Thông tư THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH
Sửa đổi bổ sung Thông tư số 19/TC-TCT ngày 16-3-1995
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 193/C P về lệ phí trước bạ
Thi hành Nghị định số 193/CP ngày 29 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ, Bộ Tài chính đã có Thông tư số 19/TC-TCT ngày 16-3-1995 hướng dẫn thực hiện;
Sau một thời gian thực hiện, Bộ Tài chính hướng dẫn bổ sung sửa đổi một số điểm tại Thông tư số 19/TC-TCT ngày 16-3-1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 193/CP ngày 19 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ về lệ phí trước bạ như sau:
1. Bổ xung sửa đổi tiết e, điểm 3 ,mục I về việc "không thu lệ phí trước bạ đối với tài sản chuyên dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh như sau:
Đất và nhà kèm theo đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh quy định tại Điều 65 Luật đất đai đã hướng dẫn tại gạch đầu dòng thứ nhất, tiết e, điểm 3 Mục I Thông tư số 19/TC-TCT ngày 16-3-1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 193/CP ngày 29 tháng12 năm 1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ.
Tàu, thuyền các loại chuyên dùng vào mục đích quốc phòng an ninh như: tàu ngầm, tàu phá thuỷ lôi, tàu làm căn cứ hạm đội, tàu tuần tiễu của hải quân và các tàu, thuyền khác được trang bị phương tiện chỉ chuyên dùng trong quốc phòng an ninh.
Ô tô, xe gắn máy và súng các loại chuyên dùng như: xe tăng xe bọc thép, xe bánh xích, xe lội nước, xe kéo pháo, xe cứu hoả xe, gắn máy 3 bánh, xe gắn máy 2 bánh được trang bị các phương tiện chuyên dùng để săn bắt cướp và các tài sản chuyên dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh khác nhưng nếu sử dụng vào sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng cho các tổ chức, cá nhân thì phải nộp lệ phí trước bạ.
Tất cả các tài sản không chuyên dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh khác, như: tàu thuyền đánh cá, tàu thuyền vận tải hàng hoá và hành khách các loại, ô tô du lịch các loại, ô tô vận tải hàng hoá và hành khách các loại, xe gắn máy các loại, súng săn, súng thể thao v.v... mỗi khi đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước đều phải nộp lệ phí trước bạ theo quy định tại Điều 1. Điều 2 Nghị định số 193/CP ngày 29 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ không phân biệt tổ chức cá nhân đó chuyên làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hay vừa làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh vừa kết hợp làm kinh tế hoặc chuyên làm kinh tế.
2. Bổ sung vào tiết h, điểm 3 mục I về tài sản do phân chia hay sáp nhập về tổ chức như sau:
Tài sản đã đăng ký quyền sở hữu sử dụng sau đó đem góp vốn liên doanh thì khi tổ chức liên doanh đăng ký quyền sở hữu, sử dụng phải nộp lệ phí trước bạ; nếu sau đó tổ chức liên doanh giải thể và có sự phân chia tài sản góp vốn, thì người được chia tài sản khi đăng ký sở hữu không phải nộp lệ phí trước bạ trên phần giá trị tài sản theo tỷ lệ (%) vốn của mình trong tổng số vốn của tổ chức liên doanh. Trường hợp tổ chức liên doanh giải thể, nhưng không chia tài sản, mà bán hoặc nhượng đổi cho tổ chức, cá nhân khác thì người nhận tài sản phải nộp lệ phí trước bạ tính trên toàn bộ giá trị tài sản trước bạ.
Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A đem nhà đất cảu mình góp vốn liên doanh và thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn B, khi Công ty trách nhiệm hữu hạn B đăng ký sở hữu nhà đất mang tên Công ty trách nhiện hữu hạn B thì phải nộp lệ phí trước bạ tính trên tổng trị giá nhà đất tại thời điểm trước bạ. Trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn B giải thể, vốn góp của ông A chiếm 30% trong tổng số vốn của Công ty nên được chia tài sản là một ô tô thì khi ông A đăng ký lại quyền sở hữu, sử dụng ô tô, lệ phí trước bạ giải quyết như sau: 30% giá trị ô tô (tương ứng với tỷ lệ vốn của ông A) không phải nộp lệ phí trước bạ. 70% giá trị ô tô lúc trước bạ phải nộp lệ phí trước bạ. Nhưng nếu Công ty trách nhiệm hữu hạn B không phân chia tài sản, mà bán cho ông C không tham gia góp vốn thì ông C phải nộp lệ phí trước bạ trên tổng trị giá tài sản trước bạ.
3. Hướng dẫn tại gạch đầu dòng thứ 2 của tiết a, điểm 1 mục II Thông tư số 19-TC/TCT ngày 16-3-1995 về trị giá đất tính lệ phí trước bạ là "Giá đất mỗi mét vuông (đồng m2) do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định theo khung giá các loại đất do Chính phủ ban hành" nay sửa đổi như sau: Giá đất mỗi mét vuông (đ/m2) tính lệ phí trước bạ do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào giá thực tế chuyển quyền sử dụng đất ở địa phương để quy định, nhưng không được thấp hơn giá tối thiểu của loại đất tương ứng theo khung giá của Chính phủ ban hành.
Riêng trường hợp nhận quyền sử dụng đất cùng với việc mua nhà thuộc sở hữu Nhà nước bán cho người đang thuê thì giá tính lệ phí trước bạ đất loà giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định theo Nghị định số 61/CP ngày 5 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ.
4. Bổ sung tiết b, điểm 1, mục II như sau: Giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà thuộc sở hữu Nhà nước bán cho người đang thuê theo Nghị định số 61/CP ngày 5 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ là giá bán thực tế ghi trên hoá đơn bán nhà theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
5. Quy định tại sau tiết c, điểm 1, mục II là: "Khi tính, thu lệ phí trước bạ, nếu trị giá tài sản ghi trên hoá đơn của người nộp lệ phí trước bạ thấp hơn giá chuẩn do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định thì giá tính lệ phí trước bạ là giá chuẩn tối thiểu do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định; nếu trị giá tài sản ghi trên hoá đơn hoặc tờ khai cao hơn giá chuẩn tối thiểu thì tính lệ phí trưóc bạ là giá thực tế ghi trên hoá đơn hoặc tờ khai mà người nộp lệ phí trước bạ đã kê khai, áp dụng chung cho tất cả các tài sản thuộc diện phải chịu lệ phí trước bạ theo hướng dẫn tại điểm I mục II Thông tư số 19-TC-TCT ngày 16-3-1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 193 /CP ngày 29 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ".
Các nội dung khác không có hướng dẫn sửa đổi, bổ sung vẫn thực hiện như hướng dẫn tại Thông tư số 19-TC-TCT ngày 16-3-1995 và thông tư số 42 -TC-TCT ngày 1-6-1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 193/CP ngày 29 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Những quy định trước đây trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị các cơ quan phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để nghiên cứu hướng dẫn bổ sung.