QUY?T Đ?NH C?A TH? TU?NG CHÍNH PH?QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Về việc phê duyệt Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành
và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Điều 2. Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện các đề án được phân công trong Chương trình.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
CHƯƠNG TRÌNH
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, BAN HÀNH
VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
(Ban hành kèm theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/08/2003
của Thủ tướng Chính phủ)
Phần I
TÍNH CẤP THIẾT CỦA CHƯƠNG TRÌNH
Trên cơ sở tiếp tục đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, đặt cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tới, nhằm mục đích xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy cao độ nội lực, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây chính là một trong những mục tiêu cơ bản, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn tới.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra kế hoạch và biện pháp tổ chức thực hiện việc cải cách tổng thể nền hành chính nhà nước là: xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Trong đó, việc đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một nội dung then chốt.
Thời gian qua, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương đã đáp ứng được một phần quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước; tạo ra một khuôn khổ pháp lý cơ bản để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; từng bước hình thành và phát triển hệ thống quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, pháp luật về thẩm quyền, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ được hoàn thiện một bước. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 mới chỉ dừng lại ở việc xác định những nguyên tắc chung và chỉ quy định về thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và chưa qui định thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương. Đội ngũ chuyên gia thực hiện nhiệm vụ soạn thảo, thẩm định, rà soát văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu; kinh nghiệm, trình độ còn hạn chế; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định còn chưa hợp lý. Mặt khác, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thiếu sự đầu tư thích đáng về thời gian, công sức cũng như kinh phí cho công tác tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; chưa có cơ chế hữu hiệu thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia giỏi, các nhà khoa học và nhân dân vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật; tiến độ xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp, các ngành còn chậm, chất lượng văn bản chưa cao. Tình trạng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chờ nghị định; nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ chờ thông tư đã làm cho các qui phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật nói trên chậm đi vào cuộc sống. Không ít văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương chưa đảm bảo tính hợp pháp, tính khả thi, gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tình trạng dùng thông báo, công văn hành chính có chứa quy phạm pháp luật để điều hành diễn ra còn khá phổ biến ở cả trung ương và địa phương, thậm chí, có không ít trường hợp thông báo, công văn hành chính còn sửa đổi, bổ sung cả văn bản quy phạm pháp luật.
Để khắc phục những yếu kém và bất cập nêu trên, nhằm đưa công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào nề nếp, cần phải có một Chương trình đổi mới toàn diện công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Phần II
MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC CỦA CHƯƠNG TRÌNH
1. Mục tiêu của Chương trình đổi mới toàn diện công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi tắt là Chương trình):
a) Mục tiêu tổng quát:
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ nhằm ban hành kịp thời, đầy đủ và ngày càng nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật.
b) Các mục tiêu cụ thể:
Tạo dựng hệ cơ sở pháp lý đầy đủ, có chất lượng và dễ thi hành về thẩm quyền và thủ tục trong xây dựng, ban hành để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương;
Xác lập có hiệu quả cơ chế về việc tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức và nhân dân vào dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
Tăng cường năng lực các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban hành để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia vào công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; cung cấp đầy đủ thông tin và điều kiện vật chất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật trong điều kiện mới;
Tăng cường nội dung, biện pháp quản lý nhà nước đối với công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra có hiệu quả việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương;
Từng bước hiện đại hoá và áp dụng công nghệ tin học vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Nguyên tắc của Chương trình:
Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo những nguyên tắc sau:
a) Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ và khả thi các chủ trương, chính sách, đường lối lãnh đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế;
b) Phù hợp với các yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; gắn liền với việc kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương;
c) Đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật trên cơ sở phát huy trí tuệ của các nhà khoa học, các nhà quản lý, thu hút sự tham gia của nhân dân lao động vào việc đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
d) Dựa trên kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thể hiện tính kế thừa, liên tục và tính phát triển trong hoạt động xây dựng, ban hành để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới của nước ta hiện nay - giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
Phần III
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH
Để thực hiện được Chương trình này, cần thiết phải xây dựng và chỉ đạo thực hiện các đề án sau:
1. Đề án 1: Đổi mới quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dài hạn và hàng năm.
a) Mục tiêu:
Hình thành một quy trình dân chủ, khoa học, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dài hạn và hàng năm. Trong đó, các chương trình xây dựng luật của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình và chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải gắn kết hữu cơ với nhau nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất về nội dung và phù hợp về hình thức, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.
b) Yêu cầu:
Quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh dài hạn và hàng năm của Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Khắc phục cơ bản những tồn tại, bất cập theo cách làm cũ đã kéo dài trong nhiều năm qua; bảo đảm việc dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dài hạn và hàng năm phản ánh đúng nhu cầu thực tế về xây dựng pháp luật trong từng giai đoạn, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội; chiến lược xây dựng pháp luật và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; xác định rõ thứ tự ưu tiên nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc đặt ra. Đối với chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi là chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ) ngoài các yêu cầu chung, còn cần phải kịp thời cụ thể hoá các quy định của luật, nghị quyết do Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành;
Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan, từng giai đoạn trong quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ, đặc biệt là vai trò của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các tổ chức pháp chế của các Bộ, ngành;
Bảo đảm chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ có tính khả thi cao, tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật; bảo đảm sự hoà đồng giữa pháp luật trong nước với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
c) Nội dung:
Đánh giá, tổng kết thực tiễn hoạt động lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ trong thời gian qua nhằm làm rõ những thành tựu, những yếu kém, bất cập và các nguyên nhân của những yếu kém, bất cập đó; đề xuất phương hướng khắc phục trong thời gian tới.
Đổi mới quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ theo hướng:
Xây dựng cơ chế phát huy một cách rộng rãi các kiến nghị, đề xuất về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức và công dân;
Các kiến nghị, đề xuất xây dựng chương trình xây dựng văn bản qui phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ phải được thể hiện dưới dạng đề án, trong đó phải phân tích rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh; dự báo tác động kinh tế - xã hội; dự kiến nguồn lực bảo đảm cho việc soạn thảo và tổ chức thi hành văn bản đó sau khi được ban hành;
Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ phải bao gồm cả cơ chế, biện pháp bảo đảm thực hiện, ngân sách dành cho hoạt động lập pháp và ngân sách để tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; không đưa vào Chương trình những dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị chưa có đủ điều kiện bảo đảm thực hiện;
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các tổ chức pháp chế các Bộ, ngành trong việc lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ;
Nghiên cứu quy trình xét duyệt kiến nghị, đề xuất xây dựng các dự án luật, pháp lệnh một cách dân chủ, khoa học trên cơ sở ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, các chuyên gia và các nhà khoa học.
d) Dự kiến kết quả:
Báo cáo đánh giá, tổng kết thực tiễn hoạt động lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ;
Xây dựng cơ sở pháp lý về thẩm quyền, thủ tục trong việc lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề án.
đ) Cơ quan thực hiện:
Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp;
Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
e) Thời gian thực hiện: từ quý IV năm 2003 đến quý IV năm 2005.
2. Đề án 2: Hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
a) Mục tiêu:
Cải cách một cách cơ bản quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ nhằm đẩy nhanh tốc độ ban hành, nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tính dân chủ, phát huy rộng rãi trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học, những người trực tiếp tổ chức thi hành pháp luật và nhân dân vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
b) Yêu cầu:
Quy trình phải thể hiện đầy đủ tính khoa học, tính công khai, minh bạch trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
Bảo đảm cho Chính phủ kiểm soát được hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
Bảo đảm tính hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
c) Nội dung:
Đánh giá thực trạng, tổng kết thực tiễn xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (từ khi có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đến nay) nhằm làm rõ mặt được, mặt còn hạn chế cũng như nguyên nhân của những hạn chế đó; đề xuất phương hướng khắc phục trong thời gian tới.
Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế thật sự khoa học nhằm triển khai thực hiện tốt Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002.
Nghiên cứu để tiến tới thực hiện việc cải cách một cách căn bản quy trình soạn thảo, thẩm định, xem xét, thông qua, công bố các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ban hành một đạo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật áp dụng cho các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, mà trọng tâm là:
Xây dựng các tiêu chí nhằm xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
Bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành phải có mức độ điều chỉnh chi tiết, hợp lý, hiệu quả nhằm khắc phục về cơ bản tình trạng phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành;
Xác định rõ vai trò, trách nhiệm và chế tài cụ thể đối với cơ quan, người có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tình trạng chậm trễ, thiếu chủ động trong mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với các cơ quan soạn thảo và trình dự án;
Đề cao vai trò của cơ quan thẩm định và xác định rõ giá trị pháp lý của văn bản thẩm định. Tại cuộc họp của Chính phủ, các thành viên Chính phủ chỉ thảo luận, quyết định về những vấn đề mang tính quan điểm, chính sách và những vấn đề liên ngành mà cơ quan chủ trì xây dựng và cơ quan thẩm định còn có ý kiến khác nhau. Chính phủ tăng thời gian dành cho công tác xây dựng pháp luật, khi cần thiết có thể tổ chức các phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật;
Xác định rõ từng trường hợp cần phải thành lập Ban soạn thảo hoặc Hội đồng thẩm định độc lập. Xây dựng cơ chế thu hút rộng rãi các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học và các chuyên gia giỏi tham gia vào quá trình nghiên cứu, soạn thảo và thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;
Nghiên cứu thực hiện chế độ hợp đồng của Ban soạn thảo đối với các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học trong việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật;
Hình thành cơ chế công bố công khai các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo cơ hội để nhân dân, tổ chức và các doanh nghiệp tham gia đóng góp ý kiến;
Củng cố, tăng cường năng lực của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ nhằm đẩy mạnh công tác kiểm tra của Chính phủ đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành và địa phương;
Thực hiện việc thường xuyên rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật; định hướng công tác rà soát một cách khoa học, kể cả rà soát những quy định của pháp luật đã được ban hành nhưng thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện, trên cơ sở đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền những giải pháp cần thiết;
Hiện đại hóa việc soạn thảo, công bố văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ trên cơ sở ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin theo hướng đầu tư mạnh cho việc xây dựng và phát triển hệ Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.
Xây dựng cơ sở pháp lý, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật nhằm bảo đảm cải cách một cách cơ bản quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
d) Dự kiến kết quả:
Báo cáo đánh giá, tổng kết thực tiễn hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
Đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật áp dụng thống nhất cho các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương để thay thế Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
đ) Cơ quan thực hiện:
Cơ quan chủ trì: Văn phòng Chính phủ;
Cơ quan phối hợp: Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
e) Thời gian thực hiện:
Giai đoạn I: từ quý IV năm 2003 đến quý IV năm 2004;
Giai đoạn II: từ quý I năm 2005 đến quý IV năm 2007.
3. Đề án 3: Xây dựng quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là chính quyền địa phương).
a) Mục tiêu:
Xây dựng quy trình khoa học, dân chủ nhằm đưa công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương vào nề nếp; nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, góp phần bảo đảm tính thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật từ trung ương đến địa phương.
b) Yêu cầu:
Xác định rõ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về mặt nội dung của từng cấp chính quyền địa phương phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước;
Bảo đảm tính kịp thời của việc cụ thể hoá các văn bản quy phạm pháp luật của trung ương; thể chế hoá đầy đủ các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và của các cấp uỷ địa phương;
Bảo đảm tính hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành.
c) Nội dung:
Đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương trong những năm gần đây nhằm làm rõ mặt được, mặt chưa được cũng như nguyên nhân của mặt chưa được, đề xuất phương hướng khắc phục trong thời gian tới.
Nghiên cứu, xây dựng quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, mà trọng tâm là:
Xác định rõ tính đặc thù của văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành. Trên cơ sở đó, làm rõ đặc trưng trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương;
Thực hiện việc phân định rõ ràng giữa quy trình ban hành văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và quy trình ban hành văn bản quy định những vấn đề đặc thù của địa phương;
Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan, người có thẩm quyền trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương; trong đó quy định rõ vai trò thẩm định của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và giá trị pháp lý của văn bản thẩm định;
Xác lập cơ chế thật sự khoa học nhằm lấy ý kiến nhân dân, đặc biệt là ý kiến của những đối tượng có liên quan trực tiếp trong việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương;
Xây dựng Công báo địa phương và quy định kỷ luật gửi văn bản quy phạm pháp luật đăng Công báo địa phương. Thực hiện nguyên tắc tất cả các văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành chỉ có hiệu lực sau khi đăng Công báo địa phương;
Quy định trách nhiệm thường xuyên của các sở, phòng tư pháp địa phương trong việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.
Xây dựng cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm đưa công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương vào nề nếp.
d) Dự kiến kết quả:
Báo cáo đánh giá hoạt động xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai trên thực tế văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành trong những năm qua;
Đề xuất với cơ quan có thẩm quyền xây dựng dự thảo các quy định về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương trong một đạo luật áp dụng cho các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
đ) Cơ quan thực hiện:
Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp;
Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, một số Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
e) Thời gian thực hiện: từ quý IV năm 2003 đến quý IV năm 2005.
4. Đề án 4: Tăng cường năng lực của các cơ quan và công chức trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
a) Mục tiêu:
Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức tham gia trực tiếp vào hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan, công chức tham gia vào hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
b) Nội dung:
Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng về năng lực của các cơ quan và đội ngũ công chức trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương (Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế các Bộ, ngành và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) nhằm làm rõ mặt tích cực, mặt hạn chế cũng như nguyên nhân của mặt hạn chế đó; đề xuất phương hướng khắc phục, mà trọng tâm là:
Đánh giá số lượng, chất lượng công chức tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật;
Đánh giá và phân loại năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ công chức làm công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của từng cơ quan, đơn vị theo tiêu chí cụ thể: làm rõ số công chức đáp ứng được hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc được giao;
Đánh giá về các điều kiện bảo đảm cho công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của từng cơ quan, đơn vị theo tiêu chí cụ thể : thông tin pháp luật và các chính sách liên quan phục vụ cho công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; phân bổ, cấp phát và sử dụng kinh phí cho công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; điều kiện làm việc (bao gồm cả việc ứng dụng công nghệ tin học);
Đánh giá khả năng chuyên môn hoá trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của từng cơ quan, từng công chức.
Xây dựng đề án tăng cường năng lực cho các cơ quan và công chức trực tiếp tham gia vào quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trong đó chú trọng các giải pháp sau đây:
Nâng cao nhận thức, năng lực phân tích chính sách của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
Kiện toàn tổ chức các tổ chức pháp chế Bộ, ngành; các sở, phòng tư pháp địa phương;
Tăng cường các điều kiện bảo đảm cho công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của từng cơ quan, đơn vị; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hoá hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng đủ số lượng công chức có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ làm công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật theo yêu cầu thực tế của từng cơ quan.
Xây dựng quy chế pháp lý chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật.
c) Dự kiến kết quả:
Báo cáo đánh giá về thực trạng trình độ, năng lực của công chức và các điều kiện bảo đảm cho công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của từng cơ quan, đơn vị;
Xây dựng, hoàn chỉnh đề án tăng cường năng lực cho các cơ quan và công chức trực tiếp tham gia vào quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
d) Cơ quan thực hiện:
Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp;
Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và một số Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
đ) Thời gian thực hiện: từ quý IV năm 2003 đến quý IV năm 2005.
5. Đề án 5: Xây dựng cơ chế huy động có hiệu quả sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
a) Mục tiêu:
Hình thành cơ chế huy động có hiệu quả trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
b) Nội dung:
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn việc lấy ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương, đổi mới mô hình lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của nhân dân vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;
Xác định phương thức, hình thức cụ thể, thiết thực nhằm thu hút sự tham gia thực sự của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn vào việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật;
Nghiên cứu, xác định rõ chủ thể có thẩm quyền quyết định trong việc lấy ý kiến nhân dân;
Nghiên cứu, xác định một cách cụ thể về đối tượng lấy ý kiến; điều kiện, thủ tục trong việc tổng hợp, tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân;
Nghiên cứu khả năng phát hành tập san đăng tải các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để nhân dân đóng góp ý kiến;
Nghiên cứu cơ chế Ban soạn thảo ký kết hợp đồng với các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học và các nhóm chuyên gia đầu ngành trong quá trình soạn thảo, phản biện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
c) Dự kiến kết quả:
Báo cáo tổng kết thực tiễn việc phát huy trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật;
Dự thảo Đề án phát huy trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
d) Cơ quan thực hiện:
Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp;
Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam và một số Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
đ) Thời gian thực hiện: từ quý IV năm 2003 đến quý IV năm 2005.
Phần IV
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
1. Phân công thực hiện:
a) Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, các đoàn thể xã hội, Ủy ban nhân dân các địa phương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các đề án đã được phân công trong Chương trình; xây dựng nội dung chi tiết các đề án để triển khai thực hiện; là đầu mối tổ chức phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương có liên quan đến việc triển khai các đề án của Chương trình; tổ chức tiến hành kiểm tra, đánh giá và tổng hợp kết quả theo định kỳ để báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ.
b) Cơ quan phối hợp: căn cứ vào Chương trình, nội dung các đề án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch bảo đảm kinh phí thực hiện các đề án trong Chương trình.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan chủ trì triển khai thực hiện những nội dung đã nêu trong từng đề án của Chương trình; định kỳ báo cáo kết quả về Bộ Tư pháp để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
2. Tiến độ thực hiện: Theo thời gian đã được xác định trong từng đề án.
3. Nguồn lực để thực hiện Chương trình:
a) Về nhân lực:
Sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện đang công tác trong lĩnh vực xây dựng và nghiên cứu pháp luật của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan;
Thuê chuyên gia trong nước;
Thuê chuyên gia nước ngoài.
b) Về tài chính đảm bảo để thực hiện các hoạt động của Chương trình:
Căn cứ vào Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch ngân sách bảo đảm thực hiện Chương trình này.
Bộ Tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước để đảm bảo thực hiện Chương trình theo kế hoạch hàng năm đã được phê duyệt.
4. Thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật:
Thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm Chương trình; một Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ là Phó Chủ nhiệm Chương trình; lãnh đạo các Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Nội vụ là thành viên của Chương trình.
Giúp việc cho Ban Chỉ đạo là một Tổ thư ký. Tổ thư ký gồm các chuyên viên của Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ (Vụ Pháp chế, Vụ Cải cách hành chính) do Ban Chỉ đạo quyết định. Quy chế hoạt động và tổ chức cụ thể của Ban chủ nhiệm Chương trình do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình, nếu có vướng mắc, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần báo cáo kịp thời về Bộ Tư pháp để tổng hợp báo cáo, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ xem xét, cho ý kiến chỉ đạo./.