Lối Vào Địa Ngục Chương 8

Chương 8
Bệnh nhân số không

Ngày 6 tháng 7, 12 giờ 42 phút chiều

Trên tàu Người con gái của biển cả

Thật khó có thể thực hiện việc giải thoát...

Đứng ở cầu thang giữa của con tàu, Monk đặt khay thức ăn cân bằng trên lòng bàn tay đang giơ cao. Anh đeo khẩu súng trường bên vai. Từ những chiếc loa nhỏ, một bản nhạc ABBA đang được chơi. Đoạn đường từ gian bếp chật cứng lên boong trên quả là dài, anh vừa đi vừa huýt sáo theo điệu nhạc đến khi vào tầng của mình.

Trời, lạy Chúa...

Cuối cùng cánh cửa cũng mở ra, cho phép Monk thoát ra. Anh bước đi dọc theo sảnh tới chỗ tốp lính gác đứng trước cánh cửa đôi. Anh khẽ lẩm bẩm cố tập nói vài ba tiếng Mã Lai. Jessie đã lấy trộm ít phẩm màu xoa lên mặt và tay của Monk như các tên cướp khác, để anh giống hệt tên đã bị giết trong phòng Lisa mà  xác của hắn đã bị anh bí mật quăng xuống biển.

Xa mặt, cách lòng.

Để cho sự hóa trang hoàn tất, Monk lấy chiếc khăn che luôn nửa dưới khuôn mặt mình.

Khi ở Rome.

Trong ngày và đêm hôm trước, Jessie đã dạy Monk vài câu nói Mã Lai thông thường, thứ ngôn ngữ chính thức của bọn cướp ở đây. Thật không may, Monk lại không học đủ để tự mình đi qua hàng rào an ninh thiết lập  quanh Lisa. Anh và Jessie đã dò xét con tàu, phát hiện ra tất cả các nhà khoa học và nhân viên giúp việc của họ đã bị lùa vào một tầng trong khi  nhân viên y tế tiếp tục điều trị người bệnh trên con tàu.

Thật không may, năng lực của Lisa về tâm sinh lý học đã bị bọn chúng phát hiện ra. Nàng đã bị tách ra trong khu khoa học, khoanh lại và đặt dưới sự canh gác chặt chẽ. Hình như chỉ có những tên đứng đầu bọn cướp với sự giám sát trực tiếp của gã cầm đầu xăm mặt người Maori, tên Rakao, điều hành các chốt đó. Phòng thông tin cũng bị canh gác chặt chẽ tương tự. Jessie đã biết được điều này qua việc cậu hòa nhập với những tên cướp khác nhờ sử dụng thông thạo ngôn ngữ.

Vào lúc này thì Monk cũng chả khác gì hơn là cánh tay của Jessie. Ngoài ra anh không thể làm được gì khác. Ngay cả nếu như Monk cố dựng lên một cuộc tấn công kiểu John Wayne vào khu vực khoa học, làm sao anh có thể tẩu thoát cùng với Lisa? Và đi đâu? Trong khi vẫn chạy với tốc độ cao nhất, họ phải tiến hành một cú nhảy trên tàu. Đó không phải là một kế hoạch khôn ngoan.

Mờ sáng hôm đó, Monk đã nghiên cứu mặt biển từ trên boong. Tàu Người con gái của biển cả đang đi sâu vào khu vực những hòn đảo Indonesia. Họ như bị lạc trong mê hồn trận các hòn đảo nhỏ, giống như hàng nghìn ngón tay có rừng mọc trên đó và chĩa lên trời. Nếu như họ có trốn thoát,


bơi vào một trong những hòn đảo thì chắc chắn cũng sẽ bị săn đuổi.

Đúng như vậy, liệu họ có thể thoát được những con cá mập không?

Vì vậy Monk đành phải chờ thời cơ.

Nhưng như thế không có nghĩa là không làm được một điều gì đó.

 

Giống như lúc này.

Đấy là một kế hoạch tốt. Anh cần phải lập mối liên hệ với Lisa. Để cho nàng biết rằng nàng không chỉ có một mình, và quan trọng hơn là họ có thể phối hợp khi Monk sẵn sàng hành động. Và nếu như anh không thể trực tiếp đến với Lisa thì cần có một trung gian.

Monk đã đến chỗ cánh cửa đôi. Anh nâng khay cơm trước mặt hai tên lính gác rồi lí nhí nói bằng tiếng Mã Lai để đi qua"Chuông báo ăn đã điểm."

Một trong hai tên quay lại dùng báng súng đập vào cánh cửa. Lát sau, một tên gác, đứng bên trong mở cửa. Hắn nhìn thấy Monk rồi vẫy anh đi vào căn phòng Tổng thống của con tàu.

Một gã bồi mặc áo đuôi tôm gặp Monk ở lối vào. Hắn cố giằng lấy chiếc khay khỏi tay Monk theo kiểu bọn cướp biển, nhưng Monk đã đáp l i bằng một từ Mã Lai rất tục tĩu rồi dùng vai huých hắn sang một bên. Gã kia loạng choạng, ngã vật xuống làm tên lính gác cửa cười khùng khục.

Monk bước vào gian phòng chính của căn hộ. Một làn khói thuốc từ chiếc ghế ở ban công phía ngoài làm anh thay đổi mục tiêu.

Ryder Blunt đi lại trong chiếc áo tắm khoác ra ngoài cái quần bơi hoa, dài đến gót chân, mớ tóc bạch kim bồng bềnh. Ông ta đang hút thuốc, ngắm nhìn những hòn đảo chậm rãi trôi qua. Việc chạy trốn rất gần nhưng cũng xa vời. Để phù hợp với tâm trạng đó, một đám mây đen bao phủ phía
chân trời.

Khi Monk tiến đến, nhà tỉ phú cũng chẳng buồn ngó lên. Đó là thói quen của kẻ giầu, không thèm nhìn những người bồi. Hoặc nếu có thì chỉ là sự khinh bỉ đối với một tên cướp phục vụ bữa trưa của ông ta. Người bồi của Ryder đã dọn bàn bên cạnh.

Đồ bạc, ly thủy tinh và khăn là thẳng tắp.

Làm vua quả là sướng.

 

Monk hạ thấp cái khay xuống bàn rồi thì thào vào tai ông ta khi anh cúi xuống. "Đừng phản ứng gì cả." Monk nói bằng tiếng Anh. "Tôi là Monk Kokkalis cùng với đại diện
của Mỹ."

Phản ứng duy nhất của nhà tỉ phú là phả khói thuốc nhiều hơn. "Người cộng tác của tiến sĩ Cummings." Ông ta thở dài. "Họ nghĩ anh đã chết. Những tên cướp được cử đi đến chỗ anh..."

Monk không có thời gian để giải thích. "Ồ, về bọn chúng... chúng đã gặp khá nhiều khó khăn với lũ cua."

Người bồi đến chỗ cửa ban công.

Ryder vẫy anh ta lui ra."Ổn cả thôi, Peter, cảm ơn."

Monk xếp các thứ trong khay ra. Anh nhấc cái chụp bằng bạc trên cái đĩa nóng để lộ ra hai cái radio ở phía dưới. "Một món thêm cho ngài và Lisa. "Anh đậy lại rồi nhấc cái đĩa thứ hai. "Và tất nhiên, một ít tráng miệng."

Hai khẩu súng lục nòng nhỏ.

Một cái cho Ryder và một cái cho Lisa.

Cặp mắt của nhà tỉ phú mở to. Monk đọc được sự
hiểu biết.

"Khi nào...?" Ryder hỏi.

"Chúng ta sẽ phối hợp bằng radio. Kênh số 8. Bọn cướp không dùng kênh đó. Jessie đã dùng kênh này suốt ngày không ai để ý. Liệu ngài có thể chuyển cái radio và khẩu súng cho Lisa không?"

"Tôi sẽ cố hết sức." Ông ta nói, kèm theo cái gật đầu rất quyết tâm.

Monk đứng dậy. Anh không muốn ở lại lâu hơn nữa vì sợ bọn gác nghi ngờ. "Và đây có món bánh bằng gạo ở đĩa cuối cùng."

Monk quay trở lại phòng chính. Anh nghe Ryder làu bàu: "Thật là những đồ ăn ghê tởm... ai mà nghĩ đưa vào món bánh gạo?"

 

Monk thở dài. Người giầu không bao giờ hạnh phúc hơn khi họ có điều gì đó phàn nàn. Anh đi tới chỗ cửa đôi rồi bước ra. Một tên lính gác hỏi anh có chuyện gì bằng tiếng
Mã Lai.

Thay câu trả lời, anh nhét một ngón tay vào lỗ mũi, ra vẻ rất bận rộn, nói tầm phào rồi đi tiếp về phía cầu thang.

Thật may mắn, cầu thang máy vẫn chờ ở đó và cánh cửa mở ra ngay lập tức. Anh chui vào trong chỉ kịp nghe tiếng nhạc ABBA lại vang lên.

Anh rên rỉ.

Cái radio bên người anh phát tín hiệu. Monk lấy ra áp vào tai. "Cái gì vậy?" Anh hỏi.

"Gặp tôi tại phòng." Jessie nói. "Tôi đang xuống dưới đó."

Hai người đã tìm một cabin rỗng không để ở chung, coi đó là sở chỉ huy của họ.

"Có chuyện gì vậy?"

"Tôi vừa nghe thấy. Viên thuyền trưởng con tàu ước tính sẽ đến một cái cảng nào đó hôm nay. Họ đang tăng tốc để có thể tới đấy trước nửa đêm. Có tin thời tiết là áp thấp vào các hòn đảo Indonesia đang mạnh lên thành một trận bão lớn. Vì vậy họ phải cập cảng."

"Hẹn gặp anh ở dưới đó." Monk nói, tắt máy.

Gài lại radio vào thắt lưng, Monk nhắm mắt lại. Có thể đây là cơ hội may mắn đầu tiên của họ. Anh tính toán trong đầu khi lẩm bẩm nhại theo lời bài ABBA "Cho tôi một cơ hội."

Một bài hát tuyệt vời.

 

*

*   *

 

1 giờ 2 phút chiều

Lisa nhìn xuống người bệnh của mình. Người đàn bà mặc áo ngủ bệnh viện màu xanh, nối với các thiết bị bằng các đường ống và các loại dây dẫn. Một cặp hộ lý đợi ở một phòng khác.

Lisa đã xin có được một phút riêng. 

Nàng đứng bên cạnh giường bệnh, cố đấu tranh với cảm giác tội lỗi.

Nàng thuộc lòng các thông số về bệnh nhân này: Nữ, da trắng, cao 5 feet 4, nặng 110 pound(1), tóc vàng, mắt xanh lơ, một vết sẹo mổ ruột thừa phía bên trái. Ảnh chụp cũng cho thấy có một chỗ gãy xương đã liền ở cánh tay trái. Kiểm tra thông tin cá nhân của Hiệp hội cũng cho thấy nguyên nhân của vụ gãy xương: tai nạn trượt băng từ thời trẻ.

Lisa nhớ kết quả thử máu của người đàn bà này: men gan, a xít mật, lượng hồng cầu... Nàng cũng biết được kết quả thử nước tiểu gần đây nhất của cô ta.

Ở bên giường bệnh là một khay đựng đủ các loại thiết bị kiểm tra lủng củng. Nàng đã sử dụng chúng suốt sáng nay. Ở một cái giá kề bên, những bản in cuộc kiểm tr a đêm hôm trước nằm cuộn tròn. Nàng đã kiểm tra từng dòng một. Trong ngày qua, nàng đã đọc hết tất cả tiểu sử bệnh lý của bệnh nhân cùng những phát hiện của các nhà nghiên cứu vi rút và vi khuẩn của Hiệp hội.

Bệnh nhân không phải đang trong tình trạng hôn mê. Thực trạng chính xác hơn của bệnh nhân là rối loạn tâm lý, mất trí nhớ. Cô ta biểu hiệu khả năng phản xạ cứng nhắc. Nàng đã kiểm tra rất kỹ các báo cáo.  Dịch chuyển sang chỗ nào, chân hoặc tay sẽ y nguyên, giống như ma-nơ-canh. Ngay cả khi ở những vị trí dễ đau đớn, mà chính Lisa cũng đã thử.

Giờ đây, Lisa đã biết hết mọi thứ về cơ thể người phụ nữ này.

Quá mệt mỏi, nàng dành một chút thời gian để kiểm tra kỹ hơn người bệnh.

Không phải bằng các thiết bị hoặc xét nghiệm mà bằng sự đồng cảm.

Để xem người bệnh đằng sau các kết quả xét nghiệm.

Tiến sĩ Susan Tunis đã từng là một nhà nghiên cứu được đánh giá cao, trên con đường thành công trong nghề nghiệp. Cô ta thậm chí còn tìm được người đàn ông mơ ước của mình. Ngoại trừ chuyện đã kết hôn được năm năm, cuộc sống của cô ta giống hệt như nàng. Số phận của cô ta như một lời nhắc nhở về sự mỏng manh của cuộc sống con người, những mong đợi, hy vọng và ước mơ.

Lisa dùng bàn tay đeo găng của mình nắm bàn tay người bệnh đang được đặt trên tấm chăn mỏng.

Không thấy có phản ứng gì.

Ở buồng bên, các hộ lý dịch chuyển khi thấy cánh cửa mở. Lisa nghe thấy giọng của tiến sĩ Devesh Patanjali. Gã đứng đầu tốp nghiên cứu khoa học của Hiệp hội đẩy cửa bước vào phòng.

Lisa bỏ bàn tay của Susan ra.

Nàng quay lại khi Devesh bước vào. Cái bóng thường xuyên của hắn, Surina, ngồi xuống chiếc ghế ở buồng ngoài, tay đặt trên đùi. Một đồng hành hoàn hảo... và cũng thật chết người.

Devesh đặt cái ba-toong cạnh cửa rồi đến chỗ nàng. "Tôi thấy hình như cô đã làm quen được với bênh nhận số Zero sáng nay."

Lisa chỉ khoanh cánh tay lại. Đây là lần đầu tiên hắn nói với nàng một cách không bóng gió khi để cho nàng nghiên cứu. Hắn dành nhiều thời gian ở cùng với Henri trong phòng thí nghiệm chất độc và Miller trong phòng thí nghiệm về bệnh truyền nhiễm. Lisa thậm chí còn ăn cơm một mình ở đây trong căn phòng.

"Giờ thì cô đã có được bức tranh tổng thể về bệnh nhân đáng giá của tôi, cô có thể nói với tôi điều gì về cô ta?"

 

Mặc dù gã đang cười nhưng nàng vẫn cảm nhận được vẻ đe dọa đằng sau những lời nói đó.

Nàng nhớ lại vụ thảm sát dã man đối với Lindholm. Tất cả nhằm dạy một bài học: Phải tỏ ra hữu ích. Devesh chờ đợi kết quả ở nàng, những cảm nhận không có được ở các nhà nghiên cứu khác. Nàng cũng cảm giác rằng thời gian để nàng ở một mình với người bệnh nhằm mục đích để tách nàng khỏi các định kiến trước.

Devesh muốn có phương thức tiếp cận độc đáo của nàng đối với tình hình.

Tuy vậy, nàng vẫn nhớ những lời nói ban đầu của hắn ta về vi rút, về những gì chúng đã làm bên trong cơ thể của người bệnh, chúng đang ủ bệnh.

Lisa bước tới người bệnh rồi kéo cánh tay của cô ta ra. Qua các báo cáo y tế, những vết sùi và trầy rớm máu đã có lúc phủ kín tứ chi của cô. Nhưng lúc này, da cô đã hết sạch những vết đó. Hình như, loại vi rút này đang sinh sôi bên trong con người cô ta.

"Chủng vi rút Juda đang chữa cho cô ta lành bệnh." Lisa nói, rất hiểu đó là một thử thách. "Hoặc chính xác hơn, loại vi rút này đã đột nhiên quyết định đảo ngược trạng thái từ loại vi khuẩn chết người trong cơ thể cô ta trở về trạng thái lành bệnh ban đầu."

Gã gật đầu: "Nó tiết ra chính những bạch cầu mà trước đó đã đưa vào trong vi khuẩn. Nhưng tại sao vậy?"

Lisa lắc đầu. Nàng không biết, cũng không biết
chắc lắm.

Devesh cười mỉm, nét mặt thoáng hiện vẻ cảm thông. "Điều ấy cũng làm chúng tôi bối rối."

"Nhưng tôi có một giả thiết." Lisa nói.

"Vậy ư?" Giọng gã đầy vẻ kinh ngạc.

Lisa nhìn thẳng vào gã "Cô ta đã lành vết thương về mặt thể xác nhưng điều làm tôi băn khoăn là vì sao cô ta vẫn ở trong tình trạng hôn mê. Tình trạng như vậy chỉ xuất hiện khi bị va đập vào đầu, xuất huyết não, phản ứng sốc ma túy... hoặc viêm não".

Nàng nhấn mạnh nguyên nhân cuối cùng.

Viêm não.

Viêm tấy trong não.

"Thật kỳ lạ khi tôi nhận thấy thiếu mất một xét nghiệm trong báo cáo." Nàng nói. "Việc rút tủy sống cùng với xét nghiệm thử dịch màng não không thấy có. Tôi đoan chắc rằng xét nghiệm đó đã được tiến hành để kiểm tra chất nhày quanh bộ não của cô ta.".

Devesh gật đầu "Bahut sahi! Rất khá. Quả là đã tiến hành xét nghiệm rồi."

"Và các ngài đã tìm thấy chủng vi rút Juda trong chất dịch?"

Một cái gật đầu nữa.

"Ngài nói vi rút chỉ tác động vào vi khuẩn, biến chúng thành loài sinh vât gây hại và vi rút đó không thể xâm nhập trực tiếp vào tế bào con người. Nhưng điều ấy không có nghĩa là vi rút không thể trôi nổi xung quanh chất nhày trong bộ não. Đó chính là điều ngài muốn nói cấy vi khuẩn. Cách để vi rút xâm nhập vào bộ não cô ta."

Gã gật đầu tán đồng. "Đây dường như là nơi mà nó muốn xâm nhập."

"Vậy không chỉ có một bệnh nhân này."

"Không, hầu như tất cả các nạn nhân đều... ít nhất là những kẻ sống sót sau đợt tấn công ban đầu của vi khuẩn."

Gã vẫy nàng tới góc phòng, nơi có đặt một kệ máy tính, rồi bắt đầu gõ gõ vào bàn phím.

Lisa tiếp tục nói trong khi gã vẫn đang gõ máy tính, đi qua đi lại phía cuối giường.

"Không một sinh vật nào hoàn toàn là có hại cả, ngay cả vi rút. Phải có ý định gây độc đối với các vi khuẩn. Thử hình dung một phạm vi rộng lớn vi khuẩn biến thể, điều đó hoàn toàn không phải là sự tình cờ. Chính vậy, tôi phân vân không biết làm thế sẽ được gì?"

 

Devesh gật đầu, khuyến khích nàng tiếp tục. Rõ ràng
kết luận của nàng cũng không có gì mới. Hắn tiếp tục thử thách nàng.

Lisa nhìn chăm chú vào bệnh nhân: "Nó đã thu hoạch được gì? Đó là khả năng tiếp cận vào lãnh thổ bị cấm: bộ não con người. Tiến sĩ Barnhardt đã nhắc rằng chín mươi phần trăm các tế bào tạo nên cơ thể là không thuộc về con người. Hầu hết là những tế bào vi khuẩn. Một trong số ít địa điểm vẫn không thể với tới được đối với nhiễm trùng qua vi rút và vi khuẩn là bộ não của chúng ta. Bộ não được bảo vệ chống lại nhiễm trùng và được giữ vô trùng. Cơ thể  chúng ta đã phát triển một hàng rào không thể xâm nhập được vào máu trong não. Một cái lọc để cho ô xy và chất dinh dưỡng đến với bộ não mà không phải là cái khác."

"Nếu như có một cái gì đó muốn vào trong bộ não...?" Devesh nhắc nhở.

"Nó sẽ phải tiến hành một cuộc tấn công lớn vào hàng rào mạch máu não. Giống như biến những vi khuẩn của chính chúng ta chống lại chúng ta, để làm cơ thể yếu đi đủ cho vi rút có thể xâm nhập qua các rào chắn vào trong chất lỏng ở não. Đấy là ưu thế về sinh học mà vi rút giành được khi nó trở thành chất độc vi khuẩn."

"Cô làm tôi ngạc nhiên." Devesh nói. " Tôi biết có lý do để giữ cô được sống."

Mặc dù sự ám chỉ được che giấu ở đó, song Lisa cảm thấy ngán ngẩm khi nghe thấy nhắc đến điều ấy.

"Vậy câu hỏi cuối cùng là tại sao," Devesh tiếp tục, "tại sao loại vi rút này lại muốn đi vào trong đầu chúng ta?"

"Loại sán gan." Lisa nói.

Chuyện kỳ quặc có một không hai này thật lạ lùng lại thu hút sự chú ý của gã. "Nói lại xem nào."

"Sán gan là một ví dụ cho sự quyết tâm của thiên nhiên. Hầu hết loại sán đều có chu trình sống bao gồm ba giai đoạn. Loại sán gan trong cơ thể con người sản sinh ra trứng đi qua cơ thể trong phân, rồi qua các đường thoát như cống rãnh sau lại được loại ốc sên ăn vào. Trứng được ấp thành những con sâu nhỏ diệt lại ốc sên rồi tìm kiếm vật chủ tiếp theo: vài con cá bơi ngang qua. Con cá bị bắt, được loài người ăn thịt, khi đó ấu trùng xâm nhập vào gan và trở thành con sán bố mẹ, nơi nó sống hạnh phúc từ đó trở đi."

"Thế cô muốn nói điều gì?"

"Loại vi rút Juda cũng có thể làm tương tự như vậy. Đặc biệt nếu ngài xem xét loại sán gan Lancet. Dicroelium dendriticum. Nó cũng sử dụng ba vật chủ : gia súc, ốc sên và kiến. Nhưng điều nó làm trong giai đoạn kiến chính là cái tôi thấy khó hiểu nhất."

"Thế đó là cái gì?"

"Bên trong con kiến, con sán kiểm soát trung tâm thần kinh của con côn trùng, thay đổi hành vi của nó. Đặc biệt khi nào mặt trời lặn, sán buộc con kiến phải trèo lên một nhành cỏ, khóa hàm dưới của nó lại và chờ bị ăn thịt bởi một con bò gặm cỏ. Nếu không bị ăn, con kiến lại trở về tổ vào lúc rạng đông - và lại tiếp tục làm vậy vào tối hôm sau. Loài sán thực tế  đã biến con kiến giống như chiếc xe ô tô nhỏ của nó."

"Và cô nghĩ loại vi rút kia cũng làm thế?" Devesh hỏi.

"Có thể về cách nào đó. Nhưng tôi muốn nêu vấn đề này lên để lưu ý  ngài rằng thiên nhiên có thể quỷ quyệt như thế nào để tìm ra lãnh thổ khai thác. Và bộ não, vô trùng và không giới hạn, chắc chắn là một miếng đất trinh nguyên. Thiên nhiên sẽ cố gắng khai thác nó, giống như loại sán với con kiến."

"Tuyệt vời. Chắc chắn đây là một khía cạnh phải quan tâm. Song có thể có một con ruồi trong loại thuốc mỡ đó." Devesh quay trở lại máy tính. Hắn nhét một cuốn băng video vào. "Tôi đã nhắc đến thực tế là vi rút đã xâm nhập vào dịch não của tất cả các bệnh nhân sống sót trong đợt tấn công đầu tiên của vi khuẩn. Đây là điều xảy ra khi nó hoạt động."

 

Gã ấn vào nút play.

Một băng video câm bắt đầu chạy. Hai người đàn ông mặc áo choàng trắng vật lộn để cột giữ một người đàn ông trần truồng, đầu cạo trọc, những đường dây nối với các bảng điện dẫn tới sọ và ngực. Anh ta vật lộn, giãy giụa. Mặc dù rõ ràng là anh ta rất yếu ớt với những vết sưng phồng và rộp đen kịt, song một cánh tay vẫn cố giằng thoát ra khỏi dây trói. Bàn tay đó cào mạnh vào một trong hai người kia. Rồi bệnh nhân vùng dậy và cắn mạnh vào cánh tay của một người đàn ông."

Băng video chấm dứt.

Devesh tắt màn hình. "Chúng tôi cũng nhận được những báo cáo về các phản ứng tương tự từ một số bệnh nhân, những người bộc lộ sớm nhất."

"Có thể đó là một dạng rối loạn tâm lý. Ngây ngất vì rối loạn tâm lý chỉ là một dạng." Lisa gật đầu về phía người bệnh nằm trên giường."Nhưng cũng có những phản ứng trái ngược, hình ảnh tương phản: kích động vì rối loạn tâm lý . Điển hình bằng sự kích động thái quá, nhăn mặt, hét lên như con vật hoặc bạo lực tâm lý."

Devesh đứng lên rồi quay về phía giường bệnh. "Hai mặt của một đồng xu." Hắn lẩm bẩm và nhìn chăm chú người đàn bà đang nằm bất động.

"Người đàn ông trong băng video," Lisa hỏi. Nàng đã để ý bối cảnh trong cuốn băng. Băng này không quay trên chiếc du thuyền. "Ông ta là ai vậy?"

Devesh gật đầu một cách buồn bã về phía giường bệnh. "Chồng cô ta."

Lisa cảm thấy sốc khi nghe điều này. Nàng nhìn chăm chú vào người đàn bà đang nằm dài trên giường bệnh. Chồng cô ta...

"Cặp vợ chồng này bị nhiễm bệnh cùng một lúc." Devesh nói. "Tìm thấy trên một chiếc du thuyền đậu neo ở gần hòn đảo Giáng sinh. Anh chàng John Doe của cô với căn bệnh bị ăn mất thịt, chắc đã bơi lên bờ. Chúng tôi phát hiện ra hai người này, vẫn còn ở trên du thuyền. Quá yếu và
gần chết."

Như vậy Hiệp hội là người đầu tiên biết về tất cả mọi chuyện.

Devesh gật đầu về phía người bệnh: "Vậy quá trình nào đặt ra câu hỏi: Tại sao chồng cô ta bị suy sụp hoàn toàn trong khi bệnh nhân chúng ta ở đây  đang trên đà hồi phục lại những vết thương bên ngoài mà vẫn bị rối loạn tâm lý? Chúng tôi tin rằng một khả năng cứu chữa cho tất cả nằm ở câu trả lời đó."

Lisa không tranh luận. Nàng không phải là ngốc. Mặc dù những gì hắn rêu rao, nàng biết động cơ của Hiệp hội không phải vì những lý do tử tế. Việc chúng tìm kiếm một khả năng chữa bệnh không phải để cứu loài người. Chúng đã có kế hoạch cho loại vi rút này, nhưng trước khi sử dụng chúng cần phải hiểu rõ về nó. Để phát triển thuốc giải độc hoặc chữa bệnh. Về điểm này, nàng không hề có chung quan điểm với Hiệp hội. Một khả năng chữa bệnh cần phải được tìm ra. Câu hỏi duy nhất: Làm sao tìm được nó mà không để cho bọn Hiệp hội biết?

Devesh quay gót rồi đi ra cửa. "Cô đã đạt được tiến bộ rất tuyệt, tiến sĩ Cummings. Tôi chúc mừng cô. Nhưng mai lại là một ngày khác. Và chúng ta cần có thêm nhiều tiến bộ hơn". Hắn liếc nhìn nàng, một bên lông mày rướn lên. "Như vậy đã rõ chưa?"

Nàng gật đầu.

"Tuyệt." Hắn dừng lại. "À quên, ông chủ kính mến của con tàu, ngài Ryder Blunt, đã mời tất cả mọi người tới dự buổi cocktail chiều nay tại phòng của ông ta. Một bữa tiệc nhỏ".

"Để mừng cái gì?"

"Chào mừng khi chúng ta tới cảng." Devesh giải thích, lấy tay với cái ba-toong." Chúng ta gần về đến nhà".

 

Lisa làm gì có bụng dạ để nâng cốc vì chuyện đó."Tôi còn nhiều việc phải làm ở đây."

"Vô lý. Cô sẽ tới. Không mất nhiều thời gian đâu và nó giúp cô nạp lại năng lượng. Đúng vậy. Vấn đề đã được giải quyết. Tôi sẽ cử Rakao tới tháp tùng cô. Đề nghị mặc thế nào cho phù hợp."

Hắn ra ngoài, Surina nối gót theo sau.

Lisa lắc đầu khi chúng rời căn phòng.

Cô liếc nhìn giường bệnh.

Tiến sĩ Susan Tunis.

"Tôi xin lỗi". Nàng lẩm bẩm.

Vì chuyện chồng cô ta và vì điều gì đó sẽ tới.

Lisa nhớ lại sự so sánh trước đây của nàng với người bệnh và cuộc sống của hai người đã theo một con đường tương tự. Nàng hình dung chồng  Susan, một người đàn ông có cặp mắt điên dại và hung dữ. Nó khiến nàng nhớ đến tình yêu của mình, nàng lấy tay ôm quanh người và ước ao hàng nghìn lần được trở về nhà với Painter.

Nàng đã nói chuyện với ông lần nữa sáng nay. Vào lúc họ đã hẹn phải báo cáo tình hình. Nàng biết rõ hơn đừng cố gắng làm bất cứ điều gì vào lúc này, chỉ báo cáo tất cả đều ổn. Tuy nhiên, nàng vẫn trào nước mắt khi bị giật ống nghe ra khỏi tay trong phòng thông tin.

Nàng muốn có vòng tay của ông quanh mình.

Nhưng chỉ có một cách duy nhất để làm cho điều đó
xảy ra.

Phải trở nên hữu ích.

Nàng đi tới khay để các dụng cụ kiểm tra và cầm lên cái kính soi đáy mắt. Trước khi đi tới phòng tiệc, nàng muốn theo đuổi một điều gì đấy khác thường, một điều mà nàng đã che giấu Devesh.

Một điều gì chắc chắn là không thể.

 

*

*   *

 

2 giờ 2 phút sáng

Washington DC

Lại đi sau một bước.

Painter bước xuống cầu thang  hai bậc một lúc khi đi tới hành lang khách sạn Công viên Phượng Hoàng, quá sốt ruột ngay cả chờ cầu thang máy. Khi nhóm đặc nhiệm của Sigma đã ở trên một tầng rồi, xem xét căn phòng số 334. Ông đã để lại cho hai nhân viên FBI tranh cãi với chính quyền sở tại.

Một cuộc tranh giành về quyền thực thi đáng ghê tởm.

Thật là điên rồ.

Cách nào cũng vậy, Painter nghi có thể tìm được một chứng cứ vững chắc.

Một giờ trước đây, ông đã bị đánh thức khi đang ngủ gà ngủ gật tại phòng nghỉ ở Sở chỉ huy Sigma. Một trong những cái đuôi của họ đã chạm. Một lệnh mua thuốc cho Jackson Pierce. Số an sinh xã hội trùng hợp. Đây là lần đầu tiên có tín hiệu từ khi Gray và nhóm của anh biến mất khỏi điểm an toàn bị đánh bom . Painter đã theo đuổi tất cả các bí danh của Gray cùng với tên của bố mẹ anh, phối hợp với mạng lưới thăm dò cửa cơ quan an ninh.

Painter đã cử đội đặc nhiệm tới chỗ bán thuốc trong khi ông đi cùng với nhóm khác tới địa chỉ chuyển thuốc theo đơn. Khách sạn Công viên Phượng Hoàng. Nơi bán thuốc đã khẳng định đơn đặt hàng, nhưng người đưa thuốc lại chưa quay trở lại. Cố tìm cách liên lạc với anh ta bằng điện thoại di động đều không được. Cửa hàng thuốc cũng cố liên hệ với khách sạn nhưng không ai tiếp điện ở khu vực nối máy vào buồng.

Khi tới nơi này, Painter đã biết được lý do vì sao. Căn phòng trống rỗng. Ai đó ở đây đã biến đi rồi. Việc đăng ký được đặt dưới cái tên là Fred và Ginger Rogers, một cặp vợ chồng già theo như nhân viên lễ tân. Họ đến khách sạn một mình và trả bằng tiền mặt. Gray rõ ràng là không đi cùng với họ. Bên cạnh đó, Gray chắc sẽ không phạm một sai lầm, đặt đơn thuốc để tạo ra báo động.

 

Và nếu như vậy, điều gì đã làm bố mẹ anh ta phạm phải điều mạo hiểm như vậy? Bà Harriet là một phụ nữ rất sáng suốt. Nhu cầu chắc phải là ghê gớm lắm. Nhưng tại sao họ không thể chờ được? Điều gì làm họ bỏ cuộc và trốn đi? Có phải chỉ là nhằm đánh lạc hướng không? Để dẫn người ta theo một con đường giả tạo?

Painter biết rõ. Gray sẽ không bao giờ sử dụng bố mẹ mình như thế. Anh sẽ đưa bố mẹ mình vào nơi nào kín đáo và nằm chờ. Không có cái gì hơn. Chắc phải có điều gì sai ở đây. Không ai thấy cặp vợ chồng già rời khách sạn.

Vậy còn câu hỏi về người đưa thuốc bị mất tích.

Painter đi qua cửa cầu thang để vào hành lang.

Người trực đêm cúi đầu chào ông, giơ tay." Tôi có một đoạn băng video quay hành lang, ngài có thể xem."

Painter được dẫn vào văn phòng viên quản lý. Một máy vô tuyến có thể đọc được băng video nằm chềnh ềnh giữa phòng.

"Hãy tua lại đoạn cách đây một giờ." Painter nói, kiểm tra đồng hồ đeo tay.

Viên quản lý bật máy rồi tua nhanh với bộ phận đếm giờ. Hành lang vắng tanh, trừ một người đàn bà đơn độc sau quầy đang ghi chép sổ sách.

"Louise," viên quản lý giới thiệu, chỉ vào màn hình. "Cô ta rất ngạc nhiên về tất cả chuyện này."

Painter phớt lờ lời bình luận của ông ta, nhỏm người nhìn gần màn hình hơn.

Cánh cửa hành lang mở toang và một người mặc áo khoác màu trắng bước tới quầy lễ tân, đưa ra thẻ căn cước rồi bước tới cầu thang máy.

Louise quay trở về công việc ghi chép của mình.

"Thế người trực đêm có thấy người đưa thuốc rời đi  không?"

"Tôi có thể hỏi.."

 

Painter dừng đoạn băng khi người trong hình chỉnh đốn lại áo khoác.

Một phụ nữ.

Không phải, người của hàng thuốc là đàn ông.

Đoạn băng an ninh mờ nhưng đường nét của người đàn bà châu Á hiện lên rất rõ. Painter đã nhận ra ả. Ông đã nhìn thấy ả trong cuốn băng video ở điểm an toàn.

Một trong những kẻ thuộc tốp của Nasser.

Painter ấn nút bật ra rồi vớ lấy đoạn băng. Ông quay lại rất nhanh đến nỗi làm viên quản lý giật mình và lui lại một bước. Ông cầm chặt cuốn băng.

"Không ai biết về cái này." Ông nói chắc nịch rồi nhìn thẳng vào viên quản lý, vẻ như đe dọa, và nhìn bộ dạng anh ta thì biết ngay chuyện đó không có gì khó. "Kể cả với cảnh sát và FBI".

Anh ta gật đầu lia lịa.

Painter bước ra cửa, nắm chặt tay, muốn đập mạnh vào cái gì đó.

Thật mạnh.

Painter đã hiểu điều gì xảy ra ở đây.

Nasser đã bắt được bố mẹ của Gray.

Ngay trước mũi họ.

Gã khốn kiếp chỉ nhanh chân hơn Sigma chỉ vài phút. Và Painter không thể trách cứ bất cứ lỗ rò nào trong cuộc chạy đua đặc biệt này. Ông biết lý do. Sự quan liêu. Seichan với nguồn gốc là một tên khủng bố đã làm mọi người luôn báo động, có nghĩa là mọi người đều giẫm chân vào nhau. Có quá nhiều đầu bếp trong một nhà ăn... và tất cả bọn họ đều bị bịt mắt.

Không giống như Nasser.

Suốt ngày hôm nay, Painter đều va phải các chỗ ngáng đường, hầu hết do sự phân chia lãnh thổ một cách quan liêu. Cùng với Sigma dưới một chính phủ bỏ qua việc kiểm tra, các cơ quan khác nếm máu trong nước. Ai đó tóm được nhân viên của Hiệp hội chắc chắn sẽ vớ được con cá sộp. Với tình hình đó, có rất ít sự hợp tác, mà có chăng chỉ là một cái gật trong một hướng chung chung.

Nếu như Painter có được chút ít hy vọng đè bẹp Nasser, ông cần phải cắt bỏ cái tình trạng quan liêu đang trói tay ông lại. Chỉ có một cách làm ấy. Ông rút máy điện thoại di động. Bỏ hết kiểu ngoại giao vớ vẩn.

Ông ấn nút liên lạc nhanh với Sở chỉ huy. Đường dây được trợ lý của ông trả lời.

"Brant, tôi cần nối máy trực tiếp tới Giám đốc McKnight của DAPRA. Trên đường dây an toàn."

"Vâng thưa ngài. Nhưng khi tôi vừa gọi ngài thì lại có những tin tức lạ lùng về đảo Giáng sinh."

Phải mất một giây Painter mới trấn tĩnh lại được. "Chuyện gì xảy ra?" Ông hỏi sau khi trấn tĩnh lại. Ông dừng bư ff8 c trước cánh cửa quay của khách sạn.

"Các chi tiết rất lõm bõm. Nhưng hình như con tàu chở khách để sơ tán khỏi hòn đảo đã bị bắt cóc."

"Cái gì?" Ông thốt lên.

"Một trong những nhà khoa học của Tổ chức Y tế Thế giới đã trốn thoát. Ông ta dùng radio sóng ngắn liên lạc với một chiếc tàu chở dầu chạy ngang qua."

"Lisa và Monk...?"

"Chưa có tin gì cả, nhưng những chi tiết đang ào tới."

"Tôi sẽ về đó ngay."

Tim ông đập thình thịch. Ông tắt máy, đút vào túi rồi đẩy cánh cửa khách sạn. Không khí mát mẻ bên ngoài cũng không làm ông thấy dễ chịu hơn.

Lisa...

Ông nhớ lại cuộc nói chuyện cuối cùng với nàng. Lisa nghe có vẻ mệt mỏi và một đứa trẻ bực bội vì mất ngủ. Liệu có phải nàng bị bắt buộc phải thực hiện các cuộc gọi đó?

Có vẻ không có nghĩa.

 

Liệu ai dám táo gan cướp cả một con tàu chở khách như vậy? Chắc chắn chúng phải biết rằng tin tức sẽ lọt ra. Đặc biệt trong thời đại do thám vệ tinh.

Không thể có nơi nào giấu được cả một con tàu như vậy.

 

*

*   *

 

3 giờ 48 phút chiều

Trên chiếc tàu Người con gái của  biển cả

 Monk há hốc mồm trước cảnh tượng đó.

Lạy chúa Jesu...

Monk đứng trên boong tàu một mình, chờ Jessie. Một hòn đảo mù sương nhô ra trước mắt. Những mỏm đá nhọn hoắt nhô lên trên mặt biển, cho thấy không có bãi biển hoặc cảng an toàn, toàn bộ là các đỉnh núi. Các khu vực trông giống như một bãi đá cổ đại, trải dài ra bởi những bụi cây và rừng.

Nó hiện ra xám xịt với mặt trời tối đen trên nền phía sau. Con tàu đã thoát qua một cơn bão. Từ phía xa, những vệt mưa ào xuống từ các đám mây thấp lè tè rồi quét qua mặt biển trắng xóa. Gió rít lên từng cơn.

Monk giữ một tay vào lan can khi con tàu lớn lao vào những đợt sóng, cố giữ cho nó cân bằng.

Viên thuyền trưởng nghĩ điều quái quỷ gì vậy?

Tốc độ đã giảm bớt, nhưng đường đi vẫn mạo hiểm. Lao thẳng vào hòn đảo không người ở. Trông nó cũng chẳng có vẻ gì hoan nghênh như hàng trăm hòn đảo khác họ đã vượt qua. Cái gì đã làm hòn đảo này đặc biệt như vậy?

Rất tháo vát và thông thạo tiếng, Jessie đ ã biết được một số chi tiết về hòn đảo, từ một trong những người nấu bếp trên con tàu, một thổ dân người địa phương đã nhận ra chỗ này. Hòn đảo được gọi là Pusat hoặc Cái rốn. Theo như anh ta, tàu bè thường tránh chỗ này. Người ta đồn rằng có một quận chúa Bali tên là Rangda đã được sinh ra từ cái rốn này và những con ma của bà ta vẫn bảo vệ nơi bà sinh ra, những con quái vật vẫn xuất hiện từ đáy biển để kéo những kẻ thơ ngây xuống tận đáy biển.

Jessie cũng đưa ra một lời giải thích tương tự: Nhưng có thể đây toàn là bãi đá và nước xoáy.

Hoặc còn có điều gì khác nữa?

Từ chỗ trông như chỉ toàn những mỏm đá hiểm trở, ba chiếc thuyền cao tốc lao ra hiện rõ dần. Màu xanh, mũi xuồng dài và thấp.

Lại có thêm bọn cướp biển nữa.

Không còn nghi ngờ gì, không ai dám đến đây. Monk nghĩ. Người chết không thể kể chuyện.

Monk nghiên cứu hòn đảo trước mặt.

Theo các báo cáo quốc tế, các hòn đảo Indonesia có hàng trăm cảng bí mật. Trên mười tám nghìn hòn đảo làm nên quần đảo Indonesia mà chỉ có khoảng sáu nghìn đảo là có người ở. Còn lại mười hai nghìn đảo nữa là chỗ để trốn.

Monk ngắm nhìn ba chiếc thuyền lao về phía họ, chạy rẽ nước sang hai bên. Hai cái áp vào vị trí đối diện bên mạn tàu còn cái kia ngay trước mặt. Chúng quay lại phía đảo, chạỵ chậm lại.

Tháp tùng.

Những con thuyền nhỏ đang hướng dẫn người anh lớn vào cảng.

Khi hòn đảo tới gần, Monk đã có thể phát hiện ra một khe nứt hẹp trong bề mặt bãi đá, có góc cạnh rất dễ nhầm lẫn. Cái lỗ hổng đó có vẻ như quá nhỏ cho một chiếc tàu chở khách, giống như đưa một con lạc đà chui qua lỗ kim. Nhưng có ai đã làm các cuộc thăm dò cẩn thận, tìm hiểu kỹ kích thước và sải nước của con tàu.

Con tàu lách mũi qua hai bức tường lởm chởm đá. Phần còn lại của con tàu không còn cách nào khác là phải theo sau. Phía cảng đầy những tiếng lạo  xạo, rít và rung lên. Monk nhảy lui lại khi một mảnh đá nhô ra phía bên anh đã giật hai chiếc thuyền cứu sinh xuống đập chúng vỡ vụn.

Cả con tàu rung lên.

Monk nín thở. Nhưng họ không đi xa hơn. Đường lại mở ra nữa. Con tàu Người con gái của biển cả vượt qua đoạn khúc khuỷu tới một vũng lộ thiên, cỡ một cái hồ.

Monk quay trở lại hàng lan can há hốc mồm. Mình ngu thật, quả nhiên họ gọi đây là một cái rốn.

Hòn đảo thực tế là một mỏm núi lửa từ thời xa xưa với cái vũng lớn nằm ở giữa. Những bức tường nham nhở chạy vòng xung quanh làm thành một cái vương miện của hòn đảo. Bên trong các bãi đá bớt dựng đứng hơn, mọc đầy rừng cây, điểm xuyết là các thác bạc và những bãi biển đầy cát. Phía xa bên kia của vũng nước là những tòa nhà mái cọ và những căn nhà nhỏ hơn. Hàng tá những cầu cảng bằng gỗ và cầu tàu đá điểm xuyết một thành phố nhỏ. Vài chiếc thuyền được kéo lên bờ để sửa chữa; những cái khác gỉ nhèm.

Đối với bọn cướp, cảm giác về nhà là rõ.

Nhiều chiếc thuyền lao ra để đón con tàu đang tới.

Monk không nghĩ chúng tới để bán hàng rong.

Anh nhìn lên thấy ánh sáng đã mờ dần khi họ đi sâu vào trong vịnh. Như thể cơn bão đột ngột thổi qua.

Nhưng không phải là những đám mây che phủ cái
vũng này.

Một ai đó đang bận rộn, Monk nghĩ khi anh nhìn lên trên.

Nằm ngang dọc trên khoảng không của vịnh núi lửa này một cái lưới rất rộng được chăng ra. Trông nó như một công trình khổng lồ, chắc phải mất hàng chục năm xây dựng, có khi phải hàng thế kỷ. Trong khi những khu vực chính được chống đỡ bởi những cột thép và khung gỗ đan hình quả trám, nối từ mỏm này sang mỏm khác, thì những khu vực khác, hệ thống lưới được tạo dựng bằng dây thừng và lưới, thậm chí những khu vực lâu đời hơn, bằng cỏ và rơm rạ. Toàn bộ trải rộng phía trên hồ như một cái mái hoàn thiện, một công trình kiệt tác về cơ khí ngụy trang với lá cây, bụi cây và cành. Từ trên cao, vùng vịnh hoàn toàn bị che lấp. Trên không trung nhìn xuống, hòn đảo vẫn như rừng nối tiếp rừng.

Và giờ đây, cái lưới mênh mông đó đã  bắt sống được con tàu Người con gái của biển cả và giấu nó vĩnh viễn khỏi mọi cặp mắt dòm ngó.

Không ổn rồi.

Tiếng động cơ ngừng hẳn và con tàu chậm chạp đứng yên. Monk nghe tiếng động khi neo được hạ xuống.

Có tiếng hỗn loạn ở phía đầu tàu thu hút sự chú ý
của anh.

Monk thò đầu ra quan sát. Những tên cướp không có vẻ lẩn lút, chạy vụt qua anh, những khẩu súng chĩa lên không gian, hò hét.

"Không thể có điều gì hay được." Anh lẩm bẩm.

Ngoái lại, anh thấy một đám đông bọn cướp biển tụ tập ở khoang phía trước, đứng xung quanh bể bơi và tắm nước nóng. Tiếng nhạc Bahama vang lên, món quà của Bob Marley và dàn nhạc. Nhiều tên cầm chai bia, rượu whisky và vốt ka, một sự hòa trộn giữa bọn cướp địa phương và những tên lính đánh thuê. Hình như bữa tiệc trở về nhà.

Cùng với các trò chơi.

Sự chú ý của bọn cướp tập trung vào một bên của con tàu. Những khẩu súng trường, những nắm đấm vung lên, tiếng hò reo khuyến khích vang lên. Một ai đó đã vặn ốc khoang lặn làm nó thò ra khỏi mặt nước. Một người đàn ông bị lôi ra phía trước, cánh tay của anh ta trói chặt phía sau. Anh ta bị đánh đập, mũi tóe máu, đôi môi bầm dập.

Quay lại, Monk thoáng nhìn thấy khuôn mặt của người đó từ đám đông.

Ồ, không...

Jessie lắp bắp nói tiếng Mã Lai nhưng những lời nói của cậu ta như rơi vào tai những kẻ điếc. Cậu ta bị gí súng trèo qua lan can vào khoang lặn. Hình như đây là những kẻ cướp cuồng tín theo kiểu truyền thống.

Jessie loạng choạng trèo lên.

Monk tiến một bước về phía anh ta.

Nhưng rất đông bọn cướp đứng giữa anh và người y tá trẻ. Liệu anh có thể làm được gì? Rõ ràng Monk không thể bắn qua đám đông bọn cướp được. Nó sẽ khiến cho cả hai đều bị giết.

Tuy vậy, bàn tay của anh vẫn đặt lên cò súng.

Lẽ ra anh không nên bao giờ lôi kéo cậu ta. Anh đã phải dựa vào cậu ấy quá nhiều và dồn ép cậu ta quá. Jessie đã rời cách đây hơn một giờ tìm kiếm một tấm bản đồ địa phương của khu vực này. Có ai đó chắc phải có tấm bản đồ hay ít ra bản phác họa. Bọn cướp phải nhận được tiếp tế từ đâu đó quanh đây. Monk nói cậu ta cẩn thận, nhưng Jessie đã lao đi, đôi mắt sáng rực.

Giờ thì nhìn xem điều gì đến với cậu ấy.

Với tiếng kêu lần cuối, Jessie nhảy ra khỏi mép ván rồi lao xuống nước thật mạnh. Monk lao ra chỗ lan can, cùng với những tên cướp khác, sát cạnh vai khi chúng hò hét, chửi bới, kể cả đánh cược.

Monk cố nín thở khi thấy Jessie nhô đầu lên, đạp mạnh ngửa người ra, thở hổn hển. Một vài tên cướp đứng ở cầu tàu đã chĩa súng ngắm vào nạn nhân đang vùng vẫy.

Ôi, lạy Chúa.

Những tiếng súng, đặc biệt nghe rất rõ dưới cái lưới khổng lồ.

Những tiếng bòm bõm tạo ra ấn tượng.

Dưới gót chân của Jessie.

Nhiều tiếng cười nữa.

Cậu bé đạp mạnh rồi vặn người bơi ra xa con tàu.

Nó chẳng bao giờ có thể vào đến bờ.

Một trong những chiếc thuyền cao tốc lao thẳng về phía cậu ta, định chồm lên trên. Nhưng vào giây cuối cùng, nó tránh ra, xô mạnh cậu ta.

 

Cậu ta loạng choạng nhìn tức tối hơn là hoảng sợ.

Bơi ngửa người, cậu ta đạp mạnh dùng hai cánh tay bị trói như cái bánh lái. Cậu thật khỏe và khôn khéo.

Nhưng con thuyền cao tốc lại nhanh hơn.

Nó quay vụt lại rồi lao tới lần nữa.

Một tên cầm súng đứng trên thuyền cười hô hố lấy đích ngắm. Hắn bắn vào nước khi chiếc thuyền lao qua con tàu và cậu ta.

Monk rúm người lại, biết rằng lần này khó mà thoát.

Chiếc thuyền cao tốc rồ máy lao qua.

Và Jessie ở đó, ho rồi khạc nhổ. Cậu đạp mạnh, đá lung tung. Có tiếng hò reo từ đám giặc cướp.

Bàn tay anh nắm chặt vào lan can, như thể định giật mạnh ra. Mặt anh đỏ bừng, trông chắc phải đỏ như bôi phẩm.

Tất cả là lỗi của mình...

Jessie cố gắng lao vào bờ, tìm kiếm xem mình có thể bơi được bao nhiêu đến bãi biển. Con thuyền vòng lại. Tiếng cười hô hố vọng trên mặt nước.

Jessie lại đạp mạnh.  Bỗng nhiên cậu ta đứng lên, khi thấy cát ở dưới chân. Cậu ta chạy, ngã, bò, đi, rồi lại trườn về phía bờ. Đôi chân cậu đưa cậu ta qua mặt nước, cố hướng tới chỗ rừng rậm phía trước.

Đi, Jessie...

Con thuyền cao tốc lao nhanh. Những viên đạn lại bắn ra. Cát nổ tung, xé thành những vệt. Jessie lao đi và biến mất vào rừng rậm, hai cánh tay vẫn bị trói quặt sau lưng.

Lại có nhiều tiếng hò hét hơn, xen lẫn vài tiếng kêu thất vọng.

Tiền chuyển sang tay nhau.

Nhưng đa số đều chặc lưỡi, như thể là một trò đùa.

Monk huých vào người đứng cạnh. "Apa?" Anh hỏi.

Thực ra bọn cướp là một sự pha trộn cả dân địa phương và lũ lính đánh thuê nước ngoài. Monk đã học được vài tiếng Mã Lai để đi lại. Chẳng có ai nói thông thạo như những tên cướp người địa phương.

 

Anh chàng bên cạnh Monk mất vài chiếc răng cửa, nhưng rất vui chỉ ra mình còn bao nhiêu chiếc với nụ cười toác miệng. Anh chỉ tay vào phía bờ nhưng lại hướng lên cao. Một vài làn khói có thể nhìn thấy ở phía xa. Có một vài trại lính ở đó.

"Pemakan daging manusia." Gã cướp giải thích.

Giống như anh bạn thôi.

Gã hình như hiểu được sự bối rối của anh nên chỉ cười rộng miệng hơn, phô ra mấy chiếc răng sâu của mình. Gã cố lần nữa. "Bọn ăn thịt người".

Đôi mắt Monk mở to. Đó là từ Mã Lai mà chính anh có thể dịch được. Anh tròn mắt nhìn về phía bờ biển vắng rồi lại nhìn những vệt khói. Hình như bọn cướp chia nhau hòn đảo với bộ tộc địa phương chuyên ăn thịt người. Và giống như những người khách quý trở về nhà, bọn cướp ném cho những kẻ giữ nhà mẩu xương.

Giống như vậy.

Gã cướp bên cạnh anh tiếp tục ba hoa rồi chỉ về phía mặt nước. Monk chỉ tóm được vài câu, từ này từ nọ.

"May mắn... ban đêm... tồi tệ..." Người đàn ông huơ tay giải thích và nắm lấy cái gì đó rồi thả xuống. "Iblis."

Từ cuối cùng là một câu chửi bằng tiếng Mã Lai.

Monk đã nghe nó quá nhiều lần, nhưng anh chắc chắn rằng người đàn ông nọ đang sử dụng tiếng dịch trực tiếp.

Ma quỷ.

"Raksasa iblis," anh ta nhắc lại rồi lại lắp bắp thêm, cuối cùng thì thào một từ, "Rangda".

Monk trợn mắt rồi đứng thẳng dậy, nhô người ra nhìn vào mặt nước. Anh nhớ lại câu chuyện của Jessie kể về những người vợ già. Rangda là tên của bà quận chúa phù thủy Bali mà những hồn ma của bà ta thường xuất hiện trên mặt nước.

 

"Ban đêm..." người đàn ông lắp bắp bằng tiếng Mã Lai rồi chỉ vào nước biển. "Rất, rất tồi tệ..."

Monk thở dài.  Anh lo lắng nhìn vào khu rừng nơi Jessi vừa biến mất.

Ma quỷ và những kẻ ăn thịt người.

Thế còn cái gì tiếp theo đây? Club Med?

 



1. Đơn vị đo trọng lượng của Anh, bằng 0,454kg.

Nguồn: truyen8.mobi/t86792-loi-vao-dia-nguc-chuong-8.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận