TẠI SAO MẠNG LƯỚI MÁY TÍNH LẠI PHÂN THÀNH MẠNG CỤC BỘ,
MẠNG THÀNH PHỐ VÀ MẠNG DIỆN RỘNG?
Căn cứ vào quy mô của mạng và phạm vi của khu vực, có thể chia mạng máy tính thành mạng cục bộ, mạng thành phố và mạng diện rộng. Mạng cục bộ thường chỉ những mạng máy tính cớ quy mô tương đối nhỏ, đường dây thông tin không dài, đường kính phủ sóng thường là vài trăm mét, nhiều nhất là vài nghìn mét. Toàn bộ mạng thông thường được đặt trong một kết cấu vật chất, hoặc trong đại sảnh của một công ty. Mạng thành phố là chỉ mạng máy tính trong phạm vi của một thành phố, còn mạng diện rộng là chỉ mạng máy tính. ở trong một phạm vi rộng hơn, có thể là một quốc gia thậm chí là cả thế giới.
Tuy những từ mạng cục bộ, mạng thành phố và mạng điện rộng chú ý đến phạm vi của khu vực, nhưng con người thường phân biệt chúng ở kỹ thuật tạo lập mạng thông thường thì cho rằng, mạng cục bộ được xây dựng bằng kỹ thuật mạng cục bộ, còn mạng diện rộng được xây dựng bằng kỹ thuật mạng diện rộng. Tất nhiên, mạng thành phố được xây dựng bằng kỹ thuật mạng thành phố, thế nhưng đơn độc đưa ra kỹ thuật mạng thành phố là rất hiếm thấy. Khác biệt chủ yếu của những kỹ thuật này chủ yếu là ở đường dây thông tin cùng với hiệp nghị thông tin được sử dụng.
Trong mạng máy tính trước khi mạng cục bộ xuất hiện, sự liên hệ giữa các máy tính chủ yếu dựa vào đường dây điện thoại do các cơ quan điện thoại cung cấp. Đường dây điện thoại vốn được dùng để truyền tải tín hiệu mô phỏng âm thanh tiếng nói, để có đủ khả năng truyền tải số liệu, cần phải thêm vào hai đầu của đường dây một thiết bị chuyên môn --- bộ điều giải do hạn chế của đường đây và kỹ thuật lúc bấy giờ, tốc độ truyền tải của bộ điều giải tương đối thấp, một thời gian rất dài tốc độ chỉ duy trì trong khoảng 600B - 9600B/s, mấy năm gần đây trên đường dây điện thoại mới đạt tới 33,6KB/s và 56KB/s (1KB = 1000B). Nói một cách khái quát, đặc điểm của mạng diện rộng là cự ly truyền tải dài, tốc độ truyền tải tương đối thấp, kỹ thuật phức tạp, quy mô thiết bị máy tính lớn, giá thành xây dựng mạng lớn...
Sự ra đời và phổ cập của mạng cục bộ, có lợi cho sự xuất hiện của máy vi tính cá nhân (gọi tắt là PC) và tốc độ phát triển của chúng. Lúc bấy giờ, năng lực của máy tính cá nhân rất nhỏ, khi bắt đầu thì không dùng đĩa cứng, mặc dù có đĩa cứng nhưng dung lượng cũng rất nhỏ, như vài M (1M= triệu kí tự), 10M, 20M; bình thường cũng không nối với máy in, chỉ cần sử dụng một hệ điều hành đơn giản như DOS. Nếu có thể có 1 phương pháp đơn giản để nối 1 vài máy tính cá nhân với nhau, khiến mọi người có thể cộng hưởng đầy đủ đĩa và máy in đắt đỏ, thế thì thật là tuyệt? Mạng cục bộ đã thoả mãn được khá tốt nhu cầu đó. Mỗi máy tính cá nhân nối với trung tâm thông tin mạng, sử dụng dây cáp và máy thu phát vô tuyến là đã có thể nối thành 1 mạng lưới máy tính của văn phòng rồi, lắp thêm phần mềm mạng đơn giản là có thể sử dụng được rồi. Do mức sử dụng của dây cáp và khoảng cách chuyển giao ngắn, nên đạt được tốc độ tương đối cao, như Ethernet hồi đầu vận tốc mỗi giây là 10megabit, sau đó đạt được mỗi giây là 100megabit, bây giờ đã đạt được 10 vạn megabit 1 giây. Theo tiêu chuẩn quốc tế, thì có những mạng cục bộ như Ethernet, Token Ring v.v. . . Do Ethernet kĩ thuật đơn giản, lắp đặt tiện lợi, vả lại kĩ thuật mới, nhanh nên hiện nay Ethernet đã trở thành dòng chính, và đã chiếm lĩnh được thị trường. Đặc điểm của mạng cục bộ trái ngược với mạng diện rộng: khoảng cách chuyển giao ngắn, tốc độ chuyển giao cao, kĩ thuật đơn giản, thiết bị máy tính qui mô nhỏ, chi phí xây dựng thấp...
Vài năm gần đây, cùng với sự phát triển chóng mặt của kĩ thuật máy tính, công nghệ thông tin và mạng lưới máy tính, thì tính năng của các thiết bị siêu nhỏ, mạng cục bộ và mạng diện rộng đều dần dần nâng cao. Đặc biệt là sau khi sử dụng cáp quang, tốc độ chuyển phát cũng có thể đạt đến 10 tỉ đến nghìn tỉ bit 1 giây. Mạng lưới của máy tính về sau sẽ là sự liên hợp của mạng cục bộ và mạng diện rộng, sự giới hạn của chúng sẽ ngày càng mơ hồ hơn.