Lúa ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô.
(Hát lại) Lúa ngô là cô đậu nành.
Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI.
Đồng dao, đồng diêu: câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sàigòn.
36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo Việt Nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào.
Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hầu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả.
Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật.
Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện.
Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp …
Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc:
Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống!
Cá chi? Cá bống! Chống rớ!
Cá chi? Cá rô! Chống rớ!!
Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! …
Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao:
Nhong nhong nhong nhong
Ngựa ông đã về
Cắt cỏ bồ đề
Cho ngựa ông ăn
Nhong nhong nhong nhong …
Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi:
Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này
Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy…
Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này!
Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy! …
và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón.
Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại:
Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa
Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ
hay: Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!!
Vẫn tay mẹ tay con:
Xỉa cá mè/ đè cá chép
Tay nào đẹp/ đi hái hoa
Tay nào thô/ đi mót củi
Tay dính bụi/ đừng dụi mắt …
Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân:
Xỉa cá mè/ đè cá chép
Chân nào đẹp/ đi buôn men
Chân nào đen/ ở nhà làm… chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui.
Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận:
Vuốt hột nổ
Đổ bánh bèo
Xao xác … quạ kêu
Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may
Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế
Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi
Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy
Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá
Cái ná bắn chim/ cái kim may áo
Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu
Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo …
Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là:
Tập tầm vông
Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương
Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve
Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay
Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền
Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà
Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân
Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo
Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm
Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ
Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết
Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt …
Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên:
Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên
Đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông
Ăn trộm ăn cắp trứng gà
Bù xa bù xít/ con rắn con rít
Thì ra tay này!
Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung:
Nu na nu nống/ cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật
Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè
Tè he cống rụt!
Nu na nu nống/ thằng công cái cạc
Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống
Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già
Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường
Có phường trống quân/ có chân thì rút!
Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua
Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào
không bẩn tí nào/ được vào đánh trống!
Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần.
Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ:
Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước
Hai chân trước ịch đi ịch trước
Hai chân sau ịch đi ịch sau
Còn cái đuôi thì đi là sau rốt
Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi
Cái vòi í i ị đi trước …
Con công hay múa/ nó múa làm sao?
Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra
Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít
Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè
Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống
Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông
Con công hay múa …
Lúa ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang/ dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô đậu nành …
Ba bài liên hoàn khác về chim:
Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu
Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng …
Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú
Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi …
Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò
Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò
Cái cò mày mổ cái tôm …