Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 11


Chương 11
Mi sẽ đi cùng bọn ta ra biển

Phải mất một lúc lâu Barney mới đi hết con đường xuống dưới dốc qua ngôi nhà. Trên mũi đất chẳng thấy bóng dáng Ông Merry đâu cả. Trên đường, từng nhóm những người đi rải rác cản đường nó đến phát bực, và ba lần nó đã phải đứng ra bên lề để nhường đường khi một chiếc xe rầm rầm chạy lên con dốc hẹp. Barney nôn nóng luồn lách, len lỏi, Rufus bám theo sát gót.

Được nửa đường xuống đồi, nó nghe thấy tiếng nhạc vang lên từ bên kia bến cảng, và qua biển đầu người nó thoáng thấy đoàn diễu hành nhảy nhót đang tiến lên dọc theo kè đá. Luồn ngón tay vào vòng cổ của Rufus, nó len qua đám đông càng lúc càng chật ních để sang bên lề rồi bắt đầu phóng hết tốc lực xuống đồi, lao qua mọi khe hở trông thấy được như một con tôm trong ao.

Nhưng khi nó đến được góc bến cảng thì đám diễu hành đã ở ngay trước mặt, khiến nó chẳng nhìn thấy gì ngoài một bức tường dày đặc chân cẳng và lưng không sao qua nổi. Nó luồn qua phía sau họ, tiếng nhạc ầm ĩ náo loạn dội thẳng vào tai, cho đến khi cuối cùng nó thoát được ra khỏi đám đông và lên trên kè đá. Thở phào một cái, nó thả cái vòng cổ của Rufus ra và chạy theo con chó đến cái góc vắng nơi nó đã hẹn gặp Jane và Simon.

Chẳng thấy ai ở đó.

Barney cuống cuồng đưa mắt nhìn quanh. Nó chẳng thấy cái gì có thể cho nó một dấu vết dù mong manh nhất để biết anh chị mình đã đi về hướng nào. Rồi tự đấu lý với bản thân, nó quyết rằng cả hai nhất định đã phát hiện ra bà Palk. Bà ấy vốn rất hào hứng với cái ý tưởng lễ hội hóa trang và mấy trò nhảy múa này mà; nên chắc chắn thế nào bà ấy cũng ở trong đám diễu hành. Mà nhiệm vụ của Simon và Jane chính là phải đi tìm bà Palk, cũng như nhiệm vụ của nó là đi trinh sát mũi đất trên kia. Cả hai chắc đã đi đuổi theo bà ấy rồi, vì thừa biết thế nào nó chả đoán ra chúng đã đi đâu.

Hết sức hài lòng, Barney lên đường đi tìm lễ hội hóa trang. Nó bám theo đuôi đám đông lúc ấy vẫn đang dật dờ đi lên đường cái. Ngay cả ở dưới bến cảng kín đáo, gió vẫn đang thổi vào từ ngoài biển, nhưng thỉnh thoảng gió lại lặng giây lát, và Barney nghe được một đoạn nhạc như trêu ngươi thoảng qua những mái nhà, vọng đến từ đâu đó trong làng. "Pom... pom... di-pom-pom-pom..." Khắp xung quanh nó, mọi người đang thơ thẩn đi lại, vẩn vơ hỏi chuyện... "Họ đi đâu rồi nhỉ?" ... "Chúng ta có thể gặp họ ở bãi đất"... "Nhưng họ đã nhảy múa suốt mấy con phố đến hàng tiếng đồng hồ rồi còn gì" ... "Ôi, thôi đi."

Không thèm đếm xỉa đến đám người, Barney rẽ xuống một lối ngoặt nhỏ bên đường, Rufus vẫn kiên nhẫn chạy theo sát gót. Nó thả bộ hết ngõ ngoằn ngoèo này sang ngõ ngoằn ngoèo khác, men theo những lối đi hẹp nơi mái ngói acđoa gần như chạm xuống đầu, qua những cánh cửa ra vào chạm trổ tinh xảo với nắm đấm cửa bằng đồng bắt ánh nắng vàng rực lên; xuyên qua những con hẻm rải sỏi nơi cửa ra vào không mở ra vỉa hè mà mở thẳng xuống đường. Mặc dù chỉ là một ngôi làng nhỏ, Trewissick chẳng khác nào một mê cung bất tận kỳ lạ gồm toàn những con đường bé xíu uốn lượn quanh co. Barney cứ luôn phải căng tai lên để theo tiếng nhạc đi qua mê cung ấy.

Nó bị rẽ nhầm một, hai lần và lạc mất tiếng nhạc. Nhưng rồi dần dần tiếng nhạc càng lúc càng to và cùng lúc nó bắt đầu nghe thấy tiếng người nói lao xao và tiếng chân bước lạo xạo. Nó búng ngón tay gọi Rufus, rồi co cẳng chạy, lượn vòng từ con hẻm nhỏ vắng lặng này sang con hẻm khác. Và rồi bỗng nhiên tiếng ồn vỡ òa bên tai nó như một tiếng sấm, nó đã ra khỏi vòng luẩn quẩn của những con hẻm và hòa mình vào đám đông dưới ánh nắng chan hòa trên con đường lớn nơi đám diễu hành đang vừa đi vừa nhảy múa. "Nào nào, thằng cu tóc hoe này," ai đó gọi nó khiến những người xung quanh quay lại nhìn và cười ầm lên.

Barney không thể nhìn thấy Simon và Jane giữa đám vũ công, mà nếu có nhìn thấy thì cũng khó có thể bắt kịp anh chị nó trong đám đông này. Nó mê mẩn ngắm nhìn những cái đầu khổng lồ đang nhấp nhô xung quanh, những thân hình bên dưới kỳ quặc sặc sỡ trong áo chẽn và bít tất dài màu đỏ, vàng, xanh. Đâu đâu nó cũng bắt gặp những bộ quần áo hóa trang: một người đàn ông với dáng nhảy cứng ngắc như một cái cây, hệt một khối lùm lùm lật phật toàn lá xanh mướt; những tên cướp biển, những chàng thủy thủ, một gã kỵ binh nhẹ mặc bộ quần áo đỏ rực và đội một cái mũ cao ngất ngưởng. Những cô nô lệ, những anh hề, một người đàn ông trong chiếc áo choàng lụa dài màu xanh nước biển, trang điểm trông hệt như một diễn viên kịch câm; một cô gái mặc đồ đen từ đầu đến chân, uốn éo như một con mèo, với một cái đầu mèo có ria mép. Những cậu bé mặc bộ quần áo xanh lá cây như Robin Hood, những cô bé có mái tóc dài vàng hoe như Alice; những tên cướp đường, những vũ công nhảy điệu morris(1), những người bán hoa, những tên lùn giữ của.

Chẳng giống cái gì nó từng nhìn thấy trước đây. Các vũ công uốn lượn, ra ra vào vào đám đông bên lề đường, nơi nó đang đứng, và rồi bất thình lình, trước khi Barney kịp nhận ra chuyện gì, thì họ đã nhảy múa vòng tròn xung quanh nó.

Nó cảm thấy có ai đó chộp lấy tay mình và bị lôi vào giữa đám đông đang nhảy múa, giữa đám ruy-băng, lông vũ và những cái đầu trôi bồng bềnh khiến cho chân nó buộc phải bước theo những người kia.

Vừa hổn hển cười, nó vừa liếc nhìn lên. Bàn tay đi găng đen đang giữ một tay nó chính là của hình người cải trang thành con mèo, đang uốn éo trong bộ quần áo đen bó sát người với một cái đuôi đen dài ngoe nguẩy phía sau, và hàng ria mép cứng như rễ tre đâm thẳng từ cái mặt nạ trùm xuống đến má. Barney nhìn thấy hai con mắt ánh lên qua kẽ hở trên mặt nạ và hàm răng sáng lóe. Trong một thoáng, giữa đám đông những hình người vẫn đang nhảy múa xung quanh, nó nhìn thấy ngay sát mình một người đội một cái mũ gắn đầy những chiếc lông vũ to tướng của dân da đỏ Anh-điêng, với khuôn mặt giống bà Palk đến giật mình. Nhưng khi nó vừa mở miệng định gọi thì con mèo đen túm lấy cả hai tay nó và xoay nó quay tít đến chóng mặt xuyên qua đám đông đặc sít người. Mọi người cúi xuống nhìn và mỉm cười mỗi khi nó xoay qua, còn Barney, quay cuồng vì tiếng nhạc và tốc độ chóng mặt và cẳng tay cẳng chân đen sì xoay tít của con mèo ngay trước mắt, cứ vừa cười vừa lăng tròn theo vòng xoay của con mèo....

... Cho đến khi nó đột ngột dừng lại vì va vào mớ áo thụng dài của một hình người ăn mặc như một viên tù trưởng Arập, cũng đang nhảy múa cùng cả đám đông khiến cho mớ áo thụng kia xòe rộng và bay tung lên phần phật trong gió. Liếc mắt nhìn lên qua cái thế giới đang quay cuồng vì bản thân nó cũng chao đảo, Barney chỉ kịp nhận ra một dáng người mảnh khảnh và một bộ mặt gầy hốc hác, tối thui trước khi con mèo giơ tay túm lấy nó và đẩy thẳng vào trong nếp áo thụng trắng tinh vừa mới xòe rộng của người kia.

Chiếc áo thụng cuốn quanh nó trong khi nó còn đang loạng choạng, và vẫn cười dở, khiến xung quanh đột nhiên tối sầm lại. Rồi sau đó, nhanh đến nỗi nó không kịp cảm thấy có gì đó bất ổn, cánh tay của gã đàn ông vòng qua nó như một vòng sắt và nhấc bổng nó lên khỏi mặt đất, tay kia gã bịt mồm nó bằng những nếp gấp vải áo, rồi Barney cảm thấy nó đang bị mang đi.

Chưa kịp chống cự lại, nó đã bị cuốn đi một lúc qua đám đông và tiếng nhạc ầm ĩ. Cố đẩy mạnh vào ngực gã đàn ông nhưng chẳng ăn thua, nó thấy gã chạy thêm vài bước nữa và tiếng người nói cùng tiếng nhạc bỗng nhiên nghe nhỏ hẳn. Nó điên cuồng vùng vẫy và cảm thấy đầu ngón chân mình đá vào cẳng chân gã đàn ông. Nhưng nó lại đi xăng đan, nên không thể đá mạnh được: gã đàn ông chỉ bật ra một tiếng chửi thề nghèn nghẹt mà không dừng lại, làm nó xóc nảy người lên thêm vài bước nữa cho đến khi Barney thấy cả người bị quăng cao lên không trung rồi rơi bịch xuống một cái ghế độn bông và nghe thấy tiếng lò xo rung lên bần bật.

Cái áo thụng rơi khỏi miệng nó. Barney la lên, và cứ thế la ầm ĩ cho đến khi một bàn tay lại bịt chặt vào mặt nó.

Một giọng nữ nói vội vàng: "Nhanh lên! Mang nó đi ngay!"

Một giọng khác nghe nhẹ như giọng con gái, nhưng là giọng nam, buông cộc lốc: "Lên đi. Mày phải lái xe đấy."

Barney bỗng nằm ngay đơ người, tất cả các giác quan của nó căng ra cảnh giác. Giọng nói thứ hai nghe có vẻ gì đó quen quen. Sống lưng nó lạnh toát. Rồi cái tay đang bịt miệng nó lỏng ra một chút qua lớp vải bông, giọng nói khi nãy lại vang lên nhẹ nhàng, ngay sát tai nó, "Đừng kêu la nữa, Barnabas, và đừng có động đậy, như thế thì sẽ không có ai bị đau cả."

Và đột nhiên Barney nhận ra kẻ đeo mặt nạ đen giả trang thành con mèo và gã đàn ông đen sì trong tấm áo thụng của tù trưởng. Nó cảm thấy cái ghế khẽ rung rung khi động cơ ôtô khạc lên một tiếng rồi chuyển thành tiếng rít the thé. Rồi âm thanh ấy trầm xuống, nó cảm thấy người lắc lư và biết rằng người ta đang lái xe đưa nó đi.

* * *

Rufus lo lắng nhảy lùi lại tránh những bàn chân nhảy nhót vừa cuốn Barney vào trong đám đông. Nó ngập ngừng đưa mũi ra đánh hơi, một lần, hai lần nhưng rồi lại có một gót chân xuất hiện vô tình đá phải nó, khiến nó phải tránh đi.

Khi đã ra xa đủ độ an toàn, nó sủa váng lên, rất to. Nhưng tiếng sủa của nó ngay lập tức chìm nghỉm trong tiếng nhạc oang oang và đủ thứ tiếng ồn ào, ầm ĩ của đám đông. Hốt hoảng vì những âm thanh náo loạn ấy đột ngột ngập tràn thế giới nhỏ bé của mình, nó cụp tai bẹt sát vào đầu; cái đuôi cũng cụp xuống giữa hai chân, và trưng ra phần tròng trắng con mắt.

Nó lùi xa hơn nữa khỏi thứ âm thanh ầm ĩ đó, rồi khấp khởi ở góc phố đợi Barney quay lại. Nhưng chẳng thấy bóng dáng cậu bé đâu. Rufus bồn chồn cựa quậy.

Thế rồi khi ban nhạc tiến thẳng về phía đối diện, vừa đi vừa thổi, gõ, đập cách đó chỉ vài yard, làm rung chuyển từng ngóc ngách trên phố bằng những âm thanh hết bổng lại trầm nghe thật khủng khiếp đối với đôi tai một con chó như nó, thì bỗng nhiên Rufus không chịu nổi nữa.

Nó từ bỏ mọi hy vọng về Barney và quay lưng lại đám rước vũ hội hóa trang ồn ào, lững thững đi xuống con hẻm, với chỏm đuôi quét lệt quệt trên đường, còn thì mũi hạ sát xuống đất để đánh hơi đường về nhà.

* * *

Simon và Jane gặp lại nhau ở góc bến cảng, giờ đã yên tĩnh trở lại dưới ánh nắng chiều vàng óng.

"Em đã quay lại chỗ bọn mình hẹn gặp rồi. Không thấy nó."

"Anh đã tìm rất kỹ trong nhà rồi. Nó cũng không có ở đó."

"Anh có nghĩ là nó đi theo bà Palk không?"

"Anh đã bảo bao nhiêu lần rồi, người mà em nhìn thấy không thể là bà Palk được."

"Tại sao lại không chứ. Giá lúc ấy anh không giữ em lại thì em đã tóm được bà ấy rồi."

"Làm sao mà gặp được Barney ở đây nếu mày..." Simon bắt đầu lên giọng.

"Thôi được rồi, được rồi. Nhưng mà mình có gặp được nó đâu."

"Nếu thế thì nó chưa từ mũi đất đi xuống rồi."

Mặt Jane bỗng biến sắc. "Ôi Chúa ơi. Hay là nó đã gặp rắc rối gì ở trên đó rồi."

"Không, không đâu, đừng có vội lo khi chưa cần thiết. Rất có thể là cuối cùng thì nó đã tìm thấy Ông Merry và hai người vẫn còn ở trên đó."

"Thế thì chúng mình đi thôi, lên xem thế nào."

* * *

Chiếc xe lắc lư rồi gầm gừ như một sinh vật sống. Barney bị cuốn gói nằm như một cái bọc trong chiếc áo thụng mà gã Withers đã cởi tuột khỏi vai khi gã thả nó xuống xe. Nó chắc rằng đó chính là một tấm ga trải giường; mùi hương phả vào mũi nó giống hệt mùi ga gối vừa được giặt sạch ở nhà. Nhưng nó không phải đang ở nhà. Nó lầm bầm giận dữ trong miệng, và đá vào thành xe.

"Nào, nào," gã Withers nói. Gã nắm lấy chân Barney, ném trở lại ghế ngồi chẳng lấy gì làm nhẹ nhàng cho lắm, cùng lúc đó kéo tấm ga ra khỏi mặt nó. "Chú nghĩ bây giờ chúng ta có thể cho cháu ra khỏi tấm ga được rồi đấy, Barnabas ạ."

Barney chớp chớp mắt, bị lóa vì ánh sáng đột ngột. Trước khi nó có thể mở mắt ra và nhìn rõ con đường thì chiếc xe cua rít qua một chỗ trống giữa một bức tường cao, rồi giảm tốc độ, bánh xe nghiến lạo xạo trên lớp sỏi, dọc theo một lối đi trồng cây hai bên.

"Gần đến nơi rồi," gã Withers điềm tĩnh nói.

Barney quay đầu nhìn gã trừng trừng. Nó vẫn hầu như chưa thể nhận ra khuôn mặt gã Withers dưới lớp phấn nâu sạm đã biến gã thành người Arập; đôi mắt và hàm răng trắng nhởn ánh lên giả tạo, và dưới lớp hóa trang, gã đàn ông lộ vẻ lãnh đạm và tự mãn, gần như là kiêu ngạo.

"Chúng ta đang ở đâu? Ông đưa tôi đi đâu đây?"

"Cháu không biết sao? À quên, không biết" - cái đầu đen gật gù ra vẻ hiểu biết - "tất nhiên là cháu không biết rồi. Cháu sẽ biết ngay bây giờ thôi, Barnabas ạ."

"Ông muốn gì?" Barney hỏi.

"Muốn gì ư? Chẳng muốn gì cả, cậu bé yêu quý ạ. Chúng ta chỉ muốn đưa cháu đi một vòng, để gặp một người bạn của chúng ta thôi. Chú nghĩ là hai người sẽ rất hợp nhau đấy."

Qua hàng cây, Barney nhìn thấy họ đang đi đến gần một ngôi nhà. Nó nhìn xuống tấm ga vẫn đang cuốn quanh người và vặn vẹo để thò hai tay ra. Gã Withers quay phắt lại.

"Bỏ cái thứ ngu ngốc này ra khỏi người tôi ngay. Thật là ngớ ngẩn."

"Chỉ là một trò đùa nhỏ thôi mà," gã Withers nói. "Khiếu hài hước của cháu đâu mất rồi hả Barnabas? Chú tưởng là cháu thấy dễ chịu đấy chứ."

Gã vươn người sang và bắt đầu kéo tấm ga đi trong khi chiếc xe dừng lại trước cánh cửa đã tróc sơn của một ngôi nhà lớn, trông như bị bỏ hoang. "Cháu sẽ phải nhảy ra thôi, nếu cháu có thể làm được. Chú không thể tháo hẳn nó ra ở trong này được." Gã nói thoải mái, nhẹ nhàng, không có vẻ gì dọa nạt, và khi Barney nghi ngờ ngước lên nhìn gã, hàm răng trắng lại sáng ánh lên thành một nụ cười.

Cô gái trườn ra khỏi ghế lái xe, di chuyển như một con rắn trong bộ đồ đen bó sát người, và quay lại mở cửa xe phía Barney. Cô ta giúp nó ra, xoay tròn người nó để kéo tấm ga đi. Barney lảo đảo, chân tay cứng đờ vì bị chuột rút đến nỗi nó gần như không đi nổi.

Polly Withers bật cười. Đầu cô ta nom vẫn rất kỳ dị trong chiếc mặt nạ mèo đen ôm sát, che hết khuôn mặt chỉ trừ mắt và miệng. "Cô xin lỗi Barney nhé," cô ta nói vẻ ân cần. "Cô chú đã hơi quá tay một chút, phải không? Cô thấy cháu nhảy rất cừ đấy. Lúc dừng lại cô còn thấy hơi tiếc nữa. Nhưng thôi, không sao, giờ chúng ta đi vào uống trà, hy vọng là cháu không thấy giờ còn hơi sớm."

"Tôi còn chưa ăn trưa," Barney chợt nhớ ra, nói chẳng ăn nhập vào đâu.

"Ờ, nếu thế thì chúng ta phải kiếm cái gì đó cho cháu ăn thôi. Trời ạ, chưa được ăn trưa à? Và là do lỗi của cô chú cả. Norman, anh rung chuông gọi đi, chúng ta phải cho chú bé tội nghiệp này ăn đi chứ."

Gã Withers tặc lưỡi ái ngại cho nó rồi đi qua mũi xe đến ấn vào chiếc chuông bên cạnh cánh cửa lớn. Gã ta vẫn mặc toàn đồ trắng, một bộ quần áo bằng vải flanen đơn giản, nhưng không còn cái áo thụng Arập nữa. Hai cánh tay để trần của gã cũng bôi lớp phấn nâu sẫm giống màu trên mặt.

Barney, chầm chậm theo sau gã với cánh tay cô gái đặt nhẹ trên vai, hoang mang không hiểu nổi sự thân tình này là như thế nào. Nó bắt đầu phân vân không biết có phải mình đã hiểu nhầm mọi việc hay không. Có lẽ tất cả những việc này suy cho cùng chỉ là một trò đùa, một phần trong không khí vui vẻ của lễ hội hóa trang mà thôi. Có thể anh em nhà Withers thực ra cũng chỉ là những người hoàn toàn bình thường... Thực ra họ cũng chưa bao giờ làm điều gì chứng tỏ rõ ràng rằng họ là người của phe địch... có lẽ là nó, Simon và Jane đã hiểu lầm...

Lúc sau nó nghe thấy tiếng bước chân vang lên nhè nhẹ trong nhà, dần dần nghe rõ hơn khi nó lại gần, rồi cánh cửa mở ra. Đầu tiên, nó không nhìn ra ai trong cái quần jeans đen bó chặt và áo sơ mi xanh ấy. Rồi nó nhận ra đó là thằng Bill Hoover, thằng đã đuổi theo Simon để cướp tấm bản đồ. Trong phút chốc, nó nhớ lại hình ảnh trên Mũi Kemare hôm đó, vẻ mặt hau háu của cô Withers khi cô ta nhìn vào tấm bản đồ, và nó hiểu ra rằng chúng đã không nhầm.

Cái mặt sưng sỉa, ảm đạm của Bill rạng rỡ hẳn lên khi nó nhìn thấy Barney, và nó nhe răng cười với cô Withers.

"Cô tóm được rồi à?" nó hỏi.

Gã Withers ngắt lời nhanh như chớp, bước tới và gần như đẩy thằng Bill bật ra. "Bill đấy à," gã nói với cái giọng mượt như nhung, "cô chú đã đưa được anh bạn trẻ này đến đây thăm chúng ta. Chú không nghĩ là có ai phiền lòng đâu. Tất cả chúng ta đều muốn có cái gì đó để ăn, cháu chạy đi xem liệu có kiếm được cái gì thật nhanh không?"

"Phiền lòng á?" thằng Bill hỏi lại. "Tôi nghĩ là không." Nó lại nhìn Barney, vẫn kiểu cười nhăn nhở và hau háu ấy, rồi quay đi và biến mất ở phía cuối hành lang dài hun hút, thò đầu vào một cánh cửa ngỏ gọi ai đó lúc nó đi qua.

"Barney, vào đi cháu," cô gái nói. Cô ta nhẹ nhàng đẩy nó vào trong và đóng cửa lại. Barney nhìn lối đi dài, trống trải xung quanh, nhìn những vết ẩm mốc trên giấy dán tường phai màu; và nó cảm thấy mình thật là bé nhỏ và cô độc. Nó nghe thấy một giọng trầm trầm vang lên đâu đó trong ngôi nhà: "Withers đấy à?"

Gã Withers nãy giờ vẫn đứng nhìn Barney dò xét với một nụ cười nửa miệng, nghe thấy thế giật mình và đưa tay lên cổ áo nửa như vô thức. "Đến đây," gã đáp cộc lốc. Gã nắm lấy tay Barney và dẫn nó đi dọc theo hành lang, tiếng bước chân cả hai vang vọng trên mặt sàn gỗ không trải thảm, đến cửa một căn phòng ở tít phía cuối hành lang.

Đó là một căn phòng rộng, tối om so với cái nắng chói chang bên ngoài. Trên một bức tường trổ rất nhiều cửa sổ cao tít, chạy thẳng từ sàn nhà lên đến trần, với đám rèm nhung dài nhơ nhuốc đang kéo ra một nửa, và luồng ánh sáng len qua giữa kẽ rèm rớt xuống một cái bàn viết vuông to đùng đặt chính giữa phòng, trên đó chất đầy giấy tờ và sách báo. Trong phòng hình như không có người. Thế rồi Barney giật thót mình khi nhìn thấy một người đàn ông cao lớn di chuyển trong khoảng tối nơi ngoài vùng ánh sáng mặt trời.

"A," cái giọng trầm trầm cất lên, "Ta thấy là anh đã mang được chú chàng bé nhất về đây. Thằng cu tóc hoe. Ta thích thú được làm quen với cậu ta lắm đây. Rất hân hạnh được gặp cậu, Barnabas."

Ông ta chìa tay ra và Barney sửng sốt nắm lấy. Giọng nói nghe không hề khó chịu chút nào, còn có vẻ khá tử tế là đằng khác.

"Rất hân hạnh," nó nói yếu ớt.

Nó ngước nhìn lên gã đàn ông cao lớn, nhưng trong cảnh tranh tối tranh sáng, nó chỉ lờ mờ thấy một đôi mắt sâu hoắm dưới hàng lông mày rậm tối và một bộ mặt râu ria nhẵn nhụi. Cái gấu mịn mượt của chiếc áo lụa lướt qua tay nó.

"Tôi đang chuẩn bị uống một ly nước mát đây, Barnabas ạ," gã đàn ông nói với vẻ lịch thiệp như thể đang nói chuyện với ai đó hơn tuổi gã vậy. "Cậu sẽ uống cùng tôi chứ?" Gã phẩy tay về phía bóng tối và Barney nhìn thấy ánh bạc lấp lánh trên một chiếc bàn thấp phủ vải trắng đặt bên bàn viết.

"Cậu bé vẫn chưa ăn gì, thưa ngài," giọng cô Withers cất lên từ phía sau Barney, khẽ khàng và cung kính đến ngạc nhiên. "Chúng con nghĩ có thể Bill sẽ kiếm được thứ gì đó..." Giọng cô ta lặng đi. Gã đàn ông nhìn lên phía cô ta, và lầu bầu.

"Được rồi, được rồi. Polly, vì Chúa cô hãy đi thay đồ bình thường đi. Trông cô chẳng ra làm sao cả. Bây giờ không cần phải mặc mấy thứ đồ kỳ quái đó nữa, giờ cô không còn ở lễ hội hóa trang nữa rồi." Gã nói hết sức gay gắt, và Barney kinh ngạc thấy cô Withers trả lời gã thật ngoan ngoãn.

"Vâng, thưa ngài, tất nhiên rồi ạ..." Cô ta lủi ra ngoài lối đi, nhẹ nhàng và hoang dại trong bộ đồ da mèo đen.

"Vào đi cậu bé, và ngồi xuống đây." Gã lại đổi giọng nhẹ nhàng, và Barney chậm chạp bước vào phòng, ngồi xuống một chiếc ghế dựa. Chiếc ghế kêu lên răng rắc những tiếng giòn tan của đồ làm bằng cây liễu gai, và đột nhiên nó cảm thấy như trước kia nó đã từng đến đây rồi. Nó liếc nhìn quanh, ngắm những bức tường tối tăm và những giá sách cao chất ngất chạm đến trần, trong khi mắt quen dần với ánh sáng lờ mờ trong phòng. Có một điều gì đó... nhưng nó không thể định hình ra được. Có lẽ là căn phòng làm nó hơi nhớ đến Ngôi nhà Xám.

Dường như đọc được suy nghĩ của nó, gã đàn ông nói: "Tôi nghe nói cậu đang đi nghỉ ở Ngôi nhà Xám, phía trên bến cảng."

Barney đáp lại, ngạc nhiên vì sự can đảm của chính mình, "Ngôi nhà ấy hình như hay ho lắm thì phải. Dường như ai cũng chỉ nói với chúng tôi về nó."

Gã đàn ông cúi người về phía trước, tay đặt lên mép bàn. "Ồ, thật sao?" Cái giọng trầm của gã hơi cao lên một chút vì háo hức. "Còn ai khác cũng hỏi cậu về nó chăng?"

"Ôi, chẳng có ai đáng nhắc đến cả," Barney vội vàng trả lời. "Dù sao, đó cũng là một ngôi nhà dễ chịu. Ông sống ở đây sao, ông...?"

"Tên tôi là Hastings," gã đàn ông to lớn trả lời, và khi nghe thấy cái tên, Barney một lần nữa thấy lóe lên cảm giác gì đó quen quen, nhưng rồi lại biến mất ngay lập tức. "Đúng thế, tôi ở đây. Đây là nhà của tôi. Cậu có thích không, Barnabas?"

"Thực ra, trông nó khá giống Ngôi nhà Xám," Barney nói.

Gã đàn ông lại quay về phía nó. "Thật à? Tại sao cậu lại nói vậy?"

"À, ờ..." Barney mở đầu; nhưng lúc đó cánh cửa lại mở ra và thằng Bill đi vào mang theo một cái khay to tướng trên để một bình sữa lớn, mấy chai bia, vài cái ly và một đĩa đựng đầy bánh sandwich. Nó đi ngang qua căn phòng đến nơi gã đàn ông to lớn đang đứng rồi đặt cái khay xuống bàn; vẻ sợ sệt, chỉ đến vừa đủ tầm, cứ như là nó hãi quá không dám đến gần hơn vậy. "Cô Withers lói kiếm cái gì đó để ăn, thưa ngài," nó nói khi đã đi ra đến cửa, giọng vẫn thô lỗ như thế. Gã đàn ông chẳng nói chẳng rằng chỉ xua nó đi.

Mấy cái bánh sandwich làm Barney sực nhớ ra từ bữa sáng đến giờ đã kha khá thời gian trôi qua, và nó cảm thấy phấn chấn hơn. Nó ngồi dựa lưng vào cái ghế cứ kêu cọt kẹt mãi không thôi rồi liếc nhìn xung quanh. Mọi chuyện lẽ ra đã có thể tệ hơn thế này nhiều, nó nghĩ thầm. Gã Hastings bí ẩn dường như không có ý muốn làm hại nó, và nó bắt đầu thưởng thức cảnh tượng đám kẻ địch khúm núm, sợ sệt trước gã đàn ông kia. Nó lấy một cái bánh sandwich trên chiếc đĩa đang được chìa ra cho nó rồi cắn một miếng ngon lành. Bánh mì mới thật mềm, phết đẫm bơ và ở giữa là một miếng thịt gì đó ướp thật là ngon. Nó bắt đầu cảm thấy càng dễ chịu hơn.

Gã Withers lặng lẽ băng qua phòng đến gần bàn để rót cho nó một ly sữa rồi mở mấy chai bia. Gã đàn ông cao lớn có tên là Hastings ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn và khe khẽ đung đưa qua lại, tư lự nhìn Barney đăm đăm từ dưới cặp lông mày rậm rạp. Gã dịu dàng nói một cách bình thản như đang chuyện gẫu, "Nó được chôn dưới Ngôi nhà Xám à, Barnabas, hay dưới một trong những cột đá?"

Đang uống dở một ngụm sữa, Barney bị bất ngờ sặc lên. Nó sờ soạng lần tìm cái bàn và đặt cộp ly sữa xuống, rồi nhoài người ra trước, ho sặc sụa và phun phì phì. Gã Withers bước rất nhẹ nhàng 4a8c đến bên vỗ vỗ vào lưng nó. "Trời ơi, Barnabas," gã nựng nịu, "cháu bị sặc à?"

Đang cố vắt óc nghĩ nên Barney giả vờ tiếp tục ho mãi một lúc lâu hơn cần thiết. Khi ngẩng lên, theo bản năng nó liền giả bộ ngây thơ. "Cháu xin lỗi, do cháu nghẹt thở," nó nói. "Ông vừa nói gì phải không ạ?"

"Tôi nghĩ là cậu nghe rất rõ tôi vừa nói gì," gã Hastings nói. Gã lại đứng lên, cái dáng cao lớn lừng lững nuốt chửng Barney trong chiếc ghế thấp, rồi bước về phía cửa sổ, ly bia vẫn cầm trong tay. Lần đầu tiên ánh sáng chiếu rõ khuôn mặt gã, và khi nhìn theo, Barney cảm thấy một thoáng rùng mình bất ổn trước cặp lông mày luôn luôn cau lại và những nếp nhăn hiểm độc chạy dài xuống khóe miệng. Đó là một khuôn mặt kiên quyết, xa xăm, có nét gì đó giống như Ông Merry của nó, nhưng vẻ lạnh lùng ghê sợ ẩn giấu đằng sau thì lại hoàn toàn không giống Ông Merry một chút nào. Barney thấy mình tha thiết thầm ước giá như có ai đó nói cho Ông Merry biết được nó đang ở đâu.

Gã Hastings giơ cao ly bia về phía cửa sổ. Ánh mặt trời chiếu xuyên qua cái ly trong vắt và sóng sánh vàng. "Một ly bia hoàn toàn tầm thường," gã nói vu vơ, "cho đến khi người ta đưa nó ra ánh sáng. Thế là nó trở nên trong suốt, người ta có thể nhìn xuyên qua được..." Gã quay ngoắt về phía Barney và lại in một cái bóng đen sì đầy hăm dọa trên khung cửa sổ. "... Trong suốt như tất cả những việc mà lũ nhãi ranh bọn mi đã làm, suốt mấy ngày vừa qua. Mi có biết là chúng ta đã thấy được hết hay không? Mi tưởng là chúng ta không theo dõi ư?"

"Tôi không hiểu ông đang nói gì," Barney nói.

"Mi có thể là một thằng lỏi ngu ngốc," gã Hastings nói tiếp, "nhưng ta không nghĩ là mi ngu đến mức đó đâu... nghe đây. Chúng ta biết là chính mi đã tìm ra tấm bản đồ, và rằng với sự giúp đỡ của ông già quý hóa của bọn mi, Giáo Sư Lyon" - nói đến những từ ấy, cái mồm gã méo đi cứ như thể ăn phải cái gì khó chịu lắm vậy - "bọn mi đã cố lần theo dấu vết đến nơi mà nó chỉ. Chúng ta biết bọn mi đã đến rất gần điểm chốt cùng của dấu vết rồi. Và, Barnabas thân mến ạ, vì chúng ta không thể liều lĩnh để bọn mi đến đích, nên cuối cùng đã quyết định kéo một mẻ lưới và đánh một dấu chấm hết cho cuộc săn lùng nho nhỏ của bọn mi. Vì thế nên mi mới có mặt ở đây."

Barney lạnh toát người trước vẻ hăm dọa trong giọng nói trầm trầm lạnh lẽo ấy. Miệng nó khô khốc. Nó với lấy ly sữa, rồi uống một hơi dài. "Tôi xin lỗi," nó nói, chớp chớp cặp mắt đang mở to sau miệng ly và liếm chỗ sữa đang bám ở môi trên. "Tôi không hiểu ý ông nói gì. Tôi có thể ăn một miếng sandwich nữa được không?"

Sau lưng, nó nghe thấy tiếng gã Withers hít vào đánh hức một cái, và trong khoảnh khắc, một giọng lí nhí trong đầu nó reo lên mừng chiến thắng. Nhưng nó vẫn lo lắng quan sát cái dáng cao lớn lừng lững bên cạnh cửa sổ. Trong phút chốc dường như cái dáng ấy càng to lớn hơn, trông càng lù lù ghê sợ hơn. Và rồi gã đột ngột di chuyển, quay trở lại hòa vào trong bóng tối nhờ nhờ của căn phòng.

"Đưa cho nó thêm một miếng sandwich nữa," gã Hastings nói. "Sau đó thì anh có thể đi, Withers ạ. Anh biết anh phải làm gì rồi đấy. Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa. Khi nào ta rung chuông thì hãy quay lại."

Gã Withers, khuôn mặt đánh phấn đen gần như không nhìn rõ trong bóng tối chạng vạng, đẩy đĩa bánh lại phía Barney. Gã khúm núm, "Dạ vâng, thưa ngài," cúi chào thật nhanh rồi đi ra khỏi phòng.

Barney lấy một miếng sandwich nữa, cảm thấy định mệnh đã an bài rồi, nên dù cho chuyện gì xảy ra đi nữa thì nó cũng phải ăn cái đã. "Tại sao tất cả bọn họ lại gọi ông là 'ngài'?" nó tò mò hỏi.

Gã đàn ông cao lớn đi đến và ngồi xuống cạnh bàn, nghịch nghịch một chiếc bút chì giữa những ngón tay. "Thế cậu sẽ gọi ai là 'ngài'?"

"Ờ, thực ra là chẳng có ai cả. Chỉ có mỗi các thầy ở trường thôi."

"Có lẽ tôi cũng là thầy(1) của họ," gã Hastings đáp.

"Nhưng họ có ở trong trường học đâu."

"Tôi nghĩ là cậu sẽ không hiểu, Barnabas ạ. Thực ra có rất rất nhiều điều cậu không hiểu. Tôi không biết ông của cậu đã nhồi vào đầu cậu những gì. Ông ta chắc đã nói với cậu rằng chúng tôi là kẻ xấu, là kẻ nguy hiểm, và rằng ông ta là người tốt?"

Barney chớp mắt nhìn gã và cắn thêm một miếng bánh nữa.

Gã Hastings cười nham hiểm. "À, nhưng tất nhiên là cậu không biết tôi đang nói gì rồi. Cậu không có một chút ý niệm gì hết." Sự mỉa mai hiển hiện trong giọng nói trầm đục của gã khiến Barney nhăn mũi. "Ờ, chúng ta quên ý đó đi nhé, chỉ một lúc thôi, và giả vờ, chỉ giả vờ thôi, là cậu có hiểu những gì tôi nói. Tôi nghĩ là người ta đã dụ cho cậu tin rằng những người bạn của tôi và tôi là những kẻ xấu xa bậc nhất. Rằng chúng tôi muốn theo đầu mối trên tấm bản đồ vì chúng tôi có thể làm những điều tệ hại với cái vật mà chúng tôi tìm ra. Cậu chẳng được nghe gì khác ngoài những lời của ông mình, và có lẽ lại thêm một hai điều kỳ cục gì đó mà có thể Polly và Norman Withers đã làm nữa."

Giọng nói của gã giảm dần cho đến khi nghe nhẹ nhàng và êm mượt như lụa. "Nhưng cứ nghĩ mà xem, Barnabas ạ, nghĩ về những việc kỳ lạ mà ông của cậu đã làm ấy. Bỗng dưng xuất hiện chẳng biết từ đâu và rồi lại biến mất... hôm nay ông ta lại biến mất rồi phải không? Ồ không, tất nhiên là cậu không thể trả lời tôi rồi, vì chúng ta chỉ giả vờ là cậu hiểu những gì tôi đang nói thôi mà. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên ông ta bất thần biến mất như vậy, tôi nghĩ thế, và đây cũng sẽ không phải là lần cuối cùng."

Gã nhìn chằm chằm vào Barney, đôi mắt đen thấu suốt và không hề chớp dưới gờ lông mày nhô ra. Barney ăn miếng sandwich chậm lại một chút, chính nó cũng không sao dứt nổi mắt khỏi gã. "Còn về việc chúng tôi là kẻ xấu xa thì... nào, Barnabas, tôi có đánh cậu như một kẻ xấu không? Tôi đã làm gì hại cậu chưa? Cậu đang ngồi đó, ăn và uống thỏa thích, rõ ràng trông chẳng có gì đáng lo. Cậu có sợ tôi không?"

"Ông đã bắt cóc tôi," Barney nói thẳng thừng.

"Thôi nào, đó chỉ là một trò đùa của Polly thôi mà. Tôi muốn nói chuyện với cậu, vậy thôi."

Gã Hasting ngồi lại vào ghế và dang rộng cánh tay, đầu ngón tay vừa chạm đến mép bàn. "Nào, cậu bé, bây giờ tôi sẽ thỏa thuận với cậu. Tôi sẽ nói cho cậu biết thực ra chuyện gì nằm sau tất cả những điều đã xảy ra trong mấy ngày gần đây, còn cậu thì sẽ thôi giả vờ như chưa từng nhìn thấy tấm bản đồ bao giờ nữa."

Không đợi cho Barney nói gì, gã lại tiếp tục. "Quả thực là chúng tôi đang săn tìm cùng một thứ như ông của cậu, cả mấy người bạn của tôi và tôi. Nhưng dù cho ông ta có thêu dệt cho cậu chuyện gì về chúng tôi đi chăng nữa thì, thật lòng mà nói, chúng toàn là vớ vẩn cả. Ông của cậu là một học giả, một học giả xuất sắc. Không ai phủ nhận điều đó, và có lẽ tôi còn biết rõ hơn cậu. Vấn đề là chính bản thân ông ta cũng biết vậy và nghĩ về nó quá nhiều."

"Ý ông muốn nói gì?" Barney tức giận hỏi.

"Khi một người nổi tiếng vì là một học giả vĩ đại, ông ta sẽ muốn mãi mãi được nổi tiếng. Cậu tìm ra bản viết cổ đó, cậu và anh chị của cậu, và khi cậu kể cho ông ta nghe thì ông ta nhận ra ngay, cũng như cậu đã không nhận ra, là nó quan trọng đến mức nào. Khi ông ta nhìn thấy nó, ông ta càng trở nên chắc chắn hơn. Barnabas này, tôi là người quản lý, nghĩa là giám đốc, của một trong những viện bảo tàng quan trọng nhất trên thế giới. Từ rất lâu rồi, tôi đã săn tìm bản viết cổ mà cậu đã tìm ra, và đặc biệt là cái mà nó chỉ dẫn tới. Cả hai thứ đó đều rất quan trọng đối với những người nghiên cứu những thứ như vậy, và chúng có thể làm thay đổi mọi kiến thức hiện có trên đời. Và ông của cậu biết chúng tôi đang săn tìm chúng.

"Nhưng khi cậu tìm ra bản viết cổ, ông ta thấy mình có cơ hội để thành công trong cuộc săn lùng này. Càng nghĩ thế, ông ta càng thấy đó là một ý tưởng hấp dẫn hơn. Ông ta vẫn luôn luôn là người nổi tiếng vì biết rất nhiều về những sự kiện lịch sử có liên hệ đến những vật này. Nếu ông ta là người tìm ra chúng, ông ta có thể biết nhiều hơn bất kỳ ai khác trên thế giới. Người ta có thể ca ngợi rằng Giáo Sư Lyon thật là vĩ đại, ông biết nhiều làm sao và không thể tìm được ai khác như ông..."

"Biết nhiều là bao nhiêu?" Barney ngắt lời.

"Cậu sẽ không hiểu hết các chi tiết đâu," gã Hasting trả lời ngắn gọn. Rồi giọng gã lại hạ thấp xuống nghe trầm trầm đầy thuyết phục. "Cậu có thấy không, Barnabas? Ông của cậu chỉ lo cho sự nổi tiếng của ông ta thôi. Có giây phút nào cậu nghĩ rằng khi kết thúc cuộc săn tìm thì mấy đứa trẻ các cậu sẽ được vẻ vang gì hay không? Tất cả sẽ chỉ dồn vào ông ta thôi... Trong khi đó, tôi và viện bảo tàng của tôi, và cả những nhân viên của tôi, tin rằng mọi kiến thức phải được chia sẻ và rằng không một ai có quyền giữ chúng cho riêng mình. Và nếu cậu định giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ chăm lo làm sao để anh chị em cậu sẽ nhận được mọi sự khen ngợi mà các cậu có quyền được hưởng. Toàn thế giới phải biết được những gì mà cậu đã làm."

Bất chấp cố gắng của bản thân, Barney quên phắt miếng bánh sandwich và ly sữa. Nó ngồi đó lắng nghe, trong lòng bối rối; cố gắng hiểu xem đâu là sự thật. Đúng vậy, Ông Merry thường rất kỳ lạ, chẳng giống những người khác chút nào; nhưng dù sao chăng nữa...

Nó nói, chậm rãi và lúng túng, "Ờ, tôi không biết, tất cả những điều đó nghe chẳng giống Ông Merry gì cả. Chắc chắn là ông không làm điều gì như thế chứ?"

"Nhưng tôi bảo đảm với cậu..." Gã Hastings đứng bật dậy và bắt đầu đi đi lại lại từ bàn ra cửa rồi lại từ cửa vào bàn. Dường như gã không còn ngồi yên được nữa. "Có rất nhiều người ta biết rõ, thường là những người giỏi và nổi tiếng cả, vẫn có thể làm những điều khuất tất. Tôi rất hiểu là cậu có thể ngạc nhiên, và bị sốc. Nhưng đó là sự thật, Barnabas ạ, và nó đơn giản hơn rất nhiều những gì mà người ta vẫn dụ dỗ để cậu tin vào."

Barney nói: "Như thế nghĩa là chúng tôi nên đưa tấm bản đồ cho ông, và để cho ông tìm ra cái..." Vừa kịp lúc nó ghìm lại từ "chén Thánh". Trong suốt cuộc nói chuyện vừa rồi, không hề có câu nào đả động đến tấm bản đồ sẽ dẫn tới cái gì. Có lẽ bọn chúng biết ít hơn là chúng nói ngoài miệng. Có lẽ đó chính là một trong những điều bọn chúng muốn bẫy để nó nói ra.

Gã Hastings ngừng lại một giây. "Cái gì?" gã hỏi.

"Ờ, và để cho ông tìm ra cái mà nó dẫn đến."

Barney lại cầm ly sữa lên uống vẻ trầm ngâm. "Vì sau đó ông sẽ để cái đó trong viện bảo tàng của ông và mọi người ai cũng có thể biết về nó."

Gã Hastings gật đầu nghiêm nghị. "Cậu hiểu rồi đấy, Barnabas. Mọi kiến thức đều thiêng liêng, nhưng không nên giữ chúng trong bí mật. Tôi nghĩ là cậu đã hiểu rồi. Đó chính là điều cậu nên làm - điều chúng ta nên làm - nhân danh những hiểu biết của loài người."

Barney nhìn vào ly sữa, khẽ lắc cho sữa xoay tròn trong ly. "Nhưng đó không phải là điều mà Ông Merry đang làm hay sao?"

"Không, không!" Gã Hastings sốt ruột xoay gót chân quay phắt lại, rồi sải những bước dài qua qua lại lại trong phòng. "Dù ông ta đang làm gì đi chăng nữa thì ông ta cũng chỉ làm với danh nghĩa của Giáo Sư Lyon, chỉ có thế thôi. Nếu không thì ông ta còn làm nhân danh cái gì khác được đây?"

Sau này Barney vẫn không hiểu cái gì đã đặt những lời ấy vào đầu nó; nó nói trước cả khi kịp nghĩ, cứ như có ai đó nói nhờ qua mồm nó vậy. Nó nghe thấy tiếng mình vang lên dõng dạc, "Nhân danh vua Arthur, và nhân danh thế giới xưa kia trước khi thế lực đen tối kéo tới."

Hình người cao lớn, đen ngòm ấy đứng sững lại, hoàn toàn bất động, cái lưng vẫn còn đang xoay dở. Trong một khắc căn phòng im lặng như tờ. Cứ như thể Barney đã nhấn vào một cái nút khiến cho một trận tuyết lở có thể đổ ngay xuống bất kỳ lúc nào vậy. Nó ngồi bất động và gần như nín thở trên ghế. Rồi rất chậm rãi, hình người ấy quay lại. Barney nuốt nước bọt đánh ực một cái, và thấy tóc gáy dựng ngược lên. Gã Hastings đã đi đến góc phòng tối nhất, gần cửa ra vào, và khuôn mặt gã lẫn vào trong bóng tối. Nhưng dường như gã càng hiện ra to lớn hơn và đáng sợ hơn bao giờ hết, và khi gã cất tiếng, có một nốt rung khác lạ trong cái giọng trầm khiến Barney cứng đờ người vì khiếp sợ.

"Mi sẽ thấy, Barnabas Drew ạ," giọng nói ấy thì thào, " rằng thế lực đen tối sẽ luôn luôn kéo tới và sẽ luôn luôn chiến thắng."

Barney lặng thinh. Nó có cảm giác như nó đã quên mất cách nói, và giọng nó đã vĩnh viễn tắt ngấm cùng với những lời cuối cùng nó vừa mới thốt ra.

Gã Hastings không rời mắt khỏi nó. Gã với tay sang bên và giật mạnh hai lần vào sợi dây thả từ trên trần xuống ngay cạnh cửa. Chỉ vài giây sau cánh cửa bật mở và gã Withers lặng lẽ lẩn vào trong phòng. Gã đã rửa sạch lớp phấn nâu trên mặt và cánh tay.

"Mọi thứ đã sẵn sàng chưa?" giọng nói trầm trầm vang lên.

"Đã xong rồi, thưa ngài," gã Withers khúm núm nói giọng rin rít. "Xe đã đậu ở cửa bên rồi ạ. Con bé đã thay đồ. Nó sẽ lại cầm lái."

"Anh sẽ đi cùng cô ấy. Ta sẽ cùng thằng bé đi theo trong cái xe kín. Bill đã chuẩn bị xong chưa?"

"Máy đã nổ rồi ạ..."

"Các ông đưa tôi đi đâu?" Giọng Barney vói lên đầy hoảng hốt và sợ hãi, nó nhảy xuống khỏi ghế. Nhưng nó không thể chạy ra khỏi căn phòng, qua cái bóng cao lớn vẫn đang chằm chằm nhìn nó.

"Mi sẽ đi cùng bọn ta ra biển," giọng nói vang lên sau đôi mắt tối đen không chớp. "Mi không được gây ra rắc rối gì và mi sẽ làm theo những gì ta bảo. Và khi nào chúng ta ra đến biển, Barnabas thân mến, thì mi sẽ nói cho chúng ta biết về tấm bản đồ của mi và chỉ cho chúng ta biết nó dẫn đến đâu."

Hết chương 11. Mời các bạn đón đọc chương 12!

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/35414


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận