Tài liệu: Nước Anh - Thời kỳ từ 410 đến 1066

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Sau khi người La Mã ra đi vào năm 410 sau Công nguyên, việc phá bỏ các luật lệ và nền văn minh La Mã đã được tiến hành khá nhanh chóng. Để đối phó với những cuộc tấn
Nước Anh - Thời kỳ từ 410 đến 1066

Nội dung

THỜI KỲ TỪ 410 ĐẾN l066

            Sau khi người La Mã ra đi vào năm 410 sau Công nguyên, việc phá bỏ các luật lệ và nền văn minh La Mã đã được tiến hành khá nhanh chóng. Để đối phó với những cuộc tấn công của bọn cướp biển đến từ vùng lục địa, những thị trấn của người Viking, người Pict và người Scot phải đem lính đánh thuê từ châu Âu đến. Những lính đánh thuê này là người Angle và người Saxon đến từ miền Bắc nước Đức. Sự trao đổi là ở chỗ những người lính đánh thuê mang theo gia đình của họ, và được trả công bằng quyền canh tác đất đai ở đây. Cuối cùng những lính đánh thuê người Anglo Saxon nhận ra rằng họ còn mạnh thế hơn cả những người thuê mướn họ, và đã chiếm quyền quản lý những khu vực này.

            Những người xâm lược Anglo Saxon không được tổ chức một cách tập trung như người La Mã trước đó. Họ đã dần dần xâm chiếm về phía Bắc và phía Tây, đẩy những người Xentơ bản xứ đến mép của địa phận Anh Quốc. Nước Anh La Mã đã được thay thế bởi nước Anh Anglo Saxon, với người Xentơ còn lại ở Cornwall, Wales và Scotland. Những khu vực Anglo Saxon cuối cùng đã kết hợp thành các vương quốc, và đến năm 850 sau Công nguyên đất nước đã có ba vương quốc cạnh tranh với nhau. Ba vương quốc Mercia, Northumbria và Wessex không những chỉ cạnh tranh lẫn nhau mà còn phải đối phó với những cuộc tấn công của Viking. Những cuộc xâm nhập của Viking lên đến cao điểm với một đại quân đổ bộ vào East Anglia năm 865 sau Công nguyên. Họ đã chiếm được những vùng lãnh thổ rộng lớn, và đến năm 875 các vương quốc Mercia và Northumbria đã phải chịu thua. Chỉ còn Wessex là vương quốc của người Anglo Saxon.

            Người Vương đã tấn công Wessex năm 878, và vua Saxon và Alfred phải tháo chạy đến vùng đầm lầy Somerset. Tuy nhiên ông ta đã tập hợp lại lực lượng và phản công trở lại. Những nỗ lực của ông và của con ông cũng như của cháu ông đã dần dần đẩy lùi người Viking về phía Bắc và cuối cùng là đến bờ biển. Năm 955, cháu lớn của Alfred và Eadred đã cai quản nước Anh thống nhất. Chính quyền lúc đó đã trở thành tập trung, và nhà vua đã có cơ sở để cai trị toàn bộ đất nước.

            Sau đó lại đến một đợt tấn công khác của Viking. Kết quả là vị vua thuộc dòng máu Anh là Ethelred the Unready đã chứng kiến những cuộc tấn công của người Na Uy trên khắp các bờ biển. Khi Ethelred qua đời vào năm 1016, lãnh tụ của Viking là Cnut đã đứng ra cai trị Anh Quốc. Nhưng đến khi Cnut qua đời thì đất nước lại rơi vào sự tranh giành của các bá tước, dưới sự cai trị của một vị vua yếu đuối là Edward the Confessor.

            Vị bá tước mạnh nhất và Harold, bá tước vùng East Anglia. Qua hàng loạt cuộc chiến và những cuộc hôn nhân khác chủng tộc, Harold đã kiểm soát được Wessex và đã có một địa vị cường thịnh. Do đó khi Edward the Confessor qua đời năm 1066 mà không có con trai nối ngôi, Harold đã lên ngôi. Việc đăng quang của Harold đã bị tranh chấp bởi William, công tước vùng Normandy. Nhưng việc đòi ngai vàng nước Anh của William lại còn hời hợt hơn cả Harold nữa.

            Trong thời kỳ này của lịch sử nước Anh, có hai ảnh hưởng lớn đối với đời sống người  dân, ở hai thái cực khác nhau. Một và việc du nhập đạo Cơ đốc vào nước Anh, do các tu sĩ người Ireland đưa vào các vùng như Lindesfarne năm 635, hay vùng Iona ở Scotland năm 563. Vào khoảng năm 850 nhà thờ đã tổ chức toàn bộ đất nước thành từng giáo khu, mỗi giáo khu có một giám mục đứng đầu. Ảnh hường thứ hai là cuộc tấn công của Viking. Và chính cuộc tấn công này đã làm chuyện ngược ngạo là để cho William chinh phục nước Anh.

            Khi Edward the Confessor qua đời, người Viking đã tìm thấy một cơ hội để đặt chân trở lại lên nước Anh, và đã đặt quân đội của họ tại Yorkshire năm 1066. Harold đã tiến về phía Bắc để đối phó với người Viking dưới sự lãnh đạo của Harald người Na Uy. Ông đã đánh bại người Na Uy ở gần York, nhưng trong khi ăn mừng chiến thắng thì ông được biết Wi11iam của Normandy đã đổ bộ lên miền Nam nước Anh.

            Trong vòng 13 ngày Harold đã đưa quần di chuyển 240 dặm từ Yorkshire đến Sussex, nơi người Norman đang đóng trại ở gần Hastings. Kế đó, người Norman đã thắng trong trận Hastings vì họ còn khỏe khoắn và có những cung thủ và kỵ binh giỏi hơn. Harold đã chết với một mũi tên xuyên qua mắt. Sau đó William đã lên ngôi với danh hiệu William I ở Luân Đôn vào ngày Giáng sinh năm 1066.

NHỮNG VỊ VUA NORMAN CỦNG CỐ QUYỀN LỰC Ở NƯỚC ANH

            Tháp Luân Đôn đã được xây dựng với mục đích phô trương về những người dân Luân Đôn. William còn tiếp tục cho xây dựng hàng loạt những lâu đài trên khắp nước Anh. Sự độc đáo của cuộc chinh phục của người Norman trong lịch sử Anh là không những có sự thay đổi của người cầm quyền mà cả giai cấp thống trị cũng thay đổi, cùng với sự xuất hiện của một ngôn ngữ mới. Giai cấp quý tộc người Anh bị mất đất đai, và những chủ nhân mới đã xây dựng những lâu đài, như lâu đài Warwick và lâu đài Windsor, mà ngày nay vẫn còn tồn tại Đến khi William qua đời vào năm 1087 đã có khoảng 100 lâu đài lớn được xây dựng.

            Một di sản lớn khác của William là cuốn Sổ Điền thổ. Willi1am muốn biết được những giá trị hiện hữu và giá trị trong tương lai của vương quốc mới của ông ta. Những người khảo sát đã được cử đi khắp đất nước và những gì họ ghi nhận được đã thể hiện trạng cuốn Sổ Điền thổ đồ sộ, trong đó ghi lại đất đai của từng chủ đất một.

            Những vị vua Norman kế tiếp là William II, Stephen, Henry I và Henry II không có gì đáng nói, nhưng họ có ảnh hưởng đến hậu thế cho đến khi Henry II lên ngôi vào năm 1154. Henry II đã mở rộng đế quốc của mình. Nước Anh lúc đó là một thế lực ở lục địa châu Âu, và đã chiếm giữ một phần của nước Pháp trong suốt 500 năm, cho đến khi Calais bị mất và năm 1558. Henry II đã nổi tiếng với việc ra lệnh ám sát đức tổng giám mục vùng Cantabury, Thomas Becket, tại nhà thờ chính tòa Cantabury.

CHIẾN TRANH Ở PHÁP, CÁCH MẠNG VÀ NỘI CHIẾN Ở ANH

            Sau triều đại của Henry II, nước Anh bắt đầu bị vướng vào nhiều vấn đề. Vua John đã bị các nam tước đánh bại, và chỉ giữ được ngai vàng của mình bằng cách ký Đại Hiến chương Nước Anh, trong đó xác định rằng nhà vua không đứng trên pháp luật, rằng ông ta chịu sự cai trị bởi ý chí của nhân dân, và rằng nếu ông ta vi phạm những điều giao ước thì nhân dân có quyền lật đổ ngai vàng. Tất cả những tình tiết đó cuối cùng đã đẫn đến một cuộc nội chiến.

            Trong khi đó những cuộc chiến tranh trong lục địa vẫn tiếp tục làm cho nước Anh phải chi phí những món tiền ngoài khả năng của mình. Chẳng bao lâu Anh Quốc đã mất tất cả những phần đất sở hữu ở nước Pháp, ngoài vùng Gascony (Bordeaux). Những cuộc đánh phá của Edward II vào châu Âu cũng chẳng giúp ông ta chinh phục lại được mảnh đất nào.

            Trong thời gian từ 1370 đến 1413 các vị vua bị hạ bệ và nông dân đã nổi dậy. Viện Hoàng gia Lanaster nắm giữ ngai vàng. Sau đó đến triều đại của Henry V (1413-1422) cũng rất ngắn ngủi. Henry V đã có được chiến thắng ở Agincourt, nhưng rồi vùng đất có được do chiến thắng này chẳng bao lâu cũng bị mất. Thậm chí Gascony cũng bị thất thủ. Đến năm 1453 chỉ còn vùng Calais là đất của nước Anh ở châu Âu.

            Hậu quả của việc mất những vùng đất ở Pháp là Viện Hoàng gia Lancaster đã bị tai tiếng. Hàng loạt các cuộc đảo chính và phản đảo chính, cũng như những âm mưa và các cuộc ám sát đã diễn ra. Hàng loạt những ông vua đến và ra đi trong khoảng thời gian giữa trận đánh St. Albans năm 1455 và trận đánh Bosworth năm 1485. Kết quả là sự ra đời của một viện hoàng gia mới - Viện Tudors. Henry VII đã chiếm được ngai vàng qua việc đánh thắng trận Bosworth và nước Anh đã bước vào một thời kỳ lịch sử mới.

DÒNG VUA TUDORS

            Henry VIII, lên ngôi năm 1509, là người đã để lại dấu ấn trong lịch sử. Sáu cuộc hôn nhân của ông để tìm một người con trai nối dõi đã để lại cho ông hai người con gái (May và Elizabeth) và một người con trai là Edward (bị chết cúc còn trẻ). Nhu cầu ly dị của ông đã bị giáo hoàng từ chối. Henry đã phản ứng lại bằng cách giải tán nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã và thành lập nhà thờ Anh Quốc. Nhà thờ Anh Quốc với Henry đứng đầu đã có thể giúp cho ông ta ly dị vợ. Cái vòng lẩn quẩn cứ diễn ra cho từng người trong số sáu bà vợ của Henry: ly dị, chém đầu, chết, 1y dị, chém đầu, sống sót.

            Henry là một bạo chúa. Hoàn toàn nhẫn tâm, ông ta không để cho ai cản trở công việc của mình. Cardinal Wolsey bị đi đày, Thomas Cromwell và Thomas More bị xừ từ.

            Một cái lợi nữa cho Henry khi tách rời với La Mã là ông ta nắm quyền kiểm soát các tu viện. Những tòa nhà và đất đai của các tu viện đã bị đem bán khi tu viện bị giải thể năm 1538. Nhiều tòa nhà đã bị suy sụp, và người ta đã vĩnh viễn mất hết ruộng đất:

            Con gái lớn của Henry, Mary là một người Thiên chúa giáo. Tính chiến đấu của nữ hoàng Mary cho Thiên chúa giáo đã làm cho bà ta trở thành một nữ hoàng bị oán ghét nhất trong lịch sử nước Anh. Những phương tiện mà bà ta dùng để theo đuổi mục đích của mình đã làm cho người ta đặt cho bà cái biệt hiệu là “Mary máu”. Đã có 283 người Tin lành tủ vì đạo đã bị thiêu trên cọc trong triều đại của bà.

            Cuộc hôn nhân không có tình yêu với vua Tây Ban Nha đã không giúp cho Mary có được người con nào cả. Do đó khi Mary qua đời, người em gái cùng cha khác mẹ của bà là Elizabeth đã lên nối ngôi.

            Triều đại của Elizabeth đã mang đến một trong những kỷ nguyên rực rỡ nhất trong lịch sử Anh Quốc. Nước Anh đã có những cuộc thám hiểm, những sự định cư, những chiến thắng trong chiến tranh và tăng thêm tầm quan trọng về mặt quốc tế. Nghệ thuật vào thời đó rất hưng thịnh, chính là thời kỳ của Shakespeare và Bacon.

            Nhưng rời cũng giang như người chị của bà, những tình tiết bất lợi cho nữ hoàng ngày càng gia tăng Mary, nữ hoàng xứ Scot cuối cùng đã bị xừ tử vào năm 1587; bá tước vùng Essex, trước đó rất được sủng ái, đã bị xử tử vì cầm đầu cuộc nổi dậy năm 1601. Và cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và chiến tranh ở Ireland rất tốn kém. Lúc qua đời bà ta đã mắc nợ 400.000 bảng Anh.

            Chuyến du hành vòng quanh thế giới của Drake bắt đầu năm 1577 và kéo dài trong 3 năm. Mặc dù đã không tìm ra đất Australia hay dải đất phía Tây Bắc, ông ta đã mang về rất nhiều của cải cướp được của người Tây Ban Nha ở Thái Bình Dương và rất nhiều mặt hàng gia vị. Drake đã là người Anh đầu tiên đi vòng quanh thế giới.

            Cuối cùng nước Anh đã bước vào cuộc chiến tranh toàn lực với Tây Ban Nha. Philip của Tây Ban Nha đã tập hợp một hạm đội lớn chưa từng thấy trên thế giới, và năm 1588 hạm đội này đã nhổ neo để đến xâm lược nước Anh. Hạm đội nhỏ hơn của Anh đã quấy phá hạm đội của Tây Ban Nha suốt trên tuyến đường đến biển Măng-sơ. Nhưng rồi hạm đội của Tây Ban Nha đã thả neo tại Calais. Người Anh đã đưa tàu hỏa công với đầy thuốc súng để tấn công hạm đội này.

            Sự tấn công này đã buộc người Tây Ban Nha phải nhổ neo và phân tán các tàu. Lực lượng của hạm đội Tây Ban Nha quá chặt chẽ nên người Anh không thể tiêu diệt được. Những tàu Tây Ban Nha đã trở về bầng con đường qua Bắc Scotland và bờ biển Ireland. Đã có 50 chiếc tàu bị phá hủy và 20.000 người chết. Tây Ban Nha đã bị bẽ mặt với thế giới trong trận đánh này.

            Cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha đã làm thâm thủng ngân khố của Anh, và lạm phát đã tăng vọt. Và năm 1601 Elizabeth phải xin tiền của quốc hội. Nhưng quốc hội lại tỏ thái độ thù địch với nữ hoàng vì những đặc quyền đặc lợi mà bà đã dành cho những người được sủng ái. Cuối cùng nữ hoàng phải nhượng bộ một cách hòa nhã, và bà đã đọc bài “Diễn văn Vàng” mà sau đó đã trở thành khuôn mẫu cho mối quan hệ giữa quốc vương với quốc gia, trong đó có những điều ràng buộc ở cả hai phía.

            Mấy tháng sau là tin tức thua trận trong trận chiến kéo dài với những nhóm nổi loạn ở Ireland. Nhưng lúc này sức khỏe của Elizabeth đã suy sụp, và bà ta sắp chết. Việc chọn người kế vị không phải là chuyện dễ, bởi vì bà là con út của Henry VIII, và các anh chị của bà không ai có con cả.

            Elizabeth đã hoãn việc chọn quốc vương cho đất nước cho đến khi bà nằm trên giường bệnh chờ chết. Cuối cùng người kế vị là James Stuart, vua Scotland, và là con của nữ hoàng Mary của Scot, người đã bị Elizabeth xử tử vì tội phản bội.

VUA JAMES I VÀ CHARLES I

            James Stuart là một người Scotland Thiên chúa giáo, tin vào “quyền lực thần thành” để từ đó cai trị theo ý thích của mình. Điều này đã đưa ông ta tới chỗ xung đột với quốc hội Anh. Âm mưu không thành trong việc dùng thuốc súng để làm nổ tòa nhà quốc hội của ông đã dẫn đến những cuộc nổi loạn chống lại Thiên chúa giáo. Sự thất bại của cả James và con ông là Charles l trong việc hiểu biết về truyền thống tự do của quốc hội Anh cuối cùng đã dẫn đến cuộc nội chiến.

            James qua đời năm 1625 không một ai thương tiếc. Charles I kế vị lập tức rơi vào xung đột với quốc hội. Ông ta đã cố gắng cai trị mà không triệu tập quốc hội trong suốt 11 năm. Nhưng rồi cuối cùng ông hết tiền và phải triệu tập quốc hội vào năm l640.

            Quốc hội tất nhiên là đã phẫn nộ vì việc Charles không đoái hoài gì tới cơ quan này. Họ đã từ chối không cấp tiền cho ông ta, và đất nước đã chia thành hai phe, một phe ủng hộ nhà vua, và một he ủng hộ quốc hội.

            Trận giao chiến chính trong cuộc Nội chiến đã diễn ra tại Edgehill tại Cotswolds vào năm 1642. Sự do dự của phe bảo hoàng và việc thành lập đội quân mới của phe quốc hội đã dẫn tới tình trạng thắng thế của phe quốc hội. Năm 1645 Cromwell đã thắng trận đánh quyết định tại Naseby. Charles bị bắt và bị đưa ra xử vì tội phản quốc năm 1649. Ông ta đã không công nhận tòa án, nhưng bất chấp điều này, ông vẫn bị kết tội. Có 59 người của phe Cộng hòa đã ký vào trát tuyên án tử hình Charles. Sau đó đến thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ, Charles II đã truy tố tất cả những người mà ông phát hiện được.

            Oliver Cromwell và quân đội của ông đã nổi lên như một quyền lực trên đất Anh. Cromwell đã giải tán quốc hội, và lúc này bắt đầu một thời kỳ độc tài duy nhất trong lịch sử Anh Quốc. Cromwell đã không thể tìm ra bất kỳ một chính thể nào để thay thế cho chính thể quân chủ. Khi ông qua đời vào năm 1658 con ông là Richard đã kế vị ông. Nhưng Richald không phải là người để cai trị đất nước Anh, và đến năm 1660 Charles II đã được phục hồi lên ngai vàng mà cha ông đã để lại.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/2067-02-633474797548313750/Lich-su/Thoi-ky-tu-410-den-1066.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận