nghĩa việc căn cứ vào chức vụ làm tiêu chuẩn xét thưởng như bản giải thích và hướng dẫn chi tiết của Bộ Quốc phòng đã nói rõ: công lao thành tích của mỗi người đều gắn liền với tập thể. Cán bộ và chiến sĩ, cấp trên và cấp dươí đều nhờ có sự liên quan mật thiết với nhau, mỗi người mới có thể phát huy được tinh thần, tài năng, mới lập được thành tích. Nhưng do cương vị phụ trách, vai trò tác dụng của mỗi cấp có khác nhau nên phần cống hiến của mỗi cấp cũng khác nhau. Cán bộ có trách nhiệm nặng nề và công tác khó khăn phức tạp hơn chiến sĩ, cấp trên có trách nhiệm nặng hơn cấp dưới, nên nói chung, cán bộ cống hiến nhiều hơn chiến sĩ, cấp trên cống hiến nhiều hơn cấp dưới. Do đó căn cứ vào chức vụ mà xét khen thưởng không phải là thiếu bình đẳng, chính trị, mà chính là căn cứ vào phần cống hiến khác nhau của mỗi cấp, như thế khen thưởng mơí thích đáng và tương đối công bằng. Nhưng cũng không thể tính toán chi ly, đòi hỏi tuyệt đối công bằng, ngược lại cũng không nên khen thưởng một cách bình quân.Xuất phát từ ý nghĩa đó, về tiêu chuẩn chức vụ được quy định một số điểm chi tiết như sau:
- Trường hợp cán bộ đủ thời gian tham gia lực lượng vũ trang của công an hay quân đội, nhưng thiếu thời gian giữ chức vụ thì thường thấp hơn một hạng.
- Cán bộ đại đội (kể cả trưởng và phó, đã có quyết định chính thức, hoặc cơ quan lãnh đạo của công an từ cấp tỉnh trở lên giao trách nhiệm phụ trách đại đội, nay được xác định chức vụ tương đương cán bộ đại đội trưởng hay phó), giữ chức vụ lâu năm (5 năm trở lên), liên tục và tích cực công tác thì được nâng mức khen thưởng cao lên một hạng. Đó là xét phần cống hiến của số cán bộ đã giữ tròn một chức vụ liền 5 năm, luôn luôn tích cực và bền bỉ, dẻo dai trong công tác và chiến đấu, nhưng vì công tác phải chuyên nghiệp lâu hoặc ở lâu trong vùng địch hậu. Trường hợp này không đặt ra đối vơí cán bộ trung đội vì cán bộ trung đội đã được thưởng ngang vơí cán bộ đại đội rồi.
- Trong thời kỳ kháng chiến, vì chiến trường bị chia cắt , tính chất hoạt động độc lập phân tán, nên lực lượng vũ trang của ngành công an cũng tuỳ theo tình hình và yêu cầu cụ thể của từng địa bàn mà phát triển, cho nên về tổ chức biên chế và tên gọi mỗi nơi một khác, mỗi thời kỳ lại có sự thay đổi. Việc bố trí cán bộ ở một số lực lượng vũ trang và ở một số nơi chưa được quy định rõ ràng, nhiều cán bộ có chức vụ mà không có cấp bậc. Để giải quyết tình trạng này làm cho việc được hợp lý, trong khi xét khen thưởng cho số cán bộ chưa được quy định rõ ràng về cấp bậc, chức vụ thì phải căn cứ vào những điểm dưới đây để xác nhận giải quyết từng trường hợp cụ thể mà khen thưởng cho thoả đáng:
a- Xét quá trình công tác trước và trong thời gian đảm nhiệm trách nhiệm của từng người.
b- Thực chất trách nhiệm, năng lực và tác dụng của mỗi người trong quá trình giữ trách nhiệm đó.
c- Tình hình và nhu cầu bố trí cán bộ của từng thời kỳ và từng nơi.
Dựa vào ba điều này xét cụ thể của từng người và phải so sánh với tương quan trình độ cán bộ nói chung, cán bộ của quân đội, cán bộ của các lực lượng vũ trang và cán bộ nhân viên của ngành để xác định chức vụ tương đương của từng người cho đúng.
Riêng đối với cán bộ và công nhân Công an xưởng Nam Bộ thì được khen thưởng tổng kết như công nhân quốc phòng, nghĩa là cũng căn cứ vào ba tiêu chuẩn cơ bản để xét thưởng, và về cụ thể thi hành theo tinh thần Thông tri số 1/TT/H ngày 6-4-1959 của Tổng cục Chính trị đã quy định để khen thưởng tổng kết cho công nhân và nhân viên quốc phòng trong thời kỳ kháng chiến như sau:
A- Chỉ xét khen thưởng cho những cán bộ và công nhân thoát ly gia đình ở trong biên chế chính thức, làm công tác chính trị, công tác chuyên môn kỹ thuật và trực tiếp sản xuất, sửa chữa vũ khí, cơ khí để phục vụ cho các lực lượng vũ trang của ngành công an chiến đấu với địch, kể cả anh chị em y tá, hộ lý và cấp dưỡng phục vụ cho những công an xưởng.
B- Về tiêu chuẩn, lấy chức vụ, thời gian phục vụ trong các công an xưởng và không phạm sai lầm nghiêm trọng để làm căn cứ xét thưởng, về cụ thể được xét như sau:
1. Những cán bộ, công nhân có tòng ngũ các lực lượng vũ trang công an hay quân đội trong thời kỳ kháng chiến, hoặc hưởng chế độ cung cấp trước khi có Sắc lệnh số 77/SL, ngày 22-5-1950, nếu thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội cộng với thời gian hưởng chế độ cung cấp ở công an xưởng chưa đủ 3 năm hoặc 5 năm, còn thiếu từ 1 năm trở xuống, nhưng có thêm thời gian hưởng chế độ theo Sắc lệnh số 77/SL, thì được tính thêm thời gian để xét thưởng như quy định chung.
2. Những cán bộ, công nhân trong thời kỳ kháng chiến hoàn toàn hưởng chế độ công nhân viên (kể cả Sắc lệnh số 77/SL) thì tính thời gian như sau để xét thưởng:
a- Cán bộ tương đương trung đội và đại đội trở lên:
- Có 4 năm phục vụ và giữ chức vụ được 1 năm trở lên được xét thưởng Huân chương "Chiến thắng" (căn cứ vào chức vụ tương đương mà định hạng Huân chương).
- Có 4 năm phục vụ, nhưng giữ chức vụ chưa được 1 năm, hoặc giữ chức vụ được 2 năm trở lên nhưng thời gian phục vụ chưa đủ 4 năm thì xét thưởng thấp hơn một hạng so với người có 4 năm phục vụ và giữ chức vụ được 1 năm trở lên.
- Có 2 năm phục vụ trở lên, hoặc chưa đủ 2 năm, nhưng đã phục vụ trước ngày 20-7-1954 được 1 năm trở lên và vẫn tiếp tục công tác trong các lực lượng vũ trang của ngành công an hay các ngành của quân đội được 3 năm kể từ sau ngày hoà bình lập lại (20-7-1954), luôn luôn tích cực công tác, được xét thưởng Huy chương "Chiến thắng" hạng nhất.
Chú ý: cán bộ tương đương cấp trung đoàn và cấp đại đội giữ chức vụ được 6 năm trở lên thì xét thưởng nâng lên một hạng so với cán bộ cấp đó có 4 năm phục vụ và giữ chức vụ được 1 năm trở lên.
b- Đối với công nhân ngang với tiểu đội và chiến sĩ:
- Có 6 năm trở lên được xét thưởng Huân chương "Chiến thắng" hạng ba.
- Có 4 năm trở lên được xét thưởng Huân chương "Chiến thắng" hạng nhất.
- Có 2 năm trở lên, hoặc chưa đủ 2 năm nhưng đã phục vụ trước ngày 20-7-1954 được 1 năm trở lên và tiếp tục công tác trong các lực lượng vũ trang công an hay quân đội được 3 năm kể từ ngày hoà bình lập lại (20-7-1954), luôn luôn tích cực công tác thì được xét thưởng Huy chương "Chiến thắng" hạng nhì.
3. Thời gian tham gia các lực lượng vũ trang của ngành công an.
nghĩa việc căn cứ vào thời gian tham gia các lực lượng vũ trang của ngành công an làm tiêu chuẩn khen thưởng cũng như ý nghĩa việc căn cứ vào thời gian tham gia quân đội làm tiêu chuẩn khen thưởng Huân chương, Huy chương "Chiến thắng". Vì thời gian tham gia quân đội hay thời gian tham gia các lực lượng vũ trang của ngành công an đều là biểu hiện của sự cống hiến trong một thời gian nhất định, nó đánh giá sự rèn luyện thử thách và tinh thần phục vụ cách mạng của mỗi người. Thời gian quy định không dài quá, vì dài quá sẽ có một phần lớn lực lượng không được khen thưởng, sẽ không động viên được đông đảo cán bộ và chiến sĩ, cũng không nên quy định thời gian ngắn quá, không tiêu biểu được phần cống hiến nhất định trong một thời kỳ. Vì vậy, tiêu chuẩn xét để khen thưởng Huân chương, Huy chương "Chiến thắng" nói ở điểm 1,2,3,4 thuộc điều 5 trong Sắc lệnh số 054/SL quy định chung là phải có ít nhất 3 năm tuổi quân, tức là khoảng 1/3 thời gian trong kháng chiến, là cơ sở tối thiểu để xét lịch trình chiến đấu và công tác của mỗi cán bộ và chiến sĩ.Nói thời gian tham gia các lực lượng vũ trang, công an làm tiêu chuẩn xét thưởng là nói thời gian tham gia các lực lượng vũ trang trong thời kỳ kháng chiến (từ 20-7-1954 trở về trước).
Đối với cán bộ từ trung đội trở lên mà thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội dưới mức tối thiểu (nghĩa là dưới 3 năm) thì thi hành theo Thông tri số 188/HIA ngày 17-7-1958 của Tổng cục Chính trị, cụ thể là:
- Những cán bộ từ trung đội trở lên đã giữ chức vụ từ 1 năm trở lên, nhưng thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội chưa đủ 3 năm thì được xét khen thưởng Huân chương hoặc Huy chương thấp hơn một hạng so với cán bộ đã giữ chức vụ được 1 năm và có 3 năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội.
- Những cán bộ từ trung đội trở lên, giữ chức vụ chưa được 1 năm, nhưng có 1 năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội trở lên, hoặc thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội chưa đủ 1 năm trong kháng chiến, đã thực tế công tác và chiến đấu trong các lực lượng vũ trang công an hay quân đội từ trước ngày 20-7-1954 và tiếp tục ở trong các lực lượng vũ trang công an hay quân đội được 3 năm kể từ sau ngày hoà bình lập lại (20-7-1954), luôn luôn tích cực công tác thì được xét khen thưởng Huy chương "Chiến thắng" hạng nhất.
Cán bộ tiểu đội và chiến sĩ có từ 3 năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội trở lên, luôn luôn tích cực công tác thì được xét khen thưởng Huân chương "Chiến thắng" hạng ba.
Đối với cán bộ tiểu đội và chiến sĩ chưa đủ một năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội (điểm 5 thuộc điều 5 trong Sắc lệnh số 054/SL) đã quy định rõ phải có thêm hai điều kiện:
- Có tham gia chiến đấu hoặc thực tế công tác từ trước ngày kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ (7-5-1954) .Những người mới tham gia lực lượng vũ trang công an mà đi an dưỡng, đi bệnh viện, những người đi luyện tập, hoặc được cử đi học ngay, sau ngày 7-5-1954 mới thực tế công tác, những người nhập ngũ sau ngày 7-5-1954 thì không đủ tiêu chuẩn khen thưởng, vì công lao và sự rèn luyện thử thách còn quá ít.
- Tiếp tục ở trong các lực lượng vũ trang của ngành công an hoặc ở trong quân đội được 3 năm sau hoà bình .
Đối với những cán bộ và chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang của ngành công an ở trong những trường hợp dưới đây thì xét khen thưởng như sau:
- Đối với cán bộ và chiến sĩ là thương binh tàn phế hoặc thương tật vì chiến đấu nói ở điều 6 trong sắc lệnh, ai đủ tiêu chuẩn thì căn cứ vào quy định chung mà xét khen thưởng. Nếu ai bị thương mà không thể tiếp tục ở lại lực lượng vũ trang hay quân đội đủ thời gian quy định mới đặt vấn đề miễn điều kiện thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội và thời gian giữ chức vụ trong việc xét khen thưởng.
- Đối với cán bộ chiến sĩ là liệt sĩ, đều được căn cứ vào cấp bậc chức vụ lúc hy sinh mà xét truy tặng Huân chương, Huy chương. Nếu thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội không đủ theo quy định chung thì cũng được miễn điều kiện thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội như đối với thương binh.
- Đối với cán bộ chiến sĩ đã phục viên chuyển ngành và những cán bộ chiến sĩ vì lý do chính đáng đã được phép giải ngũ, có đủ các tiêu chuẩn như đã quy định ở điều 5 trong Sắc lệnh số 054/SL, đều được xét khen thưởng.
- Những cán bộ và chiến sĩ đã từ trần đều được căn cứ vào những tiêu chuẩn đã quy định trong sắc lệnh mà xét truy tặng, không được miễn điều kiện thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội, vì không phải là trường hợp hy sinh trong chiến đấu hay công tác.
-Những cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân chuyển sang các lực lượng vũ trang của ngành công an, hoặc những cán bộ chiến sĩ ở các lực lượng vũ trang của ngành công an chuyển sang Quân đội nhân dân, thì thời gian ở trong các lực lượng vũ trang của ngành công an được cộng vào thời gian tham gia quân đội để xét khen thưởng. Những anh em này nếu trong khi xét khen tổng kết cho quân đội đã được tính cả hai thời gian (thời gian ở quân đội, và thời gian ở các lực lượng vũ trang của công an) thì nay thôi không phải xét để khen thưởng lại nưã. Nhưng nếu trước đây chỉ mới tính thời gian tham gia quân đội để xét khen thưởng, thì nay đều được cộng thời gian tham gia các lực lượng vũ trang công an vào thời gian tham gia quân đội, tính lại thời gian rồi căn cứ vào quy định chung để xét lại khen thưởng; trường hợp tính lại rồi so đối với tiêu chuẩn mà mức Huân chương, Huy chương tăng lên thì tặng thưởng lại đúng với hạng của nó (được thay đổi lại bằng và Huân chương, Huy chương) .Nếu sau khi xét lại mà mức hạng Huân chương, Huy chương vẫn như cũ thì thôi.
4- Cách xét chức vụ và tính thời gian.
a- Về chức vụ:
Đối với cán bộ của các lực lượng vũ trang của ngành công an thì căn cứ vào chức vụ cao nhất và thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội của từng người trước ngày 20-7-1954 để xét thưởng Huân chương, Huy chương "Chiến thắng".
Trường hợp bị kỷ luật giáng chức, giáng cấp, xét không phải là phạm sai lầm nghiêm trọng và quá trình có thành tích thì có thể được xét khen thưởng, nhưng phải căn cứ vào chức vụ đã giáng xuống để xét khen thưởng.
Nhưng trường hợp chức vụ không rõ ràng, thì cần thẩm tra cẩn thận và dựa vào các điểm a, b, c nói ở điểm 2 phần B mục III để xác nhận cấp bậc, chức vụ tương đương mà xét khen thưởng cho thoả đáng.
b- Về thời gian:
Căn cứ vào ngày tháng, năm thành lập các lực lượng vũ trang công an, đồng thời căn cứ vào ngày, tháng năm nhập ngũ xuất ngũ của từng người mà xét thời gian tham gia các lực lượng vũ trang cho từng cán bộ, chiến sĩ để tính thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội và xét khen thưởng.
- Năm 1945 thành lập các lực lượng vũ trang:
Công an trật tự vũ trang hay còn gọi là Cảnh vệ, Công an vũ trang hay Cảnh sát vũ trang,
Quốc vệ đội hay Bảo vệ đội Nam Bộ.
Công an xung phong.
- Năm 1946 thành lập: Công an xưởng Nam Bộ.
- Năm 1953 thành lập: Bộ đội Cảnh vệ (Bắc và Trung Bộ).
Nói chung thì như vậy, nhưng do đặc điểm trong hoàn cảnh kháng chiến, nên không phải thống nhất tỉnh nào cũng tổ chức vào những năm ấy, có nơi tổ chức sớm, có nơi tổ chức sau. Vì vậy phải căn cứ vào ngày, tháng, năm thành lập của từng tỉnh để làm mốc mà tính thời gian.
Có một vấn đề khác với quân đội là bốn lực lượng vũ trang của ngành công an, có lực lượng thành lập ra và tiếp tục tồn tại cho đến mãi sau hoà bình lập lại. Có lực lượng thành lập ra đến một thời gian nào đó xét không còn phù hợp nữa thì giải thể đi. Có lực lượng thì giải thể hẳn nhưng cũng có lực lượng không phải là giải thể mà chỉ là thay đổi về tổ chức, nhiệm vụ, tên gọi và chuyển biến thành một lực lượng mới. Vì vậy khi xét thời gian tham gia các lực lượng vũ trang của từng người phải chú ý đến vấn đề này để xác nhận cho đúng.
Ngày chấm dứt thời kỳ kháng chiến là ngày 20-7-1954.
Cách tính: Vì đa số anh em không nhớ ngày, nên tính tháng cũng được, từ tháng trước đến tháng sau mới coi là một tháng, từ tháng 7-1951 đến tháng 7-1954 mới là đủ 3 năm. Nhất thiết không linh động châm chước.
Trường hợp tham gia lực lượng vũ trang công an có gián đoạn hay giữ chức vụ có gián đoạn, nhưng vì lý do chính đáng, vì điều kiện công tác, v.v... thì được cộng lại để tính thời gian mà xét khen thưởng theo quy định chung.
Riêng trường hợp 5 năm liền giữ chức vụ thì phải liên tục và luôn luôn tích cực công tác, tức lầ không có thời gian nằm ỳ, bỏ công tác, v.v.. Đối với cán bộ tiểu đội và chiến sĩ vì nhu cầu gây cơ sở ở vùng địch hậu, hoặc được điều động công tác, hoặc vì ốm được phép nghỉ dài hạn, rồi lại trở lại lực lượng vũ trang công an hay quân đội mà có đủ 5 năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội thì cũng được chiếu cố để xét khen thưởng theo quy định.
c- Cách xét cho thương binh:
Điều 6 trong sắc lệnh đã quy định: Ai vì bị thương mà thiếu thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội thì căn cứ vào sổ thương binh và căn cứ trên điều kiện thực tế của thời gian mà được xét miễn như sau:
-Những anh em nhập ngũ trước hoà bình từ 3 năm trở lên nghĩa là từ tháng 7-1951 trở về trước vì bị thương mà không thể tiếp tục ở lực lượng vũ trang công an hay quân đội được thì được miễn điều kiện phải có 3 năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội và 1 năm giữ chức vụ, mà căn cứ vào chức vụ lúc được phép giải ngũ để xét khen thưởng Huân chương, Huy chương "Chiến thắng".
- Những anh em nhập ngũ từ tháng 8 -1951 trở về sau, vì bị thương mà không thể tiếp tục ở trong các lực lượng vũ trang công an hay quân đội được 1 năm và không thể tiếp tục công tác trong các lực lượng vũ trang công an hay quân đội được 3 năm sau hoà bình lập lại thì xét khen thưởng Huy chương "Chiến thắng" hạng hai.
Chỉ miễn cho:
-Thương binh có thương tật vĩnh viễn.
- Thương binh có thương tật tạm thời còn điều trị đến ngày đình chiến.
- Thương binh trong kháng chiến khi về xã còn mang thương tật.
- Cán bộ và chiến sĩ mới nhập ngũ trước ngày đình chiến, chưa đủ 1 năm tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội sau hoà bình chưa được 3 năm mà bị thương cũng được miễn 3 năm sau hoà bình.
Các thương binh hết hạn thương tật rồi mới ra ngoài các lực lượng vũ trang thì không được xét miễn, vì không phải lý do thương tật mà không đủ thời gian tham gia lực lượng vũ trang công an hay quân đội như đã quy định.
Cách xét miễn điều kiện thời gian tham gia các lực lượng vũ trang công an hay quân đội và thời gian giữ chức vụ cho liệt sĩ cũng áp dụng như cách xét miễn đối với thương binh.
5. Không phạm sai lầm nghiêm trọng
Đánh giá phần cống hiến của mỗi người phải căn cứ vào thành tích ưu điểm, đồng thời cũng phải xét đến sai lầm và khuyết điểm lúc ở trong các lực lượng vũ trang công an hay quân đội, cũng như khi đã ra ngoài các lực lượng vũ trang công an hay quân đội, phải là người luôn luôn trung thành với cách mạng, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, lúc nào cũng coi trọng lợi ích của cách mạng thì mới xứng đáng được vinh dự này.
-Những người đã mất phẩm chất chính trị, mất bản chất người cán bộ và chiến sĩ của các lực lượng vũ trang công an hay quân đội, tự xoá bỏ lịch sử đấu tranh thì không xứng đáng được vinh dự.
- Những người bị kỷ luật giáng cấp, giáng chức trong những trường hợp phạm sai lầm không nghiêm trọng, xét có thành tích thì có thể được xét thưởng, nhưng phải căn cứ vào chức vụ giáng xuống để khen thưởng.
- Những người có nhiều tư tưởng và hành động xấu đã giáo dục nhiều lần mà chưa tiến bộ thì chưa xét khen thưởng.
Những điểm quy định chi tiết dưới đây giải thích những nguyên tắc nói trên để áp dụng trong việc xét khen thưởng cho đúng:
a- Những trường hợp không được xét thưởng:
-Có hành động phản bội, đầu hàng và làm tay sai cho địch đã được kết luận, xoá bỏ lịch sử chiến đấu trước đây . Tự ý tham gia nguỵ quân, nguỵ quyền làm việc cho địch hoặc bị địch mua chuộc làm tay sai cho chúng.
- Đào ngũ về nhà luôn, hay nghỉ phép quá hạn không trở lại đơn vị, hoặc sau đình chiến mới trở lại.
- Tự ý gây thương tích để trốn tránh nhiệm vụ, sau không trở lại lập công chuộc tội, hoặc vì vết thương đó mà rời khỏi lực lượng vũ trang công an hay quân đội.
- Vì phạm tội mà đã bị tước quân tịch, bị tước quyền công dân, bị tước danh nghĩa thương binh.
- Vi phạm pháp luật nhà nước, hoặc bị kỷ luật của các lực lượng vũ trang mà đã bị khai trừ, sa thải hay bị đuổi ra khỏi lực lượng vũ trang công an hay quân đội.
b- Đối với những người bị kỷ luật giáng cấp, giáng chức trong thời kỳ nào thì căn cứ vào cấp bậc, chức vụ cuối thời kỳ đó mà xét.
Đối với người bị kỷ luật giáng cấp, giáng chức sau khi hoà bình lập lại, thì căn cứ vào tính chất sai lầm và thái độ của người phạm tội mà xét khen thưởng, có thể xét khen thưởng như quy định chung, hoặc thưởng thấp theo chức vụ mới.
Nói chung khi xét khen thưởng trường hợp này phải cân nhắc hết sức thận trọng có quần chúng bình nghị và phải lấy ý kiến của cán bộ phụ trách, hoặc anh em cùng đơn vị cũ, cấp được uỷ quyền xét và quyết định.
c- Đối vơí những người vì lạc hậu mà có nhiều tư tưởng và hành động xấu như: bất mãn, nằm ỳ, không chịu công tác, không tuân theo kỷ luật, làm mất trật tự, mất đoàn kết, tham ô, hủ hoá, v.v..Hoặc chống đối chính quyền địa phương làm mất trật tự trị an, hoặc vì tự tư tự lợi mà phạm chính sách( buôn lâụ, thuế khoá, cờ bạc,v.v.).
- Nếu là khuyết điểm cũ, đã được giáo dục, đã có biểu hiện sửa chữa và tiến bộ thì tiếp tục giáo dục thêm và xét khen thưởng.
- Nếu là khuyết điểm hiện nay, nhẹ và có tính chất nhất thời thì tranh thủ giáo dục cho tiến bộ, có biểu hiện tốt trên hành động, chuẩn bị tư tưởng cho quần chúng, rồi xét khen thưởng như đã quy định để khuyến khích nâng đỡ.
- Nếu là khuyết điểm nặng, kéo dài, đã giáo dục nhiều lần mà chưa tiến bộ, chưa sửa chữa thì tiếp tục giáo dục cho đến khi thực sự tiến bộ rồi mới xét khen thưởng.
Đối với những cán bộ chiến sĩ đã phục viên, chuyển ngành, giải ngũ, khi xét khen thưởng cũng dựa vào những điểm trên để xét và giải quyết cho thận trọng.
d- Đối với các trường hợp sai lầm chưa kết luận hoặc những sai lầm khác:
- Những sai lầm do kiểm thảo chỉnh huấn, chỉnh đảng sau đó không bị xử lý thì không đưa vào đó mà xét khen thưởng. Nếu có xử lý thì căn cứ vào trường hợp xử lý và điều kiện khác mà xét.
- Những trường hợp sai lầm chưa kết luận được thì tiến hành thẩm tra kết luận rồi mới xét khen thưởng, nếu chưa có căn cứ thẩm tra, phải đợi lâu thì cứ xét khen thưởng, sau khi thẩm tra xong tuỳ theo tình hình mà xét lại trường hợp khen thưởng. Trường hợp nào thấy khen thưởng không có lợi, thì xin chỉ thị cấp trên.
Ngoài ra cần chú ý thêm mấy điểm:
- Những người bị kỷ luật trong thời gian trước mà sang thời gian sau mới có quyết định, hoặc mới xử lý thì căn cứ vào thời gian phạm sai lầm mà xét.
- Những trường hợp thưởng mức thấp nhất thì không thi hành giáng thưởng, mà đợi giáo dục tiến bộ rồi mới xét khen thưởng sau.