Kyoto – Khu vườn lớn của Đất nước mặt trời mọc
Với người Nhật Bản, một ngôi nhà truyền thống ngoài kiểu kiến trúc đặc trưng bao giờ cũng phải có một khoảng đất nho nhỏ dành cho cây cối, lối đi, và rạch nước... đó chính là khu vườn trong mỗi gia đình Nhật Bản. Có lẽ cũng vì thói quen mang tính truyền thống đó mà ở Nhật Bản, bất cứ nơi đâu người ta cũng có thể bắt gặp những khu vườn sinh thái. Mục đích của việc tạo nên những khu vườn này là để con người có thể nghỉ ngơi, thư giãn và hoà mình với thiên nhiên, với cỏ cây, hoa lá với những hòn non bộ, những hồ nước trong vắt.
Mỗi khu vườn ở Nhật Bản đều có một đặc trưng riêng tùy thuộc vào điều kiện thiên nhiên từng vùng. Có vườn Chùa – vườn gắn với quần thể kiến trú của một ngôi chùa, vườn Hoàng Gia – vườn được xây dựng theo phong cách của Hoàng Gia, vườn rêu – khu vườn của các loài rêu. Trong rất nhiều những khu vườn như thế, vườn Kyoto là một ví dụ điển hình bởi quy mô và vẻ đẹp hiếm có của nó.
Nhật Bản có hơn 3000 hòn đảo, với diện tích gần 380.000 km2, có hơn 20 khu vườn lớn. Vườn ở Nhật Bản mang nhiều ảnh hưởng của kiểu vườn Trung Quốc, nặng tính tôn giáo và triết lý nhưng được “Nhật hóa'' và nhấn sâu hơn bởi tính tượng trưng và tính Thiền... Kyoto là nơi hội tụ tất cả những yếu tố đó, với 9 khu vườn lớn mang đầy dấu ấn tâm linh. Phải chăng thần đạo Shinto luôn dạy cho người dân nơi đây phải tôn thờ những sản vật của thiên nhiên nên từng hòn sỏi, mỗi cành lá phong đỏ, những gốc cây anh đào, một cánh hạc... nơi đây đều đẹp đến độ linh thiêng.
Nếu khu vườn hoàng gia ở Tokyo, ngôi nhà hiện nay của Nhật Hoàng Akihito được ví như con tàu xanh khổng lồ trôi trên dòng Sakuradabori, Chidorigafuchi, Babasakibori và lôi cuốn du khách bởi thành cao hào sâu và những điều huyền thoại, bí ẩn trong việc bảo vệ canh phòng thì vườn Cung đình, Jonaigu, lâu đài Nijo, vườn chùa Saino, Tenryu, Tofoku, Ryoan, Daiichi và khu vườn Katsura Rikyu ở Kyoto lại bình dị hơn rất nhiều.
Vườn ở Nhật Bản nói chung và vườn ở Kyoto nói riêng khác biệt nhiều so với những khu vườn được bố cục cân xứng theo kiểu chủ nghĩa duy lý của Pháp hay của sự mô phỏng tự nhiên Anh, bởi những đặc trưng đó trong quá trình du nhập vào Nhật Bản đã được ''Nhật hóa'', và nhấn sâu hơn bởi tính tượng trưng và tính Thiền... Hơn nữa còn phải kể tới một yếu tố không kém phần quan trọng khác là Nhật nằm trong sức mạnh lan toả của phương Đông - xứ sở vốn được thế giới coi là huyền bí và sâu sắc.
Vắt ngang qua vườn Daichi là những rặng cây thấp được xén tỉa hình sóng, phía dưới là vườn đá cũng lan tỏa hình sóng, tạo cho ngôi chùa kế bên một vẻ đẹp yêu kiều của một ốc đảo lôi cuốn người thưởng ngoạn và lặng ngắm một sự êm ả của chính tâm hồn mình. Vườn rêu Saino lại ''bỏ bùa'' du khách bởi sắc đậm của màu xanh. Tấm thảm rêu rộng 3 ha được dệt bởi 120 loài rêu các loại từ cách đây 662 năm. Dù chỉ bày đặt vào đây một phiến đá một khóm tre hay bên cạnh một hồ nước lung linh thì người ta cũng cảm nhận thấy cảnh quan đẹp đến nhường nào. Nơi đây dường như cái lớn được ẩn chứa bên trong cái nhỏ. Cái cũ và cái mới mang đầy tính ảo giác và tượng trưng.
Ngay từ thế kỷ XII, XIII nghệ thuật tạo hình Nhật Bản đã có 3 nguyên tắc chính là: Phản ánh chân xác, phản ánh bản tượng trưng, và tượng trưng thuần túy. Những nguyên tắc có thế mạnh ở chỗ nó mang hình thức biểu cảm sâu sắc Vườn Ryoanji lá một ví dụ điển hình của việc thể hiện nguyên tắc phản ánh chân xác. Trong khu vườn có một tác phẩm nghệ thuật trừu tượng được gọi là phong cảnh cạn, với 15 tảng đá được sắp đặt trên một cái khay khổng lồ rộng 218 m2 chứa toàn sỏi trắng. Hình ảnh đó có tác dụng tạo ra những gợn sóng khiến người xem phải phát huy trí tưởng tượng của mình mới hình dung ra nó.
Cũng là việc sử dụng sỏi trắng, cát thô, nhưng những người thợ làm vườn ở khu vườn Tofukoji lại tỉ mẩn tạo dáng cho công trình của mình thành một bàn cờ lớn. Với những ô vuông bằng phẳng, hoặc đôi lúc lại là ô vuông của tập hợp những dòng kẻ với cấu trúc cân đối, nhưng kết quả là nó đã khiến người ta ngay lập tức bị ấn tượng bởi sự lưu chuyển qua những thay đỏi về sắc độ của vườn theo từng thời khắc và ánh sáng trong ngày....
Có thể nói vườn ở Kyoto luôn hòa quyện với nhà, và một đặc trưng của cách tổ chức không gian kiến trúc ở đây là tính liên tục, uyển chuyển, xâm nhập lẫn nhau của các khối trang trí nội thất, giữa nội thất và ngoại thất, giữa nhà và vườn. Từ lâu đài Himeji-jo, nơi thể hiện quyền lực tối cao của các lãnh chúa hồi thế kỷ XVI, một báu vật cổ của Nhật Bản đến những mảnh vườn nhỏ của một gia đình cũng thể hiện rõ đặc trưng này. Lâu nay Nhật Bản vẫn được mệnh danh là đất nước mặt trời mọc, có lẽ hàng ngày mặt trời vẫn mọc bắt đầu từ những khu vườn như thế.
Tháp chùa
Đến thăm xứ sở Hoa anh dào, du khách không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đẹp cổ kính của kia, từ những tháp chùa đồ sộ này, lãnh chúa phong kiến Nhật Bản có thể quan sát được những nguy hiểm đang đến với họ. Hiện nay, nhiều chùa tháp đã bị phá huỷ phần nào do chiến tranh nhưng những bức tường và gỗ ván vẫn còn được lưu giữ khá nguyên vẹn. Du khách có thể trèo lên những bậc thang trên cao để quan sát toàn cảnh đồng quê.
Những tháp chùa cổ nhất nằm ở vùng Inuyama được xây dựng từ năm 1573, toạ lạc trên một vách núi hướng xuống dòng sông Kiso thơ mộng. Những vách đá cheo leo là đường dẫn du khách lên tháp chùa ở Matsue. Từ đây nhìn ra hồ Shinji và vườn Anh đào rục rỡ tạo cho du khách một cảm giác như lọt vào cõi thiên thai.
Ai từng đặt chân khám phá vùng đất này cũng không thể bỏ qua lâu đài Matsumoto bên đường cao tốc Nakasendo nằm giữa Kyoto và Tokyo, nơi còn lại của những tháp chùa đồ sộ với những căn phòng hình bán nguyệt thật quyến rũ. Du khách cũng có thể đến tham quan cuộc sống cổ xưa của giới phong kiến Nhật Bản qua sự tái tạo của một lãnh chúa vùng này. Nếu còn thời gian, có thể ghé thăm bảo tàng Tháp chùa Hikone ở phía Đông bờ sông Biwa.
Nhưng thành tựu vĩ đại nhất của kiến trúc Himeji - một quần thể kiến trúc được hoàn thành năm 1610, có tường bao bọc xung quanh và 4 ngôi tháp cổ 7 tầng, toạ lạc trên vách đá cheo leo. Nó xứng đáng được đánh giá là lâu đài đẹp nhất thế giới.
Chợ cá Phù Tang
Đến thăm Tsukiji - chợ cá lớn nhất thế giới ở Nhật Bản, người ta có thể cảm nhận được phần nào hồn dân tộc của đảo quốc có nền văn hoá ẩm thực kết tinh trong hai chữ ''gạo'' và ''cá'' này.
Khi những quán ban ở quận Ginza, trung tâm thành phố Tokyo vừa đóng cửa, chợ Tsukiji bắt đầu sáng đèn. Mỗi đêm hơn 2.300 tấn hải sản trị giá khoảng 35 triệu USD từ 60 nước trên thế giới đổ về đây, cung cấp 1/3 lượng hải sản cho toàn thị trường Nhật Bản. Không phải ngẫu nhiên mà Tsukiji được Theodore C. Bestor - nhà nhân loại học thuộc Đại học Harvard, người nhiều năm nghiên cứu các chợ cá trên thế giới - gọi là chợ cá trung tâm toàn cầu.
Tsukiji khởi thuỷ chỉ là một chợ cá bên sông Nihonashi từ thế kỷ XVI, chuyên cung cấp lương thực cho kinh thành Edo (nay là Tokyo) và lớn dần theo sự gia tăng dân số của Tokyo. Năm 1923, sau khi 20 chợ lớn nhỏ ở Tokyo bị trận đại động đất Kanto phá huỷ gần như hoàn toàn, các chợ đầu mối trong đó có Tsukiji được xây dựng lại theo luật về chợ đầu mối Nhật Bản ban hành đầu năm đó. Với diện tích trên 220.000 m2 với 1.677 gian hàng, Tsukiji là chợ cá lớn nhất thế giới, hấp dẫn nhiều du khách nước ngoài trong hành trình của họ ở Tokyo.
Tsukiji có truyền thống tổ chức kinh doanh rất chặt chẽ - hải sản phải qua ít nhất 3 lần mua bán trước khi rời khỏi cổng chợ. Chỉ có 7 công ty bán buôn lâu đời (các niyuke) được quyền mua trực tiếp từ các mối hàng về chợ. Niyuke bán đấu giá hải sản cho người bán buôn cấp hai (nakaoroshi), và một số bếp trưởng nhà hàng, các công ty chế biến thực phẩm bên ngoài chợ được cấp giấy phép. Mỗi nakaoroshi đều có một gian hàng nhỏ trong chợ để tiếp tục phân phối hàng. Không khí hối hả khẩn trương của những cuộc mua bán, những dòng xe chuyên dụng chở hải sản đi lại (chưa kể khoảng 17.000 chiếc xe tải ra vào mỗi ngày) hòa lẫn với dòng người nhộn nhịp vào tham quan, mua hàng khiến Tsukiji tựa như một hội chợ đường phố. Du khách đều cố gắng đến tham quan Tsukiji từ sáng sớm để chứng kiến các phiên đấu giá căng thẳng như ở sở giao dịch chứng khoán, giữa ngổn ngang hàng trăm bồn cá các loại, những giỏ tôm cua, mực, bạch tuộc, những đống sò hến...
Ước tính có tới gần 400 loài hải sản tươi, đông lạnh hoặc chế biến có mặt tại Tsukiji, từ những con cá mòi bé xíu tới những con cá ngừ nặng ngót nghét 2 tạ. Chúng đều phải chịu sự kiểm tra chất lượng rất gắt gao: bất kỳ một vết trầy tróc, một vết thâm ngoài da cũng làm giảm giá trị - theo tiêu chuẩn chất lượng “Tsukiji''. Chả thế mà có câu nói ''Người Nhật Bản không đùa với cá''. Người Nhật đang thế chỗ người Pháp để trở thành những người sành ăn nhất thế giới... Hải sản được bày ra toàn bộ trước mắt du khách trên những khoang đá lạnh chứ rất hiếm khi được giữ trong tủ lạnh, tủ kính để khách hàng thoải mái xem, sờ, ngửi, thậm chí nếm trước khi mua.
Khu bán hàng của chợ gần như không có mùi tanh. Mỗi gian hàng chỉ vẻn vẹn 7 m2 trang trí bằng những con búp bê giấy Daruma, cây cào tre dán biểu tượng may mắn hay những bức tượng nhỏ thần Ebisu - thần lộc, Daitoku - thần phù hộ người bán hàng. Toàn chợ Tsukiji còn lập đền Shinto thờ thuỷ thần Suijin-sama, vị thần trông coi chợ, cũng là vị thần trông coi các bếp ăn gia đình giống như các Táo quân của người Việt Nam. Chợ Tsukiji đóng cửa từ sau 1 giờ trưa và các ngày chủ nhật, ngày lễ trong tuần.