Vài ngày sau, khi Penelope vừa đi mua sắm với Eloise, Hyacinth và Felicity về thì thấy chồng cô đang ngồi sau bàn làm việc trong thư phòng. Anh đang đọc, chăm chú dán mắt vào một quyển sách hay tài liệu nào đó, dáng người khom khom chẳng giống anh bình thường gì cả.
“Colin?”
Anh ngẩng phắt đầu lên. Chắc hẳn anh không nghe thấy tiếng bước chân cô, quả đáng ngạc nhiên vì cô không hề cố gắng bước cho nhẹ nhàng. “Penelope,” anh nói, đứng dậy khi thấy cô bước vào phòng, “chuyện, ờ, bất cứ chuyện gì mà em đã làm khi ra ngoài ấy, thế nào?”
“Mua sắm,” cô nói kèm một nụ cười thích thú. “Em đi mua sắm.”
“Phải. Ra là thế.” Anh hơi bồn chồn đổi từ chân nọ sang chân kia. “Em mua được gì không?”
“Một cái mũ bon nê,” cô đáp, định thêm vào là cả ba chiếc nhẫn kim cương nữa, chỉ cốt xem liệu anh có đang lắng nghe không.
“Tốt, tốt,” anh lẩm bẩm, rõ ràng chỉ muốn ngay lập tức quay trở về với cái thứ chẳng biết là gì đó đang nằm trên bàn anh.
“Anh đang đọc gì vậy?” cô hỏi.
“Chẳng có gì đâu,” anh đáp, gần như theo phản xạ, rồi nói thêm, “ờ, thật ra là một trong những cuốn nhật ký của anh.”
Khuôn mặt anh toát lên một vẻ biểu cảm khác thường, hơi bẽn lẽn, hơi thách thức, gần như thể anh vừa xấu hổ vì bị bắt gặp lại vừa muốn thách cô hỏi thêm nữa.
“Em xem qua được không?” cô hỏi, cố giữ giọng nói thật nhẹ nhàng và, như cô hy vọng, không có vẻ đe dọa. Thật không tin nổi Colin có thể không chắc chắn về bất kỳ chuyện gì. Tuy nhiên, hễ cứ nhắc đến nhật ký của anh là dường như anh lại tỏ ra dễ dao động một cách đáng ngạc nhiên… và cảm động.
Từ trước đến nay, Penelope vẫn quen nhìn Colin như một biểu tượng vô song của niềm hạnh phúc và lạc quan. Anh tự tin, điển trai, được nhiều người yêu quý, và rất thông minh. Cô không chỉ một lần nghĩ rằng nếu đã là người nhà Bridgerton thì chắc hẳn cuộc đời sẽ phải thanh thản lắm.
Đã rất nhiều lần - nhiều đến mức cô chẳng thể nào đếm được - cô trở về nhà sau khi dùng trà với Eloise và gia đình, cuộn mình trên giường mà ước ao rằng cô được mang trong mình dòng máu Bridgerton. Cuộc sống của họ thật nhẹ nhàng. Họ thông minh, quyến rũ, giàu có và dường như ai nấy đều quý mến họ.
Và họ quá đáng mến đến độ ta chẳng thể căm ghét họ vì tội đã sống cuộc đời tuyệt vời đến thế.
Vậy đấy, giờ cô đã là một Bridgerton, dù không phải do dòng máu mà là nhờ hôn nhân, và quả đúng thế thật - cuộc sống khi là một Bridgerton đẹp hơn nhiều, mặc dù lý do chính yếu không nằm ở bất kỳ thay đổi lớn lao nào về bản thân cô mà bắt nguồn từ tình yêu nồng nàn say đắm cô dành cho chồng và, nhờ phép màu không thể tin nổi nào đó, đã được đền đáp bằng mối xúc cảm tương tự từ anh.
Nhưng cuộc đời chẳng thể nào hoàn hảo, ngay cả với những người nhà Bridgerton.
Ngay cả Colin - chàng trai vàng, người đàn ông có nụ cười dễ chịu và sự hài hước vô song - cũng có những điểm yếu. Anh bị ám ảnh bởi những mơ ước không thành và cảm giác thiếu tự tin bị che giấu vô cùng khéo léo. Thật chẳng đúng đắn chút nào khi cô đã dành không biết bao nhiêu thời gian suy ngẫm về cuộc đời anh mà lại không chịu chấp nhận rằng anh cũng có nhiều khuyết điểm.
“Em không cần xem từ đầu đến cuối đâu,” cô trấn an anh. “Có khi chỉ cần một hai đoạn ngắn thôi. Anh muốn trích chỗ nào cũng được. Một đoạn nào đó anh cực kỳ thích chẳng hạn.”
Anh nhìn xuống cuốn sổ đang để mở, ánh mắt ngây đơ, như thể các câu chữ được viết bằng tiếng Trung Quốc. “Anh không biết nên chọn đoạn nào,” anh lẩm bẩm. “Thật ra phần nào cũng giống nhau cả.”
“Dĩ nhiên không phải thế rồi. Em hiểu rõ chuyện này hơn ai hết. Em…” Cô bất chợt nhìn quanh, nhận ra cửa ra vào đang để ngỏ bèn vội vã bước tới đóng lại. “Em đã viết vô số bài báo,” cô tiếp tục, “và em đảm bảo với anh, chúng không hề giống nhau. Một số bài em đặc biệt yêu thích.” Cô mỉm cười hoài niệm, nhớ lại dòng cảm xúc mãn nguyện và tự hào thường trào dâng mỗi khi cô viết được một bài báo mà cô cho rằng đặc biệt xuất sắc. “Thú vị lắm, anh hiểu ý em chứ?”
Anh lắc đầu.
“Cảm giác của anh,” cô cố gắng giải thích, “khi anh biết mình vừa chọn được từ đắt. Và anh chỉ có thể thực sự ý thức được giá trị của nó sau khi đã ngồi sụp xuống đó, chán nản tột cùng, mắt dán chặt vào trang giấy trắng mà chẳng mảy may nghĩ ra được mình nên viết gì.”
“Anh biết cảm giác đó,” anh nói.
Penelope cố không mỉm cười. “Em biết anh hiểu cảm xúc cơ bản đó. Anh là một nhà văn xuất sắc, Colin. Em đã đọc tác phẩm của anh rồi.”
Anh ngước lên nhìn, cảnh giác.
“Chỉ một chút xíu mà anh đã biết đấy thôi,” cô trấn an anh. “Em sẽ không bao giờ đọc nhật ký của anh nếu anh không muốn.” Cô đỏ mặt, nhớ lại rằng đó chính là cách cô đọc được về chuyến du hành của anh tới đảo Síp. “Chà, dù sao thì bây giờ là thế,” cô thêm. “Nhưng nó rất hay, Colin. Lôi cuốn như có ma lực vậy, và tự trong thâm tâm, anh phải biết thế chứ.”
Anh chỉ nhìn cô chằm chằm, như thể anh đơn giản không biết nói gì. Đó là vẻ biểu cảm cô đã từng chứng kiến trên vô vàn khuôn mặt, nhưng riêng trên mặt anh thì chưa bao giờ, vì vậy nó khơi dậy một cảm giác lạ lùng, kỳ cục. Cô muốn òa lên khóc, cô muốn vòng tay ra ôm chầm anh. Trên hết, trong cô nhức nhối nhu cầu trả lại nụ cười trên mặt anh.
“Em biết anh phải có những thời khắc như em đã miêu tả,” cô nhất định không chịu thôi. “Những thời khắc anh viết được câu nào đó rất đắt.” Cô nhìn anh chứa chan hy vọng. “Anh hiểu ý em, phải không?”
Anh không đáp lại.
“Anh hiểu mà,” cô nói. “Em biết anh hiểu. Anh không thể là một nhà văn mà lại không hiểu cảm xúc đó.”
“Anh không phải nhà văn,” anh nói.
“Tất nhiên là có chứ.” Cô ra hiệu về phía cuốn nhật ký. “Bằng chứng ngay kia còn gì.” Cô tiến về phía trước. “Colin, xin anh. Em đọc thêm chút xíu nữa thôi được không?”
Lần đầu tiên trông anh có vẻ ngập ngừng, và Penelope coi đó như một thắng lợi nho nhỏ. “Anh hầu như đã đọc hết những gì em viết rồi,” cô dụ dỗ. “Sẽ hoàn toàn công bằng nếu…”
Cô dừng lại khi thấy vẻ mặt anh. Cô không biết diễn tả ra sao, nhưng trông anh kín bưng, không thể đoán định, không nét biểu cảm.
“Colin?” cô thì thầm.
“Anh muốn giữ riêng cho mình hơn,” anh nói cụt lủn. “Nếu em không phiền.”
“Không, tất nhiên em không phiền rồi,” cô nói, nhưng cả hai đều biết cô đang nói dối.
Colin đứng bất động lặng lẽ đến độ cô không còn cách nào khác, đành cáo lỗi bỏ đi, để lại anh một mình trong phòng, bất lực nhìn chăm chăm cánh cửa.
Anh đã làm tổn thương cô.
Cho dù vô tình hay cố ý thì cũng thế thôi. Cô đã chìa bàn tay ra cố với về anh, nhưng anh không thể nắm tay cô.
Và điều tồi tệ nhất là anh biết cô không hiểu. Cô tưởng anh xấu hổ về cô. Anh đã nói không phải thế, nhưng vì không thể buộc mình nói ra sự thật - rằng anh đang ghen tị - nên anh không nghĩ rằng cô sẽ tin anh.
Chết tiệt, đến anh còn chẳng tin mình nữa là. Rõ ràng trông anh hệt như đang nói dối, bởi vì xét trên phương diện nào đó, đúng là anh đang nói dối thật. Hay ít nhất cũng là cứ khăng khăng giữ rịt lấy cái bí mật khiến anh khó chịu.
Nhưng đúng giây phút cô nhắc anh nhớ rằng anh đã đọc mọi điều cô viết, bên trong anh bỗng cuộn lên một cảm xúc xấu xa đen tối nào đó.
Anh đã đọc tất cả những bài viết của cô bởi vì cô đã xuất bản tất cả những bài viết đó. Trong khi đó, những dòng chữ nguệch ngoạc của anh lại phải ngồi ủ rũ không chút sinh lực trong các cuốn nhật ký, co rúc vào một góc sâu mà sẽ chẳng ai có thể nhìn thấy.
Những viết lách ấy còn ý nghĩa gì khi chẳng ai đọc chứ? Ngôn từ có nghĩa lý gì nếu chẳng thể được rót vào tai người khác chứ?
Anh chưa bao giờ tính đến chuyện xuất bản các tập nhật ký của mình cho đến tận khi Penelope đề xuất ý tưởng này vài tuần trước; và giờ thì suy nghĩ này gặm nhấm tâm trí anh suốt cả ngày lẫn đêm (tất nhiên vào những lúc tâm trí anh không bị hình ảnh Penelope choán hết). Nhưng anh bị mắc kẹt trong một nỗi sợ hãi mạnh mẽ. Nếu không ai muốn xuất bản tác phẩm của anh thì sao? Nếu có người xuất bản nhưng lại chỉ vì anh giàu có và nổi tiếng thì sao? Hơn bất cứ điều gì trên đời, Colin muốn được là chính mình, được biết đến bởi những thành tựu của mình chứ không phải bởi tên tuổi hay địa vị, hoặc thậm chí là bởi nụ cười hay sức quyến rũ của anh.
Và còn có một viễn cảnh đáng sợ hơn hết thảy: Nếu tác phẩm của anh được xuất bản nhưng lại chẳng được ai thích thì sao?
Anh đối diện với chuyện đó bằng cách nào đây? Liệu cuộc đời anh có thành cuộc đời của kẻ thất bại không?
Hay liệu nó có tệ hại hơn so với tình trạng hiện thời của anh không: một kẻ hèn nhát?
* * *
Chiều đó, sau khi Penelope đã nhấc mình ra khỏi ghế, uống một tách trà tẩm bổ, đi vẩn vơ quanh phòng ngủ và cuối cùng ngả người trên gối, mang theo một cuốn sách mà hẳn cô sẽ chẳng tài nào đọc được, thì Colin xuất hiện.
Thoạt tiên anh không nói gì, chỉ đứng đó mỉm cười với cô, chỉ có điều đó không phải một trong những nụ cười quen thuộc của anh - kiểu nụ cười tỏa rạng từ bên trong và dụ dỗ đối phương mỉm cười đáp lại.
Đây là một nụ cười nhẹ, một nụ cười bẽn lẽn.
Nụ cười xin lỗi.
Penelope úp sấp cuốn sách trên bụng.
“Anh ngồi được chứ?” Colin hỏi, ra hiệu về phía khoảng trống bên cạnh cô.
Penelope dịch sang bên phải. “Tất nhiên rồi,” cô lẩm bẩm, bỏ cuốn sách sang chiếc bàn đêm bên cạnh.
“Anh đã đánh dấu vài đoạn,” anh nói, vừa ghé lên mép giường vừa chìa cuốn nhật ký về phía trước. “Nếu em muốn đọc chúng, để” - anh hắng giọng - “đưa ra ý kiến, chuyện đó thì…” Anh lại húng hắng ho. “Chuyện đó thì anh rất hoan nghênh.”
Penelope nhìn cuốn nhật ký trong tay anh, được bọc bìa da trang nhã màu đỏ sậm, rồi cô ngước lên nhìn anh. Mặt anh toát lên vẻ nghiêm trang, đôi mắt anh sẫm màu hơn thường lệ, và dù anh tuyệt đối bình tĩnh - không run rẩy hay bồn chồn - cô vẫn dám chắc anh đang lo lắng.
Lo lắng. Colin. Dường như đây là điều không tưởng kỳ lạ nhất.
“Em rất vinh dự,” cô khẽ nói, nhẹ nhàng lôi cuốn sổ ra khỏi những ngón tay anh. Cô để ý thấy có vài trang được đánh dấu bằng ruy băng, và cô cẩn trọng mở một trong những chỗ đã được đánh dấu đó.
14 tháng Ba 1819
Miền núi Tây Bắc Scotland nâu đến lạ kỳ.
“Đó là lần anh đến thăm Francesca ở Scotland,” anh ngắt ngang.
Penelope trao cho anh một nụ cười nhẹ toát lên vẻ bao dung, hàm ý nhẹ nhàng trách móc anh vì đã xen vào.
“Anh xin lỗi,” anh lầm bầm.
Người ta, hay ít nhất những người đến từ nước Anh, hẳn sẽ cho rằng các rặng đồi và thung lũng phương Bắc đều đắm chìm trong màu xanh lục bảo. Xét cho cùng, Scotland cũng tọa lạc trên cùng một hòn đảo, và theo những nguồn tin thu được, cũng phải chịu đựng cùng một thứ mưa vẫn hành hạ nước Anh.
Tôi nghe nói những rặng đồi màu be lạ thường này được gọi là cao nguyên, và chúng có màu nâu, hoang tàn dãi gió dầm mưa. Ấy vậy nhưng chúng vẫn đủ sức khuấy động tâm hồn.
“Đó là khi anh đang ở khá cao so với mực nước biển,” anh giải thích. “Khi em ở thấp hơn hoặc gần hồ, cảm giác sẽ khác nhiều.”
Penelope quay sang lườm anh.
“Anh xin lỗi,” anh lầm bầm.
“Có lẽ anh sẽ thoải mái hơn nhiều nếu không đọc qua vai em đấy,” cô gợi ý.
Anh chớp chớp mắt ngạc nhiên.
“Em nghĩ là anh đã đọc hết từ trước rồi chứ.” Trước ánh mắt ngây ra của anh, cô thêm, “Vậy nên giờ anh đâu cần đọc nữa.” Cô đợi anh phản ứng nhưng chẳng thấy gì. “Vậy nên anh không cần gí sát đầu trên vai em thế,” cuối cùng cô nói nốt.
“Ồ.” Anh dịch ra một chút. “Anh xin lỗi.”
Penelope nhìn anh nghi ngờ. “Ra khỏi giường đi, Colin.”
Vẻ miễn cưỡng không để đâu cho hết, Colin nhấc mình ra khỏi giường và thả mình xuống một cái ghế tận cuối phòng, khoanh tay lại và gõ gõ chân theo một nhịp điệu bồn chồn bực bội.
Cộp cộp cộp. Cộp cộp cộp.
“Colin!”
Anh ngước mắt lên, vẻ ngạc nhiên chân thành. “Sao?”
“Đừng gõ chân nữa!”
Anh nhìn xuống như thể chân anh là vật thể lạ. “Anh đang gõ chân à?”
“Vâng.”
“Ồ.” Anh khép chặt vòng tay quanh ngực hơn. “Anh xin lỗi.”
Penelope hướng sự tập trung trở lại cuốn nhật ký.
Cộp cộp.
Penelope ngẩng phắt đầu lên. “Colin!”
Anh bấu chặt chân xuống tấm thảm. “Anh không đừng được. Anh còn không nhận ra mình đang làm thế nữa cơ.” Anh thả tay ra đặt lên trên mép ghế không bọc đệm, nhưng trông anh không hề thoải mái; cả mười ngón tay đều gập lại căng thẳng.
Cô nhìn anh không chớp mắt, chờ xem liệu anh có ngồi yên được thật không.
“Anh không làm thế nữa đâu,” anh trấn an cô. “Anh hứa đấy.” Cô lườm anh trách móc lần cuối, rồi quay trở về với những dòng chữ trước mặt.
Nhắc đến dân chúng thì người Scotland chẳng coi người Anh ra gì, và quả thật rất nhiều người hoàn toàn có lý do để nói thế. Nhưng với từng cá nhân thì họ khá niềm nở, thân thiện, sẵn lòng chia sẻ một ly rượu whisky, một bữa ăn nóng hổi, hay một chiếc giường ấm áp. Những người Anh đi thành từng nhóm - hay, thành thực mà nói, bất kỳ người Anh nào mặc bất kỳ loại đồng phục nào - sẽ không nhận được sự đón chào nồng nhiệt tại bất cứ ngôi làng Scotland nào. Nhưng nếu một người Anh cô độc lộc cộc cưỡi ngựa thả nước kiệu trên những con đường Scotland thênh thang, người dân địa phương sẽ đón chào anh ta bằng nụ cười rạng rỡ và vòng tay rộng mở.
Chính tôi đã nhận được sự đón tiếp đó tại Inveraray, bên bờ Loch Fyne. Một thị trấn sạch sẽ gọn gàng được quy hoạch hợp lý dưới tài thiết kế của Robert Adam từ hồi Công tước Argyll quyết định di dời toàn bộ ngôi làng để tìm kiếm không gian cho tòa lâu đài mới của ông. Nó tọa lạc bên mép nước, những dãy nhà quét vôi trắng san sát đều tăm tắp nằm vuông góc với nhau (một cách bố trí gọn gàng trật tự hiển nhiên khá lạ lùng đối với tôi, một người đã được sinh ra và lớn lên giữa những ngã rẽ quanh co uốn lượn của đường phố Luân Đôn).
Tôi đang dùng bữa tối tại khách sạn George, tận hưởng món whisky ngon lành thay cho vại bia quen thuộc người ta thường uống tại một cơ ngơi tương tự ở Anh, thì chợt nhận ra rằng mình không mảy may ý thức được phải làm sao để đi tới điểm đến tiếp theo, hay cũng không biết từ đây đến đó cách bao xa. Tôi bèn gặp chủ khách sạn (một ông Clark nào đó), trình bày ý định đến thăm lâu đài Blair, và rồi chỉ còn biết chớp mắt ngạc nhiên bối rối khi những vị khách khác đều nhao nhao chỉ dẫn. “Lâu đài Blair à?” ông Clark nói oang oang. (Ông vốn quen nói oang oang, không thích trò chuyện nhẹ nhàng). “Chà, này nhé, nếu ngài muốn đến lâu đài Blair, chắc chắn ngài nên đi về hướng Tây tới Pitlochry rồi từ đó đi theo hướng Bắc.”
Lời chỉ dẫn nhận được một tràng đồng thanh tán thưởng - và một tràng phản đối cũng ầm ĩ chẳng kém.
“Ối giời, không đâu!” một người khác hét lên (sau này tôi được biết tên anh ta là MacBogel). “Vậy thì ngài ấy sẽ phải băng qua hồ Loch Toy, rồi thể nào cũng được nếm mùi tai họa kinh hồn đáng tởm cho xem. Tốt hơn hết là ngay từ đây đi theo hướng Bắc, sau đó hãy rẽ sang hướng Tây.”
“Ây da,” người thứ ba xen vào, “nhưng nếu thế giữa đường ngài ấy sẽ đụng phải núi Ben Nevis mất. Anh tưởng một ngọn núi lại ít trở ngại hơn một cái hồ vớ vẩn đấy à?”
“Anh bảo hồ Loch Toy bé tí á? Xin thưa với anh là tôi đã được sinh ra ngay trên bờ hồ Loch Toy đấy, và đừng hòng có ai dám gọi nó là vớ vẩn trước mặt tôi.” (Tôi không biết ai nói câu này, nhưng câu nói chan chứa cảm xúc và hàm ý buộc tội).
“Ngài ấy đâu cần lặn lội tới tận Ben Nevis. Đến Glencoe là rẽ về phía Tây được rồi.”
“Ô hô hô, anh say rượu đấy à. Từ Glencoe rẽ về hướng Tây thì đường có dễ đi đâu. Anh định giết chết anh chàng tội nghiệp này đấy à?”
Và chuyện cứ liên miên lan man mãi. Chắc hẳn quý độc giả đã nhận thấy tôi không còn liệt kê người nào nói câu nào nữa, vì đến lúc này thì mọi người đều đã nhao nhao hết cả lên thành ra chẳng thể phân biệt được giọng nào với giọng nào, và họ cứ nói qua nói lại thế phải tới mười phút là ít, rồi thì cuối cùng, cụ Angus Campbell, vừa tròn tám mươi tuổi, lên tiếng, và để thể hiện lòng kính trọng, tất cả mọi người đều im lặng.
“Con đường ngài ấy nên đi,” cụ Angus khò khè, “là đi theo hướng Nam tới Kintyre, sau đó rẽ ngược về hướng Bắc, băng qua cửa sông Lome tới Mull để từ đó tới Iona, giong buồm đến Skye, đi đường bộ tới Ullapool, quay ngược lại Inverness, đến thăm Culloden và từ đó ngài ấy có thể đi theo hướng Nam tới lâu đài Blair, nếu thích có thể dừng chân ở Grampian để xem người ta đã chế biến rượu whisky đích thực như thế nào.”
Bầu không khí chìm trong im lặng tuyệt đối. Cuối cùng, một người đàn ông dũng cảm chỉ ra vấn đề, “Nhưng như thế sẽ mất cả tháng.”
“Có ai nói không đâu,” ông cụ Campbell nói, vẻ thách thức mơ hồ. “Anh chàng người Anh này đến đây để khám phá Scotland mà. Anh tưởng ngài ấy sẽ bảo nếu có thể đơn giản đi thẳng một lèo từ đây đến Perthshire là ngài ấy làm theo luôn rồi chắc?”
Tôi nhận ra mình đang mỉm cười, và ngay lúc đó tôi đã quyết định xong. Tôi sẽ đi theo đúng lộ trình đó, và khi quay trở về Luân Đôn, tự trong thâm tâm, tôi sẽ biết rõ mình đã hiểu Scotland rồi.
Colin không rời mắt khỏi Penelope khi cô đang đọc. Thỉnh thoảng cô mỉm cười, làm trái tim anh bật nảy lên, và rồi ngay lập tức anh nhận ra nụ cười của cô đã trở nên thường trực, môi cô mím lại như cố ngăn tiếng cười.
Colin nhận ra anh cũng đang mỉm cười.
Phản ứng của cô trong lần đầu tiên đọc những trang viết của anh đã khiến anh bất ngờ; cô tiếp nhận tác phẩm của anh với sự nồng nhiệt say mê, ấy vậy nhưng khi nói về nó với anh thì lại chứng tỏ óc phân tích vô cùng rõ ràng chính xác. Tất nhiên đến giờ thì điều đó hoàn toàn có thể lý giải được. Cô cũng là một nhà văn, có lẽ là một nhà văn xuất sắc hơn anh nhiều, và trong tất cả những hiểu biết của cô về thế giới này, cô đặc biệt thấu hiểu về ngôn ngữ.
Không thể tin nổi anh phải mất bằng ấy thời gian mới chịu hỏi ý kiến cô. Có lẽ nỗi sợ hãi đã ngăn cản anh. Nỗi sợ hãi, lo lắng và cả đống những cảm xúc ngu ngốc mà anh cứ vờ như không xứng với anh.
Có ai ngờ ý kiến của một người phụ nữ lại quan trọng với anh đến thế chứ? Anh đã viết nhật ký trong nhiều năm, cẩn thận ghi chép lại các chuyến du hành của mình, cố gắng lưu giữ không chỉ những gì anh đã thấy đã làm, cố gắng lưu giữ những gì anh đã cảm nhận. Và anh chưa từng cho bất kỳ ai xem.
Cho tới tận bây giờ.
Anh chưa từng mong muốn đưa những cuốn nhật ký này cho bất kỳ ai. Không, không hẳn thế. Thẳm sâu trong trái tim, anh những muốn đưa nó cho một vài người, nhưng dường như chẳng bao giờ có thời điểm thích hợp, hoặc anh lại cho rằng họ sẽ nói dối, giả vờ phát biểu những câu dễ nghe hòng làm anh vui lòng.
Nhưng Penelope thì khác. Cô là một nhà văn. Cô cũng là một nhà văn xuất sắc vô cùng nữa. Và nếu cô nói những trang nhật ký của anh rất hay thì anh có thể tin rằng nó đúng là hay thật.
Cô khẽ mím môi lại trong lúc lật một trang giấy, cau mày khi các ngón tay không tìm ra lực đẩy. Sau khi thấm nước bọt lên ngón tay giữa, cô giữ được trang giấy lệch chuẩn và lại bắt đầu đọc.
Và lại mỉm cười.
Colin thở phào, không hề ý thức được nãy giờ mình vẫn đang nín thở.
Cuối cùng, cô đặt quyển sổ xuống lòng, để mở đúng đoạn cô đang đọc dở. Ngước mắt lên, cô hỏi. “Có lẽ anh muốn em dừng lại ở cuối bài viết này?”
Đây không hẳn là câu nói anh chờ đợi, thành ra anh bị ngơ ngẩn mất một lúc. “Ờ, nếu em muốn,” anh lắp bắp. “Nếu em muốn đọc thêm thì chắc cũng không vấn đề gì.”
Dường như vầng mặt trời vừa đột ngột sà xuống ngự trên nụ cười cô. “Tất nhiên em muốn đọc thêm rồi,” cô háo hức. “Em nóng lòng muốn biết anh đã gặp chuyện gì khi tới Kintyre, Mull và” - cau mày, cô lướt qua cuốn sổ đang để nỏ - “và Skye, Ullapool, Culloden và Grampian” - cô lại liếc xuống cuốn sổ - “ồ, phải, tất nhiên là lâu đài Blair nữa, nếu anh đã đến được đấy thật. Em đoán là anh đã lên kế hoạch thăm thú bạn bè.”
Anh gật đầu. “Murray,” anh nói, nhắc đến người bạn học thân thiết em của Công tước Atholl. “Nhưng anh cần phải cho em biết là cuối cùn 7f4a g anh lại không đi đúng theo con đường ông cụ Angus Campbell đã chỉ dẫn. Vì anh không sao tìm ra đường dẫn đến một nửa địa điểm được ông ấy nhắc đến.”
“Có lẽ,” cô nói, đôi mắt dần trở nên mơ màng, “chúng ta nên đến đó trong kỳ trăng mật.”
“Scotland á?” anh hỏi, ngạc nhiên thật sự. “Em không muốn đến nơi nào ấm áp khác lạ à?”
“Với những người chưa bao giờ bước chân ra khỏi Luân Đôn quá một trăm dặm,” cô nói chẳng chút nhẹ nhàng, “Scotland đã khác lạ lắm rồi.”
“Anh có thể đảm bảo với em,” anh mỉm cười nói, băng qua căn phòng đến ngồi bên mép giường, “Italy còn tươi đẹp lạ kỳ hơn nhiều. Và lãng mạn hơn nữa.”
Cô đỏ mặt, khiến anh thấy khá thích thú. “Ồ,” cô nói, có vẻ hơi xấu hổ. (Anh băn khoăn không biết anh còn có thể duy trì được bao lâu khả năng làm cô ngượng ngùng bất kỳ khi nào đả động đến sự lãng mạn, tình yêu cùng tất cả những hoạt động tuyệt vời đi kèm với chúng.)
“Lần khác chúng ta sẽ tới Scotland,” anh đảm bảo với cô. “Dù sao thì cứ vài năm một lần anh lại đi về phương Bắc để thăm Francesca.”
“Em không ngờ anh lại hỏi ý kiến em,” Penelope nói sau một khoảng lặng ngắn ngủi.
“Anh còn hỏi ai được nữa chứ?”
“Em không biết,” cô đáp, tỏ ra hứng thú đột xuất với cách những ngón tay đang giật giật tấm khăn trải giường. “Các anh trai anh chẳng hạn.”
Anh đặt tay lên bàn tay cô. “Họ thì biết gì về chuyện viết lách chứ?”
Cằm cô hếch lên và đôi mắt cô, nâu, trong sáng, ấm áp, quấn lấy mắt anh. “Em biết anh luôn coi trọng ý kiến của họ.”
“Đúng vậy,” anh thừa nhận, “nhưng anh coi trọng ý kiến của em hơn.”
Anh chăm chú quan sát cô, nhìn cảm xúc lan tỏa trên khuôn mặt cô. “Nhưng anh không thích các bài viết của em,” cô nói, giọng vừa e dè vừa hy vọng.
Anh đưa tay lên gò má cô, dịu dàng áp bàn tay ở nguyên đó, để đảm bảo rằng cô sẽ nhìn thẳng vào anh khi anh nói. “Hoàn toàn không phải thế,” anh nói, giọng căng thẳng tột độ. “Anh nghĩ em là một nhà văn vô cùng xuất sắc. Em đã lột tả chính xác bản chất của một người bằng sự giản dị và hài hước độc nhất vô nhị. Hơn mười năm, em đã khiến mọi người cười. Em đã khiến mọi người cau mày nhăn mặt. Em đã khiến mọi người phải suy nghĩ, Penelope. Em đã khiến mọi người phải suy nghĩ. Anh không biết liệu còn có thành tựu nào cao quý hơn thế không.”
“Chưa kể,” anh nói tiếp, gần như không thể dừng lại được một khi đã bắt đầu, “em đã viết về xã hội thượng lưu chứ không phải bất cứ đề tài nào khác. Em viết về xã hội thượng lưu, và em khiến nó trở nên thú vị, hấp dẫn và hài hước, trong khi tất cả chúng ta đều biết rằng bình thường nó vẫn tẻ ngắt không để đâu cho hết.”
Penelope không thể nói gì trong suốt một lúc lâu như hàng thế kỷ. Nhiều năm nay, cô vẫn luôn tự hào về công việc của mình và vẫn thầm mỉm cười mỗi khi nghe thấy ai đó trích lại một bài báo nào đó của cô hoặc cười phá lên trước câu châm biếm nào đó của cô. Nhưng cô không có ai để chia sẻ vinh quang của mình.
Làm một người ẩn danh có nghĩa là sẽ phải song hành cùng viễn cảnh cô độc.
Nhưng giờ cô đã có Colin. Và cho dù cả thế giới này không bao giờ biết Phu nhân Whistledown thực ra là bà-cô-già-cho-tới-tận-phút-chót Penelope Featherington tầm thường chẳng mấy ai để ý, nhưng Colin đã biết. Và Penelope đã dần nhận ra rằng mặc dù đó không phải điều quan trọng duy nhất, nhưng nó là điều có ý nghĩa lớn lao nhất.
Nhưng cô vẫn không hiểu hành động của anh.
“Vậy,” cô hỏi anh, chậm rãi và chọn lựa từ ngữ cẩn trọng, “tại sao anh lại trở nên xa cách và lạnh lùng đến thế mỗi lần em đề cập đến vấn đề này?”
Khi anh trả lời, giọng anh gần như chỉ là tiếng lầm lầm. “Chuyện khó giải thích lắm.”
“Em là người rất biết cách lắng nghe mà,” cô khẽ nói.
Bàn tay anh, vốn đang đỡ lấy khuôn mặt cô một cách thân thương đến thế, rơi xuống lòng. Và anh nói một điều cô không bao giờ ngờ tới.
“Anh ghen tị.” Anh nhún vai bất lực. “Anh xin lỗi.”
“Em không hiểu ý anh,” cô nói, không chủ tâm thì thầm nhưng lại chẳng đủ hơi sức để làm khác được.
“Nhìn em mà xem, Penelope.” Anh ấp cả hai bàn tay cô trong tay mình và xoay người lại để họ đối diện nhau. “Em đã đạt được thành công vĩ đại.”
“Một người thành công ẩn danh,” cô nhắc nhở anh.
“Nhưng em biết, anh biết, và ngoài ra, ý anh không phải thế.” Anh thả một bàn tay cô ra và lùa tay vào mái tóc, tìm cách diễn đạt chính xác. “Em đã đạt được một điều gì đó. Em đã có tác phẩm.”
“Nhưng anh có…”
“Anh có gì, Penelope?” anh cắt ngang, giọng càng lúc càng xúc động, rồi anh đứng hẳn dậy, bắt đầu đi đi lại lại. “Anh có gì?”
“Thì, anh có em,” cô nói, nhưng lời lẽ thiếu hẳn sức thuyết phục. Cô biết thừa ý anh không phải thế.
Anh nhìn cô bằng ánh mắt mệt mỏi. “Anh không nói về chuyện đó, Penelope…”
“Em hiểu.”
“… Anh cần một thứ gì đó để hướng tới,” anh nói, ngay sau câu nói khẽ khàng của cô. “Anh cần một mục đích. Anthony đã có, anh Benedict cũng đã có, nhưng anh thì chẳng có gì đáng kể.”
“Colin, không phải thế. Anh…”
“Anh đã phát ốm lên khi ai cũng nghĩ anh chỉ là một…” Anh đột ngột dừng lại.
“Sao, Colin?” cô hỏi, hơi choáng váng bởi vẻ phẫn nộ đột nhiên hiện lên trên mặt anh.
“Lạy Chúa,” anh chửi thề, giọng trầm trầm, chữ M đang rít ra khỏi miệng anh.
Mắt cô trợn tròn. Colin không phải người hay chửi tục.
“Anh không tin nổi,” anh lầm bầm, đầu giật về bên trái, như thể anh đang lưỡng lự.
“Anh đã kêu ca với em,” anh nói giọng hoài nghi. “Anh đã kêu ca với em về Phu nhân Whistledown.”
Cô nhăn mặt. “Nhiều người làm thế lắm, Colin. Em quen rồi.”
“Anh không tin nổi. Anh đã kêu ca với em chuyện Phu nhân Whistledown bảo anh quyến rũ.”
“Bà ta đã gọi em là quả cam chua lè chín nẫu đấy thôi,” Penelope nói, cố gắng tỏ ra vấn đề chẳng có gì to tát.
Anh dừng bước, vừa đủ thời gian để bắn cho cô một ánh mắt khó chịu. “Có phải em đã cười thầm vào mũi anh suốt thời gian anh rên rỉ rằng cách duy nhất giúp anh được hậu thế nhớ lại là trong các bài báo của Whistledown?”
“Không!” cô kêu lên. “Em tưởng anh hiểu em rõ hơn thế chứ.”
Anh lắc đầu với vẻ hoài nghi. “Không tin nổi anh đã ngồi đó, kêu ca với em rằng anh chẳng có thành tựu nào cả, trong khi em chính là Whistledown một trăm phần trăm.”
Cô rời khỏi giường, đứng hẳn dậy. Chẳng thể nào ngồi yên ở đó trong khi anh cứ đi đi lại lại như con hổ bị nhốt trong cũi. “Colin, hồi đó anh đâu thể biết được.”
“Tuy nhiên.” Anh bật ra một hơi thở phẫn nộ. “Sự trớ trêu hẳn sẽ hay ho lắm nếu không phải nó nhắm thẳng vào anh.”
Penelope hé miệng định nói, nhưng cô không biết làm sao có thể diễn tả hết được những cảm nghĩ từ tận gan ruột cô. Colin đã quá thành đạt, cô thậm chí không thể liệt kê hết những thành tựu anh đã đạt được. Chúng không phải những thứ mà người ta có thể cầm nắm giống như những bản in của Thời báo Xã hội của Phu nhân Whistledown, nhưng chúng cũng đặc biệt không kém gì.
Thậm chí có khi còn đặc biệt hơn nhiều.
Penelope nhớ lại hết thảy những khoảnh khắc anh đã khiến mọi người cười, hết thảy những khoảnh khắc anh bỏ qua mọi thiếu nữ nổi tiếng tại các vũ hội để mời một cô gái phải đứng chầu rìa nào đó ra sàn khiêu vũ. Cô nghĩ đến mối liên kết mạnh mẽ, gần như diệu kỳ mà anh chia sẻ cùng các anh chị em của mình. Nếu những điều đó không được gọi là thành tựu thì cô không biết còn thứ gì khác xứng đáng nữa.
Nhưng cô biết đó không phải điều anh đang muốn nhắc đến. Cô biết anh cần gì: một mục đích, một nghề nghiệp.
Một điều gì đó giúp anh chứng tỏ với cả thế giới rằng anh không chỉ như người ta vẫn nghĩ.
“Xuất bản các hồi ký du lịch của anh đi,” cô đề xuất.
“Anh không…”
“Xuất bản chúng đi,” cô nhắc lại. “Hãy nắm bắt cơ hội và xem liệu anh có thể bay cao không.”
Mắt anh gặp mắt cô, dừng ở đó một lát trước khi trượt xuống cuốn nhật ký vẫn đang bị tay cô nắm chặt. “Chúng cần được biên tập,” anh lầm bầm.
Penelope bật cười, vì cô biết cô đã thắng. Và anh cũng đã chiến thắng. Dù anh vẫn không biết, nhưng đúng là anh đã thắng.
“Ai cũng cần phải biên tập mà,” cô nói, nụ cười mỗi lúc một thêm tỏa rạng. “Thôi được, có lẽ là trừ em,” cô trêu. “Mà cũng có thể chính em cũng cần,” cô nhún vai bổ sung. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được, vì em đâu có ai để biên tập hộ mình.”
Anh đột nhiên ngẩng phắt đầu lên. “Sao em làm được chuyện đó?”
“Sao em làm được cái gì?”
Anh mím môi sốt ruột. “Em hiểu ý anh mà. Sao em ra được tờ báo đó? Ngoài việc viết lách ra vẫn còn nhiều chuyện khác nữa. Em phải in ấn và phát hành. Phải có người biết em là ai chứ.”
Cô thở một hơi dài. Cô đã nắm giữ những bí mật này lâu đến nỗi việc chia sẻ nó, dù là với chồng cô, vẫn mang lại trong cô một cảm xúc lạ lùng. “Chuyện dài lắm,” cô nói với anh. “Có lẽ chúng ta ngồi xuống thì hơn.”
Anh dẫn cô về giường, và cả hai ngồi thật thoải mái, dựa lưng vào gối, chân duỗi dài trước mặt.
“Em bắt đầu chuyện này từ hồi còn rất trẻ,” Penelope mở lời. “Mới mười bảy tuổi. Và chuyện xảy ra rất tình cờ.”
Anh mỉm cười. “Làm sao một chuyện như thế lại có thể xảy ra tình cờ được?”
“Em chỉ viết chơi thôi. Mùa vũ hội đầu tiên đó em đáng thương quá.” Cô ngước nhìn anh nghiêm trang. “Em không biết liệu anh có nhớ không, nhưng hồi đó em thừa đến tận quá sáu cân, và ngay cả giờ trông em cũng chẳng mảnh mai hợp thời gì.”
“Anh thấy em thật hoàn hảo,” anh chân thành nói.
Đó cũng chính là một phần lý do khiến cô cảm thấy anh cũng thật hoàn hảo, Penelope thầm nghĩ.
“Dù sao thì,” cô tiếp tục, “em đã chẳng được vui vẻ hạnh phúc gì cho cam, vậy nên em đã viết một bài có phần châm biếm về bữa tiệc em được tham gia tối hôm trước. Rồi thì sau đó em viết thêm bài nữa, bài nữa. Em không ký tên là Phu nhân Whistledown; em chỉ viết cho vui và giấu trong bàn viết của em. Chỉ có điều một hôm em quên giấu chúng đi.”
Anh ngả người về phía trước, chăm chú như bị thôi miên. “Sau đó có chuyện gì?”
“Nhà em đi vắng hết, và em biết mọi người còn lâu mới về, vì hồi đó mẹ em vẫn nuôi mộng biến Prudence thành một cô gái tuyệt hảo, và họ thường mua sắm suốt cả ngày.”
Colin khoát tay trong không trung, ra dấu cô nên đi thẳng vào vấn đề.
“Dù sao đi nữa,” Penelope tiếp tục, “em đã quyết định sẽ làm việc trong phòng khách tại vì phòng em bị ẩm mốc do chẳng biết người nào - chà, có lẽ chính là em - đã để mở cửa sổ đúng lúc trời đang có bão. Nhưng rồi em phải… chà, anh biết rồi đấy.”
“Không,” Colin bất ngờ nói. “Anh không biết.”
“Giải quyết việc cá nhân,” Penelope thì thầm, đỏ mặt.
“Ồ. Phải,” anh nói, bỏ qua vấn đề, rõ ràng cũng không hứng thú với phần này. “Tiếp tục đi.”
“Khi em quay lại, cố vấn của cha em đang ở đó. Và ông ấy đang đọc bài viết của em. Em sợ quá chừng!”
“Chuyện gì vậy?”
“Em thậm chí còn không nói nổi nên lời suốt một phút. Nhưng rồi em nhận ra ông ấy đang cười, và không phải vì ông ấy cho rằng em thật ngu ngốc, mà do ông ấy nghĩ em giỏi.”
“Chà, em giỏi thật mà.”
“Giờ thì em biết thế,” cô nói, mỉm cười gượng gạo, “nhưng anh phải nhớ là hồi đó em mới mười bảy. Và em lại viết những chuyện khá kinh khủng trong đó.”
“Về những người kinh khủng, anh dám chắc thế,” anh nói.
“Chà, phải, nhưng dù sao…” Cô nhắm mắt lại trong lúc ký ức quay cuồng trong tâm trí. “Họ là những người nổi tiếng. Những người quyền thế. Không yêu quý em lắm. Nếu những điều em nói bị phơi bày thì cho dù họ có kinh khủng hay không cũng chẳng có gì quan trọng. Thật ra, có lẽ vì họ là người kinh khủng nên mọi chuyện sẽ càng tệ hại hơn. Em sẽ bị hủy hoại, và em sẽ kéo cả gia đình bị hủy hoại theo mình.”
“Rồi sau đó thì sao? Anh đoán chính ông ấy đã nảy ra ý tưởng xuất bản.”
Penelope gật đầu. “Phải. Ông ấy đã thu xếp mọi chuyện với nhà xuất bản, và họ tìm thấy các cậu bé giao báo. Chính ông ấy đã nghĩ đến chuyện giao miễn phí trong hai tuần đầu. Ông ấy nói bọn em phải đầu độc giới thượng lưu.”
“Lúc tờ báo mới được xuất bản thì anh đang ở nước ngoài,” Colin nói, “nhưng anh vẫn nhớ mẹ và các em gái đã kể hết cho anh về nó.”
“Người ta gầm lên khi các cậu bé giao báo đòi tiền sau hai tuần miễn phí,” Penelope nói. “Nhưng ai cũng mua cả.”
“Một ý tưởng khôn ngoan mà ngài cố vấn của em đã nghĩ ra,” Colin lẩm bẩm.
“Phải, ông ấy đã là người rất hiểu biết.”
Anh phát hiện ra cô sử dụng thời quá khứ. “Đã à?”
Cô gật đầu buồn bã. “Ông ấy mất được vài năm rồi. Nhưng ông ấy biết mình bị bệnh nên trước khi qua đời đã hỏi em liệu có muốn tiếp tục không. Lẽ ra hồi đó em có thể dừng lại, nhưng cuộc đời em chẳng có gì hết, và chắc chắn em chẳng thể mơ đến chuyện lấy chồng.” Cô liếc vội anh. “Em không có ý… Em định nói là…”
Môi anh mím lại thành nụ cười tự giễu. “Em cứ việc mắng mỏ anh tùy thích vì đã không cầu hôn em từ nhiều năm trước.”
Penelope mỉm cười đáp trả nụ cười của anh. Có gì đáng ngạc nhiên khi cô yêu người đàn ông này chứ?
“Nhưng,” anh nói khá kiên quyết, “chỉ sau khi em kết thúc câu chuyện thôi.”
“Được rồi,” cô nói, buộc tâm trí quay trở lại với vấn đề dang dở. “Sau khi ông…” Cô nhìn lên lưỡng lự. “Em không chắc mình có nên nói tên ông ấy không.”
Colin biết cô đang bị giằng xé giữa tình yêu và sự tin tưởng dành cho anh với lòng trung thành đối với người đàn ông rất có thể đã trở thành người cha của cô khi cha ruột cô xa lìa trần thế. “Không sao đâu,” anh dịu dàng nói. “Ông ấy đã qua đời rồi. Tên ông ấy là gì không quan trọng.”
Cô thở nhẹ. “Cảm ơn anh,” cô nói, nhằn nhằn môi dưới. “Không phải em không tin tưởng anh. Em…”
“Anh biết,” anh trấn an, siết chặt các ngón tay cô. “Em muốn nói với anh sau cũng được. Mà nếu không nói cũng không vấn đề gì.”
Cô gật đầu, mím chặt môi, một vẻ căng thẳng thường có mỗi khi người ta cố nén tiếng khóc. “Sau khi ông ấy mất, em làm việc trực tiếp với nhà xuất bản. Bọn em thành lập một hệ thống giao báo, và lợi nhuận sẽ được tiếp tục thanh toán theo đúng cách thức từ xưa đến nay - trả thẳng vào tài khoản mang tên em.”
Colin nín thở, thầm nghĩ không biết bao nhiêu năm qua cô đã kiếm được bao nhiêu tiền. Nhưng làm sao cô có thể tiêu chúng mà không khiến ai nghi ngờ chứ. “Em có rút ra lần nào không?” anh hỏi.
Cô gật đầu. “Sau khi em làm việc được bốn năm, bà cố của em qua đời và để lại tài sản cho mẹ em. Cố vấn của cha em đã viết di chúc. Bà cố không giàu có gì, vậy nên bọn em lấy tiền của em và vờ như nó là của bà cố.” Khuôn mặt Penelope hơi sáng lên trong lúc cô lắc đầu bối rối. “Mẹ em rất ngạc nhiên. Mẹ không bao giờ dám mơ dì Georgette lại giàu có đến thế. Mẹ cười hàng tháng trời. Em chưa từng chứng kiến chuyện ấy bao giờ.”
“Em tử tế quá,” Colin nói.
Penelope nhún vai. “Đó là cách duy nhất em có thể tiêu tiền của mình.”
“Nhưng em đã đưa cho mẹ em,” anh chỉ ra vấn đề.
“Bà ấy là mẹ em mà,” cô nói, như thể nhất thiết phải giải thích mọi chuyện. “Bà đã nuôi dưỡng em. Cũng chỉ là chuyện nước chảy xuôi dòng thôi mà.”
Anh định nói thêm nhưng rồi lại thôi. Bà Portia Featherington là mẹ của Penelope, và nếu Penelope muốn yêu bà thì anh sẽ không ngăn cản cô.
“Từ đó trở đi,” Penelope nói, “em không hề chạm đến nó. Đúng ra, không dùng cho bản thân em. Em đã trích một ít tiền làm từ thiện.” Khuôn mặt cô lộ vẻ châm biếm. “Ẩn danh.”
Anh không nói gì suốt một lúc, chỉ dành thời gian nghĩ đến tất cả những gì cô đã làm trong suốt thập kỷ qua, hoàn toàn một mình, hoàn toàn bí mật. “Nếu giờ muốn có tiền,” cuối cùng anh nói, “em nên dùng đi. Sẽ không ai đặt vấn đề tại sao em lại đột nhiên giàu có hơn hẳn đâu. Xét cho cùng, em cũng là một Bridgerton mà.” Anh nhún vai khiêm tốn. “Ai cũng biết anh Anthony chu cấp rất hào phòng cho tất cả các em trai anh ấy.”
“Em thậm chí còn chẳng biết phải làm gì cho hết số tiền ấy nữa là.”
“Mua món gì đó mới đi,” anh đề nghị. Chẳng phải phụ nữ nào cũng thích mua sắm sao?
Cô nhìn anh bằng vẻ mặt kỳ quái, gần như bí hiểm. “Em không biết liệu anh có hiểu hết được em có bao nhiêu tiền không,” cô nói thẳng thắn. “Em không nghĩ là em có thể tiêu hết được.”
“Vậy, để dành nó cho con của chúng ta vậy,” anh nói. “Anh cũng có tài sản do cha và anh trai anh cung cấp khá hào phòng, nhưng không phải mọi người con trai thứ đều may mắn thế.”
“Và cả các cô con gái nữa,” Penelope nhắc nhở anh. “Con gái chúng ta cũng nên có tiền riêng. Ngoài khoản hồi môn.”
Colin không thể không mỉm cười. Một cách giải quyết hiếm có, nhưng chắc chắn Penelope sẽ khăng khăng làm theo. “Em muốn gì cũng được,” anh âu yếm nói.
Cô mỉm cười và thở dài, ngả người trở lại gối. Ngón tay cô lơ đãng nhảy múa khắp làn da trên mu bàn tay cô, nhưng đôi mắt cô xa xăm, và anh không nghĩ là cô ý thức được về các hành động của mình.
“Em phải thú nhận một chuyện,” cô nói, giọng lặng lẽ và thậm chí còn có chút ngượng ngùng.
Anh nhìn cô ngờ vực. “Quan trọng hơn cả Whistledown?”
“Khác hẳn.”
“Chuyện gì vậy?”
Cô rời mắt khỏi vị trí ngẫu nhiên nào đó trên bức tường đã thu hút ánh nhìn của cô suốt từ nãy đến giờ và dồn toàn bộ sự chú ý cho anh.
“Dạo gần đây, em cảm thấy hơi” - cô nhay nhay môi, dừng lại một lúc, tìm kiếm từ ngữ phù hợp - “mất kiên nhẫn với anh. Không, không hẳn thế,” cô nói. “Thất vọng thì đúng hơn.”
Một cảm giác kỳ lạ bắt đầu nhói lên trong ngực anh. “Thất vọng như thế nào?” anh cẩn trọng hỏi.
Cô khẽ nhún vai. “Anh có vẻ khó chịu với em. Về chuyện Whistledown.”
“Anh đã bảo em là tại…”
“Đừng, xin anh,” cô nói, dịu dàng đặt tay lên ngực anh ngăn lại. “Cứ để em nói nốt đã. Em đã bảo anh em tưởng là tại anh xấu hổ về em, và em đã cố không để ý, nhưng thật ra, em rất đau lòng. Em cứ ngỡ mình hiểu rõ anh là người như thế nào, và em không thể tin được con người đó lại nghĩ bản thân mình quá cao xa so với em đến nỗi cảm thấy xấu hổ đến thế trước những thành tựu của em.”
Anh lặng lẽ nhìn cô không chớp mắt, chờ cô nói tiếp.
“Nhưng điều buồn cười là…” Cô quay sang anh mang theo nụ cười thông thái. “Điều buồn cười là chuyện hoàn toàn không phải tại anh xấu hổ về em. Tất cả chỉ tại anh cũng muốn chính mình có được một điều gì đó tương tự. Một điều gì đó giống như Whistledown. Giờ nghĩ lại mới thấy em ngốc thật, nhưng em đã quá lo lắng vì anh không giống với người đàn ông hoàn hảo trong giấc mơ của em.”
“Không ai hoàn hảo cả,” anh lặng lẽ nói.
“Em biết.” Cô nghiêng người đặt lên má anh một nụ hôn bốc đồng. “Anh là người đàn ông không hoàn hảo của trái tim em, và chuyện đó thậm chí còn tuyệt vời hơn. Em vẫn luôn nghĩ rằng anh là người không có chút tì vết nào, rằng cuộc sống của anh thật đẹp, rằng anh không cần phải lo lắng hay sợ hãi về những ước mơ không vẹn toàn. Nhưng thật tình em như thế là không công bằng.”
“Anh không bao giờ xấu hổ về em, Penelope,” anh thầm thì. “Không bao giờ.”
Họ im lặng ngồi bên nhau một lúc lâu, rồi Penelope hỏi, “Anh có nhớ lần em hỏi anh liệu chúng mình có thể đi hưởng kỳ trăng mật muộn được không?”
Anh gật đầu.
“Sao chúng mình không dùng khoản tiền của em từ Whistledown để thực hiện chuyện đó?”
“Anh sẽ dùng tiền của anh để trả cho kỳ trăng mật.”
“Được thôi,” cô nói với vẻ kiêu kỳ. “Anh có thể trích nó từ khoản trợ cấp hàng quý của anh.”
Anh choáng váng nhìn cô chằm chằm, rồi cười rú lên. “Em định cho anh tiền tiêu vặt đấy à?” anh hỏi, không thể kiềm chế được nụ cười toe toét đang nở bừng trên mặt.
“Nhuận bút chứ,” cô sửa lại. “Để anh có thể viết nhật ký.”
“Nhuận bút,” anh trầm ngâm. “Anh thích thế đấy.”
Cô mỉm cười đặt tay lên tay anh. “Em thích anh.”
Anh siết chặt ngón tay cô. “Anh cũng thích em.”
Penelope thở dài ngả đầu vào vai anh. “Chẳng phải thế này chính là cuộc sống tuyệt vời sao.”
“Anh nghĩ thế,” anh lầm bầm. “Anh thật sự nghĩ thế.”
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc!