Tài liệu: Đan viện Escorial

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Đan viện thánh St Lawrence vùng Escorial của nhà vua được thi sĩ siêu hình John Donne đề cập trong bài thơ Funeral Elegie của ông sáng tác năm 1611 như một hiện thân của quy mô bao la,
Đan viện Escorial

Nội dung

Đan viện Escorial

Thời điểm: 1563- 84

Địa điểm: Tây bắc Madrid, Tây Ban Nha

            Tôi phải thừa nhận chính tu viện nguy nga này mang vẻ đẹp tuyệt trần mà nhà thờ Seraglia ở Constantinopolitan, cung điện của Vua Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù không phân loại và xét khoảng cách trên mặt đất, chỉ là một ngôi nhà nhỏ bé đối với tu viện mà thôi.

William Lithgow- 1623

Đan viện thánh St Lawrence vùng Escorial của nhà vua được thi sĩ siêu hình John Donne đề cập trong bài thơ Funeral Elegie của ông sáng tác năm 1611 như một hiện thân của quy mô bao la, hiện vẫn còn đủ sức thu hút tạo ấn tượng cho khách tham quan bằng chính độ lớn của mình. Thoạt nhìn, người ta phải kinh ngạc khi dinh thự đồ sộ này đã được hoạch định, tiến hành và hoàn tất trong cả một đời người của người sáng lập, vua Philip II của Tây Ban Nha (k. 1556-98). Chúng ta may mắn sau khi có được mô tả đương đại thật toàn diện về đan viện Escorial, do giáo sĩ uyên thâm Jose Siguenza xuất bản vào năm 1605, người sau này trở thành tu viện trưởng của đan viện.

ü      Toàn cảnh đan viện Escorial nhìn từ phía tây nam: xa xa cách hồ nước vuông là những vòm xây kín tường được thiết kế tương phản với phần tường phía trên nó, bức tường có đến 259 cửa sổ xuyên qua.

ü      Quan tài bằng đá hoa cương của nhà vua đặt trong lăng mộ có vòm tròn bên dưới bàn thờ cao trong nhà thờ  Escorial.

Khái niệm

Dự định ban đầu của Philip II là phải xây dựng một lăng mộ có giá trị tương xứng dành cho thân phụ, hoàng đế Charles V, và dành cho chính ông cùng con cháu. Lăng mộ cần phải đặt trong một đan viện to lớn sao cho các lễ cầu nguyện nối tiếp nhau có thể nguyện cầu cho linh hồn của nhà vua quá cố được siêu thoát. Ý định dành để thờ phụng St Lawrence, một thánh tử đạo người Tây Ban Nha được Philip tôn kính từ thời thơ ấu, dự định như một lời tạ ơn đối với chiến thắng của Tây Ban Nha đối với quân Pháp ở St Quentin năm 1557 vào ngày Lễ thánh Lawrence, mùng 10 tháng 8, nhưng thường câu truyện lặp đi lặp lại cho rằng sơ đồ mặt bằng của đan viện Escorial được lấy cảm hứng từ chiếc giường sắt hình thánh St Lawrence tử đạo chỉ là truyện hoang đường.

            Escorial nhìn từ trên cao qua bản khắc gỗ (1657 theo nguyên bản năm 1587), thể hiện khu phức hợp đa chức năng nhìn từ hướng tây. Phía trên là bản khắc gỗ công trình kiên strúc của Serlio (1537) tạo cảm hứng cho đặc điểm chủ đạo ở mặt tiền

Trước tiên, đan viện Escorial là một lăng mộ cũng là đan viện, nhưng bên trong sơ đồ hình chữ nhật đan viện được thiết kế kết hợp một loạt các chức năng khác. Khoảng 1/4 sơ đồ mặt bằng (cạnh phía đông và đông bắc) dành cho hoàng cung. Thông thường ở tại Madrid, Triều thần thường lui về Escoriai có thời tiết mát mẻ hơn, vì ở độ cao 1125m (3390ft), trong mùa hè, một thông lệ có lẽ dự đoán được khi địa điểm được chọn nằm gần ngôi làng bé xíu El Escoriai hay Escurial dưới chân dãy Sierra de Guadarrama.

Mục đích khác để chọn không gian này là có sẵn cơ sở giáo dục và y tế. Hội đồng Trent (1545-63) đề nghị mỗi cơ sở tôn giáo lớn nên thành lập một trường đại học, dạy học cho thường dân lẫn đào tạo giáo sĩ Cơ Đốc. Những cơ sở này nằm ở phần tây bắc của công trình, trong khi góc tây nam là những căn phòng dành cho du khách, bệnh xá và tịnh dưỡng, cùng với một phòng bào chếch khả năng cung cấp thuốc rất đáng kể.

Thiết kế và thi công

Kiến trúc sư được vua Philip chọn là Juan Bautista Alfunsis de Toledo (k. 1515-67), vì đã có 11 năm làm kiến trúc sư kiêm kỹ sư trong cung phục vụ tổng trấn thành Naples, và trước đó là kiến trúc sư thứ hai sau Micheiangelo tham gia thánh đường St Peter ở Rome. Sơ đồ sau cùng được nhà vua chấp thuận vào năm 1562, xác định phải thi công theo hệ thống  hình học Vitruvius gồm các hình tam giác đều nội tiếp trong một hình tròn. Nghiên cứu chi tiết sơ đồ mặt bằng có vẻ biểu thị việc hình thành nhiều sự phân chia bên trong, Juan Bautista sử dụng một module bằng 1/6 của 100, khoảng 5m (17ft).

Sơ đồ phác họa bao gồm một khối xây hình chữ nhật chính cạnh bắc nam dài 204m (670 ft) nhân với cạnh đông tây dài 160m (530n), với phần nhô ra về hướng đông (các tư thất của nhà vua) và tây nam (hành oang tịnh dưỡng). Bao quanh khối xây và gắn liền với thiết kế là các dải đất bằng tạo bậc làm lối đi hay công viên rộng khoảng 30m (98 ft) (60m hay 196ft ở cạnh có lối vào phía tây). Thiết kế ban đầu của Juan Bautista hình dung 10 tháp quanh chu vi của khối, nhưng con số này giảm còn lại sáu, một tháp đặt ở mỗi góc và hai tháp đặt ở giữa, khi có thay đổi trong thiết kế vào năm 1563 và 1564.

Sơ đồ mặt bằng của Juan Bautista năm 1562 vẫn giữ nguyên không đổi nhưng ông hai lần phải thay đổi cao trình. Lần thứ nhất, vào năm 1563, ngay sau khi khởi công xây dựng, thiết kế nhà thờ phải sửa đổi để đáp ứng đề nghị triệt để của một kiến trúc sư tư vấn người ý, Francesco Paciotto of Urbino. Lần thứ hai vào năm 1564, độ cao của một nửa công trình phía tây phải nâng lên thêm một tầng nữa để tạo ra điều kiện ăn ở bổ sung khi cần khi Philip II nhất trí số giáo sĩ gia tăng từ 50 lên 100.

Số liệu thực tế

Khối  xây chính: 204 x 160m

Dải đất bằng tạo bậc: rộng 30m (60m ở hướng tây)      

Số tháp: 6

Cái chết không phải lúc của Juan Bautista năm 1567 khiến mọi người bàng hoàng. Nhưng nền móng đã làm xong, nhiều vách tường xây dở dang. Kiến trúc sư cũng để lại một mô hình bằng gỗ và đầy đủ bản vẽ đã được nhà vua đồng ý. Juan de Herrera (1530-97) tiếp tục một số công đoạn khác. Ông bà một binh sĩ chính quy, trong thời gian tại ngũ năm 1563 phụ với Juan Bautista trong tư cách nhân viên vẽ sơ đồ thiết kế. Sau khi Juan Bautista mất, Herrera vẫn giữ quyền quản lý phòng thiết kế, do đó có thể có một số ảnh hưởng nhất định trong thi công.

ü      Bản vẽ bằng bút mực cho thấy đan viện Esdorial đang xây dựng năm 1576. Ở phía sau có chữ ký xác nhận của chính Huân tước Burghley, công sứ của nữ hoàng Elizabeth I, ghi rõ “ vua của dòng họ Spayne”. Chỉ có đan viện (trái) và tư thất của vua (cận cảnh) lúc đó đã hoàn tất, còn công trình đang xây dựng là nhà thờ (giữa) nơi có 16 cần cẩu đang hoạt động. Ở sân đồi kế cận có thể nhìn thấy lán trại của nhân công. Agustin Bustamente có lý khi khẳng định bản vẽ này của họa sĩ Hà Lan, Rodrigo de Holanda.

ü      Cung thánh và bàn thờ chính của nhà thờ Escorial nhìn từ chỗ đường giao nhau. Ở  tường nam (cạnh phải) của cung thánh, phía trên là một nhà nguyện nhỏ của hoàng gia nằm giữa các cột Doric cao, là các hình nổi của Pompeo Leoni thành Milan lớn hơn kích thước thật, mạ đồng, hình vua Philip II cùng hoàng gia, đang quỳ gối cầu nguyện trọn đời. Bích họa và trang vẽ panel trên mái vòm cũng là tác phẩm của họa sĩ Ý Zucaro, Pellegrini (Tibaldi) và cambiaso.

Gần đây, người ta công nhận ông đã có công thiết kế lại những chi tiết quan trọng của đan viện Escorial, trong đó có nhà thờ và cầu thang rước lễ rộng rãi trong đan viện, nhưng những ước đoán này mâu thuẫn với phát biểu của chính José de Sigüenza người chắc chắn phải biết những gì đã diễn ra. Ông nói rõ nhà thờ khi xây dựng phải tuân theo thiết kế đã được Francesco Paciotto duyệt lại, trong khi cầu thang là thiết kế của một kiến trúc sư người Ý khác, G. B. Castello xứ Bergamo, qua chứng cứ khác chúng ta biết ông là một nhà thiết kế cầu thang có kinh nghiệm. Thế nhưng, Herrera chắc chắn đã thiết kế lại mái nhà, thật ra và đóng góp thiết kế duy nhất mà chính bản thân ông xác nhận.

Ở các thời điểm khác nhau trong 21 năm thi công, nhiều toán thợ thủ công và lao động được đan viện thuê trực tiếp, theo chế độ khoán, trong khi ở các thời điểm khác, tổ chức đấu thầu cho các công đoạn cụ thể, cách nào cũng có ý kiến đồng tình và chỉ trích.

Tất cả tường bên ngoài đã xây xong, ốp mặt bằng đá cắt - loài đá hoa cương Guadarrama màu xám ở địa phương làm cho công trình hài hòa với bố cục. Vận chuyển đá từ mỏ đến công trường bằng xe bò rất hiệu quả, mỗi xe do một cặp bò đực kéo - tổng cộng cần đến 200 chuyến mới vận chuyển xong, một giáo sĩ cấp cao được phân công chăm sóc y tế cho họ.

Phong cách Escorial, do chính nhà vua quyết định, và phong cách của thời kỳ Phục Hưng trong giai đoạn sau này, kết hợp với nhiều kiến trúc sư ở ý như Giorgio Vasari và Giacamo Barozzi da Vignola. Chúng ta biết rằng Philip đặc biệt thán phục Palazzo Farnese của Vignola ở Piacenza (khởi công 1558). Những người cùng thời như Sigüenza xem phong cách như phong cách Vitruvius và chắc chắn trong công trình có vô số điểm liên quan với nguyên tắc trong giáo trình kiến trúc sư La Mã cổ đại. Sự ganh đua xây dựng theo phong cách cổ điển và tham vọng chính của các nhà tài trợ và kiến trúc sư trong thời kỳ Phục Hưng, đầu năm 1578, đan viện Escorial đang được đề cập octavo milagro hay Kỳ quan thứ tám của thế giới, hơn hẳn bảy kỳ quan khác.

Mặt tiền bên ngoài của khối xây chính đã bị chỉ trích vì vẻ xấu xí (estilo desorna-mentado). Nhưng điều này không thừa nhận dự định của kiến trúc sư khi tạo ra sự tương phản giữa tường thông thường và không gian kế cận - vườn treo có trồng cây ăn quá và công viên bên dưới, nằm ở hướng nam và đông, và ở hướng tây và bắc, các dải đất bằng tạo bậc bằng đá rộng lớn (lonjas) kéo dài sự nối khớp trục áp tường ở mặt tiền thành một chiều thứ ba bằng hoa văn lát nền. Tương tự, cao trình thông thường của sân tương phản và vì thế làm nổi bật nội thất trang trí phong phú của công trình.

Trang trí nội thất

Philip II rất quan tâm đến trang trí hình vẽ và tác phẩm điêu khắc phần nội thất của đan viện Escorial cũng như quan tâm ở phần kiến trúc. Bích họa có các chủ đề bao quát do Luca  Cambiaso và Pelliegrino Pellegrini (Tibaldi) vẽ trong nhà thờ, đan viện và thư viện chính. Rất nhiều chi tiết trên bàn thờ đều đặt hàng ở các họa sĩ ý và Tây Ban Nha, trong đó hình thánh tử đạo St Lawrence của Titian và St Maurice của El Greco, tác phẩm của El Greco bị nhà vua loại bỏ vì không như tác phẩm Nararrete người Tây Ban Nha, chi tiết bàn thờ của El Greco không truyền cảm hứng mộ đạo. Những người kế vị Philip II tiếp tục thông lệ miêu tả bằng trang vẽ của ông đối với đan viện, thể hiện trong các phòng họp của tu sĩ, gồm các tác phẩm của Tintoretto, Rubens và Velázquez.

Mỗi chi tiết thiết kế và trang trí đan viện Escorial đều phải tham khảo ý kiến và chờ quyết định của Philip II. Thậm chí chính ông cũng tham gia bàn bạc nên trồng loại cây nào ở vườn treo trước thời gian sao cho số cây do ông chọn đều phát triển xanh tết khi công trình hoàn tất. Xây dựng là một trong những quan tâm chính của ông ít nhất từ khi ông 14 tuổi lần đầu tiên bắt đầu đọc giáo trình về kiến trúc. Thậm chí người ta mô tả lẽ ra ông phải làm kiến trúc sư mới phải. Trong số các danh hiệu dành cho ông có danh hiệu Vua Jerusalem, vì thế bản thân ông cũng được xem là người kế vị sáu ông vua xây dựng Do Thái, với những pho tượng khổng lồ nhìn xuống sân có lối vào phía trước, được gọi là Patio de los Reyes.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4225-02-633713309311038944/Cung-dien-va-Lau-dai/Dan-vien-Escorial.ht...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận