đã quámuộn.) Thang máy lên cao, cao, và cao nữa, một chuyến bay qua không gian và thờigian và vẻ khêu gợi vô tận, tới… cửa phòng nhân sự.
Tôi cho phép mình được thư giãn một chút trong khi chiếcthang máy nhẹ lướt lên cao. Mùi nước hoa khêu gợi trộn lẫn với hương vị da thuộctươi rói làm cho chiếc thang máy hoàn toàn vô hồn chợt thoáng về sexy. Chúngtôi lướt qua các tầng gác dừng lại để thả ra các mỹ nhân đến với Chic, Mantra,The Buzz và Coquette . Cửa thang máy nhẹ nhàng mở ra, để tầm mắt phóng tới bộphận lễ tân trang hoàn màu trắng. Bàn ghế lịch thiệp, đường nét đơn giản, tháchthức bất kỳ ai dám ngồi lên đó. Không thể tưởng tượng ra ai đó lỡ tay làm vấy bẩnlên đệm trắng! Trên tường bao quanh lối đi nổi bật những hàng chữ đen quen mắtviết tên của các tạp chí mà đứa trẻ con nào ở Mỹ cũng biết, nhưng không ai tinlà tất cả đều quần tụ trong một tòa nhà chọc trời duy nhất này. Những tấm cửakính mờ dày cộp chắn mọi ánh mắt không mời.
Tuy rắng cho đến nay chưa làm công việc gì hơn là vài lần đibán kem sữa chua, tôi cũng nghe đủ chuyện từ các bạn cùng học ngày xưa và đã đilàm được vài tháng để biết là thế giới của công việc không như thế này. Hoàntoàn không. Ở đây tuyệt đối vắng bóng những đèn tuýp xanh lét kinh tởm và thảmtrải trơ lì với vết giày. Thay vì những bà thư ký cổ hủ núp thu lu sau bàn giấylà các cô gái trẻ mượt mà với gò má cao và trang phục ngất trời. Hãy quên khẩntrương khái niệm đồ dùng văn phòng! Mấy trang bị cơ bản như sổ ghi giờ hẹn, sọtrác, sách vở, đơn giàn là không được phép có mặt nơi đây. Nỗi sửng sốt về nhữngma trận trắng toát hoàn hảo của tôi chợt biến mất ở tầng sáu, khi một giọng cayđộc xoáy vào tai tôi.
"Con khốn nạn ấy chứ gì? Tớ không thể chịu được nó nữa.Ai nghĩ chuyện ấy cơ chứ? Tớ nói thật đấy - AI NGHĨ RA CHUYỆN ẤY?" Một côgái trước mặt tôi rít lên. Cô ta chừng 25 tuổi, với chiếc váy da rắn và băng vảicũn cỡn che ngực nom như sắp tới sàn nhảy chứ không phải giữa thanh thiên bạchnhật ở văn phòng.
"Tớ biết rồi, biết rồồồi. Cậu có biết là 6 tháng qua tớđã phải chịu đựng những gì không? Con khốn nạn. Nó còn có gu thẩm mỹ khá tanhtưởi nữa chứ." Cô bạn gái vừa phụ họa vừa lắc quầy quậy mái đầu cắt tỉa rấtưa mắt.
Ơn Chúa, rốt cuộc tôi cũng lên đến tầng định tìm, và cửathang máy mở ra không tiếng động. Thú vị đấy, tôi nghĩ bụng. Tuy nhiên, so vớimột ngày bình thường của một nữ sinh viên bình thường thì mức đánh giá"thú vị" có lẽ hơi bị thấp. Choáng? Không, thế thì hơi quá. Dễthương, thân thiện, ấm áp? Không, không đúng hẳn. Một nơi để ta đáng nở một nụcười thỏa mãn và làm việc tử tế? Hoàn toàn sai! Nhưng, nếu ai tìm sự nhanh nhạy,mảnh mai, kiểu cách, tân tiến và sành điệu đến ngộp thở, thì, Elisa Clark làthiên đường.
Các đồ trang sức lộng lẫy và lớp phấn phủ hết chê của cô gáilễ tân trước phòng nhân sự quả là không giúp gì xoa dịu mặc cảm tự ti ngày càngtăng lên của tôi. Cô mời tôi ngồi và " cứ tự nhiên ngắm qua mấy ấn phẩm củacông ty". Thay vì làm việc đó, tôi điên đầu lên để cố ghi nhớ tất cả têncác tạp chí mà công ty xuất bản - cứ làm như người ta sẽ thách đố tôi chuyện ấy.Kìa! tôi đã biết Stephen Alexander của Reaction, tất nhiên, và nhớ được tênTanner Michel của The Buzz cũng dễ thôi. Thật ra thì đó cũng là hai sản phẩmduy nhất đáng chú ý của nhà xuất bản này nên tôi cảm thấy khá vững tâm.
Một phụ nữ nhỏ nhắn xưng tên là Sharon ra đón tôi. " Chịlà người muốn đến làm việc ở tạp chí này, đúng không? " Bà ta hỏi trongkhi dẫn tôi diễu qua một hàng búp bê chân dài nom giống hệt nhau vào văn phòngbày biện tinh giản và lạnh lẽo của mình, " Vừa rời ghế đại học thì quả làlắm vấn đề, chị biết đấy. Cả trăm người tranh nhau xin làm một nhúm công việc.Mà mấy chỗ làm còn trống ấy thì cũng chẳng được hưởng mức lương hậu hĩnh lắmđâu, chắc chị hiểu tôi muốn nói gì."
Tôi đưa mắt nhìn xuống bộ cánh rẻ tiền chắp vá cùng đôi giàyquê kệch của mình và tự hỏi tại sao lại dẫn xác đến đây làm gì. Khôn ngoan thìkiếm mấy gói bim bim và thuốc lá đủ dùng cho nửa tháng rồi rúc về cái đi văng củaLily là hơn. Quá luẩn quẩn với ý nghĩa ấy, tôi không nhận ra bà ta khẽ nói tiếp"Tuy nhiên tôi được phép tiết lộ với chị, đây là một dịp may bất ngờ. Nhưng chịphải nhanh tay kẻo tuột mất."
A ha. Hệ thống báo động của tôi tức khắc được khởi động,trong lúc tôi cố đón ánh mắt của bà ta. Cơ hội? Nhanh tay? Đầu óc tôi tỉnh nhưsáo. Bà ta định giúp mình? Có cảm tình với mình? Nhưng tại sao? Tôi đã mở miệngnói câu nào đâu cơ chứ - cớ gì mà bà ấy có cảm tình với mình được? Và chẳng hiểutại sao giọng bà ta chuyển sang ngọt như mía lùi, chẳng khác gì một tay bán ôtô cũ đang mời khách hàng?
"Chị có thể cho tôi biết tên chủ bút của Runway đượckhông?" Bà hỏi tôi, lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt tôi từ lúc tôi ngồi xuốngghế.
Chấm hết. Không gì khác ngoài dấu chấm hết to tướng. Trong đầutôi hoàn toàn trống rỗng. Thật không ngờ là tôi bị bà ta thách đố. Cả đời tôichưa hề giở tờ Runway ra bao giờ, thật bất công khi gặp đúng câu hỏi này. Ai đọcRunway làm gì cơ chứ, nó chẳng qua chỉ là một tạp chí thời trang, chắc là khôngcó lấy một bài viết tử tế trong đó, trừ mấy người mẫu nhom nhem như suy dinh dưỡngvà ảnh quảng cáo bóng bẫy. Tôi lúng búng như ngậm hột thị. Tên tuổi các chủ bútmà lúc nãy tôi cố nhồi nhét vào óc nhảy múa loạn xạ trong đầu và chắp lại thànhnhững cặp đôi khập khiễng. Tôi tin là tôi biết tên bà chủ bút - ai mà chẳng biết.Có điều là nó không chịu nảy ra trong óc.
"À, vâng, ngay lúc này tôi không nhớ ra. Nhưng tôi biếttên bà ấy quá đi chứ, dĩ nhiên tôi biết, ai chả biết cái tên đó. Chỉ tội ngaylúc này thì tôi không nhớ ra."
Bà săm soi nhìn tôi một hồi, cặp mắt nai dán chặt vào khuônmặt tôi đang tứa mồ hôi. "Miranda Priestley," bà thì thào với giọngpha lẫn sùng kính và khiếp đảm. "Bà ấy là Miranda Priestley."
Cả hai cùng im lặng. Dường như cả một phút đằng đẵng chúngtôi im lặng nhìn nhau. Nhưng rồi Sharon rõ ràng quyết định lờ đi lỗi lầm trầmtrọng này của tôi. Ngày đó tôi chưa biết là Sharon đang vất vả ra sao để tìm ramột chân trợ lý mới cho Miranda cũng như không thể chịu nổi cảnh cả ngày lẫnđêm bị sếp gọi điện tra hỏi đã có ứng cử viên tiềm năng nào chưa. Cắn răng tìmmột ai khả dĩ vừa lòng Miranda. Và nếu tình cờ chỉ có một hy vọng cỏn con làchính tôi sẽ đỡ bớt gánh nặng đó thì cố nhiên Sharon không được phép cầu toànquá mức.
Sharon nhếch mép mỉm cười và cho biết bây giờ tôi sẽ đi gặphai trợ lý của Miranda. Những hai trợ lý?
“Đúng thế,” Sharon uể oải xác nhận. “Tất nhiên Miranda cầnhai trợ lý. Trợ lý chính Allison vừa được lên chức biên tập viên về thẩm mỹ củaRunway, và trợ lý trẻ là Emily sẽ thế chỗ Allison, nghĩa là chỗ cô ấy sẽ trốngcho một người mới vào! Andrea, tôi biết là chị vừa rời ghế đại học nên chắc làchưa thể biết tường tận các công việc của giới báo chí…” bà ngưng giọng đầy kịchtính để tìm chữ nào cho hợp. “Nhưng tôi có linh cảm muốn nói, đúng hơn là phảinói cho chị biết rằng một cơ hội ngàn vàng đang mở ra trước mắt chị. MirandaPriestley… ” bà lại dừng lần nữa đầy kịch tính, tựa như đang kính cẩn nghiêngmình trước mặt bà sếp tưởng tượng,” Miranda Priestley là người đàn bà có ảnh hưởnglớn nhất trong công nghiệp thời trang và thực sự là một trong những chủ bút tạpchí danh giá nhất thế giới. Toàn thế giới! Cơ may được làm việc cho một nhân vậtnhư thế, được quan sát công tác biên tập và tiếp kiến những cây bút và người mẫunổi tiếng , được hỗ trợ nhất cử nhất động của bà hằng ngày – quả là nghìn nămcó một. Chắc là tôi khỏi phải nhấn mạnh với chị rằng hàng triệu cô gái sẵn sàngxin chết để được làm việc này. Quỷ cái vận đồ Prada - Chương 02 - P2
“Thế ạ, vâng, tôi muốn nói là nghe rất tuyệt .” tôi thoángngạc nhiên tại sao Sharon phải dỗ tôi làm một công việc mà hàng triệu ngườikhác sẵn sàng xin chết vì nó. Nhưng bây giờ tôi không có thì giờ để cân nhắc .Sharon nhấc điện thoại nói một câu ngắn rồi tiễn tôi luôn ra phía thang máy đểđi phỏng vấn ở chỗ hai trợ lý của Miranda,
Bản thân Sharon đã nói giông giống như một robot, nhưng cònthua xa Emily. Sau khi xuống đến tầng 17, tôi vật vã nửa tiếng ngồi đợi ở khu lễtân trắng toát sang trọng của Runway cho đến lúc một cô gái cao kều bước ra khỏicánh cửa
Kính. Cô ta mặc chiếc váy da đến nửa bắp chân, mái tóc đỏ bấttrị buộc cao lên thành một búi trễ nãi nhưng vô cùng quyến rũ. Cô có nước da trắngxanh mịn màng không một vết tàn nhang và lưỡng quyền ấn tượng nhất mà tôi từngthấy. Không hề mỉm cười, cô ngồi xuống bên tôi, nhìn tôi từ đầu tới chân,nghiêm nghị nhưng thoáng chút tò mò. Hời hợt. Do cô ta không tự giới thiệu nêntôi đoán đó là Emily. Đột ngột cô cất tiếng giải thích cho tôi về công việc phảilàm. Cái giọng đều đều của cô cho tôi biết nhiều hơn nội dung những lời kể lể:có lẽ cô ca bài này đến hàng chục lần rồi , và cũng chẳng trông đợi gì ở tôihơn các ứng cử viên khác, nói cho cùng thì chỉ tốn thì giờ vô ích với tôi màthôi.
“Mệt lắm, đó là điều chắc chắn. Ngày làm việc kéo dài 14 tiếng,không phải thường xuyên như thế, nhưng cũng chẳng hiếm, ” cô mở máy, mắt vẫnkhông nhìn tôi. “ Và quan trọng là chị phải biết sẽ không được giao nhiệm vụbiên tập nào cả. Là trợ lý trẻ cho Miranda nghĩa là sẵn sàng làm bất cứ việc gìbà cần. Từ đặt mua loại giấy viết vẫn được ưa thích hay theo chân bà đishopping. Ít nhất thì cũng luôn có thay đổi. Tôi định nói là hằng ngày , hằngtuần, hằng tháng chị như cái bóng của người đàn bà độc nhất vô nhị này. Đúng thế,độc nhất vô nhị. ” Giọng cô nhẹ như gió thoảng; lần đầu tiên từ khi bắt đầu nóichuyện, có chút sức sống hiện ra trong điệu bộ của cô.
“Nghe hay đấy,” tôi nói – và cũng tin như vậy. Các bạn cùnghọc với tôi nay đã trải qua sáu tháng trong môi trường công tác thực tế, aicũng than vãn ngán ngẫm, bất kể họ làm ở nhà băng, công ty quảng cáo hay nhà xuấtbản – tất cả đều kêu khổ. Ở đâu cũng rên rỉ về ngày làm việc lê thê, đồng nghiệpđểu giả và những trò hành hạ ở nơi làm việc, song cái khổ nhất là không khí buồntẻ. So với những đòi hỏi hồi còn ở trường thì công việc được giao hôm nay thậtngu xuẩn, vô dụng và đáng đem dạy con khỉ làm thì hơn. Họ ngồi hàng tiếng đồnghồ để nhập thông số vào kho dữ liệu, gọi điện chào hàng tới những người ghét bịquấy rầy, lập danh mục các dữ liệu vô dụng trên màn hình puter hoặc điều tranghiên cứu hàng tháng trời những đề tài chẳng ai cần để rốt cuộc chứng tỏ cho sếpbiết là mình có làm việc. Ai trong bọn họ cũng có cảm giác là trong có mấytháng từ khi tốt nghiệp đến giờ họ chỉ ngu thêm đi và chẳng thấy tia sáng nàocuối đường hầm. Bản thân tôi cũng không mặn mà chuyện thời trang, nhưng thà suốtngày làm cái gì đó vui vẻ còn hơn ôm lấy một công việc tẻ nhạt.
“Vâng, việc thú vị đấy. Rất thú vị. Tôi nói thật đấy. Rấthân hạnh được làm quen với chị. Bây giờ tôi đi gọi Allison cho chị gặp. Bà ấy rấthay.” Chưa nói dứt câu, cô ta đã biến mất sau cửa kính cùng chiếc váy da sột soạtvà những lọn tóc phất phới, và một thân hình thon thả khác xuất hiện.
Phải nói rằng Allison, cựu trợ lý chính của Miranda vừa lênchức, là một cô gái da màu cực kỳ ấn tượng. Tôi vẫn nhớ là cô ta quá gầy, và ngạcnhiên về phần bụng của cô hóp vào và xương hông trồi hẳn ra. Nhưng còn ngạcnhiên hơn là được mặc hở bụng ở nơi làm việc. Cô mặc một cái quần da màu đen bóchặt, áo trên màu trắng xù bông (hay lông?) bó căng ngực để hở đến năm phântrên rốn. Mái tóc dài, đen như mực, phủ xuống lưng như một tấm mền dày lónglánh. Móng tay và móng chân sơn trắng và như phát sáng từ bên trong, đôi xăngđan cao gót hở ngón nối thêm bảy phân vào thân hình 1.80 mét của cô. Người cô đồngthời trộn lẫn nét khêu gợi khó tả, sự lõa lồ e ấp và quý phái. Song tôi chỉ thấylạnh lẽo, theo đúng nghĩa đen, chả gì thì cũng đã cuối tháng Mười một.
“Xin chào, tôi là Allison. Nhưng chắc chị biết rồi,” cô mở đầuvà nhón ra mấy sợi vải của chiếc áo cũn cỡn vương trên bắp đùi teo tóp. “Tôi vừađược nâng lên chức biên tập, và đó là nét thực sự tuyệt vời trong khi làm việccho Miranda. Thế đấy, ngày thì dài và công việc thì căng thẳng, nhưng cực kỳthú vị và hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết vì nó đấy. Miranda là một phụ nữ,chủ bút và con người tuyệt vời, bà luôn thực sự chăm chút những cô gái làm việccho mình. Hãy làm việc cho Miranda một năm, chị sẽ tiết kiệm hàng năm trời vấtvả bon chen ở những nơi khác. Nếu có năng khiếu, chị sẽ được Miranda đưa ngaylên đỉnh cao, và…” Cứ thế, cô tiếp tục huyên thuyên và chẳng thèm bận tâm lồngvào lời nói của mình một chút gì tương tự như niềm phấn khích giả tạo. Trong mắttôi thì cô ta không hẳn là ngu, nhưng ánh mắt của cô hơi có quầng sương đờ đẫncủa những tín đồ theo một tà giáo nào đó hay những kẻ bị tẩy não. Tôi tin là nếutôi ngủ quay ra đó, lấy ngón tay ngoáy mũi hay đứng dậy đi mất thì cô ta cũngchẳng nhận ra.
Rồi cuộc trò chuyện ấy cũng xong; lúc Allison đi kiếm ngườitiếp tục phỏng vấn thì tôi gần như lả đi vì mệt mỏi trên cái ghế đệm ở phòng lễtân kém thân thiện. Mọi thứ diễn ra nhanh quá, tuột mất khỏi tầm kiểm tra, làmtôi quay cuồng đầu óc. Tôi không biết Miranda Priestly là ai thì có sao đâu? Cóvẻ như tất cả đều chịu ấn tượng rất sâu đậm về bà ta thì phải. Dĩ nhiên, đây chỉlà một tạp chí thời trang chứ không phải thứ gì đó ghê gớm, nhưng làm việc ởRunway rõ ràng còn thú vị gấp bội so với mấy tờ báo thương mại kinh tởm nàokhác, đúng không nào? Sau này, nếu tôi tới xin việc ở The New Yorker thì cáitên Runway trong lý lịch công tác sẽ gây nhiều tín nhiệm hơn là một nơi làm việcvớ vẩn nào đó, ví dụ như tờ Cơ khí thường thức chẳng hạn. Vả lại; chẳng phảihàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này hay sao?
Sau khi tôi vẩn vơ với những suy tưởng đại loại như thế mấtthêm nửa giờ nữa, lại thêm một cô gái cao kều và ốm nhom khác tiến vào phòng lễtân. Cô xưng tên mình, nhưng tôi chẳng để ý mà chỉ tập trung dán mắt vào ngườicô ta. Cô mặc một chiếc váy bò chật ních, rách tơi tả, áo sơ mi trắng trong suốtvà xăng đan quai nhỏ tí màu bạc. Cô có nước da rám nắng tuyệt đẹp, móng tay nuộtnà, và khoe nhiều da thịt theo cái lối không một ai đầu óc bình thường dám làmkhi ngoài trời có tuyết rơi. Khi cô ra hiệu cho tôi đứng dậy và theo cô đi quacửa kính, tôi mới thực sự ý thức được bộ dạng của mình trong mấy món đồ quê kệchphát khiếp và mái tóc èo uột. Không có lấy một món đồ trang sức hay son phấncho tử tế. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn rùng mình nhớ lại hôm ấy đã ăn mặc rasao, lại còn cắp theo một thứ gì từa tựa như cái cặp đựng tài liệu nữa chứ. Tôivẫn đỏ mặt phừng phừng khi nhớ lại cảnh mình đã ngơ ngác đứng giữa những ngườimẫu hào nhoáng và kiểu cách nhất NewYork City. Mãi về sau, khi đã mon men sán lạigần được đẳng cấp của bọn họ thì tôi mới biết rằng họ khoái trá bình phẩm tôira sao giữa các vòng phỏng vấn.
Sau khi dò xét tôi từ chân lên đầu, cô nàng đẹp dã man nọ dẫntôi tới gặp bà Cheryl Kenston, tổng biên tập của Runway và là một người đồngbóng dễ mến. Cuộc nói chuyện với bà có vẻ như cũng lê thê không dứt, nhưng lầnnày tôi chú ý lắng nghe. Lý do là bà ta có vẻ yêu công việc của mình thực sự.Bà say sưa nói về chuyện chủ nghĩa của tạp chí, về các bài báo tuyệt vời mà bàđược đọc , các cây bút do bà quản lý và các biên tập viên dưới quyền bà.
“Tôi tuyệt đối không dính gì đến mảng thời trang của tạpchí,” bà tự hào tuyên bố, “chị muốn biết gì thì tốt nhất nên đi hỏi ngườikhác.”
Khi tôi thú thực là thật ra tôi thích làm những việc như ởchỗ bà, vì tôi không hề thích thú gì và cũng chẳng có những kiến thức nền vềchuyện thời trang, nụ cười của bà nở đến tận mang tai. “Thế hả Andrea, vậy thìchị đúng là người chúng tôi cần tìm cũng nên. Tôi nghĩ là đã đến lúc chị làmquen Miranda rồi đấy. Và nếu tôi được phép cho chị một lời khuyên: hãy nhìn thẳngvào mắt bà ta, và đừng ngại nói tốt về chính mình. Bà ấy ưa những người như thế.”
Cứ như đã hẹn trước, cô nàng đẹp dã man lượn vào đưa tôi đếnvăn phòng của Miranda. Đoạn đường từ sau cách cửa kính mờ của tổng biên tập quaphòng các trợ lý đi chưa hết nửa phút, song tôi cảm thấy mọi cặp mắt đều dồnvào mình. Một mỹ nương đứng cạnh máy photocopy quay hẳn người lại để dò xéttôi, cũng như một anh chàng điển trai nhưng lộ rõ vẻ đồng tính, và anh ta cũngchỉ chăm chú quan sát cách ăn mặc của tôi. Tôi đến trước ô cửa dẫn tới tiền sảnhdành cho các trợ lý của Miranda, vừa toan bước vào thì Emily giật phắt chiếctúi xách của tôi và quẳng xuống gầm bàn của cô. Tôi sững lại một tích tắc để hiểura thông điệp Ôm thứ này vào thì thà nghỉ ở nhà cho khỏe. Rốt cuộc thì tôi cũngvào đến phòng Miranda: thoáng đãng, rộng rãi, cửa sổ choán hết tường để ánhsáng tràn vào. Ngoài ra, tôi không nhớ lại được chi tiết nào trong căn phònggây ấn tượng cho tôi hôm ấy, vì tôi không thể rời mắt khỏi bà.
Do chưa nhìn thấy Miranda Priestly trên bất cứ tranh ảnh nàonên tôi ngạc nhiên khi thấy bà mảnh khảnh như vậy. Bà chìa tay ra, những ngóntay thật nữ tính, mềm mại, dài và thanh nhã như một nghệ sĩ dương cầm. Bà phảingửa đầu lên mới nhìn thẳng được vào mắt tôi, nhưng bà không đứng dậy khi chào.Mái tóc nhuộm vàng tuyệt hảo của bà chải thành một búi trang nhã sau gáy, lồngvừa vặn để tạo vẻ thoải mái, nhưng cũng đủ chặt để không tuột sợi nào ra. Vàngay cả khi không mỉm cười thì bà vẫn không làm cho người ta phải e sợ. Thậmchí còn có vẻ dịu dàng và yếu ớt đằng sau chiếc bàn to tướng màu đen. Tôi chẳngngại chuyện bà không mời ngồi mà điềm nhiên tự lôi lại cho mình một trong mấychiếc ghế cứng màu đen dành cho khách. Giờ thì bà ta chăm chú quan sát những nỗlựa của tôi cố tỏ vẻ tự tin và bặt thiệp với ánh mắt đượm về thích thú. Có thểbà là người cao ngạo và khó gần, được thôi 1543 , nhưng tôi không nghĩ rằng bà thuộcloại xấu xa và nhỏ nhen. Bà lên tiếng trước.
“Vì sao chị tìm đến Runway, Aan-dree-aa?” Bà hỏi với ngữ điệutiếng Anh của giới quý phái, mắt vẫn không rời khỏi tôi.
“Tôi xin được phỏng vấn ở chỗ bà Sharon, và được biết là bàcần một trợ lý riêng.” Tôi bắt đầu, giọng vẫn hơi run. Thấy bà gật đầu, tôi tựtin thêm một chút. “Và sau khi nói chuyện với Emily, Allison và Cheryl, tôinghĩ rằng tôi biết rõ là bà cần tìm nhân viên như thế nào, và tôi tin mình rấtthích hợp công việc đó,” tôi nói, trong đầu vẫn nhớ những gì Cheryl dặn. Bà tathoáng vẻ lắng tai, nhưng vẫn lạnh nhạt.
Và đó là lúc mà tôi muốn giật lấy công việc này bằng được,giống như khi người ta cầu mong có được thứ gì quá xa vời. Nó không giống nhưxin vào trường luật hay có một bài viết được in trong tạp chí của trường, màtrong trạng thái cắn răng tấn tới của tôi đó là một thử thách thực sự, khiếntôi thành một kẻ trí trá liều mạng – dù không xuất sắc lắm. Từ phút đầu bướcchân vào đây tôi đã rõ rằng mình không thuộc dạng hợp cạ với Runway, tôi biếtquần áo tóc tai của tôi không đúng mốt, nhưng tệ nhất là quan điểm của tôi đốivới nghề này. Tôi không biết gì về thời trang, mà cũng chẳng thèm biết làm gì.Cần gì cơ chứ. Nhưng chính vì thế mà tôi phải có chỗ làm này bằng được. Vả lại,chẳng phải hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết vì nó hay sao?
Tôi trả lời tiếp những câu hỏi của Miranda về cá nhân mình vớimột vẻ cả quyết và tự tin đến nỗi chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Không có cảthì giờ để e sợ nữa. Thêm vào đó, bà ta cũng có vẻ rất dễ chịu và cho tới lúcđó tôi chẳng biết gì không hay về bà. Cuộc trò chuyện chỉ hơi chựng lại khi bàhỏi tôi biết ngoại ngữ nào. Khi biết tôi nói tiếng Do Thái cổ, bà ngừng lời,xòe tay chống lên mặt bàn và lạnh lùng hỏi: “Tiếng Do Thái à? Tôi lại hy vọngchị biết tiếng Pháp, hoặc tối thiểu một thứ tiếng nào đó hữu dụng hơn.” Suýt nữathì tôi xin lỗi, nhưng kìm lại được.
“Tiếc là tôi không nói được lấy một câu tiếng Pháp, nhưngtôi nghĩ rằng đó không phải là vấn đề lớn.”
Miranda chắp hai tay lại.
“Trong hồ sơ thấy chị đã học ở đại học Brown?”
“Vâng, ngành tiếng Anh, tôi đi sâu môn sáng tác. Viết vănluôn là nỗi đam mê của tôi.” Sến quá! Tôi thầm mắng mình. Mình có nhất thiết phảidùng từ “đam mê” không?
“Ra thế, chị mê viết lách đến nỗi không quan tâm gì đến thờitrang hay sao?” Bà uống một ngụm nước suối rồi nhẹ nhàng đặt cái ly xuống. Rõràng bà ta thuộc loại phụ nữ biết uống mà không làm dính một vệt son ghê tởmtrên miệng ly. Và bất cứ thời điểm nào, ngày cũng như đêm, luôn có cặp môi đánhson hoàn hảo.
“Ồ không, không phải! Tôi nghiện thời trang là đằng khác,”tôi nói dối lem lẻm. “Tôi đang cố gắng học hỏi thêm về thời trang, và tin là mộtngày đẹp trời được viết về đề tài này thì tuyệt quá.” Có trời mới biết tại saotôi lại tuôn ra mấy lời như thế. Cứ như tôi là một người khác đứng bên cạnh vànghe mình lải nhải.
Câu chuyện cứ thế nhàn nhạt trôi đi, cho đến khi bà ta đặtcâu hỏi cuối cùng về các tạp chí thời trang mà tôi thường đọc. Tôi hăng hái rướnra phía trước và bắt đầu kể : “Tôi đặt mua dài hạn The New Yorker và Newsweek,nhưng tôi thường xuyên xem The Buzz, thỉnh thoảng đọc Time nhưng thấy tờ ấy khákhô khan, còn U.S.News thì bảo thủ quá. Tất nhiên đôi khi tôi cũng ngó qua tờChic ngớ nhẩn, và từ khi đi du lịch về tôi đọc tất cả các tạp chí du lịch và…”
“Chị có đọc Runway không?” Bà ngừng nói, tì người lên bàn vàsăm soi tôi kỹ hơn lúc nãy.
Chuyện xảy ra nhanh quá, bất ngờ quá, chộp đúng lúc tôi thiếucảnh giác nhất. Tôi ngớ ra, không kịp nói dối hay giải thích lòng vòng.
“Không.”
Mười giây im lặng nặng như chì. Miranda ra hiệu cho Emily tiễntôi ra khỏi phòng. Tôi tin là mình được nhận vào làm.