Tại Mátxcơva tôi kiếm được một tấm bản đồ chi tiết biển Kaxpi và lang thang rất lâu (tất nhiên là trong tưởng tượng) trên những bờ đông khô cạn của nó.
Từ khi còn nhỏ tôi đã ham mê những bản đồ địa lý. Tôi có thể ngồi mấy tiếng đồng hồ liền với những tấm bản đồ như đọc một cuốn sách hay.
Tôi nghiên cứu dòng chảy của những con sông chưa bao giờ biết tới, những bờ biển kỳ cục,đi sâu vào rừng Taiga, nơi những trạm không tên tuổi chuyên mua da lông thú của những người đi săn được đánh dấu bằng những vòng tròn tí xíu, hoặc nhắc đi nhắc lại những tên đất kêu như những vần thơ: Quả cầu Iugor, quần đảo Ebriđơ, Guađarama và Invécnétxơ, Onhêga và Koócđie.
*
* *
Đã đến lúc cần phải đi Kaxpi, tới KaraBugaz nhưng tôi lại chẳng có tiền.
Tôi tới một nhà xuất bản và đề nghị ông giám đốc - một người đàn ông tóc bạc và đáng ngán - ký với tôi hợp đồng cuốn sách về vịnh KaraBugaz. Ông giám đốc uể oải nghe tôi rồi nói:
- Chẳng lẽ ông đã đánh mất hết hoặc không có lấy một ý niệm nào về hiện thực Xôviết hay sao mà lại đi đề nghị với nhà xuất bản một cuốn sách như thế?
- Tại sao vậy?
- Trong cái vịnh của ông ấy, người ta đang khai thác muối Glaobe. Không có lẽ ông thật sự định viết một cuốn tiểu thuyết về thuốc xổ? Hay ông định giễu tôi? Ông nghĩ thế nào... ông tưởng bọn ngốc làm nghề xuất bản sẽ bỏ ra dù chỉ một trinh cho cái dự định lố lăng ấy ư?
Tôi phải vất vả lắm mới kiếm được tiền ở một nơi khác.
Tôi đáp tàu đi Xaratốp, rồi từ đó xuôi sông Vônga tới Axtơrakhan. Đến đấy tôi phải nằm lại. Số tiền ít ỏi của tôi đã hết và để đi tiếp, ở Axtơrakhan tôi phải viết mấy bài ký cho tạp chí “Ba mươi ngày” và một tờ nhật báo của Axtơrakhan.
Để có tài liệu viết những bài ký đó tôi đi vào miền thảo nguyên Axtơrakhan và tới sông Emba. Những chuyến đi đó đã giúp tôi viết cuốn sách về KaraBugaz.
Tôi đi bằng đường biển Kaxpi dọc theo những bờ biển rậm rịt lau sậy để tới Emba. Cái tàu thủy cũ kỹ chạy guồng mang một cái tên lạ: “Hêliôtơrốp”. Giống như trên mọi tàu thủy cũ, tàu này có rất nhiều đồng đỏ. Tay vịn, địa bàn, ống nhòm, mọi thứ máy móc, cả đến bậc cửa cao của các cabin cũng đều bằng đồng. Tàu “Hêliôtơrốp” trông giống như một cái ấm xamôva to bụng được đánh bóng loáng bằng gạch đang bốc khói và bập bềnh trên những đợt sóng thấp của một biển nông.
Những con hải báo nằm ngửa trong nước ấm như những người đi tắm biển. Thỉnh thoảng chúng lười biếng ve vẩy những cái thân bơi béo mập.
Trên những bến nổi của vạn chài, những cô gái răng trắng mặc quần áo xanh thủy thủ huýt sáo và tươi cười nhìn theo tàu “Hêliôtơrốp”, má cô nào cô ấy đầy vẩy cá.
Những đám mây trắng và những hòn đảo cát trắng soi mình trong làn nước bóng loáng, làm nhiều khi không phân biệt được đâu là mây, đâu là đảo nữa.
Khói than làm bằng phân bò đóng bánh nhẹ và mỏng bay trên thị trấn Guriép. Tôi đi Emba trên chuyến tàu chạy động cơ vừa mới bắt đầu hoạt động, qua một thảo nguyên khô cằn.
Ở thị trấn Đôtxorơ trên sông Emba, những tháp dầu thở phì phò giữa những hồ nước hồng tươi phảng phất mùi nước dưa. Cửa sổ các nhà đều không có kính. Người ta thay kính bằng những miếng lưới thép mau mắt. Bên ngoài những lưới thép ấy côn trùng bám đặc làm cho trong nhà tối xầm.
Ở Emba, tôi chúi đầu vào công việc sản xuất dầu hỏa, vào những câu chuyện về “những vòm muối”, về việc thăm dò trên sa mạc, về dầu hỏa nặng và dầu hỏa nhẹ, về đầm nước mặn có dầu nổi tiếng Marakaibô ở Vênêxuyêla, nơi những kỹ sư tỉnh Emba thường tới thực tập.
Ngay trước mắt tôi một kỹ sư bị nhện độc cắn. Ngày hôm sau ông ta chết.
Miền Trung Á đặc biệt oi bức. Đêm đêm sao sáng qua màn bụi cát. Những bà lão kazak mặc quần rộng và ngắn bằng vải thô có những hình sặc sỡ đi lại trong các phố. Trên màu vải hồng in rối rắm hình hoa mao lương đen và những lá xanh.
Nhưng sau mỗi chuyến đi tôi lại lần về Axtơrakhan, về ngôi nhà gỗ nhỏ của một nhà báo địa phương. Ông ta lôi tôi về ở với mình và tôi đã quen ở đấy.
Ngôi nhà gỗ nhỏ nằm bên bờ con sông đào Vácvaxiép trong một khu vườn nhỏ. Trong vườn hoa kim liên mọc thành đống.
Tôi viết những bài bút ký trong lều nghỉ chân bé xíu, chỉ vừa đủ cho một người. Tôi ngủ luôn ở đó.
Bà vợ của nhà báo, một thiếu phụ trẻ ốm yếu nhưng niềm nở, suốt ngày khóc thầm trong bếp, vừa khóc vừa xếp đi xếp lại những chiếc áo trẻ con. Cách đây hai tháng, bà mất đứa con trai mới sinh.
Từ Axtơrakhan tôi đi Makhatsơ-Kala, Baku và Kranxnôvôtxkơ. Tất cả những chuyện tiếp sau tôi đã tả trong KaraBugaz.
Tôi trở về Mátxcơva, nhưng vài ngày sau công việc của người phóng viên lại buộc tôi phải xuống miền Bắc, tới Bêrôznhiki và Xôlikamxkơ.
Rời cái nóng ghê gớm của châu Á, tôi lại rơi vào xứ xở của những rừng vân sam tăm tối, những đầm lầy, những ngọn núi rêu phong và mùa đông đến sớm.
Ở đó tôi bắt đầu viết KaraBugaz trong một khách sạn tại Xôlikhamxkơ. Khách sạn đặt trong một tòa nhà trước kia là nhà dòng. Gian phòng tôi ở xây cuốn, lạnh buốt. Ngoài tôi ra còn có ba kỹ sư hóa chất: một người đàn ông và hai người đàn bà. Họ sống như ở ngoài mặt trận. Ba kỹ sư làm việc ở mỏ ka-li Xôlikhamxkơ.
Trong khách sạn sặc mùi trầm, mùi bánh mì và da thuộc, mùi của thế kỷ XVII. Đêm đêm, những người gác mặc áo choàng lông điểm giờ bằng cách đánh vào những thanh gang. Trong ánh sáng mờ mờ của tuyết nổi bật lên những ngôi nhà thờ trát gạch cao, từ thời kỳ trị vì của “họ Xtơrôganốp”.
Ở đây không có gì nhắc tôi nhớ đến châu Á và vì thế, không hiểu sao, tôi viết thấy dễ hơn.
Đấy là lịch sử rất ngắn, kể một cách hấp tấp của cuốn KaraBugaz. Không thể nào kể hết được, dù chỉ đơn giản kê ra tất cả những cuộc gặp gỡ, những cuộc nói chuyện và những việc xảy ra dọc đường.
Tất nhiên, các bạn nhận thấy rằng chỉ có một phần - mà phần ấy là phần nhỏ - tài liệu thu lượm đã được dùng trong tác phẩm. Phần lớn những tài liệu ấy còn nằm ngoài lề cuốn truyện.
Nhưng cũng chẳng có gì đáng tiếc. Tài liệu ấy bất cứ lúc nào cũng có thể được tái sinh trên những trang của một cuốn sách mới.
*
* *
Tôi viết KaraBugaz và không nghĩ tới việc xếp sắp tài liệu sao cho đúng. Tôi xếp nó theo trình tự tài liệu được gom góm lại mỗi lúc một nhiều trong chuyến đi trên vùng bờ biển Kaxpi.
Sau khi KaraBugaz ra đời, các nhà phê bình tìm thấy trong truyện dài ấy “bố cục theo hình xoáy ốc” và rất khoái phát hiện đó. Nhưng trong việc này cả óc tôi, cả tim tôi đều không cố tình làm ra như thế.
Khi viết KaraBugaz chủ yếu tôi nghĩ rằng có thể dùng cái âm hưởng trữ tình và anh dũng bổ sung cho nhiều cái trong đời sống của chúng ta có thể diễn đạt một cách đẹp đẽ và chính xác. Dù cho đó là cuốn truyện dài về muối Glaobe hay về công trình xây dựng nhà máy giấy ở những khu rừng phương Bắc.
Tất cả những cái đó có thể tác động mạnh mẽ vào tâm hồn nhiều người, nhưng với một điều kiện không có không được là người viết những truyện ấy phải hướng tới sự thật, tin tưởng vào sức mạnh của trí tuệ, vào quyền lực đáng tin cậy của trái tim và phải yêu mến đất đai.
Mới đây tôi có đọc thơ của Antôkônxki và tìm thấy trong đó hai đoạn rất tốt có sức truyền đạt trạng thái say mê cuộc sống của trái tim người. Trái tim đó không thể không nghe mà phải nghe thấy.
Cả tiếng vĩ cầm rền rĩ xa xa
Cảm trước thấy mùa xuân đang tới
Cả tiếng vọng tơ đàn, rơi rơi
Những giọt nước reo trong yên lặng.
Khúc nhạc ấy đất trời - ta tặng,
Đất trời ta, bao thế kỷ rồi
Vẫn vĩnh cửu, vĩnh hằng trong sáng
Vẫn mãi mãi làm vui cho người...