Đất Độc Chương 3

Chương 3
Câu chuyện thứ 5: BÀ ĂN XIN

Ông ngoại tôi là người làng Bắc Biên gốc. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, cũng như nhiều trai làng khác, ông tôi không học cao, mà ở nhà làm ruộng. Ông là người hiền lành, tốt bụng và dễ gần; cực ít nói nhưng không lầm lì. Là dân sông nước, thú vui từ nhỏ của ông tôi là bơi sông.

Ông bơi giỏi lắm, mùa nước lên ông hay bơi ra giữa dòng vớt gỗ, hoặc bơi từ bờ nhà tôi ra bãi giữa. Ngày nào ông cũng ra sông, đông hay hè, nắng hay mưa, chỉ trừ những hôm bão to quá. Chẳng ai biết tại sao ông lại thích ra sông đến thế, và cũng chẳng ai biết ông đi đâu, làm gì ngoài bãi bồi. Những năm tháng lặn ngụp ngoài sông Hồng làm ông trở nên ngang tàng, rắn rỏi và đặc biệt ít nói đến kì lạ.

Năm ông 13 tuổi, có một bà ăn mày lang thang đến Bắc Biên. Mọi người kể nghe đâu bà ta là người miền ngược, trước sống hủ hóa, làng nghi có thuốc độc, bị phạt vạ và xử chết. May cao số nên còn sống nhưng thân tàn ma dại. Lang thang khắp nơi rồi cuối cùng dạt về đây. Bà ăn mày đi quanh trong làng xin ăn, cứ thấy trẻ con là sà vào vuốt má rồi cười sằng sặc. Ai cũng tránh như tránh tà. Chỉ riêng ông tôi chẳng hiểu sao không sợ mà còn hay cho bà ấy, lúc tấm bánh, lúc quả ổi, bắp ngô. Cả nhà chẳng ai can được.

Ngày trước sông Hồng rất khác bây giờ, có ba bãi bồi chứ không phải hai. Ngoài hai bãi bây giờ vẫn còn là bãi giữa, và bãi phía Nam bên Hà Nội - bây giờ có làng chài sinh sống; còn một bãi lớn nhất ở phía chân cầu Long Biên, mạn Ngọc Thụy hắt vào trong. Bà ăn mày sống ở đấy. Năm ấy nước sông lên cao, lụt lớn. Thanh niên cả làng bị vắt gần như đến kiệt sức, đưa gia đình sang làng khác, hay gia cố nhà để nước khỏi cuốn trôi. Nước rút đi, người ta thấy bà điên nằm chết kẹt trong bụi tre rìa sông. Mặt trắng bệch, bủng beo, lưỡi nâu sì, người trương phềnh, miệng như đang cười giống hồi còn sống. Mọi người chôn bà luôn ở gốc tre đấy.

Cách mạng về làng, ông tôi cũng tham gia đi nghe tuyên truyền mỗi tối. Đêm hôm đó, ông một mình đi bộ về. Đường vào nhà ông phải đi qua một khóm tre. Thanh niên vùng sông nước, quanh năm gặp xác chết dạt vào bờ, lại có cách mạng về, ông tôi tỏ ra chẳng sợ gì cả. Sau này, vào một lúc hiếm hoi ông mới kể cho tôi, có lẽ đêm đólàm thay đổi cuộc đời ông. Khóm tre lòa xòa, ánh trăng hắt vào càng làm nó kì quái hơn. Ông vừa bước qua, thì ở chỗ nấm mồ bà ăn xin có tiếng cười khe khẽ. Chẳng quan tâm, ông đi tiếp. Bỗng có tiếng gọi giật lại: “T mày còn tấm bánh nào cho tao không?”.Lúc này ông bắt đầu sợ. Tiếng cười lại vang lên, to và rõ hơn trước. Trong bụi tre, tiếng bà ăn xin réo tên ông văng vẳng. Trán ông đổ mồ hôi lạnh. Từ đâu một cơn gió sông thổi mạnh, tán tre rạt sang một bên, ánh trăng lọt vào chỗ nấm mồ vô chủ, ông thấy nguyên bó hương nghi ngút. Ngẩng lên cao, bà ăn mày đang đứng trên ngọn cây nhìn ông. Ông tôi kể lại, khoảnh khắc ấy tim ông gần như ngừng đập.Bà ăn xin cười khe khẽ rồi nói với ông: “Mày tốt với tao, tao lấy vợ cho mày” rồi biến mất. Trở về nhà, ông tôi mặt tái nhợt. Từ đó ông càng thêm ít nói, và cũng từ đó ông hay ra bãi bồi hơn. Vẫn chẳng ai biết ông đi đâu, làm gì cả.


Câu chuyện thứ 6: ĐÁM CƯỚI

Bà tôi vốn sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng khi lớn lên thì gia cảnh cũng tan nát. Cụ ngoại mất, tài sản tiêu tán. Mồ côi cha mẹ, bà cùng các chị trở về quê trồng ngô ngoài bãi như bao người khác trong làng. Mọi người to nhỏ, chị em con N quyền quý chắc gì chịu được, nhưng bà tôi mặc nhiên chẳng than vãn một lời. Ông tôi hơn bà tôi 6tuổi. Từ nhỏ tới lúc lớn ông chỉ thích bơi lội ngoài sông và chí thú làm ăn. Nắng gió trui làm da ông nâu bóng, cơ bắp rắn rỏi đúng nghĩa là một lực điền. Trong kí ức tôi ông ngoại rất cao, khỏe mạnh và đẹp trai. Con gái trong làng hồi đấy hay khúc khích thách đố, trêu nhau đưa được anh T tách được bãi bồi về làm rể. Mặc kệ tất cả, ông không để ý đến; cuộc sống chỉ gắn liền với đồng ngô, bãi bồi và con sông Hồng năm nào cũng ném nước vào làng.

Hàng năm, đều đều ba tháng nước sông lại lên, tràn vào ngập nửa cái làng Bắc Biên bé tẹo. Dân lũ lượt kéo nhau đi sơ tán, hoặc ra thành phố kiếm việc làm. Lũ ở sông Hồng rất to nhưng cũng rất đều đặn, và nó cũng đều đặn chở vào làng những cái xác của trâu bò, lợn gà chết trôi, cả của những người xấu số. Xác họ dạt vào bờ, hoặc vướng vào bụi tre, bãi bồi. Cứ hết mùa nước, thanh niên làng lại đưa họ ra chôn, để người nhà nếu có đi tìm thì cũng còn đem về được.

Năm 1956, nước dâng cao đột ngột, chảy xiết và sâu quá đầu người. Người làng hầu như di tản hết; chỉ còn lại số ít thanh niên ở lại đi vớt gỗ đóng bè, trong đó có ông tôi. Hôm đấy, đang mải vớt khúc cây trôi theo dòng, ông chợt nghe tiếng kêu cứu thất thanh. Một người phụ nữ trẻ, bám vào khúc cây đang bị nước cuốn ra giữa dòng. Nước hút ra phía sông thường rất siết và tạo thành dòng chảy chẳng theo phương hướng gì. Thanh niên làng nhìn nhau ngao ngán. Ông chẳng nói năng gì lao luôn về phía đấy. Cũng vì ở ngoài bãi từ nhỏ nên ông bơi như rái cá. Chỗ sâu, nông của dải sông ông thuộc như lòng bàn tay. Vật lộn một lúc lâu, ông cũng đưa được người phụ nữ vào bờ, mệt lử. Lúc này ông mới nhận ra cô gái này tên N người cùng làng. Cô N đi thu dọn đồ, buộc lại một chút trước khi di tản thì bị rơi xuống vùng nước xoáy. Chật vật xoay xở mới bám được vào một thân cây trôi qua, may có ông tôi kéo lại, không chắc chắn bỏ mạng như những người xấu số vẫn dạt vào làng mỗi năm.

Ông tôi chẳng coi trọng việc cứu người hay được trả ơn, vẫn chẳng quan tâm đến việc cô N từ sau đợt đấy ngày nào cũng ra bãi thăm ông. Cô N lúc này đã chuẩn bị cưới một người khác, làm công nhân trên huyện nên ông càng chẳng màng. Ông nói thẳng và đuổi cô N không cho ra đây nữa vì hàng xóm cũng bắt đầu điều tiếng. Cô N chỉ ra gặp ông vào buổi giữa trưa và tầm chạng vạng tối, các buổi khác tuyệt nhiên không lai vãng lại bãi bồi; đôi lúc chỉ là mang cho ông ấm nước, kho cho ông khúc cá hay dọn lại cái lều ngoài bãi của ông. Một thời gian dài tránh mặt, ông tôi quyết định xin vào làm công nhân trong nhà máy bút bi Hồng Hà, từ đó ít ra ngoài bãi; cái lều cũng bỏ hoang.

Từ hồi bỏ bãi, lên nhà máy làm việc ông tôi quen một người con gái khác cùng làng, xinh đẹp và mạnh mẽ. Hai người ngày ngày quấn lấy nhau không rời như đôi sam. Ông cũng chẳng còn ra bãi mấy nữa. Cô N biết ông đi làm công nhân, nhưng vẫn ngày hai buổi giữa trưa và xẩm tối ra bãi chờ đợi. Ngày biết tin ông tôi lấy vợ - cô gái kia, và cũng chính là bà ngoại tôi, cô N hẹn ông ra bãi sông nói chuyện. Ông tôi kể, cô N bảo từ sau hôm được ông cứu, trưa và xẩm tối nào cũng có một người đàn bà vào dắt cô ra bãi. Người đàn bà đó đi tập tễnh, giọng khò khè, bắt cô nấu cơm, dọn dẹp cho ông. Cô N bảo cô vẫn yêu chồng chưa cưới, nhưng ngày nào cũng bị dắt theo chân người kia ra bãi, kể cả sau khi ông đi làm công nhân. Ông tôi lạnh toát sống lưng. Cô N khóc nhiều lắm, bảo đời em chẳng thuộc về em, và nói rất nhiều câu vô nghĩa khác rồi chạy về nhà. Sáng hôm sau người làng tìm thấy cô N treo cổ chết trong cái lều của ông. Đêm tân hôn, có con mèo đen ở đâu nhảy lên xà nhà, nhìn ông rồi bảo “Tao đây, tao đây” bảy lần.

Trở lại chuyện năm bà tôi bị điên trở về nhà. Đêm hôm bà về, bước vào nhà, người ông nhìn thấy không phải bà, mà là cô N đứng bên cạnh là bà già ăn xin năm trước, bà già ăn xin nhìn ông, bảo: “Tao đây”. Khi bà ngoại kể chuyện với mẹ, ông lẳng lặng lên ban thờ thắp hương cho ông quan Tàu. Ba nén hương vừa tàn cũng là lúc gió rít rất to ngoài bãi, cửa mở toang rồi đóng sập lại. Lúc này ông mới xuống nhà nói chuyện với bà.


Nguồn: truyen8.mobi/t98706-dat-doc-chuong-3.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận