Tài liệu: Kỷ niên “can chi” là gì?

Tài liệu
Kỷ niên “can chi” là gì?

Nội dung

KỶ NIÊN “CAN CHI” LÀ GÌ?

 

Bạn đã xem qua bộ phim ''Giáp ngọ phong vân'' chưa? Bạn đã đọc các tác phẩm nổi tiếng trong lịch sử như ''Mậu dần biến pháp'' và ''Cách mạng Tân hợi'' chưa?

''Giáp ngọ, Mậu dần, Tân hợi'' đều là tên gọi của các năm, phương pháp ghi nhớ năm như vậy được gọi là kỷ niên ''Can chi''.

Kỷ niệm ''Can chi'' là gì? Về vấn đề này, chúng ta có thể xem xét từ phương pháp kỷ niên hiện đại.

Kỷ niên mà chúng ta đang sử dụng là kỷ niên công nguyên, là phương pháp kỷ niên thông hành nhất hiện nay trên thế giới, nó được tính từ năm chúa GhêSu ra đời. Trung Quốc cổ đại có phương pháp tính kỷ niên. Một loại là kỷ niên tính từ năm của các vương triều phong kiến. Ví dụ niên hiệu của Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) và Trinh Quán, ông trở thành Hoàng đế năm 627, năm đó được gọi là năm Trinh Quán thứ nhất. Huyền Trang đến Tây Trúc thỉnh kinh vào năm 629, năm đó là năm Trinh Quán thứ 3: Niên hiệu của hoàng đế Tư Tông cuối đời Minh (Chu Do Kiểm) là Sùng Trinh, năm mà Sùng Trình tự tử chết là năm Sùng Trinh thứ 16. Phương pháp tính kỷ niên như vậy cần phải rất thuộc các triều đại và niên hiệu của các vương triều phong kiến, khi tính toán rất phiền phức, hơn nữa khi phương pháp kỷ niên không thống nhất, chẳng hạn như thời Tam Quốc, ba nước Ngụy, Thục, Ngô đều có niên hiệu riêng, đưa theo kỷ nguyên nào tốt hơn? Vì vậy, cách  tính kỷ niên này không thuận tiện cho lắm.

Trung Quốc cổ đại còn có một phương pháp tính kỷ niên tương đối khoa học khác, gọi là kỷ niên ''Can chi''. ''Can chi'' chính là tên gọi của các thiên can và địa chi hợp lại, 10 chữ; Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý gọi là ''Thiên can''; 12 chữ Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi gọi là ''Địa chi''. 10 chữ của Thiên Can và 12 chữ của địa chi lần lượt kết hợp với nhau thành 60 tổ, ví dụ ''Giáp tý, Ất sửu, Mậu dần, Đinh mão...'', các tổ này được sử dụng tuần hoàn nhau và gọi là ''lục thập hoa giáp tý''. Dùng phương pháp kỷ niên này, cứ 60 năm lại tuần hoàn một lần, rồi kết hợp niên hiệu vương triều nhất định, năm trước cách năm sau bao nhiêu sẽ dễ tính và rõ ràng hơn. Ví dụ: Cuộc vận động Duy Tân năm 1898 gọi là biến pháp Mậu Tuất; Năm 1911, Tôn Trung Sơn lãnh đạo cuộc cách mạng chủ nghĩa dân chủ, thường gọi là cách mạng Tân Hợi; Năm 1894, trận hải chiến của các thủy thủ biển Bắc phong Nhật Bản xâm lược gọi là Trận hải chiến giáp Ngọ.

Năm 1961 là năm Tân Sửu, năm 1971 là năm Tân Hợi, năm 1981 là năm Tân Dậu... Từ các hàng của chúng có thể biết được rằng, khi tất cả các chữ đầu biểu thị ''thiên can'' giống nhau thì chắc chắn là một bội số nguyên cách nhau 10 năm, còn khi các chữ sau biểu thị ''địa chi'' giống nhau, ví dụ như Giáp tý và Bính tý thì chắc chắn là bội số nguyên cách nhau 12 năm. Bởi vì ước số chung nhỏ nhất của 10 và 12 là 60, cho nên năm mà 2 chữ thiên can, địa chi hoàn toàn giống nhau chắc chắn là bội số nguyên của 60 năm. Phương pháp tính năm này tuy vẫn không triệt để và thuận tiện bằng cách tính năm công nguyên, nhưng do được sử dụng nhiều trong lịch sử Trung Quốc nên chúng ta phải hiểu.

Các con giáp trong tập tục của Trung Quốc cũng được tính toán từ địa chi. Quan hệ tương ứng của chúng là: Tí - chuột, Hợi - lợn; Tuất - chó, Dậu - gà, Thân - khỉ, Mùi - dê, Ngọ - ngựa, Tỵ - rắn, Thìn - rồng, Mão - thỏ; Dần - hổ, Sửu - trâu. Cho nên trong tập quán sinh hoạt thực tế, kỷ niên ''can chi'' cũng có lợi ích riêng của nó.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/38-26-633359182272031250/Vu-tru/Ky-nien-can-chi-la-gi.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận