NÚI PALOMAR, 59,5 KM. Chỗ đó là nơi quái nào thế? Anh chưa bao giờ nhận ra California lại rộng lớn đến vậy. Anh đã băng qua một vài thị trấn rồi, nhưng vào ba giờ sáng mọi nơi đều đóng cửa, kể cả trạm xăng. Và rồi anh lại một lần nữa lạc giữa miền quê tối tăm, trống rỗng.
Đáng lẽ anh nên mang theo bản đồ.
Stan kiệt sức, cáu kỉnh, và anh cần tấp xe vào lề đánh một giấc. Nhưng con chim khốn kiếp sẽ bắt đầu rít lên ngay khi anh ngừng xe.
Một giờ đồng hồ vừa rồi Gerard đã im lặng, nhưng bây giờ, không thể hiểu nổi, nó bắt đầu giả những tiếng phím bấm trên điện thoại. Như thể nó đang gọi cho ai.
“Thôi đi Gerard,” Stan nói.
Và con chim ngừng. Ít ra là được một chút. Stan có thể lái xe trong yên lặng. Nhưng dĩ nhiên yên lặng không kéo dài được lâu.
“Tôi đói quá,” Gerard nói.
“Tao với mày ai cũng đói mà.”
“Anh có mang theo khoai tây chiên không?”
“Hết khoai tây chiên rồi.” Họ đã ăn miếng khoai tây chiên cuối cùng, lúc còn ở thị trấn Earp. Một tiếng trước ư? Hai tiếng trước?
“Không ai biết rắc rối mà tôi đã chứng kiến,” Gerard ngân nga nói.
“Đừng làm vậy,” Stan cảnh báo.
“Không ai biết, trừ Chúa...”
“Gerard...”
Yên lặng.
Giống như là đi xa với trẻ con vậy, Stan nghĩ. Con chim có tất cả sự cứng đầu và thất thường của một đứa trẻ. Thật mệt mỏi đến kiệt sức.
Họ đi ngang qua đường ray tàu, nằm bên phía tay phải.
Gerard giả tiếng máy nổ bình bịch, và một tiếng huýt sáo thê lương. “Tôi chưa thấy ánh nắng, vì tôi không biết bao ggggiờ...”
Stan quyết định không nói gì cả. Anh giữ chặt tay lái và lái xuyên qua màn đêm. Sau lưng, anh thấy một tia chớp yếu ớt trên bầu trời. Vậy nghĩa là anh đang lái về phía Tây. Và đó là nơi anh muốn đi. Không ít thì nhiều.
Và rồi trong sự tĩnh lặng căng thẳng ấy, Gerard lại bắt đầu.
“Thưa quý vị, từ một khối mô vô hồn không khớp nối, xin cho phép tôi giới thiệu một tay chơi sành điệu tinh vi, có văn hóa! Bắt đầu đi!”
“Mày đang đi quá giới hạn đấy,” Stan nói. “Và tao cảnh cáo mày đấy.”
“Đây là cuộc đời tôi - đừng quên nhé!” con chim hát bằng cách thét lên hết cỡ. Dường như toàn bộ chiếc xe đang rung động. Stan cứ tưởng cửa xe đã vỡ tan thành từng mảnh rồi.
Stan nhăn mặt, ghì chặt tay lái hơn nữa.
Và rồi thì tiếng thét ngừng lặng.
“Chúng tôi rất vui khi gặp rất nhiều người các bạn ở đây tối nay, những con người khả ái,” Gerard nói giống như một xướng ngôn viên.
Stan lắc đầu. “Chúa ơi.”
“Ta hãy vui đi, vui vui, nói ‘vui’ nào.”
“Vui vui vui, thử đi nào...”
“Im đi,” Stan nói.
Gerard cứ tiếp tục:
“Vui, vui, vui, vui, ồ cưng ơi, phải, vui, vui...”
“Đủ rồi!” Stan vừa quát vừa tấp xe vào lề đường. Anh ra khỏi xe, đóng mạnh cửa tài xế.
“Anh không làm tôi sợ đâu, anh kia,” Gerard nói.
Stan chửi thề và mở cửa sau ra.
Gerard lại đang hát hò: “Tôi có tin này cho anh, và chẳng bao lâu anh sẽ thấy tin này đúng, và anh sẽ phải ăn trưa một mình thôi...”
“Không vấn đề gì,” Stan nói, “bởi vì mày sẽ ra khỏi đây, anh bạn!” Anh chộp mạnh con chim - Gerard hung dữ mổ anh, nhưng anh không quan tâm - rồi đặt Gerard xuống lề đường, trong đám bụi bặm.
“Như thể anh đang thả tôi, và nếu thật thế thì tôi không muốn...”
“Thật đấy,” Stan gầm gừ.
Gerard vỗ cánh. “Anh không thể làm vậy với tôi,” nó nói.
“Ồ không thể à? Xem này.” Stan bước trở lại đằng trước xe, mở cửa ra.
“Tôi muốn cái thanh đậu,” Gerard nói. “Ít ra anh có thể...”
“Bỏ mẹ cái thanh đậu khốn kiếp của mày đi!”
“Đừng giận dữ bỏ đi mà, không thể để chuyện tệ như vậy được, đừng đi...”
“Tạm biệt Gerard.” Stan đóng sập cửa lại rồi đạp chân ga, phóng vút đi, cố tạo ra một đám bụi mây lớn. Anh quay lại nhìn, nhưng không thấy con chim đâu. Thay vào đó anh lại thấy toàn cứt chim ở ghế sau. Ui, sẽ mất nhiều ngày mới lau dọn hết đống đó.
Nhưng bây giờ rất yên lặng.
Yên lặng một cách nhẹ nhõm.
Cuối cùng cũng yên lặng.
Những cuộc phiêu lưu của Gerard đã kết thúc.
Bây giờ trong xe hoàn toàn yên lặng, nên anh nhận ra bao nhiêu mệt nhọc đã tích tụ từ lâu. Stan bắt đầu ngủ gà ngủ gật. Anh bật đài lên, cuộn cửa xe xuống, đưa đầu ra ngoài hứng làn gió lạnh. Cũng không có tác dụng gì. Anh nhận thấy mình sắp chìm vào giấc ngủ và anh phải đưa xe ra khỏi đường quốc lộ.
Con chim đó đã làm anh mất ngủ. Anh cảm thấy hơi tệ bạc vì đã để nó ngoài đường như thế. Làm vậy chẳng khác gì giết nó. Một con chim như vậy sẽ không thể sống lâu trên hoang mạc. Một con rắn chuông hay một con sói Bắc Mỹ sẽ tóm gọn nó dễ dàng. Có lẽ chúng đã tóm nó rồi cũng nên. Không việc gì phải quay lại.
Stan tấp xe vào lề, trong một lùm thông. Anh tắt máy rồi hít thở hương thơm của đám thông. Anh chìm ngay vào giấc ngủ.
Gerard đi qua đi lại trên mặt đất đầy bụi bặm được một lúc trong đêm tối. Nó muốn bay lên khỏi mặt đất và đã nhiều lần nó cố nhảy lên những bụi xô thơm um tùm mọc xung quanh. Nhưng bụi xô thơm không nâng đỡ được trọng lượng của nó, và lần nào nó cũng rơi phịch xuống đất. Cuối cùng nó nửa nhảy, nửa bay, và lần này lại rơi xuống một bụi cây cách mặt đất khoảng 91 cm. Đứng trên thanh đậu tạm thời đó, nó có thể đã ngủ được rồi, có điều nhiệt độ hiện tại quá lạnh đối với một con chim nhiệt đới. Và nó không ngủ được giữa tiếng kêu ăng ẳng của một đám thú trên hoang mạc.
Tiếng ăng ẳng càng lúc càng gần.
Gerard xù lông lên, một dấu hiệu bất an. Nó nhìn về hướng âm thanh phát ra. Nó thấy nhiều hình thù tối đen đang di chuyển qua hoang mạc đầy lùm cây. Nó thoáng thấy những cặp mắt lóe sáng màu xanh lá.
Nó lại xù lông.
Và theo dõi đàn thú tiến về phía nó.
Chiếc trực thăng Robinson R44 hạ cánh giữa đám mây bụi, và Vasco Borden đi ra, cúi người phía dưới cánh quạt. Gã ngồi vào chiếc Hummer đen đang chờ sẵn. “Cô nói đi,” gã nói với Dolly đang cầm lái. Ả đã xuống trước hắn, trong lúc Vasco còn tham gia cuộc truy đuổi vô vọng tới thành phố Pebble Beach.
Dolly nói, “Cô ta đăng ký nghỉ ở khách sạn Best Western vào lúc bảy rưỡi tối nay, đi tới tiệm Walston, ở đây có một tay bảo vệ nhận ra chiếc xe. Cô ta xua anh ta đi bằng câu chuyện về người chồng cũ, rồi anh ta tin.”
“Xảy ra khi nào?”
“Trước tám giờ một chút. Từ đó, cô ta trở lại khách sạn, bịa chuyện với thằng nhóc tiếp tân là có ai đó đang ở trong phòng mình. Khi nó đi kiểm tra thì cô ta lấy cây súng săn của nó ở dưới quầy rồi chuồn đi.”
“Vậy ư?” Borden nói. “Con bé này cũng gan đấy.”
“Hình như cô ta đã tìm cách mua một cây súng trong một tiệm dược phẩm nhưng bị vướng chuyện phải chờ mười ngày.”
“Còn bây giờ?”
“Chúng ta đang theo dõi điện thoại di động của cô ta, nhưng cô ta tắt điện thoại rồi. Trước đó thì chúng ta biết cô ta đang đi theo hướng Đông về phía đường cao tốc Ortega.”
“Vào hoang mạc,” Vasco gật gù nói. “Cô ta sẽ ngủ trong xe rồi sáng mai tiếp tục đi.”
“Chúng ta có thể tải ảnh vệ tinh lúc tám giờ sáng. Đó là thời gian xử lý nhanh nhất.”
“Cô ta sẽ lên đường trước tám giờ sáng,” Vasco nói. Gã dựa lưng trong chiếc Hummer. “Cô ta sẽ đi lúc rạng sáng. Để xem sao.” Gã ngừng lại nghĩ ngợi. “Cô ta lái xe suốt buổi trưa và chủ yếu đi về hướng Nam. Ngay lúc bắt đầu chuyến đi thì cô nàng của chúng ta đã đi về hướng Nam rồi.”
“Anh đang nghĩ tới Mexico ư?” Dolly nói.
Vasco lắc đầu. “Cô ta không muốn để lại dấu vết, mà băng qua biên giới sẽ để lại dấu vết.”
“Chắc cô ta sẽ hướng về phía Đông, tìm cách băng qua ở nút Brown Field hay Calexico,” Dolly nói.
“Có lẽ.” Vasco vuốt bộ râu quai nón một cách suy tư. Quá trễ rồi, gã thấy thuốc bôi mi đang dây ra ngón tay. Chết tiệt, hắn phải nhớ đến thuốc bôi mi chứ. “Con bé sợ lắm. Tôi nghĩ cô ta đang hướng tới một nơi mà cô ta nghĩ sẽ tiếp viện cho mình. Có lẽ là gặp ông bố dưới đó. Còn không thì gặp ai đó mà cô ta quen. Bạn trai cũ? Bạn học? Bạn trong hội nữ sinh? Thầy cô giáo cũ? Đối tác cũ ngành luật? Đại loại như vậy.
“Chúng ta đã kiểm tra tất cả cơ sở dữ liệu trên mạng trong hai tiếng vừa rồi,” Dolly nói. “Và cho tới giờ vẫn chưa thấy gì.”
“Còn hồ sơ các cuộc gọi của cô ta thì sao?”
“Không có cuộc nào gọi đến mã vùng của San Diego.”
“Hồ sơ này cũ hay mới?”
“Một năm trước. Không đặt hàng đặc biệt thì chỉ có bấy nhiêu thôi.”
“Vậy là có người nào đó mà cô ta đã không gọi trong một năm rồi.” Vasco thở dài. “Chúng ta đành phải chờ cô ả thôi.” Gã quay sang Dolly. “Ta hãy đi đến cái khách sạn Best Western ấy. Tôi muốn tìm hiểu con bé ấy mua loại súng gì. Và chúng ta có thể nghỉ ngơi vài giờ, trước rạng sáng. Tôi chắc chắn ngày mai chúng ta sẽ tóm được ả. Tôi có linh cảm như vậy.” Gã vỗ ngực. “Mà tôi thì không bao giờ linh cảm sai cả.”
“Cưng à, anh mới trét thuốc bôi mi lên áo đẹp của mình kìa.”
“Ái, quỷ sứ thật,” gã thở dài.
“Sẽ tẩy được thôi mà,” Dolly nói. “Tôi sẽ tẩy cho anh.”
Gerard nhìn những hình thù tối đen đang tiến lại gần. Chúng có dáng đi sải dài chầm chậm, và phát ra tiếng khụt khịt, và đôi khi là tiếng thút thít. Thân hình của chúng thấp bé. Phải khó khăn lắm mới nhìn thấy tấm lưng chúng phía trên bụi cây. Chúng vây quanh chỗ đậu của nó, tiến đến gần, rồi lướt đi.
Nhưng chúng rõ ràng đã đánh hơi được nó, bởi vì chúng càng lúc càng tiến gần nó hơn. Tổng cộng có sáu con. Gerard xù lông, một phần cũng để hâm nóng cơ thể.
Đám thú có mõm dài. Mắt chúng lóe lên ánh sáng màu lục nhạt. Chúng có mùi xạ nồng nặc đặc trưng trên người. Chúng có đuôi dài phủ lông tơ. Nó thấy lông của chúng không phải màu đen mà là màu nâu xám.
Chúng tiến đến gần hơn nữa. “Mình đang đang đang run run, đang run run đây.”
Và gần hơn nữa. Giờ thì chúng rất gần.
Con lớn nhất ngừng lại cách nó vài thước rồi nhìn Gerard chằm chặp. Gerard không nhúc nhích.
Sau vài giây, con thú lớn nhích lại gần hơn.
“Ông ngừng ngay chỗ đó được rồi, thưa ông!”
Con thú ngừng ngay lập tức, và thậm chí còn lùi lại một vài nhịp nữa. Những con khác trong nhóm cũng lùi lại. Có vẻ như chúng bị tiếng nói ấy làm rối trí.
Nhưng chỉ một lúc thôi. Con thú lớn bắt đầu tiến gần lại.
“Chậc, khoan đã!”
Lần này, chỉ có một khoảng dừng ngắn ngủi. Sau đó con thú tiếp tục tiến tới.
“Mày thấy may mắn hả, đồ du côn? Phải không? Hả?”
Bây giờ con thú đang tiến đến rất chậm. Khịt khịt mũi vào Gerard, càng lúc càng gần... Khịt khịt, khịt khịt... Con thú này có mùi thật khủng khiếp. Mũi nó chỉ cách Gerard có vài phân...
Gerard cúi xuống cắn mạnh vào cái mũi mềm của con thú. Con thú kêu ẳng lên rồi nhảy lùi lại, suýt nữa làm Gerard rơi khỏi thanh đậu. Nó lấy lại thăng bằng.
“Mỗi lần quay đầu lại, mày sẽ thấy tao,” Gerard nói. “Bởi vì sẽ có lần mày quay lại và thấy tao ở đó, và tao sẽ giết mày, Matt à.”
Con thú nằm sóng soài dưới đất, hai chân trước xoa xoa chiếc mũi bị thương. Nó xoa được một lúc. Rồi nó đứng dậy rú lên.
“Đời thật khổ, nhưng sẽ khổ hơn nếu mày ngu.”
Giờ thì cả đám thú đang rú lên. Chúng tiến về phía trước theo hình bán nguyệt. Có vẻ như chúng biết phối hợp với nhau. Gerard xù lông, rồi lại xù lông lần nữa. Nó còn vỗ cả cánh nữa, cố làm cho hình thù mình càng lớn và càng có vẻ chủ động càng tốt. Nhưng mấy con thú này dường như chẳng để ý.
“Này, lũ ngu bọn bay, bọn mày đang gặp nguy hiểm đấy, thấy không hả? Họ đang đuổi theo bọn bay, họ đang đuổi theo tất cả bọn bay!”
Nhưng những giọng nói ấy dường như chẳng có tác dụng gì. Đám thú tiếp tục tiến về phía trước, chầm chậm. Một con đang sải bước lại phía sau Gerard. Gerard quay đầu lại nhìn. Không ổn, không ổn.
“Bọn bay ở đâu thì về lại chỗ đó đi!” Gerard lại vỗ cánh, hồi hộp, nhưng dường như sự lo âu đã tiếp thêm sức mạnh cho nó, bởi vì cành cây mà nó đang đậu có một chút lực đẩy. Đám thú gào rú tiến sát tới...
Và Gerard vỗ cánh mạnh - mạnh - và có cảm giác mình bị đẩy lên không trung. Đã nhiều tuần rồi nó chưa được tỉa lông, đó là lý do. Nó biết bay! Nó di chuyển lên cao khỏi mặt đất, và phát hiện ra nó có thể vút lên cao một chút. Không nhiều, chỉ một chút thôi. Đám thú hôi hám đang ở xa dưới đất, tru rú về phía nó, nhưng Gerard rẽ sang hướng Tây, theo con đường mà Stan đã lái đi. Nó đang hướng ra khỏi phía mặt trời mọc, bay về phía bóng đêm. Với khứu giác rất nhạy của mình, nó phát hiện ra mùi thức ăn, và bay về hướng đó.
Đang thiu thiu ngủ ở ghế trước, Alex Burnet mở mắt và thấy mình đang bị nhiều người đàn ông vây quanh. Ba người trong số đó đang dòm vào xe cô. Họ đội mũ cao bồi và cầm những thanh chĩa lớn có thòng lọng ở trên. Cô ngồi bật dậy. Một người trong số họ vẫy tay ra hiệu cho cô ngồi yên.
“Một chút nữa thôi, thưa cô.”
Alex quay sang nhìn Jamie con mình đang ngủ ngon lành ở ghế bên cạnh. Nó không thức giấc. Không gì đánh thức Jamie được.
Khi cô nhìn lại ra ngoài, miệng cô há hốc. Một anh cao bồi giơ thanh chĩa lên. Một con rắn chuông khổng lồ, rất có thể dài 1m50 và lớn bằng cẳng tay, đang ngoe nguẩy đầu, tạo ra một âm thanh xèo xèo với cái vòng sừng của nó.
“Cô có thể ra được rồi, nếu cô muốn.” Anh ta quơ con rắn đi chỗ khác.
Cô mở cửa một cách thận trọng.
“Do sức nóng của động cơ xe đấy,” một người trong số họ nói. “Thu hút bọn nó chui dưới gầm xe vào buổi sáng.”
Cô thấy toàn bộ có sáu người đàn ông. Mỗi người đều có thanh chĩa, và cầm những bao bố lớn có đầy những thứ ngọ nguậy. “Các anh đang làm gì vậy?”
“Chúng tôi đang thu thập rắn chuông.”
“Tại sao?” cô nói.
“Để kịp cho Lễ hội Rắn chuông(1)_ vào tuần tới. Ở Yuma.”
“À ha...”
“Làm mỗi năm mà. Thi xem ai bắt được nhiều rắn nhất.”
“Thì ra là vậy.”
“Tính theo trọng lượng, nên muốn bắt những con to béo. Lúc nãy không muốn làm cô sợ đâu.”
“Cảm ơn.”
Nhóm người đang định bỏ đi. Người đàn ông nói chuyện với cô tụt lại phía sau. “Cô à, cô không nên ra ngoài này một mình,” anh nói. “Mặc dù tôi thấy cô có mang theo vũ khí.” Anh gật đầu về phía ghế sau.
“Ừm,” cô nói, “nhưng tôi không có đạn.”
“Chậc, vậy thì không được rồi,” người đàn ông nói. Anh ta đi về phía xe mình, đậu bên kia đường. “Có phải loại 18,53 li không?”
“Phải, đúng rồi.”
“Vậy thì mấy viên này được đấy.” Anh ta đưa cho cô một nắm đạn màu đỏ. Cô nhét đạn vào túi.
“Cảm ơn. Tôi nợ anh cái gì đây?”
Anh ta lắc đầu. “Cô cẩn thận là được rồi.” Anh ta quay lại nhập vào nhóm. “Khoảng một tiếng trước có một chiếc Hummer màu đen đi đường này. Anh chàng to con có râu quai nón bảo đang tìm một phụ nữ và đứa con nhỏ của cô ta. Nói anh ta là chú của họ và họ đang mất tích.”
“Ừ. Anh đã nói gì với anh ta?”
“Lúc đó chúng tôi chưa thấy cô. Nên chúng tôi nói không thấy.”
“Anh ta đi về hướng nào vậy?” cô nói.
“Về phía Elsinore. Nhưng tôi nghĩ sớm muộn gì anh ta cũng sẽ vòng lại.”
“Cảm ơn,” cô nói.
Anh ta vẫy tay. “Đừng dừng lại đổ xăng nhé,” anh nói. “Chúc cô may mắn.”
BẢN GHI LẠI: CBS 5 SAN FRANCISCO >>>>>>
Nghi phạm khủng bố sinh học hôm nay được phóng thích
(CBS 5) Nghi phạm khủng bố Mark Sanger hôm nay được
phóng thích khỏi trại giam Alameda County với mức án treo 2 năm vì sở hữu vật liệu sinh học nguy hiểm. Nguồn tin đáng tin cậy cho biết sự phức tạp về mặt kỹ thuật trong cáo buộc của chính phủ đối với Sanger làm công tố viên phải miễn cưỡng kết luận rằng họ có lẽ không thể nào đặt nghi phạm này sau song sắt được. Cụ thể, người ta đặt vào vòng nghi vấn cáo buộc đối với Sanger cho rằng anh ta là người đã chuyển đổi gien rùa ở Trung Mỹ. Chúng tôi đã nói chuyện với Julio Manarez ở Costa Rica.
(Manarez) Đúng là rùa Đại Tây Dương đã bị chuyển đổi
gien, làm cho chúng phát ra màu tím bên trong mai. Cho đến nay vẫn chưa có giải thích nào về chuyện này. Nhưng tuổi của những con rùa này cho thấy việc chuyển đổi gien xảy ra cách đây năm tới mười năm.
(CBS 5) Sau khi anh ta bị bắt không lâu, điều tra viên đã xác
định được Sanger trước đó không ở Costa Rica đủ lâu để thực hiện việc chuyển đổi gien này. Anh ta chỉ mới đến đó vào năm ngoái. Và như vậy Mark Sanger, nghi phạm khủng bố, giờ đây đã được trả tự do với số tiền phạt là năm trăm đô la.
Trong phòng nghị sự 433 của Quốc hội, trong khi chờ các thủ tục được tiến hành, nghị sĩ Marvin Minkowski (đảng Dân chủ - bang Wisconsin) quay sang nghị sĩ Henry Wexler (đảng Dân chủ - bang California) nói, “Nên chăng chúng ta cần có những quy định nghiêm hơn để hạn chế việc sử dụng công nghệ ADN tái kết hợp?”
“Anh đang nghĩ tới Sanger à?”
“Thì hắn là trường hợp gần đây nhất mà. Hắn lấy những thứ đó ở đâu, anh biết không?”
“Trên Internet,” Wexler nói. “Anh có thể mua những bộ dụng cụ tái kết hợp từ những tiệm nhỏ ở bang New Jersey và bang North Carolina. Tốn vài trăm đô la.”
“Vậy chẳng phải là tự rước họa vào thân đấy sao?”
“Nghe này,” Wexler nói, “vợ tôi làm vườn. Vợ anh làm vườn không?”
“Bây giờ khi tụi nhỏ đã đi mất ư? Cô ấy là người mê hoa hồng đến cuồng tín.”
“Câu lạc bộ vườn tược địa phương ư? Mấy thứ đó?”
“Ừ, phải.”
“Nhiều người làm vườn trước đây tạo ra cây lai bằng cách ghép cành cắt vào thân rễ thì bây giờ họ lại dùng những bộ dụng cụ ADN để xúc tiến mọi thứ thêm bước nữa,” Wexler nói. “Người ta tạo ra hoa hồng chuyển đổi gien khắp cả thế giới. Có người cho rằng một công ty Nhật Bản đã tạo ra hoa hồng xanh dương bằng các phương pháp chuyển đổi gien. Hoa hồng xanh dương từ nhiều thế kỷ nay là giấc mơ của người trồng hoa. Mấu chốt vấn đề là, công nghệ này có ở khắp mọi nơi, Marvin ạ. Có trong những công ty lớn này, và có ở vườn sau nữa. Nơi nào cũng có.”
“Chúng ta làm gì được với chuyện này?” Minkowski nói.
“Chẳng làm gì được,” Wexler nói. “Tôi không định làm chuyện gì khiến vợ anh giận đâu. Hoặc là vợ tôi.” Ông ta đưa tay lên cằm, một cử chỉ luôn luôn tạo được dáng vẻ thông minh trước máy quay. “Nhưng có lẽ,” ông ta nói, “có lẽ đến lúc có một bài phát biểu thể hiện mối quan ngại của tôi về các nguy cơ của thứ công nghệ không được kiểm soát này.”
“Ý hay,” Minkowski nói. “Tôi nghĩ tôi cũng sẽ phát biểu một bài.”
TIN TỨC VỀ CÔNG NGHỆ HÚT MỠ
Mỡ của Thủ tướng bán với giá mười tám ngàn đô la
Tiếp theo: các nhân vật nổi tiếng sẽ quyên góp mỡ làm từ thiện
BBC NEWS. Một bánh xà phòng làm bằng mỡ hút từ người Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi đã được bán cho một nhà sưu tập cá nhân với giá mười tám ngàn đô la. Bánh xà phòng này là tác phẩm nghệ thuật có tên “Mani Pulite” (“Đôi tay sạch sẽ”), do nghệ nhân Gianni Motti ở Thụy Sĩ tạo ra. Motti mua mỡ từ một trạm y tế ở Lugarno, nơi Berlusconi đã được phẫu thuật hút mỡ. Motti sau đó cho mỡ vào khuôn tạo bánh xà phòng, và bánh xà phòng này được bán tại hội chợ nghệ thuật Basel cho một nhà sưu tập cá nhân người Thụy Sĩ, người mà “giờ đây có thể rửa tay cùng Berlusconi”.
Các nhà bình luận lưu ý rằng Berlusconi không được ưa chuộng ở châu Âu, đây có thể là nguyên nhân khiến giá mỡ của ông sụt giảm. Mỡ của diễn viên điện ảnh sẽ có giá trị đáng kể hơn nhiều. “Bầu trời là giới hạn đối với những sản phẩm phụ của Brad Pitt hay Pamela Anderson,” có người nói.
Các nhân vật nổi tiếng sẽ bán mỡ của mình chứ? “Tại sao lại không?” một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ ở Beverly Hills nói. “Đây có thể là một việc làm từ thiện. Suy cho cùng thì họ lúc nào cũng hút mỡ. Hiện tại chúng ta bỏ đi phần mỡ hút ra. Nhưng người ta vẫn có thể dùng mỡ của họ để đóng góp cho những mục đích xứng đáng.”
Tay đua thuyền tốc độ lang thang khắp nơi
Kẻ làm trò cười cho nhiều người
WIRED NEWS SERVICE. Người New Zealand giàu có Peter Bethune sẽ thử sức lập kỷ lục thế giới về đua thuyền tốc độ chạy bằng mỡ lấy từ mông của chính mình. Chiếc thuyền ba thân Earthrace của ông, dài 23m77, đạt chuẩn môi trường, chạy hoàn toàn bằng nhiên liệu diesel sinh học làm từ dầu thực vật và những loại chất béo khác. Thật ra, chuyến lang thang của Bethune chỉ đóng góp một phần nh 7ff vào hành trình vòng quanh thế giới. Mông của ông chỉ sản xuất ra được một lít nhiên liệu ít ỏi. Tuy nhiên, Bethune lưu ý rằng ông đã bị thâm tím nhiều chỗ và nói “đây là một hy sinh cá nhân” để sản xuất ra nhiên liệu.
Họa sĩ nấu, ăn chất béo từ chính cơ thể mình
Phản đối “sự phí phạm” của xã hội phương Tây
REUTERS. Họa sĩ khái niệm Ricardo Vega ở New York đã trải qua cuộc phẫu thuật hút mỡ, nấu mỡ của ông, rồi ăn nó. Ông nói mục đích của ông là thu hút sự chú ý về sự phí phạm của xã hội phương Tây. Ông cũng trích ra những phần mỡ khác để bán và lưu ý rằng điều này sẽ cho phép người ta nếm thử thịt người và trải nghiệm tục ăn thịt người. Vega chưa định giá cho mỡ của ông, nhưng một nhà buôn tác phẩm nghệ thuật ước tính giá của nó sẽ thấp hơn đáng kể so với mỡ của Berlusconi. “Berlusconi là thủ tướng,” ông chỉ ra. “Vega là một người vô danh. Vả lại, những chuyện như thế này đã được họa sĩ Marcos Evaristta thực hiện rồi, ông đã tạo ra thịt viên từ mỡ cơ thể.”
Marcos Evaristta là một họa sĩ sinh ra ở Chile và hiện sinh sống ở Đan Mạch. Tin tức cho rằng thịt viên từ mỡ cơ thể ông ta sẽ được công ty Christie’s đấu giá ở New York chưa được xác nhận vì đại diện của Christie’s không trả lời điện thoại.
Hết phần 79. Mời các bạn đón đọc phần 80!