Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 9


Chương 9
Hy vọng không có gì xảy ra với ông cả

Không hề đơn giản như mình tưởng," Simon cau mày nói. Nó nhìn đám đá xám lởm chởm xung quanh. "Nhìn từ những cột đá đêm qua thì cứ như ở đây chỉ có một tảng đá nhô ra thôi. Nhưng hóa ra là có rất nhiều, mà tảng nào cũng to cả."

Gió từ biển thổi vào làm đuôi tóc của Jane cứ vờn qua vờn lại đằng sau gáy. Em nhìn vào phía đất liền. "Ở đây cứ như là ở ngoài khơi ấy. Cứ như là chúng ta bị tách hẳn ra, và nhìn vào đất liền từ ngoài khơi vậy."

Điểm tận cùng của Mũi Kemare hoang vắng hơn bất kì nơi nào chúng đã từng thấy, mặc dù ánh nắng vẫn lấp lánh trên mặt nước tít bên dưới, và mùi biển vẫn thoảng trong gió. Bọn trẻ đứng giữa một khoảng trống trải toàn đá, trơ trọi trên thảm cỏ sát ngay đầu mũi đất. Phía trước chúng mặt đất sụt xuống thành một bờ dốc đứng cỏ mọc dày, và từ đó vách đá dựng đứng thụt xuống hợp với những tầng đá khác, ở khoảng sáu mươi mét bên dưới, nơi những con sóng trắng xóa không ngừng cằn nhằn và thở than. Không thấy có dấu hiệu của sự sống hay hoạt động gì xung quanh.

"Thật là cô quạnh," Barney nói. "Ý em là, chẳng hiểu sao, tự bản thân cảnh vật ở đây cô quạnh ấy. Khác với cảm giác cô đơn của chúng ta. Em băn khoăn không biết đầu mối tiếp theo là gì, nếu như có đầu mối đó thật."

"Chị nghĩ là không có đâu," Jane chậm rãi nói. "Đây là nơi tận cùng rồi. Chẳng dẫn tới cái gì khác nữa cả, mọi dấu hiệu đều chỉ đến đây... Rất lạ là mình chẳng nhìn thấy ai trên đường đến đây cả. Thường thì vẫn có một vài người đi dạo loanh quanh, kể cả ở trên mũi đất."

"Tối hôm qua thì chắc chắn là có đấy," Simon nói.

"Ôi thôi mà, em đang cố quên đi đây. Nhưng mỗi tội không có một sinh linh nào. Thật là kỳ lạ."

"Ông Penhallow nói dân bản xứ tránh xa nơi tận cùng mũi đất này," Barney nói, trèo lên ngồi trên một tảng đá cao quá đầu chúng. Rufus cố trèo theo nhưng bị tuột xuống, đành vừa kêu lên ăng ẳng vừa liếm mắt cá chân Barney. "Họ không thích những cột đá, mà cũng không bao giờ lên đây cả. Ông ấy không nói nhiều về mũi đất này. Ông ấy bảo dân chúng nghĩ là những tảng đá này bị ma ám, là chúng không may mắn, và nghe ra có vẻ như chính ông ấy cũng tin điều đó. Ông ấy nói mọi người gọi đây là những Bia Mộ."

"Họ gọi những cột đá thế á?"

"Không những tảng đá này cơ."

"Lạ nhỉ, chị tưởng là ngược lại cơ đấy. Những cột đá trông còn na ná giống những bia mộ, chứ những tảng đá này chỉ là đá thôi, chẳng khác gì những tảng đá khác cả."

"Thì ông ấy nói với em thế." Barney nhún vai và suýt mất thăng bằng. "Chẳng qua là họ không thích chúng thôi."

"Tại sao nhỉ?" Jane nhìn trân trân vào vách đá lởm chởm gần nhất, vươn lên ngay bên trên đầu em. Đứng bên cạnh em, Simon lơ đễnh gõ gõ vào vách đá bằng cái hộp kính viễn vọng bằng đồng, bản viết cổ cuộn tròn an toàn bên trong; Barney đã trịnh trọng trao lại cả hai thứ cho nó sáng nay. Thế rồi đột nhiên nó ngừng gõ và đứng sững như trời trồng.

"Chuyện gì thế? Anh tìm thấy cái gì à?" Jane nhìn vách đá tò mò.

"Không... à có... Không sao đâu, anh chẳng nhìn cái gì cả. Em có nhớ không, trong bản viết cổ ấy? Giờ anh có thể nghe như Ông Merry đang nói. Nơi mà người Cornwall đó giấu chén Thánh. Trên biển khơi, dưới đá thẳm."

"Đúng rồi, và cùng tương tự khi người ta chôn vị hiệp sĩ kỳ lạ, tên ông ta là gì nhỉ..."

"Bedwin," Barney nói. "Trời ạ, em hiểu anh nói gì rồi. Trên biển khơi, dưới đá thẳm. Chính là chỗ này!"

" Nhưng mà..." Jane lên tiếng.

"Chắc chắn rồi!" Simon sung sướng nhảy chân sáo loạn cả lên. "Trên biển khơi - mình không thể ở chỗ nào mà lại trên biển khơi rõ như ở chỗ này phải không? Và dưới đá thẳm. Ôi, đây là dưới đá còn gì."

"Và chắc đây cũng là chỗ người ta chôn Bedwin!" Barney vội vàng tụt xuống. "Nên họ mới gọi đá ở đây là Bia Mộ, và cho là có ma. Họ đã quên sạch câu chuyện thực vì xảy ra cách đây hàng trăm, hàng trăm năm rồi. Nhưng họ nhớ được phần đó, ít nhất thì họ cũng nhớ được là người ta thấy sợ hãi khi đến đây, và vì thế họ không đến nữa."

"Có thể là họ đúng." Jane lo lắng nói.

"Ôi, thôi cái kiểu đấy đi. Mà, cứ cho là hồn ma của Bedwin lẩn quất đâu đây đi, thì ông ấy cũng chẳng dọa bọn mình đâu vì mình ở cùng phe với ông ấy mà."

"Tối hôm qua Ông Merry cũng nói đại loại như vậy." Jane nhăn trán, cố nhớ lại.

"Thôi bỏ đi, chị không hiểu điều này có nghĩa là gì à? Mình đang ở chỗ đó đấy, mình đã tìm thấy rồi!" Barney thích chí đến nỗi nói lắp. Rufus cũng vui lây, nhảy cẫng lên bên cạnh chúng và sủa vào trong gió.

Simon nhìn Barney. "Thế thì được rồi. Nó ở đâu nào?"

"Ờ," Barney ngập ngừng nói. "Ở đây. Dưới một trong những tảng đá này."

"Ờ, phải, chỉ có điều đừng loạn xạ như lên cơn nữa, suy nghĩ một chút đi. Chúng ta phải làm gì, đào tất cả lên à? Chúng là một phần của mũi đất đấy. Toàn là đá cả. Nhìn xem." Simon lấy con dao nhíp của nó ra, một món vũ khí rất oách bằng thép cứng với hai lưỡi dao to bản và một mũi tách xoắn mở nút chai, rồi quỳ xuống đào đất dưới chân một tảng đá. Nó nhổ lên từng túm cỏ, đào một cái hố, được khoảng ba inch thì chạm đến đá cứng. "Đấy, thấy chưa?" Nó lấy lưỡi dao cạo vào mặt đá, làm phát ra tiếng kèn kẹt rợn người. "Làm sao mà chôn được cái gì ở đây chứ?"

"Đâu phải chỗ nào cũng như thế," Baney cự lại.

"Có thể ở đâu đó lại khác thì sao," Jane nói đầy hy vọng. "Nếu mình chia nhau ra và tìm kiếm thật kĩ từng tí một, mình có thể tìm thấy cái gì đó. Lẽ ra mình phải mang cuốc theo mới phải. Nào làm thôi."

Thế là Barney đi xuống một đằng, còn Jane, vốn đứng cách nó khoảng hai mươi yard, thì xuống đằng kia. Lo lắng liếc nhìn bờ đất dốc đứng, Simon đi vòng sang mé sát biển rồi bắt đầu lần tìm từ đó. Ba đứa leo lên leo xuống những tảng đá granite sắc cạnh, lần tìm trong những búi cỏ rậm rạp ken ở giữa, đẩy mạnh những hòn đá xem chúng có suy suyển và để lộ ra nơi cất giấu cái gì đó bên dưới không. Nhưng những hòn đá chẳng mảy may nhúc nhích, và bọn trẻ chẳng thấy gì ngoài đá và cỏ, không có lấy một dấu hiệu về nơi cất giấu nào cả.

Khi ba đứa quay trở lại với nhau thì Jane đang nắm chặt trong tay cái gì đó. "Nhìn này," em nói và xòe tay ra. "Mọi người có nghĩ là thật lạ là mình lại tìm được vỏ sò ở đây không? Ý em là làm thế nào mà nó lại lên tận đây cơ chứ, trong khi chẳng có ai đến đây cả?"

"Trông giống hòn đá hơn là cái vỏ sò," Simon tò mò nói, cầm lấy vật trong tay em. Đó là một vỏ sò nhưng bên trong đặc và cứng, đầy cái gì nom giống như đá; bề mặt của vỏ sò này cũng không trắng và ráp như những vỏ sò thường thấy ở bãi biển, nó nhẵn hơn và có màu xám sẫm.

"Có thể một du khách nào đó đã đến đây và đánh rơi nó," Barney thản nhiên nói. "Khách du lịch sẽ không sợ đến đây, họ chẳng biết gì về những điều mà người dân Trewissick vẫn nói cả."

"Có lẽ vậy." Cả ba khinh bỉ nghĩ đến đám du khách.

"Thôi vậy." Jane bỏ cái vỏ sò vào trong túi và nhìn quanh vẻ bất lực. "Chán quá. Thế là mình cùng đường rồi. Bây giờ thì làm gì?"

"Ở trên kia phải có cái gì đó chứ, chắc chắn là phải có."

"Bọn mình có biết chắc đâu... có khi chỉ là một nấc thang khác trong cuộc tìm kiếm, thế thôi."

"Nhưng chẳng có dấu hiệu gì khác nữa để lần theo cả. Thử cùng xem lại bản đồ xem nào."

Simon ngồi xổm trên cỏ, vặn hộp kính viễn vọng ra, và cả ba chăm chú nhìn bản viết cổ, những dòng chữ nét vẽ màu nâu lờ mờ hiện lên dưới ánh nắng.

"Em tin chắc ông ấy muốn nói rằng đây là điểm cuối cùng của cuộc tìm kiếm," Barney bướng bỉnh nói. "Hãy nhìn xem, phần cuối của mũi đất đứng chơ vơ thế này. Chẳng có cái gì để dẫn đến một nơi khác cả."

Simon trầm ngâm nhìn tấm bản đồ. "Có lẽ nó chỉ đưa mình quay trở lại nơi bắt đầu thôi. Có khi từ đầu đến giờ ông ấy vẫn trêu ngươi mình. Kiểu như một điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm ấy, để bất kì ai cũng khó mà tìm ra chén Thánh."

"Có thể là ông ấy giấu ở nơi nào đó mà mình sẽ không bao giờ tìm thấy."

"Có thể là ông ấy đã mang nó theo."

"Có thể là chẳng có chén Thánh nào cả."

Bọn trẻ buồn rầu ngồi quây bên nhau, chẳng thèm để ý đến ánh mặt trời hay đường lượn hùng vĩ của dải bờ biển và biển cả. Một hồi lâu chỉ có sự im lặng thất vọng bao trùm. Rồi Barney chậm rãi nhìn quanh. "Rufus chạy đâu rồi?"

"Chịu," Simon rầu rĩ nói. "Có khi nó ngã xuống dưới vực rồi cũng nên. Con vật ngốc nghếch ấy dễ bị thế lắm."

"Ôi, không!" Barney lo lắng nhổm dậy. "Em hy vọng nó không bị làm sao. Rufus! Rufus!" Nó cho hai ngón tay vào miệng và huýt sáo inh cả tai. Jane nhăn mặt.

Chúng không nhìn thấy gì, và cũng không nghe thấy gì ngoài tiếng gió, và rồi chúng nhận ra một tiếng động lạ ở ngay trên đầu; một tiếng khụt khịt và tiếng kêu ư ử xen lẫn với tiếng sột soạt.

"Rufus trên kia kìa!" Barney lần theo triền đá leo lên, và hai đứa kia nhìn thấy chỏm tóc vàng của thằng em hiện ra đằng sau một mỏm đá màu xám khi nó đứng dậy. Rồi đột nhiên Barney biến mất. Tiếng nó vọng qua vách đá và theo gió bay đến tai hai đứa, hơi nghẹt lại, nhưng rối rít vẻ đầy phấn khích. "Này! Lại đây, nhanh lên."

Những khối đá tạo thành một thứ pháo đài, hết lớp này đến lớp khác mọc lên như những bức tường thành với hàng lỗ châu mai. Hai đứa tìm thấy Barney ở khoảng giữa, đang khom mình bên cạnh một mỏm đá và nhìn theo Rufus. Con chó đang đứng đó, run rẩy và chăm chú, mũi gí sát vào tảng đá, một bàn chân cào cào nhè nhẹ trong khi rên lên ư ử và đánh hơi khìn khịt.

"Nhanh lên," Barney nói mà không quay lại. "Em không biết nó đang muốn làm gì, nhưng em nghĩ nó đã tìm thấy cái gì đó. Em chưa bao giờ thấy nó như thế này cả. Nếu là một con chuột hay con thỏ, nó sẽ phát điên lên, sủa và chạy lung tung, nhưng lần này lại khác. Nhìn nó mà xem."

Rufus dường như đang bị thôi miên, không thể nào rời ra khỏi bề mặt tảng đá.

"Để anh xem nào," Simon bảo. Nó cẩn thận bước qua Barney và vòng tay quanh cổ Rufus, âu yếm gãi gãi dưới cằm con chó vừa kéo con vật ra khỏi chỗ tảng đá. "Có một khe hở nhỏ ở đây." Giọng nó bay về phía chỗ hai đứa kia đang đứng. "Anh thò được ngón tay vào trong - oa! Bảo mà, phần trên tảng đá chuyển động này! Anh cảm thấy nó đang chuyển động, chắc chắn là thế đấy. Nó suýt kẹp tay anh. Cái lỗ khá to, nhưng anh nghĩ... Jane, em đi vòng sang bên cạnh anh được không?"

Jane lách qua giữa những tảng đá đến cạnh Simon.

"Bây giờ nắm vào đó," Simon hướng dẫn, "vào cái mỏm đá nhô lên ấy... khi nào anh bảo thì lấy hết sức đẩy ra xa, về phía biển ấy. Chờ một chút, anh phải giữ chặt ở phía bên này đã... Không biết có được không... nào, dô ta!"

Không biết làm thế để làm gì nhưng Jane vẫn nghe lời ráng hết sức mình đẩy tảng đá, Simon ở bên cạnh cũng vừa hổn hển vừa đẩy mạnh. Một hồi lâu căng thẳng trôi qua mà chẳng thấy gì. Thế rồi khi chúng cảm thấy phổi mình như sắp vỡ tung ra thì tảng đá dường như đang dịch chuyển dưới bàn tay chúng. Tảng đá rung lên nhè nhẹ, rồi cập kênh kèn kẹt, ken két. Chúng loạng choạng lùi lại, tảng đá tròn thô nhám lăn khỏi tay chúng và rơi xuống cái hố sát cạnh. Chúng cảm thấy đám đá nơi chúng đang đứng rung lên khi nó rơi uỵch xuống.

Tảng đá vừa lăn đi để lộ một miệng hố tối om chẳng có hình thù gì và rộng khoảng sáu mươi phân.

Cả ba đứng như trời trồng, miệng há hốc vì kinh ngạc. Rufus chạy qua những tảng đá về phía miệng hố, cúi đầu xuống cẩn thận đánh hơi rồi quay lại, cái đuôi vẫy vẫy và lưỡi thè lè ra ngoài răng như đang cười.

Cuối cùng, Simon bước lên và nhặt mấy hòn đá nhỏ ở miệng hố vứt đi. Nó quỳ xuống bên cạnh miệng hố và nhìn vào bên trong, rồi thò một tay vào xem cái hố sâu bao nhiêu.

Cánh tay nó mất hút đến tận vai, cho đến khi phải nằm hẳn xuống, mà vẫn chẳng sờ thấy gì ngoài lớp đá lởm chởm ở bên thành. Nó chớp mắt nhìn lên Barney và Jane. "Anh không chạm tay tới đáy được," nó nói, giọng nghẹt đi.

Giọng Simon làm Jane và Barney bừng tỉnh và chúng nhận ra từ nãy tới giờ chúng đã nín thở chờ đợi.

"Anh đứng lên đi, nhìn kỹ xem nào."

"Đây chính là chỗ đó rồi, đúng không? Chính là chỗ ông ấy giấu chén Thánh rồi!"

"Theo anh thì nó sâu bao nhiêu?"

"Ôi, tuyệt thật đấy! Rufus già giỏi lắm!"

Rufus vẫy đuôi tít hơn.

"Tảng đá đó," Jane nói và kính cẩn nhìn tảng đá đã lăn xuống đang nằm nghiêng một bên. "Chắc nó đã ở đây chín trăm năm rồi. Tưởng tượng xem... chín trăm năm..."

"Nó cũng không dễ bẩy cho lắm, phải không?" Simon nhè nhẹ co duỗi cánh tay mỏi nhừ. "Nhưng hẳn nó đã được đặt khá cẩn thận, nếu không thì bọn mình đã chẳng thể đẩy nó ra được. Dù sao thì mình cũng phải xem nó sâu bao nhiêu trước khi biết có cái gì trong đó không."

Nó trầm tư nhìn cái miệng hố đen sì giữa tảng đá. Jane thở dài và thôi tưởng tượng về thế giới xa xưa.

"Thả một hòn đá xuống, mình có thể nghe và biết được nó sâu bao nhiêu. Cũng giống như tiếng sấm ấy. Em có biết không, người ta tính xem chớp xuất hiện trước tiếng sấm mấy giây để biết cơn bão còn cách bao xa."

Simon nhặt một viên đá rời ở miệng hố và đưa tay ra giữa khoảng tối. Rồi nó thả tay, viên đá rơi xuống mất hút. Tất cả chăm chú lắng nghe.

Sau một lúc, Jane ngồi nhổm dậy. "Em chẳng nghe thấy gì cả."

"Em cũng thế."

"Thử lại nào."

Simon thả tiếp một hòn đá nữa xuống hố, chúng lại căng tai ra nghe xem nó rơi xuống đáy chưa. Chẳng thấy tiếng gì cả.

"Lần này cũng chẳng thấy gì cả."

"Không thấy thật."

"Chắc là nó không có đáy!"

"Đừng có ngốc như vậy, làm gì có chuyện không có đáy."

"Có thể đầu kia của nó ở tận bên Úc," Barney nói. Nó lo lắng nhìn cái hố.

"Chỉ đơn giản là tiếng hòn đá rơi ở xa quá nên mình không nghe thấy," Simon nói. "Nhưng chắc là nó sâu kinh khủng lắm. Giá mà mình có cái dây thừng ở đây nhỉ."

"Xem trong túi xem," Jane nói. "Túi anh hay có nhiều đồ linh tinh lắm. Túi Barney cũng thế. Lần nào dốc túi ra mẹ cũng bảo thế. Biết đâu anh lại có sợi dây hay cái gì đó."

"Có mày linh tinh thì có," Simon bực mình nói, nhưng nó vẫn lộn túi quần ra đổ các thứ lên trên mặt đá.

Các thứ trong túi nó, mặc dù hay ho, chẳng có tác dụng gì mấy. Simon lôi ra một đống các thứ lỉnh kỉnh gồm một con dao, một chiếc khăn tay đã bẩn nhem nhuốc, một chiếc la bàn mặt kính hơi bị xước, chín xu rưỡi, một mẩu nến, hai cái vé xe buýt nhăn nhúm, bốn cái kẹo bơ cứng gói bằng giấy bóng kính đã méo mó, và một cái bút mực.

"Thôi," nó nói, "dù sao thì mỗi người cũng có một chiếc kẹo để ăn." Nó nghiêm trang chia kẹo cho từng đứa. Kẹo đã hơi bị chảy ở chỗ giấy bóng kính long ra nhưng vẫn rất ngon. Simon đưa chiếc kẹo thứ tư cho Rufus, con chó cố nhăn mặt nhai nhưng rồi đành nuốt chửng cả chiếc.

"Phí của," Barney nói. Nó lộn túi của mình ra, làm cát trong túi văng tung tóe: một viên bi ve màu xanh có ngôi sao màu vàng cam ở giữa; một viên sỏi nhỏ màu trắng, sáu xu và bốn đồng farthing(1), một anh thủy thủ bằng chì đã mất đầu, một chiếc khăn tay sạch sẽ hơn rất nhiều so với khăn của Simon, và một mẩu dây kim loại dày đụp cong hai đầu.

"Em mang một đống các thứ linh tinh đó làm gì vậy?" Jane hỏi.

"Thì ai mà biết được đấy," Barney trả lời đại. "Lỡ có lúc phải dùng đến thì sao. Nào, xem túi của chị đi."

"Chẳng có gì cả," Jane nói với vẻ tự mãn trẻ con và rồi lộn cả hai túi quần bò ra ngoài.

"Em có mang cả cái áo khoác liền mũ nữa cơ mà," Simon nói. Nó đi qua những tảng đá, trèo xuống bãi cỏ của mũi đất, nơi bọn chúng vẫn đang đứng, và mang chiếc áo khoác lại. "Đây, xem nào. Một chiếc khăn tay. Hai cái cặp tóc. Đúng là đồ con gái. Hai cái bút chì. Một hộp diêm. Thế em mang những thứ này để làm gì?"

"Cũng giống Barney thôi - biết đâu chúng sẽ có ích. Có ích hơn mẩu dây kim loại cũ rích kia là cái chắc."

Simon lần thấy một cái gì đó ở trong túi kia. "Tiền này, cả một chiếc cúc áo... Cái gì đây?" Nó lôi ra một cuộn chỉ. "Nào, có cách rồi. Đúng là cái thứ dớ dẩn này chẳng đáng mang theo, nhưng mình có thể dùng nó để đo chiều sâu của cái hố này."

"Em quên mất là có cái đó," Jane nói. "Thôi được, anh thắng rồi, em cũng mang theo đồ linh tinh. Nhưng anh phải công nhận đó là đồ linh tinh có ích đấy chứ." Cô bé cầm lấy cuộn chỉ. "Trên này ghi là chỉ bông dài một trăm yard. Chắc chẳng có hố nào sâu đến thế đâu nhỉ?"

"Với cái hố này thì anh sẽ chẳng ngạc nhiên đâu," Simon đáp. "Buộc cái gì đó vào cuộn chỉ rồi thả nó xuống."

"Cái gì đó nhẹ thôi," Barney trả lời. " Không thì đứt chỉ mất."

Jane giở một đoạn chỉ ra và kéo thử. "Ôi, chị chẳng biết đâu, nhưng có vẻ dai gớm. A, chị biết rồi, đưa cho chị cái mẩu dây kim loại nào."

Barney nghi ngờ nhìn cô chị nhưng rồi vẫn đưa. Jane buộc một đầu cuộn chỉ vào một đầu cong của mẩu dây kim loại. "Thế thôi. Bây giờ mình chỉ việc thả nó xuống và đợi đến khi nó chạm đáy."

"Anh biết cách này hay hơn." Simon cầm cuộn chỉ và đút cái bút chì của Jane vào lỗ ở giữa. Cái bút chì thò ra ở hai đầu. "Đấy, em giữ hai đầu bút chì và chỉ sẽ tự tở ra do sức nặng ở bên dưới. Như là nhử cá ấy."

"Để em làm cho." Jane quỳ xuống bên cạnh cái hố và thả mẩu dây vào miệng hố tối đen. Cuộn chỉ xoay tròn còn chỉ thì biến mất dần, và tất cả đều nín thở. Rồi đột nhiên cuộn chỉ xoay chậm lại, chậm hơn, rồi dừng hẳn. Nhưng đúng lúc bọn trẻ vừa tưởng là đoạn dây kim loại đã chạm đáy thì chúng nhìn thấy đầu trên của sợi chỉ đứt ra.

"Chán thật," Jane kêu lên thất vọng. "Chỉ đứt rồi," Em nhìn xuống khoảng không tối đen, cố gắng một cách vô vọng để nhìn xem đoạn chỉ rơi ở đâu. Simon cầm lấy cuộn chỉ từ tay em gái và xem xét cẩn thận.

"Dù sao thì mất một nửa cuộn chỉ rồi, vậy mà vẫn chưa chạm đáy. Như thế cái hố này phải sâu đến năm mươi yard ấy chứ. Tức là bốn mươi lăm mét. Ôi mẹ ơi!" Nó vỗ nhẹ vào vai Jane. "Thôi nào, đồ lẩn thẩn, em không nhìn được cái gì ở dưới đó đâu."

Jane lấy tay phát Simon một cái và vẫn cúi người nhìn xuống hố. "Im nào."

Chúng kiên nhẫn chờ cho đến khi Jane ngồi thẳng dậy, mặt đỏ lựng. "Em nghe thấy tiếng sóng biển," em nói, mắt chớp chớp vì chói nắng.

"Tất nhiên là em có thể nghe thấy sóng biển rồi. Anh cũng thế. Biển nằm ngay ngoài bờ mũi đất đấy thôi."

"Không, không. Ý em nói là mình có thể nghe được tiếng sóng biển ở bên dưới cái hố này cơ."

Simon nhìn Jane, vỗ vỗ lên đầu và thở dài.

Nhưng Barney nằm xuống cạnh miệng hố và thò đầu vào bên trong. "Chị ấy nói đúng rồi đấy," nó hào hứng nói và nhìn lên. "Anh đến đây nghe thử xem."

"Hừm," Simon vẫn có vẻ nghi ngờ, nằm xuống cạnh Barney. Rồi nó bắt đầu nghe thấy một tiếng âm âm rất khẽ vang lên từ tít sâu bên dưới. Âm thanh đó cứ nhỏ dần rồi lại to lên, chậm rãi và đều đặn. "Biển ở dưới đó sao?"

"Tất nhiên rồi," Jane nói. "Anh không nhận ra âm thanh trầm và sâu như tiếng cồng đó à? Đó là tiếng sóng biển đập vào một vách hang. Và như thế có nghĩa là... cái hố này xuyên qua vách đá ra tới biển và chắc là có lối vào hang ở phía dưới kia. Đó là nơi người Cornwall ấy đã giấu chén Thánh."

"Nhưng cái hố không thể xuyên sâu xuống như thế được." Simon chậm rãi ngồi dậy, và xoa xoa tai. "Tại sao tiếng đó lại không thế là âm thanh do dao động hay đại loại thế, truyền qua vách đá từ bên dưới kia?"

"Thế em hỏi anh, cái tiếng đó nghe có giống thế không?"

"Không," Simon thừa nhận. "Không phải. Chỉ có điều... làm gì có ai đào được một cái hố hẹp mà lại sâu như thế chứ."

"Có trời mà biết được. Nhưng ông ta đã làm được rồi đấy thôi. Có lẽ cái vỏ sò nhỏ mà em nhặt được đã bị ném lên qua cái hố này đây."

"Vậy nếu chén Thánh ở dưới đó, thì mình phải đến cửa hang, nơi biển đổ vào. Chắc chắn phải có một cái hang. Liệu mình có thể đi vòng từ phía bến cảng không nhỉ?"

"Nghe kìa!" Barney đột nhiên nhổm dậy, đứng thẳng người, đầu nghênh ngênh. "Em nghe thấy tiếng gì đó. Giống tiếng động cơ."

Simon và Jane đứng dậy, lắng nghe tiếng sóng xa xa và tiếng gió. Chúng nghe thấy tiếng kêu của những con mòng biển, tiếng ăng ẳng não nùng khe khẽ vẳng lại từ bên dưới. Và rồi chúng nghe thấy âm thanh mà Barney đã nghe thấy; tiếng động cơ đều đều trầm trầm từ hướng cảng.

Simon thấy cái mũi dài, màu trắng của một chiếc thuyền buồm đang vòng theo Mũi Kemare ra khơi. Nó vội thụp người xuống. "Nằm xuống, nhanh!" nó nói giọng khàn đặc. "Chúng đấy! Du thuyền Phu Nhân Mary!"

Barney và Jane vội vàng sụp xuống cạnh Simon. "Nếu mình cứ nấp đằng sau những tảng đá thì chúng chẳng thấy đâu," Simon thì thào. "Không đứa nào được động đậy cho đến khi chúng đi khuất."

"Ở đây có một cái khe nhỏ," Barney thì thầm. "Em có thể nhìn thấy chúng qua khe đá... Gã Withers đang ở trên boong, cùng với em gái gã. Ông hoa tiêu không ở đó, chắc là đang trong buồng lái... Chúng đang nhìn theo hướng này, nhưng không nhìn lên đây, có vẻ đang nhìn các vách đá... Gã Withers có một cái ống nhòm... giờ gã bỏ ống nhòm xuống và quay sang em gái nói gì đó. Em không nhìn được mặt gã, chúng ở xa quá. Giá mà chúng tới gần hơn."

"Ôi!" Jane nuốt nước bọt, giọng khàn đi vì lo lắng. "Giả sử có cái hang ở bên dưới kia, chén Thánh thì được cất giấu ở đó và chúng tìm thấy nó thì sao nhỉ!"

Ý nghĩ ấy làm chúng đờ cả người, và cả bọn nằm im phăng phắc, ba cái đầu cùng mong cho chiếc thuyền biến đi xa. Tiếng động cơ của Phu Nhân Mary kêu to hơn khi nó lướt qua phần cuối mũi đất ở ngay phía dưới chỗ bọn trẻ nằm.

"Bọn chúng đang làm gì thế?" Simon sốt ruột hỏi.

"Em không nhìn thấy, bị đá chắn mất rồi." Barney thất vọng vặn vẹo người.

Tiếng động cơ của con thuyền rộn cả không gian. Nhưng con thuyền không dừng lại. Trong khi ba đứa nín thở lắng nghe thì nó nhỏ dần, chạy xa ra phía ngoài khơi.

"Bây giờ thì em lại nhìn thấy chúng rồi, có một cái khe khác... Gã vẫn đan 18f9 g nhìn về phía bờ biển bằng ống nhòm. Em không nghĩ là gã thấy gì đâu, trông có vẻ vẫn đang tìm kiếm... bây giờ chúng đã đi qua khúc quanh rồi." Barney lăn người sang bên và ngồi dậy. "Nếu đúng là chúng đang tìm cái hang thì làm sao chúng lại biết để mà tìm nhỉ?"

"Chúng không thể biết được, chúng chưa nhìn thấy tấm bản đồ mà," Jane đau khổ nói. "Chúng không thể nào biết được. Thậm chí dù ông cha xứ có về phe với chúng và chúng biết đường bản đồ mà em vẽ nguệch ngoạc trong cuốn sách thì cũng chẳng đưa lại một đầu mối nào cả. Em không vẽ bất kỳ dấu hiệu đầu mối nào trong đó."

"Nhưng nếu chúng không biết ở đâu thì tại sao chúng lại tìm đến đúng chỗ được nhỉ?"

"Anh nghĩ," Simon nói có vẻ chắc chắn, "đây chỉ là một phần trong lộ trình thường ngày của chúng. Nghĩa là, vì chúng không biết tìm chỗ nào nên chúng tìm tất cả các chỗ. Ông Merry đã nói điều gì đó đại loại như vậy trong ngày đầu tiên chúng ta bàn bạc. Cũng giống như kiểu chúng lục lọi căn nhà ấy - chỉ là hú họa thôi, chẳng theo phương án nào cả. Có lẽ chúng đã nghĩ về một cái hang nào đó, rất mơ hồ thôi, nên chúng sục sạo khắp cả bờ biển để xem ngộ nhỡ có tìm được cái hang nào không. Không chỉ khu vực này đâu, mà suốt cả dải bờ biển. Chúng không thực sự biết có một cái hang như vậy."

"Nhưng mình thì biết là có. Mà nếu có hang, sao chúng lại không nhìn thấy nhỉ?"

"Có khi chúng nhìn thấy rồi đấy," Barney rầu rĩ nói.

"Ồ không, chúng không nhìn thấy đâu. Nếu có thì chúng đã dừng lại rồi. Và chúng cũng sẽ không tiếp tục đi tìm như em đã bảo đâu. Em bảo thế phải không?" Jane nhìn Barney lo lắng.

"À vâng - em thấy gã Withers vẫn nheo mắt nhìn qua cặp kính cho đến tận khi chúng đi khuất mà."

"Đấy, thấy chưa."

"Có thể còn có một khả năng khác," Simon miễn cưỡng nói. Nó dừng lại.

"Cái gì cơ?"

"Mình nghe được tiếng biển. Như vậy miệng hang có thể bị bịt kín. Nó có thể ngầm dưới nước. Chính vì thế chúng mới không nhìn thấy. Anh nhớ đã từng đọc đâu đó rằng ở Cornwall có rất nhiều hang động ngầm dưới nước. Có thể khi người Cornwall đó giấu chén Thánh thì cái hang chưa chìm, nhưng có lẽ sau chín trăm năm đất liền đã bị lún xuống."

"Thế thì tốt rồi," Barney nói. "Chúng sẽ không bao giờ tìm ra được."

Simon nhìn nó và nhướn mày, "Cả bọn mình cũng thế."

Barney trố mắt. "Ơ ơ. Chắc chắn là bọn mình có thể tìm được chứ. Anh lặn giỏi phết còn gì."

"Không dễ thế đâu. Anh cũng lặn được, nhưng anh không phải là cá."

"Em nghĩ có khi toàn bộ hang đã bị ngập dưới nước rồi," Jane nói chậm rãi. "Và chén Thánh cũng ở dưới nước luôn nên đã bị ăn mòn dần giống như xác tàu đắm."

"Và bám đầy hàu," Simon chêm vào.

"Không thể thế được. Chắc là không phải thế đâu. Ông ấy nói là trên biển khơi thì chắc là nó phải ở trên biển khơi chứ."

"Bọn mình sẽ phải tìm ra thôi. Ông Merry sẽ biết."

Tất cả bỗng sững sờ nhìn nhau.

"Ông Gumerry! Em quên béng mất ông rồi."

"Ông đâu nhỉ?"

"Mình đã ở trên đây lâu lắm rồi. Ông chắc là thức dậy hàng giờ rồi ấy chứ."

"Barney, chính xác là em đã bảo bà Palk nói gì với ông nào?"

"Em bảo bà ấy nói là chúng mình đi dạo với Rufus và ông sẽ biết chúng mình đi đâu. Bà ấy nhìn em hơi là lạ, nhưng rồi bà ấy nói sẽ nhắn lại. Em đã cố gắng làm ra vẻ đùa cợt," Barney đáp, vẻ rất nghiêm trọng.

"Hy vọng không có gì xảy ra với ông cả," Jane lo lắng nói.

"Đừng lo. Anh đoán bây giờ ông vẫn đang ngáy trên giường." Simon nói. Nó nhìn đồng hồ. "Bây giờ đã là mười một giờ rưỡi. Đi xuống thật nhanh trước khi chiếc thuyền buồm quay lại. Lần sau có thể bọn mình sẽ không may mắn thế này đâu - nếu chúng không mở động cơ thì bọn mình sẽ không nghe thấy được. Anh đang nghĩ tại sao vừa rồi chúng lại không chạy bằng buồm nhỉ, gió to lắm mà." Nó cau mày.

"Thôi, nghĩ làm gì," Barney nói. "Mình đi tìm ông Gumerry đi. Vòng trở lại lối đằng sau ấy, thằng nhóc ấy có thể vẫn đang theo dõi ở lối cửa trước."

"Không, mình phải đi lối cửa trước, ông Gumerry có thể đi lối đó. Anh cảm giác là mình không còn nhiều thời gian đâu. Đành phải liều để cho bọn chúng bắt gặp thôi. Đi nào."

Hết chương 9. Mời các bạn đón đọc chương 10!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/35408


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận