David đã đi qua nhiều vùng đất, thường xuyên ngủ trên ổ rơm của các kho thóc, hay dưới tán cây rừng. Anh mệt lử nhưng vẫn tiếp tục đi. Anh đã gặp nhiều nhạc công Do Thái trong các thành phố, làng mạc, chợ búa và các ghetto ở Ba Lan, Nga, Lituanie, Đức và Úc. Mọi người ai cũng muốn chơi nhạc cùng anh, vì tiếng tăm của anh đã đi trước. Và bất cứ nơi nào anh dừng chân, người ta cũng được nghe nói về người nghệ sĩ vĩ cầm xuất sắc David de Polock...
Khi đến khu Do Thái ở Prague, anh được bầu làm nhạc trưởng dàn nhạc Do Thái. Thành viên dàn nhạc chắc chắn sẽ được các nhà quí tộc mời biểu diễn trong các dinh thự và lâu đài của họ. Chính vị bá tước ở Rozmberk, ngài Pierre Vok, đã yêu cầu dàn nhạc của David chơi trong đám cưới của ông. Âm nhạc của họ làm ông vui thích và ông đề nghị dàn nhạc vào phục vụ trong dinh thự của mình.
- Tôi không thể ở lại đây với các bạn được, David nói với các đồng sự.
Họ im lặng, sửng sốt. Trở thành nhạc công trong dinh thự của một lãnh chúa chẳng phải là một vinh dự chưa từng thấy đối với một dàn nhạc Do Thái hay sao? Chưa có một lãnh chúa nào khác từng đề nghị với các nhạc công Do Thái như thế. Bá tước Romzberk yêu nghệ thuật cùng các nghệ sĩ, và ông không quan tâm đến nguồn gốc hay tôn giáo của họ.
- David, anh không thể bỏ chúng tôi, đây là cơ hội mà tất cả chúng tôi hằng mơ ước. Người nhạc công nhiều tuổi nhất cố gắng thuyết phục anh. Pierre Vok thích ngón đàn của anh và rõ ràng là vì có anh ông ta mới mời chúng tôi.
- Élias chơi chẳng kém gì tôi, David nói, quay sang người nghệ sĩ vĩ cầm thứ hai.
- Nhưng cây đàn của tôi không biết làm cho thính giả phải khóc phải cười như anh, Élias phản đối.
- Thế thì càng tốt cho anh, David trả lời kỳ quặc.
Anh không muốn cắt nghĩa cho Élias hiểu rằng từ những hợp âm của cây vĩ cầm của anh vang lên một nỗi phiền muộn, nỗi đau và tiếng than khóc sẽ không bao giờ rời bỏ anh. Nhiều năm đã qua, nhưng, hễ cứ nhắm mắt lại David lại thấy diễn ra những cảnh kinh hoàng của cái năm 1563 ấy, khi quân đội Nga của Ivan khủng khiếp xâm chiếm thành phố Polock, Ba Lan. Tất cả những người Do Thái nhận được lệnh phải cải đạo để trở thành tín đồ chính giáo. Ai không chịu tuân theo đều bị đánh đuổi ra khỏi nhà, xua đến bờ sông Dvina. David trốn trong nhà của giáo sư âm nhạc Yéhuda. Ông đưa cho anh cây vĩ cầm của ông và dẫn anh trốn vào rừng theo cổng sau.
Ông nói:
- Cầm cây vĩ cầm của ta và trốn vào trong rừng. Hãy hứa với ta là anh sẽ chơi đàn...
David chưa kịp trả lời thì lính của Sa hoàng đã dùng vũ lực xông vào nhà. Yéhuda đóng cánh cửa bí mật sau lưng David và đi gặp chúng.
David chạy vào rừng. Từ xa, anh thấy bọn lính ném xuống dòng sông Dvina cuộn sóng đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con. Tất cả đều bị trói tay trói chân. Trong số họ, có cha anh, mẹ anh, em gái nhỏ Déborah, giáo sư Yéhuda...
David trốn trong rừng mấy ngày. Rồi khi đã kiệt sức, đói lả, anh ra khỏi rừng theo một con đường mòn. Đi một lúc, anh đến một ngã tư có con đường lớn hơn chạy qua. Anh theo con đường, nghĩ rằng nó có thể dẫn tới một nơi trú chân nào đó. Có thể anh sẽ kiếm được cái gì đó để ăn bằng cách đánh đổi cây vĩ cầm, tài sản duy nhất của anh.
Lát sau, anh thấy bên lề đường một con tuấn mã đen. Cạnh nó là một ông già lạ lùng. Ông rất to lớn. Từ vành mũ xõa ra mớ tóc bạc dài, chòm râu bạc như tuyết che nửa mặt ông. Ông nhìn thẳng vào David, như thể đang đợi anh. David thấy hoảng, quay đầu định chạy vào rừng. Nhưng ông già gọi anh:
- Đừng sợ, con. Lại đây cùng chia sẻ bữa ăn với ta.
Khi David ăn uống xong, ông già chỉ vào cây vĩ cầm:
- Con phải chơi đàn. Đấng Tối cao đã ban cho con tài năng ấy và thầy Yéhuda của con đã hứa với người sẽ giúp con phát triển nó.
- Nhưng thầy Yéhuda đã bị lính Sa hoàng giết vì không chịu cải đạo. Mẹ con, cha con... và em gái nhỏ Déborah cũng thế.
Kỷ niệm về những người thân làm anh ứa nước mắt. Ông già kiên nhẫn chờ anh thôi khóc.
- Cố gắng chơi đàn con ạ, ông nói âu yếm, chỉ có âm nhạc mới an ủi được con.
David nâng cây vĩ cầm, dạo đàn. Thoạt đầu là một điệu nhạc đơn giản, sau là một điệu phức tạp hơn...
- Con thấy đấy, con có thể làm được mà. Bây giờ, hãy tiếp tục đi dọc theo con đường này. Con sẽ đến một ngôi làng. Đừng nói gì với ai hết, cứ chơi đàn. Những người tốt sẽ hiểu âm nhạc của con nói gì với họ và sẽ giúp con. Cứ chơi đàn, đừng sợ gì cả.
Ông già đứng lên, ra dấu tạm biệt và nói thêm:
- Đấng Tối cao sẽ che chở con.
Rồi ông biến mất như có phép màu.
Từ ngày đó, David dọc ngang khắp nơi và sống nhờ âm nhạc. Thoạt đầu anh chơi bằng chiếc vĩ cầm của thầy Yéhuda, rồi anh dạy vĩ cầm trong vài năm cho bọn trẻ con trong khu ghetto tại Poznan. Khi anh rời thành phố, mọi người tỏ lòng biết ơn bằng cách tặng anh một cây vĩ cầm rất đẹp của Ý, sản xuất tại Crémone, nơi có những thợ làm đàn giỏi nhất.
Càng làm chủ được cây đàn, anh càng được công chúng ngưỡng mộ. Anh nhìn thấy tình yêu trong mắt các cô gái trẻ, niềm ham muốn trong đôi mắt mệt mỏi của những người phụ nữ đã có gia đình, thoáng phiền muộn trong mắt các bà già nhăn nheo, sự hào hứng trong mắt các gã trai, đôi khi cả sự ghen tị trong mắt bọn đàn ông. Nhưng sự ghen tị này nhanh chóng biến thành mối thân hữu ồn ào và dễ chịu, liên kết họ quanh một bàn quán trọ sau một vài chén rượu vang hay vốt-ca.
Một bận, David chơi đàn trong một đám cưới ở Jadow. Thình lình, anh để ý thấy trong đám hội có một cô gái khoảng mười bảy tuổi. Cô cười vui vẻ, chạy nhởn nhơ giữa đám khách mời. David ngừng chơi, chăm chú nhìn, nghi hoặc:
- Déborah?
Cô gái nhỏ ngước cặp mắt sửng sốt nhìn anh:
- Em không phải là Déborah. Tên em là Judith.
- Xin lỗi. Tôi nhầm.
Anh nhận ra rằng mình đã lang thang đây đó suốt bảy năm dài và em gái anh nếu còn sống, đã là thành một thiếu nữ mười bốn tuổi. Trầm ngâm, anh nâng cây đàn.
Không thể chơi những điệu nhạc vui ngày cưới, anh dạo một bản nhạc buồn. Điều đó chẳng khiến các khách mời phiền lòng: Đám hội nào chẳng có ai đó buồn phát khóc.
Lát sau, David kìm nén nỗi buồn. Cây vĩ cầm của anh lại ca hát niềm vui sống mà Tạo hóa đã ban cho các cặp tình nhân, những kẻ được giao bổn phận tiếp tục sự nghiệp sáng tạo của người.
Hôm sau, David chuẩn bị rời Jadow đi Varsovie thì cô bé Judith xuất hiện:
- Bố mẹ em nói anh là người chơi vĩ cầm giỏi nhất mà ông bà từng biết.
Cô ngừng lại một lát, rồi bật thành lời câu hỏi đang cháy bỏng trên môi:
- Déborah là ai, cô gái anh đã nhầm với em ấy?
- Em gái tôi. Em giống nó lắm.
- Cô ấy ở đâu? Anh có yêu cô ấy không?
- Em tôi chết rồi. Tôi yêu nó vô cùng.
Judith suy nghĩ một lát, rồi ngước cặp mắt lớn màu hạt dẻ nhìn David.
- Vậy thì em sẽ thành em gái anh. Em muốn anh cũng yêu em nhiều như thế, em muốn luôn được ở bên cạnh anh, đỡ đần cho anh.
David mỉm cười:
- Anh đã yêu em rồi.
Judith reo lên vui mừng:
- Em sẽ đi báo tin cho cha mẹ em được biết. Cha em bảo: Thật là một vinh hạnh lớn lao cho bậc cha mẹ nào có người con trai tài ba như thế và cũng là điều tuyệt vời cho cô gái nào có người chồng chưa cưới như thế...
Cô bé Judith bỗng đỏ mặt thẹn thùng vì sự bộc tuệch của mình. David cười vui vẻ:
- Vậy thì em có biết anh sẽ làm gì không? Anh nghĩ thay vì trở thành con trai của bố mẹ em, anh trai của em, tốt nhất là anh trở thành chồng chưa cưới của em. Nếu anh là anh trai em, một ngày kia em sẽ lấy chồng, em sẽ ra đi với chồng em, nhưng nếu là vợ tương lai của anh, em sẽ mãi mãi ở bên anh, David nói đùa.
Anh đang đùa và không coi câu chuyện vừa rồi là nghiêm túc.
Judith hào hứng trả lời:
- Nhưng, thế thì anh sẽ trở lại tìm em chứ?
- Chắc chắc là anh sẽ trở lại, David trả lời, vừa nhìn mặt trời.
Mặt trời đã đứng bóng. David phải nhanh lên để đến Varsovie trước khi trời tối.
- Bao giờ? Judith muốn biết chắc.
- Anh không biết.
David hơi sốt ruột. Nhưng thấy cô gái có vẻ thất vọng, anh nói thêm:
- Vậy thì mười năm nữa anh sẽ trở lại tìm em.
- Đồng ý, vậy sẽ là năm 5340, tức năm 1580 theo lịch của những người vô đạo, Judith tính nhanh.
David không trả lời. Anh từ biệt cô, lên ngựa và ra đi. Ai biết trong mười năm, chuyện gì sẽ xảy ra?
Mấy tháng trước, David nhớ lại cuộc gặp gỡ với cô gái và lời hứa của anh. Thấm thoát đã mười năm... Vì lẽ đó anh không muốn ở lại dinh thự của Pierre Vok.
- Khi bá tước biết anh không còn ở trong dàn nhạc của chúng tôi nữa, ông sẽ đuổi chúng tôi đi. Người nhạc công chơi oóc-gan lo lắng nói.
David chợt nảy ra một ý:
- Tôi sẽ xin một cuộc tiếp kiến.
- Với bá tước Romzberk? Anh có biết mình đang nói gì không? Anh tưởng Pierre Vok chịu mất thì giờ với một nhạc công Do Thái hay sao? Tay chơi đại vĩ cầm ngạc nhiên.
- Tại sao không? Nhạc công đàn oóc cãi lại. Hoàng đế Rodolphe II còn cho mời Meisl vào triều và tranh luận với giáo trưởng Lôw, vậy thì tại sao Pierre Vok lại không thể chấp thuận cho David một cuộc tiếp kiến?
- Nhưng David có giàu bằng Meisl hay thông thái bằng giáo trưởng Lôw không? Người thổi sáo hoài nghi.
- Nhưng có thể tài năng của David còn giá trị hơn của cải của Meisl hay sự uyên bác của giáo trưởng Lôw, người gảy đàn luýt tuyên bố.
Thấy người thổi sáo nhăn mặt chế giễu, anh này giải thích:
- Của cải có thể mua được, sự uyên bác có thể đạt được qua sách vở, nhưng thiên tài là do Đấng Tối cao phú cho.
Các thành viên của dàn nhạc im lặng. Họ nhất trí để David xin một cuộc hội kiến.
Quả nhiên, Pierre Vok nhận lời tiếp David lúc rửa mặt buổi sáng. David yêu cầu ông vui lòng tiếp tục ủng hộ dàn nhạc, còn bản thân anh thì buộc lòng phải ra đi, dù điều đó khiến anh rất phiền lòng. Anh có những lý do nghiêm túc.
Những người hầu phục vụ quanh Vok sững sờ ngạc nhiên. Anh chàng nhạc công Do Thái trẻ tuổi đang tự cho phép mình điều gì thế này? Lý do của anh ta có thể quan trọng hơn thiện ý của bá tước chăng?
- Đức ông chắc sẽ hiểu những lý lẽ của tôi, David lễ phép nói tiếp, vì đó là những lý lẽ của trái tim.
Anh nhìn bá tước, biết rằng anh đã chạm đúng tâm ý. Là một người yêu mến phụ nữ, lại vừa mới lấy vợ, Pierre Vok hẳn thông cảm với những lý do của David.
- Hãy nói rõ ta nghe về nàng, ông hạ lệnh. Nàng là ai? Nàng có đẹp không?
David bối rối. Im lặng một lát, rồi anh nói:
- Tôi không gặp nàng đã mười năm nay. Vào thời ấy, nàng còn là một bé gái. Thực ra, tôi không biết nàng. Nhưng tôi đã hứa sẽ trở lại tìm nàng và lấy nàng. Tôi phải giữ lời hứa.
- Chà, thật khó tin! Vok phá lên cười.
Ông không tiếc vì đã tiếp người nhạc công vĩ cầm Do Thái. Ông rất đắc ý.
- Nếu nàng trở thành người đàn bà rất xấu xí? Hoặc nếu nàng bị tật nguyền? Ngươi có lấy nàng không?
- Có ạ. Tôi sẽ thực hiện điều đã hứa.
- Có thể nàng đã lấy chồng?
- Nàng không hứa sẽ đợi tôi. Chính tôi đã hứa với nàng sẽ trở lại. Tôi phải trở lại.
- Nếu nàng đã chết thì sao? Pierre Vok lại hỏi.
- Có thể như thế. Nhưng điều đó không xóa đi lời hứa của tôi. Nếu nàng đã chết, tôi sẽ đi tìm mồ của nàng, sẽ đặt trên đó một hòn đá nhỏ để ở thế giới bên kia, nàng biết rằng tôi đã giữ lời hứa.
Pierre Vok không cười nữa. Ông đẩy người thợ cạo đang lau sạch bọt xà phòng còn sót lại ra.
- Giữ lời hứa triệt để như thế, là bổn phận của vua chúa và quí tộc, không phải sao? Ông ngạc nhiên, hỏi.
- Đó là bổn phận của mỗi người, thưa Đức ông, bất kể nguồn gốc và tôn giáo của họ. Người ta luôn dạy tôi phải giữ lời hứa. Thà là đừng hứa còn hơn hứa mà không giữ lời.
- Được! Hãy đi Ba Lan. Ta sẽ cho ngươi một con ngựa tốt. Nhưng phải hứa với ta, ngươi sẽ trở lại và ở lại chơi nhạc trong dinh thự của ta.
- Xin cảm tạ Đức ông, David cúi mình. Tôi sẽ cố trở lại. Nhưng tôi không thể hứa điều đó.
David lên ngựa, đi rất lâu. Anh thấy phía chân trời một dải rừng bạch dương và biết rằng anh không còn xa đích đến của mình bao nhiêu nữa. Jadow chắc hẳn chỉ ở sau dải rừng này.
Thình lình, anh nghe phía sau mình có tiếng vó ngựa phi. Anh ghìm ngựa chậm lại, tránh sang bên phải, nhường đường cho các kỵ sĩ. Nhưng anh thấy họ cũng đi chậm lại.
- Đứng lại! Một người trong bọn hô.
- Xuống ngựa! Không được quay lại, nếu không thì liệu hồn! Một giọng nói khàn khàn, thô bạo đế thêm.
David ôm chặt cây vĩ cầm vào ngực và xuống ngựa.
- Mày có cái gì đấy? Đưa cái mày giấu trước ngực đây!
Tiếng roi ngựa dài thõng rít trong không khí. David nhảy sang bên, tay vẫn ôm ghì cây vĩ cầm. Đầu ngọn roi quất vào chân anh. Anh cảm thấy đau buốt và ngã lăn ra đất, trong khi vẫn cố che chắn cho cây đàn mỏng manh.
Ba kẻ kia sáp lại.
- Mày giấu cái gì? Một tên cướp cúi xuống David.
- Chỉ có một cây vĩ cầm, David vội trả lời. Nó chẳng có giá trị gì với các ông.
- Đưa tao xem...
Tên cướp thứ hai vươn tay về phía cây đàn.
- Khoan đã, tên thứ ba nói. Ta nên lấy con ngựa. Lát sau, David nghe tiếng vó ngựa xa dần. Anh cố đứng lên nhưng cơn đau rát bỏng khiến anh bất tỉnh. Tỉnh dậy, anh lết đến một cái cây, cố ngồi tựa vào thân cây.
Anh quyết định nghỉ lại sức trước khi đi tiếp đến Jadow. Anh nâng vĩ cầm lên chơi. Âm nhạc làm anh dịu cơn đau. Những âm thanh trong rừng im bặt, như thể chim chóc và thú rừng cũng đang lắng nghe giai điệu tuyệt vời, chất chứa đầy đam mê và nỗi nhớ quê hương.
Bản hôn thú đã được ký. Nathan, con trai người láng giềng, đã đứng trước mặt vị giáo trưởng. Đám phụ nữ vuốt lại áo cưới của Judith, chỉnh lại khăn voan và đứng dàn ra hai bên cô dâu trẻ. Judith ngoái ra cửa lần cuối. Dường như nàng hy vọng, phút cuối cùng David sẽ xuất hiện với cây vĩ cầm bọc trong vải trắng. Anh sẽ đặt nó lên trên mặt tủ, rồi xin lỗi với phong cách quyến rũ không thể bắt trước được của anh, như mười năm trước...
Đã từ lâu nay, Judith cố cưỡng lại áp lực của các bà mối và bố mẹ, họ hàng.
- Con không nên xem làm trọng lời hứa của một nhạc công lang thang!
- Giữ lời hứa là thiêng liêng, Judith phản bác lại.
- Điều đó còn tùy thuộc từng người, con trai người láng giềng nói.
Anh ta tin chắc rằng một nhạc công lang thang không có cơ may phá hỏng cuộc hôn nhân của mình với Judith: Anh ta là chàng trai giàu nhất Jadow! Vậy mà anh ta đã phải chờ đợi không ít. Tại sao cha của Judith không chấm dứt những thói thất thường của con gái nhỉ? Ông này quả thật không muốn bắt ép con gái, dù hàng ngày vẫn cố thuyết phục cô:
- Judith, con gái của ta, anh chàng David đó có hứa với con sẽ nói chuyện với bà mối không?
- Không ạ, nhưng anh ấy có hứa là sẽ trở lại.
- Vậy thì con còn chờ gì? Tại sao con không lấy chồng đi? Cha không nghĩ rằng chàng thanh niên chơi vĩ cầm xuất sắc đó không giữ lời hứa. Nhưng con sẽ đón anh ta như một phụ nữ có chồng có hơn không?
- Anh ấy đã hứa sẽ lấy con, Judith rụt rè trả lời.
- Anh ta có nói rõ ràng: "Anh sẽ kết hôn với em" không? Người cha nhấn mạnh.
- Không ạ, anh ấy chỉ nói anh sẽ trở lại...
- Còn con, con có hứa sẽ lấy người ta không?
- Không ạ, con chẳng hứa gì cả.
Cuộc nói chuyện đó lặp đi lặp lại hàng ngày. Kỷ niệm năm thứ mười cuộc gặp gỡ giữa Judith và David đã đến gần. Nhưng chàng nhạc công vĩ cầm chẳng thấy đâu. Cũng chẳng có thư từ gì của anh. Judith nghe nói anh đã biểu diễn ở Vienne, rồi ở Prague, nơi anh đã có dàn nhạc của mình và biểu diễn tại dinh thự của các gia đình quí tộc...
- Con tưởng anh ta sẽ từ bỏ các dinh thự lộng lẫy vì lời hứa xưa cũ với một đứa con gái nhỏ sao? Gia đình cô chế nhạo.
Nhưng Judith tin rằng David sẽ giữ lời hứa. Cô nghĩ: "Anh không phải loại người ngày nào cũng nuốt lời hứa. Anh không phải một ông vua, cũng chẳng phải một viên quan, hay một lái buôn. Anh là một nghệ sĩ. Tài năng của anh là do Đấng Tối cao ban tặng. Vì thế anh sẽ không bao giờ vi phạm luật của người."
Judith chờ đợi. Nhưng David không trở lại. "Có lẽ anh đã chết," cô tự nhủ. Cuối cùng, cô đành bằng lòng với cha mẹ, chuẩn bị hôn lễ...
Judith, rực rỡ trong tấm áo cưới, đứng cùng các cô phù dâu, không xa đó là người chồng tương lai của cô, con trai người láng giềng. Vị giáo trưởng đọc xong về quyền và bổn phận của cô dâu, chú rể. Lúc này, Judith phải đi bảy vòng quanh người chồng tương lai, sau đó chú rể sẽ đeo nhẫn vào ngón tay cô dâu. Rồi họ uống rượu vang trong cùng một cái ly. Tiếp đó chú rể sẽ ném cái ly xuống đất, tưởng nhớ Giáo đường bị tàn phá. Đến đó thì Judith sẽ thành vợ của chàng trai to lớn và kiêu ngạo kia...
Cô gái đi vòng lần thứ nhất quanh Natan, lần thứ hai, lần thứ ba...
Chợt, cô nghe thấy xa xa một giai điệu vĩ cầm. Cô đã đi hết vòng thứ tư. Tiếng vĩ cầm vang lên trong tim, trong đầu cô: Cô tin chắc chính là David đang chơi đàn. Cô bắt đầu đi vòng thứ năm... còn một bước nữa, bước thứ hai...
Phía trên đầu các khách mời, cô thoáng thấy một chiếc mũ lạ, những sợi tóc bạc dài, một bộ râu rậm. Chưa bao giờ cô thấy ông già cao lớn đó ở Jadow. Cô bước chậm lại, quay nhìn ông. Cô thấy hình như ông ra hiệu bằng tay cho cô.
Thình lình, cô bước sang bên một bước, một bước nữa, rồi cô hít thật sâu và chạy ra cửa.
Các vị khách mời lặng lẽ tránh đường cho cô. Judith chạy trong phố, theo hướng có tiếng đàn. Một lát sau, thêm vào điệu nhạc là tiếng lộp cộp của vó ngựa. Judith ngoái lại. Một con ngựa đen bắt kịp cô. Người kỵ sĩ mặc toàn đồ đen lẫn vào màu của ngựa. Chỉ có mớ tóc dài và bộ râu bạc trắng như tuyết chứng tỏ đó là một con người.
- Lại đây, Judith, ông già nói. Ta sẽ đưa con đi.
Mặc dù tuổi cao, ông nâng bổng cô lên như một chiếc lông đặt trên yên phía trước. Judith có cảm tưởng vó ngựa không chạm đất. Giai điệu của cây vĩ cầm đã vang lên gần bên. Con ngựa dừng lại ở bìa rừng. Ông già giúp Judith xuống ngựa.
- Giờ gần lắm rồi, con hãy tiếp tục đi bộ, ông nói với cô.
- Cụ là ai? Cô gái hỏi.
- Kalonymos ben Kalonymos ben Méir, tức Maestro Calo, ông già trả lời.
Judith suy nghĩ một lát. Nhưng cái tên của nhà thi sĩ thời Trung cổ, ba trăm năm trước từng sống ở Arles, chẳng nói lên điều gì với cô cả. Ông già giục:
- Nhanh lên, con! Hãy đi tìm David. Ta chờ các con ở đây. Ta sẽ đưa các con sang Ý, đến Crémone, nơi Andrea Amati và con trai ông đang làm những cây vĩ cầm tốt nhất thế giới. Vậy là, ta đã làm tròn bổn phận của ta trong thế kỷ này và sẽ lại ngủ một trăm năm nữa trong mồ.
- Nhưng cụ nói gì thế? Bổn phận nào? Nấm mồ nào?
- Với tư cách là thi sĩ và nghệ sĩ, ta có bổn phận giúp đỡ các nghệ sĩ Do Thái mà Đấng Tối cao đã ban cho một tài năng xuất chúng. Nhưng con, con cũng phải làm bổn phận của con. Hãy đến đó ngay đi! Con đã hứa với David là sẽ luôn ở bên anh ấy và nâng đỡ cho anh.
Judith chạy vào rừng. Nàng trông thấy David đang ngồi tựa vào một thân cây.
Nàng bọc cây vĩ cầm của anh lại và âu yếm giúp anh đứng lên.
Người ta kể rằng, trong số hàng nghìn người Do Thái bị đuổi khỏi Crémone theo lệnh của giáo hoàng, có gia đình David de Polock, với 16 đứa con của họ. Tám trong số đó trở thành những nhạc công rất nổi tiếng, tám người khác trở thành những người làm đàn vĩ đại.
Hết truyện 9. Mời các bạn đón đọc truyện 10!