TINH KỲ(TUẦN LỄ) VÀ LỄ BÁI
Tinh kỳ (tuần lễ) có nguồn gốc từ khoa học, lễ bái bắt nguồn từ tôn giáo.
Tinh kỳ là một phương pháp ghi ngày đặc biệt của Dương lịch, nó lấy 7 ngày là một chu kỳ, tuần hoàn lặp đi lặp lại.
Phương pháp ghi ngày tinh kỳ (tuần lễ - từ đây trở xuống sẽ viết là tuần lễ) đã được sử dụng từ trước khi Dương lịch ra đời. Như chúng ta đã biết 7 ngày là một tuần lễ, cũng xấp xỉ như 4 giai đoạn của Mặt trăng, từ trăng non (Sóc) đến trăng lưỡi liềm (Thượng huyền). Rồi lại từ trăng lưỡi liềm đến đầy tháng. Rồi lại từ đầy tháng đến trăng khuyết (Hạ huyền). Và từ trăng khuyết đến lúc không nhìn thấy Mặt trăng. Theo khảo cứu, người Trung Quốc đầu thời kỳ nhà Chu cũng đã từng chia một tháng Sóc, Vọng thành 4 phần, và đặt tên theo thứ tự là: sơ cát, ký sinh bá, ký vọng, ký tự bá. Sơ cát tương đương với thời gian từ mồng 1 đến mồng 8, ký sinh bá tương đương với thời gian từ mồng 9 đến 15, ký bá tương đương với thời gian từ 16 đến 22, ký tử bá tương đương với thời gian từ 23 đến mồng 1.
Nhưng cách ghi này không được lưu truyền về sau.
Những năm cuối Triều Minh, khi Đạo Cơ Đốc được truyền vào Trung Quốc, chế độ tuần lễ cũng được truyền vào theo, cho đến nay vẫn có người cho rằng đây là sản phẩm của phương Tây. Kỳ thực, chế định tuần lễ là sản phẩm của đất nước Do Thái và Babylohe ở phương Đông. Trước năm 2000 Tr.CN, người Babylone đã dùng: Mồng 1, Mồng 7, ngày 14, ngày 28, chia một tháng Sóc, Vọng thành 4 phần, mỗi phần vừa đúng 7 ngày. Cách chia này tuyệt đối không phải ngẫu nhiên, nó có khả năng là hình mẫu đầu liên của chế độ tuần lễ. Sau này, người Babylone đã dùng chế độ tuần lễ 7 ngày và đặt tên lần lượt cho 7 ngày này theo tên của mỗi thiên thể, ví dụ như chủ nhật ứng với Mặt trời, thứ 2 ứng với Mặt trăng, thứ 3 ứng với Sao Hỏa, thứ 4 ứng với Sao Thủy, thứ 5 ứng với Sao Kim, thứ 6 ứng với Sao Mộc, thứ 7 ứng với Sao Thổ. Như vậy, tuần lễ cũng có ý nghĩa là ngày của sao, biết được sao tương ứng của một ngày nào đó, là biết được đó là ngày nào. Cũng có lúc tuần lễ được gọi là diện nhật (tuần lễ, lễ bái, diện nhật còn có nghĩa là thứ (chỉ ngày trong tuần) - Người dịch. Ví dụ: ''Nhật diện nhật có nghĩa là chủ nhật, nguyệt diện nhật nghĩa là ngày thứ 2. Cách ghi này, người Do Thái đã truyền đến Ai Cập, rồi từ Ai Cập sang La Mã. Sau thế kỷ III lại được truyền rộng rãi tới Châu Âu. Cho đến nay, trong ngôn ngữ của một số Quốc gia Châu Âu vẫn còn giữ lại cách gọi tên các ngày trong tuần như đã nêu.
Từ những điều trên ta có thể thấy sự ra đời của chế độ tuần lễ có liên quan mật thiết đến sự thay đổi tròn khuyết của Mặt trăng, còn ''lễ bái" lại là từ mà đạo, Cơ Đốc sử dụng. Họ tin rằng Thượng đế đã sáng tạo ra thế giới trong 7 ngày và 7 ngày Giêsu sống lại, do vậy, quy định ngày thứ 7 cử hành nghi thức tôn giáo yết kiến Thượng đế, gọi là ''lễ bái nhật” (Chủ nhật).
Ngày đầu tiên của “tuần lễ” Dương lịch gọi là chủ nhật, là ngày nghỉ ngơi được công nhận, vì ngày này trùng với ngày ''lễ bái nhật'' của Cơ Đốc giáo. Do vậy có người gọi chủ nhật là lễ bái nhật. Sự thực chúng ta nghỉ ngày chủ nhật và ngày lễ bái nhật Cơ Đốc giáo đi lễ không hề có liên quan đến nhau.
Mặt Trăng | Sao Hỏa | Sao Thủy | Sao Mộc | Sao Kim | Sao Thổ | Mặt Trời |
Thứ 2 | Thứ 3 | Thứ 4 | Thứ 5 | Thứ 6 | Thứ 7 | Chủ Nhật |
Nguyệt diện nhật | Hỏa diện nhật | Thủy diện nhật | Mộc diện nhật | Kim diện nhật | Thổ diện nhật | Nhật diện nhật |
Tên các ngày trong tuần