Điệp Viên Của Chúa Chương 7

Chương 7
TRỤ SỞ UACV. Số 3, phố Lamarmora (2)

 

Thứ tư, ngày 06 tháng 04, 2005, 12:03 sáng.

Paola ngồi xuống, chăm chú lắng nghe câu chuyện Fowler sắp kể.

“Mọi chuyện với tôi bắt đầu năm 1995. Vào thời điểm đó sau khi rời khỏi Không quân Hoa Kỳ, tôi bắt đầu làm việc dưới sự hướng dẫn của Đức Giám mục. Người muốn tôi tận dụng chuyên môn tâm lý học đã được đào tạo để gửi tôi tới Tu viện Saint Matthew. Đã có ai nghe nói đến nơi này chưa?”

Cả ba người đều lắc đầu.

“Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Chính sự tồn tại của Tu viện này cũng là một bí mật đối với đại đa số công chúng Mỹ. Về danh nghĩa nó là một trung tâm điều trị nội trú dành cho những linh mục và nữ tu gặp “vấn đề”, nằm ở Đồi Sachem, bang Maryland. Trong thực tế 95% bệnh nhân ở đây có tiền sử lạm dụng tình dục trẻ em hoặc những vấn đề về ma túy. Cơ sở hạ tầng của Tu viện này quả thực vô cùng sang trọng: có 35 phòng cho bệnh nhân, 9 phòng dành cho các nhân viên y tế (hầu hết là bác sĩ thực tập nội trú), một sân tennis, hai sân bóng chèo ([19]), một bể bơi, phòng giải trí với bàn bi da...”

“Nghe giống như một trung tâm an dưỡng hơn là một bệnh viện tâm thần.” Pontiero ngắt lời.

“Vâng, đó là một điều bí hiểm ở nhiều cấp độ. Nó là một điều bí hiểm đối với thế giới bên ngoài cũng như với cả những người sống trong đó. Ban đầu các bệnh nhân coi đây là một nơi họ có thể nghỉ ngơi vài tháng, mặc dù dần dần họ nhận ra đó là một nơi hoàn toàn khác với những gì họ nghĩ. Hẳn quý vị đã biết vấn đề nan giải mà nhà thờ ở nhiều nước đang phải đối mặt, liên quan đến những linh mục trong những năm gần đây. Theo công chúng, thật khó có thể chấp nhận thực tế rằng những kẻ đang bị cáo buộc là lạm dụng tình dục trẻ em lại đang được hưởng thụ cuộc sống sung sướng trong một khách sạn xa xỉ.”

“Và người ta cứ để yên như thế sao?” Pontiero hỏi. Ông ta tỏ ra rất bức xúc trong chuyện này, có lẽ vì nghĩ đến hai đứa con còn đang ở tuổi vị thành niên của mình.

“Không. Tôi sẽ cố gắng kể lại những gì tôi đã trải qua tại đó một cách cô đọng nhất. Sau khi đến tu viện, tôi nhận thấy đó là một nơi cực kỳ trần tục. Trông chẳng có gì giống như một tu viện bình thường cả: thậm chí còn không có cả cây thánh giá trên tường, chẳng có ai trong các đạo hữu của rất nhiều dòng tu mặc áo choàng của linh mục cả. Tôi đã phải đi lại rất nhiều nơi, cả trong những chiến dịch viễn chinh cho đến mặt trận thực sự, nhưng tôi chưa bao giờ cởi bỏ chiếc cổ áo linh mục của mình. Vậy mà mọi người ở đó đến và đi thế nào tùy thích. Niềm tin và khả năng tự chủ rõ ràng là những điều xa xỉ ở đó .

“Vậy ông không liên hệ với ai đó có trách nhiệm hay sao?” Dicanti hỏi.

“Tất nhiên là có chứ. Điều đầu tiên tôi làm là viết thư cho vị giám mục chịu trách nhiệm ở giáo xứ đó. Ông ta buộc tội tôi là quá cứng nhắc do những thói quen trong môi trường quân đội. Ông ta còn khuyên tôi nên “hòa đồng và thích nghi” hơn. Đó quả là quãng thời gian khó khăn đối với tôi; sự nghiệp của tôi trong Không quân cũng gặp nhiều trắc trở. Tôi hoàn toàn không có ý định miêu tả chi tiết làm gì, nó cũng không liên quan nhiều đến công việc chúng ta có ở đây. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi hoàn toàn không muốn mang tiếng là người quá cổ hủ và cứng nhắc.”

“Cha không việc gì phải tự biện minh cho mình.”

“Tôi biết, nhưng tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt trước những gì xảy ra ở đó. Tại tu viện đó người ta chẳng chữa chạy được gì hết, cả tâm hồn và trí óc; họ chỉ tìm cách o ép bệnh nhân theo hướng quy phục mọi sự phản kháng. Kết quả là mọi thứ hoàn toàn đi ngược với những gì các cha bề trên kỳ vọng.”

“Tôi không hiểu,” Pontiero nói.

“Tôi cũng vậy,” Troy tiếp lời.

“Vâng, mọi chuyện rất phức tạp. Thứ nhất, người duy nhất có trình độ đại học về tâm thần học ở đó là Cha Conroy, đồng thời là tu viện trưởng. Tất cả những người còn lại chỉ qua trường đào tạo y tá hoặc nhân viên kỹ thuật. Vậy mà họ lại được phép đưa ra những nhận định về tâm thần của người bệnh!”

“Điên rồ!” Dicanti ngạc nhiên.

“Chính xác là như thế. Điều kiện duy nhất để có thể được thuê vào làm ở đó là người ấy phải là người của Dignity (Phẩm giá). Đây là một tổ chức vận động phong chức linh mục cho phụ nữ và tự do tình dục cho các linh mục nam. Cá nhân tôi không hề ủng hộ bất kỳ điều gì của họ...nhưng nói chung thì tôi cũng không có thẩm quyền phán xét. Tôi chỉ có thể đưa ra nhận xét về trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên tại đó, và phải nói thật là rất yếu.”

“Tôi không hiểu là tất cả những chuyện này đang dẫn chúng ta đến đâu,” Pontiero sốt ruột châm một điếu thuốc khác.

“Xin chờ thêm năm phút nữa thôi rồi ông sẽ thấy. Như tôi đã nói, Cha Conroy, một người có thiện cảm với tổ chức Dignity có tư tưởng rất tự do về vấn đề đời sống nội tâm, đã quản lý tu viện Saint Matthew một cách vô cùng tùy hứng. Nhiều linh mục lương thiện đến đó, và vì Conroy mà họ đã từ bỏ chức vị tu sĩ vẫn là ánh sáng chỉ lối cho cuộc đời mình. Với những người khác, ông ta thúc giục họ không nên cưỡng lại bản năng tự nhiên của mình, mà hãy cứ sống cuộc sống mà họ muốn. Ông ta coi đó là thành công của mình khi một người ngoan đạo từ bỏ lời thề trung thành với Chúa và bắt đầu một mối quan hệ đồng tính.”

“Và ông coi đó là một vấn đề sao?” Dicanti hỏi.

“Không, nếu như người đó thực sự muốn hoặc cần như vậy thì không sao. Đằng này Conroy chẳng hề tí ti đếm xỉa gì đến những nhu cầu của bệnh nhân. Trước hết, ông ta đặt ra cho mình những mục tiêu cần đạt được và áp dụng ngay cho người kia, mà chẳng hề biết trước tí gì về người đó. Ông ta đóng vai trò là Chúa trời đối với con tim và khối óc của những con người khốn khổ đó, mà trong số này có nhiều người đang phải vật lộn với những mâu thuẫn nội tâm giằng xé mãnh liệt. Vậy mà ông ta gột rửa sạch sẽ cho tất cả như nhau. Gột sạch sẽ những gì còn sót lại trong đầu họ về ý thức tôn giáo.”

“Lạy Chúa tôi,” Pontiero lầm bầm, giả vờ tỏ ra phẫn nộ.

“Xin hãy tin tôi: ông ta toàn làm những việc vượt quá phạm vi quyền hạn của mình. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất. Xuất phát từ những sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn các ứng viên, rất nhiều thanh niên ở đất nước tôi, vốn không hề thích hợp với công việc chăn dắt linh hồn người khác, lại bước vào các trường dòng Công giáo từ những thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước. Họ thậm chí còn không có khả năng chăm lo linh hồn của chính mình. Thực tế là vậy. Dần dần, nhiều người trong số những thanh niên này đã từ bỏ chiếc áo linh mục. Họ đã gây ra những tổn hại cực kỳ to lớn cho thanh danh của Nhà thờ Công giáo, và tồi tệ hơn cả, là những điều họ đã gây ra cho rất nhiều thanh thiếu niên khác. Có không ít linh mục đã bị cáo buộc là lạm dụng tình dục, đã nhận tội lạm dụng tình dục, nhưng không bao giờ phải vào tù. Họ chỉ biến mất; họ được thuyên chuyển từ giáo xứ này sang giáo xứ khác. Và một vài người trong số đó bị gửi đến Tu viện Saint Matthew. Một khi đã đến đó, nếu may mắn, họ sẽ được định hướng để quay lại cuộc sống thế tục. Điều đáng xấu hổ là nhiều người thậm chí còn quay lại đoàn linh mục trong khi lẽ ra chỗ của chúng là ở trong tù. Tiến sĩ Dicanti, xin cô hãy cho tôi biết liệu có khả năng điều trị được cho một kẻ giết người hàng loạt hay không?”

“Hoàn toàn không. Một khi đã vượt qua ngưỡng, không có cách nào đưa hắn quay lại.”

“Với một kẻ lạm dụng tình dục trẻ em đáng ghê tởm cũng vậy. Đáng tiếc là khả năng đi đến kết luận chắc chắn mà cô có lại không hề tồn tại trong lĩnh vực của chúng tôi. Họ biết rằng họ đang có trong tay một con quái vật, một kẻ đáng ra phải bị bắt giam. Nhưng với một nhà điều trị tâm thần làm việc với một kẻ bệnh hoạn, thật khó có thể xác định hắn đã vượt qua ranh giới vĩnh viễn hay vẫn còn cơ hội cứu chuộc. Tôi chỉ biết đúng một trường hợp duy nhất mà tôi hoàn toàn không phải nghi ngờ gì thêm. Và đó là trường hợp mà ẩn sau căn bệnh thích lạm dụng tình dục trẻ em, vẫn còn một điều nguy hiểm hơn nhiều.”

“Để tôi đoán nhé: đó là Victor Karosky. Thủ phạm của chúng ta.”

“Chính hắn.”

Troy đằng hắng rồi nói xen vào. Một thói quen khó chịu mà ông ta rất hay làm trước mặt mọi người.

“Cha Fowler, xin ông vui lòng giải thích cho chúng tôi biết tại sao ông lại chắc chắn rằng đây chính là kẻ đã giết hại dã man Robayra và Portini?”

“Tất nhiên rồi. Karosky đến tu viện này tháng 8 năm 1994. Trước đó hắn đã bị thuyên chuyển qua rất nhiều giáo xứ, vì các đấng bề trên của hắn luôn giải quyết tình hình bằng cách đẩy vấn đề từ chỗ này sang chỗ khác. Ở bất kỳ đâu họ cũng nhận được rất nhiều lời tố cáo, mức độ nghiêm trọng có khác nhau, mặc dù không có vụ nào là đặc biệt hung bạo. Căn cứ vào những lời khai mà chúng tôi thu thập được, chúng tôi tin rằng hắn đã lạm dụng tất cả là 89 dựa trẻ, mặc dù con số thực tế có thể còn cao hơn.”

“Mẹ kiếp.”

“Ông nói đấy nhé, Pontiero. Nghe này, gốc rễ vấn đề của Karosky bắt nguồn từ tuổi thơ của hắn. Hắn sinh năm 1961, tại Katowice, Ba Lan. Có...”

“ Khoan đã, thưa cha. Cha vừa nói là năm nay hắn 44 tuổi?”

“Chính xác. Hắn cao đúng lm75 và nặng khoảng 80kg, vạm vỡ, khỏe mạnh. Các bài kiểm tra trí thông minh cho thấy chỉ số IQ của hắn trong khoảng 110 đến 125, tùy thuộc vào từng thời điểm kiểm tra. Trong thời gian ở tu viện, hắn làm 7 bài kiểm tra IQ cả thảy. Nói chung là hắn rất hứng thú với kiểu kiểm tra này.”

“Như thế là khá cao đấy!”

“Cô là một chuyên gia tâm thần, còn tôi lại nghiên cứu tâm lý học và hồi sinh viên tôi cũng chưa bao giờ là một người xuất sắc. Tôi tiếp xúc với những kẻ bệnh hoạn nguy hiểm nhất quá muộn màng nên không kịp đọc nhiều tài liệu về chúng. Hãy nói cho tôi biết: có đúng là tên giết người hàng loạt này cực kỳ thông minh không?”

Paola mỉm cười, hơi pha chút châm biếm, và liếc nhìn Pontiero, ông ta cũng nhìn lại cô với vẻ mặt như vậy.

“Tôi nghĩ là ngài thám tử đây có thể trả lời một cách xác đáng hơn câu hỏi của cha.”

“Hannibal Lecter ([20]) làm gì có thật còn Jodie Foster ([21]) thì chỉ nên đóng những phim tâm lý xã hội thôi.” Thanh tra Dicanti vẫn nói thế mà.”

Tất cả đều bật cười, không phải vì câu nói đùa đó có gì hài hước mà đơn giản là vì để không khí trong phòng bớt căng thẳng hơn.

“Cám ơn ông, Pontiero. Thưa cha Fowler, chân dung một kẻ giết người hàng loạt điên rồ được xây dựng trong phim ảnh và tiểu thuyết thường rất hoang đường và phi lý. Trong thực tế, những kẻ như vậy chẳng bao giờ tồn tại. Có những kẻ giết người hàng loạt có chỉ số IQ rất cao, nhưng cũng nhiều tên lại cực kỳ ngu độn. Sự khác biệt giữa hai loại này là ở chỗ những tên có chỉ số IQ cao thường có khả năng gây tội ác lâu hơn vì chúng cẩn thận và cảnh giác hơn. Điều mà tất cả các nhà nghiên cứu học thuật đều thống nhất chính là khả năng giết người dễ dàng và nhanh chóng của những kẻ giết người hàng loạt.”

“Thế còn quan điểm của những người làm việc trực tiếp như cô thì sao?”

“Tôi nhận thấy trong số này có những tên khốn kiếp còn tinh ranh hơn quỷ Sa tan.

Không hẳn là thông minh mà là tinh ranh thì đúng hơn. Và một số ít có chỉ số IQ rất cao, có năng khiếu bẩm sinh trong việc giết hại con người và che giấu hành vi tội ác của chúng. Từ trước đến nay mới chỉ có đúng một trường hợp và chỉ một trường hợp trong đó những đặc điểm này cùng tồn tại trong một tên giết người, và hắn cũng là kẻ có trình độ học vấn rất cao. Tôi đang nói đến Tên Bundy.”

“À, đây là một vụ khét tiếng ở nước chúng tôi. Hắn đã xiết cổ rồi giao cấu với khoảng 35 phụ nữ thì phải.”

“Theo tôi biết thì là 36,” Paola chỉnh lại. Cô nhớ rõ vụ Bundy đến từng chi tiết, vì những thông tin trong vụ này đã được dùng làm tài liệu nghiên cứu trong thời gian cô huấn luyện tại Quantico.

Fowler gật đầu buồn bã.

“Như tôi đã nói, Victor Karosky chào đời năm 1961, tại Katowice, thật trớ trêu nơi đó chỉ cách nơi sinh của Giáo hoàng John Paul II - Karol Wojtyla có vài cây số. Năm 1969, gia đình Karosky, gồm bản thân hắn, bố mẹ, cùng hai người anh em trai, di cư sang Mỹ. Bố hắn tìm được một công việc trong nhà máy của General Motors tại DeTroyt, và theo hồ sơ, ông ta là một công nhân giỏi nhưng rất ương bướng. Năm 1972, có một đợt cắt giảm biên chế sau cuộc khủng hoảng dầu lửa, và ông bố Karosky là công nhân đầu tiên bị tống cổ. Lúc này ông ta đã được công nhận quốc tịch Mỹ, nên ông ta sống khá thoải mái trong căn hộ chật chội cùng với gia đình, tiêu hết khoản tiền thôi việc và trợ cấp thất nghiệp. Càng ngày ông ta càng quá đáng và dần trở thành một con người hoàn toàn khác. Ông ta bắt đầu lạm dụng Victor và người anh trai của hắn. Tên người anh trai là Beria. Năm lên 14 tuổi, Beria đã bỏ nhà ra đi và không bao giờ quay trở lại.”

“Karosky kể cho cha nghe tất cả những chuyện này hay sao?” Dicanti băn khoăn hỏi, vừa tò mò vừa thích thú.

“Chỉ sau một buổi điều trị bằng phương pháp truy vấn cực kỳ căng thẳng. Còn khi mới đến tu viện, câu chuyện mà hắn kể với mọi người là hắn được sinh ra trong một gia đình Công giáo nề nếp.”

Paola hý hoáy ghi thép tất cả những gì Fowler đang kể, cô dừng tay dụi mắt. Cô muốn rũ bỏ tất cả những dấu vết của sự mệt mỏi và buồn ngủ trước khi bắt đầu lên tiếng.

“Những gì ông vừa nói hoàn toàn phù hợp với đặc tính chung của những kẻ bệnh hoạn cấp một: huyễn hoặc bản thân, không có khả năng tư duy lôgic, thiếu cảm giác tin cậy và không biết thế nào là lòng trắc ẩn, đặc biệt những người như vậy thường có biệt tài che giấu cảm xúc. Sự vũ phu của người cha cùng với việc cả cha lẫn mẹ đều nghiện rượu thường là điểm chung của 74% những người bệnh tâm thần có xu hướng bạo lực.”

“Như vậy đó có thể là nguyên nhân chăng?” Fowler hỏi.

“Nhiều khả năng đó chỉ là một trong số rất nhiều yếu tố. Tôi có thể viện dẫn ra hàng nghìn trường hợp những người được sinh ra trong những gia đình tan vỡ, hoặc có điều kiện giáo dục cực kỳ tồi tệ so với những gì ông vừa miêu tả, vậy mà họ vẫn trưởng thành và có cuộc sống cũng như nhận thức hoàn toàn bình thường.”

“ Khoan đã. Chúng ta mới chỉ cày xới bề mặt của vấn đề mà thôi. Karosky đã kể về cái chết của em trai hắn năm 1974 vì bệnh viêm màng não, trong khi bố mẹ hắn hầu như chẳng hề đoái hoài gì. Tôi đã cực kỳ ngạc nhiên vì thái độ lạnh lùng và thờ ơ của Karosky khi hắn kể lại giai đoạn tăm tối đó. Hai tháng sau khi thằng bé chết, người cha cũng đột nhiên biến mất một cách bí hiểm. Victor chưa bao giờ giải thích rõ việc hắn có liên quan đến sự mất tích này hay không, mặc dù chúng tôi cũng không nghĩ vậy, vì khi đó hắn mới 13 tuổi. Tuy nhiên chúng tôi biết chắc chắn rằng chính thời điểm này hắn đã bắt đầu hành hạ những con vật nhỏ. Tuy nhiên, điều tồi tệ nhất với Karosky sau đó lại là việc hắn phải sống cùng một người mẹ độc đoán và cuồng tín đến bệnh hoạn. Bà ta thậm chí còn bắt hắn ăn mặc như con gái để hai mẹ con có thể ‘chơi đùa cùng nhau’. Nhiều khả năng chính bà mẹ cũng đã có những hành động vuốt ve con trai mình một cách không bình thường, bà ta còn thường xuyên trêu cậu bé Victor rằng sẽ cắt “thằng nhỏ” của nó đi để nó thực sự giống một bé gái. Kết quả là mãi đến năm 15 tuổi mà Karosky vẫn còn tật đái dầm. Hắn thường xuyên phải mặc những bộ quần áo đại hạ giá, lỗi mốt hoặc không còn lành lặn - xét cho cùng gia đình hắn lúc nào cũng túng thiếu. Tại trường học, hắn đã phải chịu đựng sự dè bỉu và cô lập của bạn bè...Có lần tại trường trung học, một cậu bạn cùng lớp đã vô tình đưa ra lời nhận xét mang tính xúc phạm đến kiểu ăn mặc của Karosky khi hai người gặp nhau ở hành lang. Karosky đã nổi khùng và đánh người bạn bằng một cuốn sách giáo khoa bìa cứng và dầy cộp. Cậu bạn kia đang đeo kính, mắt kính vỡ vụn ra và cậu ta bị mù hẳn con mắt bên trái.”

“Hỏng mắt... giống như những nạn nhân ngày hôm qua. Như vậy đó là tiền sự đầu tiên của hắn.”

“Theo chúng tôi biết thì đúng là như vậy. Victor bị gửi đến một trại giáo dưỡng ở ngoài Boston, và điều cuối cùng mà bà mẹ nói với hắn trước khi chia tay là lẽ ra tao phải nạo thai thay vì để mày ra đời. Vài tháng sau bà ta tự kết liễu đời mình.

Cả phòng đều im phăng phắc. Chẳng còn biết nói gì thêm.

“Karosky ở trại giáo dưỡng cho đến hết năm 1979. Trong cả năm đó chúng tôi không có thông tin gì cụ thể, nhưng năm 1980, hắn đăng ký vào một trường dòng ở Baltimore. Hồ sơ đăng ký nhập học của Karosky ghi rằng hắn không hề có tiền án, tiền sự và xuất thân từ một gia đình Công giáo căn bản. Năm đó hắn đã 19 tuổi, và ai cũng nghĩ rằng hắn đã biết tu tỉnh. Chúng tôi hầu như không nắm được thông tin gì về thời gian hắn học trong trường dòng, ngoại trừ việc hắn học hành miệt mài đến mệt thiếp đi và nhất là việc hắn cực kỳ ghê tởm môi trường đồng tính luyến ái gần như công khai trong tu viện. Conroy khẳng định Karosky là một người đồng tính luyến ái bị ức chế bởi chính sự chối bỏ bản thân của hắn, nhưng ông ta đã sai lầm. Karosky không phải người đồng tính luyến ái cũng chẳng phải người quan hệ tình dục khác giới bình thường. Tóm lại, xu hướng tính dục của hắn không rõ ràng. Theo tôi nghĩ việc tình dục không hề có vai trò gì trong tính cách của Karosky là nguyên nhân gây nên những tổn thương nghiêm trọng về mặt tâm thần của hắn.”

“Cha có thể giải thích cụ thể được không?” Pontiero đề nghị.

“Vâng. Tôi là một linh mục, và tôi đã tự nguyện chọn một cuộc sống độc thân, không tình dục. Nhưng điều đó cũng không ngăn cản tôi cảm thấy bị hấp dẫn khi đứng trước tiến sĩ Dicanti,” Fowler nói, và khoát tay làm một cử chỉ về phía Paola khiến cô không khỏi đỏ mặt ngượng ngùng. “Tôi biết tôi là người có thiên hướng tình dục khác giới, nhưng tôi tự nguyện giữ mình chay tịnh. Trong tính cách của tôi vẫn có thiên hướng tình dục rõ ràng, mặc dù tôi không hề thực hiện nó. Karosky thì hoàn toàn khác.

Những tổn thương nghiêm trọng mà tên này phải chịu đựng từ thời thơ ấu đã tạo ra một khoảng trống trong sâu thẳm tâm hồn hắn. Karosky ra sức chối bỏ những khía cạnh có xu hướng tình dục trong bản thân mình. Hắn vừa yêu vừa căm ghét bản thân, và chính mâu thuẫn đó là cơ sở phát sinh bạo lực, tâm thần phân liệt và cuối cùng là hành vi lạm dụng trẻ em, lặp lại chính thói bệnh hoạn mà hắn căm ghét từ người cha. Năm 1986, khi còn là linh mục tập sự, Karosky đã dính líu đến vụ việc bê bối đầu tiên.

Nạn nhân là một cậu bé mười bốn tuổi. Tuy nhiên hành động lạm dụng cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ vuốt ve và hôn hít. Theo chúng tôi thì chính cậu bé cũng không hề phản ứng trước những hành động âu yếm này. Dù thế nào chăng nữa thì cũng không có bằng chứng rõ ràng liên quan đến vụ việc này, nên cuối cùng vị giám mục vẫn quyết định phong chức linh mục cho Karosky. Từ ngày đó trở đi, hắn trở nên bị ám ảnh bởi chính đôi bàn tay của mình. Mỗi ngày hắn rửa tay 30 - 40 lần và đặc biệt chăm sóc cho chúng.”

Pontiero vội vàng lục lọi những bức ảnh đang được xếp trên mặt bàn cho đến khi tìm được bức ảnh ông ta đang tìm kiếm và liệng nó đến trước mặt Fowler. Vị linh mục nhẹ nhàng kẹp lấy bức ảnh chỉ bằng hai ngón tay, trước sự thán phục kín đáo của Paola.

“Hai bàn tay bị cắt ra và rửa sạch sẽ, đặt trên vải trắng. Theo Nhà thờ Công giáo, tấm vải trắng tượng trưng cho sự tôn trọng và sùng kính. Trong Kinh Tân ước có rất nhiều chi tiết đề cập đến biểu tượng này. Như chúng ta biết, khi nằm trong mộ, Chúa Jesus đã được liệm bằng một tấm vải trắng trắng.”

“Giờ thì không còn trắng nữa rồi,” Troy giễu cợt.

“Xin ông vui lòng tập trung bình luận về miếng vải trắng mà chúng ta đang nói đến ở đây,” Pontiero cau có.

“Ồ vâng, tất nhiên rồi.”

“Tiếp tục đi, cha Fowler.”

“Bàn tay của một linh mục là biểu tượng của sự thiêng liêng. Bàn tay là công cụ để linh mục thực hiện các phép bí tích. Đó là điều hằn sâu trong đầu óc cua Karosky, như chúng ta sẽ thấy. Năm 1987, hắn làm việc tại một trường học ở Pittsburgh, nơi bắt đầu những hành động lạm dụng đầu tiên của hắn. Nạn nhân của hắn là những bé trai từ 8 đến 11 tuổi. Hắn hoàn toàn không quen với kiểu tình dục đồng thuận trưởng thành, dù là đồng giới hay khác giới.

Khi những lời cáo buộc bắt đầu đến tai các cha bề trên, ban đầu họ không hề hành động gì. Sau đó, họ thuyên chuyển hắn, từ giáo xứ này sang giáo xứ khác. Chỉ sau một thời gian ngắn hắn lại bị kiện vì tấn công cậu lễ sinh phụ lễ trong nhà thờ - hắn đã tát vào mặt cậu bé một cách vô cớ...Và cuối cùng, hắn bị buộc phải vào Tu viện Saint Matthew.”

“Cha có nghĩ rằng nếu người ta giúp đỡ hắn sớm hơn thì mọi chuyện có thể đã khác đi rồi không?”

Fowler đứng cứng đơ người và phác một cử chỉ khó chịu.

“Chúng tôi chẳng hề giúp hắn, dù chỉ là một chút nào hết. Điều duy nhất mà chúng tôi làm là phóng thích kẻ giết người lẩn trốn bên trong Karosky. Và cuối cùng chúng tôi còn tạo điều kiện để hắn trốn thoát.”

“Tệ đến thế thật sao?”

“Còn tệ hơn ấy chứ. Khi mới đến, hắn còn là một người bị giằng xé bởi những cảm xúc nổi loạn và những cơn giận điên cuồng. Hắn đã thể hiện sự ăn năn sau những hành động của mình, mặc dù hắn nhiều lần phủ nhận điều đó. Chẳng qua là hắn không sao kiểm soát được bản thân. Nhưng dần dần, với những phương pháp điều trị sai lầm, kết hợp việc hắn phải thường xuyên chứng kiến sự bê tha của những đạo hữu quanh mình tại tu viện, Karosky đã càng ngày càng trở nên khủng khiếp.

Hắn trở thành một người lạnh lùng và thâm hiểm. Sự ăn năn, sám hối đã hoàn toàn biến mất. Như mọi người thấy, chúng tôi đã phác họa lại những ký ức đau đớn nhất thời thơ ấu mà hắn phải trải qua. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đã biến hắn thành một người có thiên hướng quan hệ đồng giới. Nhưng chính liệu pháp tâm lý hồi quy thảm khốc đã...”

“Tại sao lại gọi là thảm khốc?”

“Lẽ ra mục tiêu của việc điều trị phải là tạo sự thư thái, thanh bình trong tâm trí bệnh nhân. Nhưng tôi sợ rằng bác sĩ Conroy đã cảm thấy tò mò đối với trường hợp của Karosky, đến nỗi ông ta không ngần ngại thực hiện những cách điều trị hoàn toàn phi đạo đức. Trong những trường hợp tương tự, những gì nhà thôi miên tìm cách thực hiện là 'cấy' những sự kiện tích cực vào trong ký ức của bệnh nhân, thúc giục anh ta quên đi những điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Conroy thì lại ức chế quy trình đó. Ông ta không chỉ ghi lại những gì Karosky nói ra trong trạng thái bị thôi miên, mà còn cho hắn nghe lại những lời đó, kể cả một đoạn băng trong đó Karosky đang the thé cầu xin mẹ để cho hắn được yên.”

“Lạy Chúa, ông ta là Mengele ([22]) chứ không phái là một linh mục nữa!” Ppaola bàng hoàng thốt lên.

Conroy tin rằng Karosky phải chấp nhận bản thân hắn. Theo ông ta, đó là giải pháp duy nhất. Karosky phải chấp nhận thực tế rằng hắn đã phải trải qua tuổi thơ đầy đau đớn và hắn là người đồng tính luyến ái. Như tôi đã nói ông ta đưa ra những chẩn đoán của mình ra sau đó tìm mọi cách áp đặt bệnh nhân vào đó. Hơn thế, ông ta còn cho Karosky sử dụng một loại cocktail hormone, trong đó hầu hết là những loại hóa chất vẫn còn chưa qua thử nghiệm lâm sàng, ví dụ như một loại biến thể của thuốc tránh thai Depo-covetan. Với loại thuốc này, tiêm vào cơ thể bệnh nhân với liều lượng cực lớn, Conroy đã giảm thiểu được khả năng phản ứng tình dục của Karosky nhưng lại kích động xu hướng bạo lực của hắn. Kiểu điều trị này được duy trì liên tục và lâu dài, nhưng chẳng mang lại kết quả gì tích cực. Có những giai đoạn Karosky trở nên khá thuần tính, nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng thôi, nhưng Conroy lại cứ tưởng đó là những dấu hiệu tiến triển tích cực. Sau một thời gian, có thể nói ông ta đã dùng các hóa chất đó để biến Karosky thành một 'quan hoạn' thực sự. Karosky không còn khả năng cương cứng nữa, và chính đó là điều làm hắn ta phát điên.”

“Vậy lần đầu tiên ông tiếp xúc với hắn là khi nào?”

“Tôi thường xuyên nói chuyện với hắn sau khi tôi đến tu viện, năm 1995. Giữa hai chúng tôi đã hình thành một mối quan hệ có mức độ tin cậy nhất định, trước khi đổ vỡ về sau này, như tôi sẽ giải thích. Cứ để tôi kể lại mọi chuyện theo thứ tự. Chỉ mười lăm ngày sau khi hắn đến tu viện, họ đã quyết định cho Karosky thực hiện buổi kiểm tra thể tích dương vật. Đó là một hình thức kiểm tra bằng cách gắn dương vật với thiết bị chuyên dụng qua các điện cực. Thiết bị này sẽ xác định mức độ phản ứng của dương vật trước các yếu tố kích thích khác nhau.”

“Tôi cũng biết hình thức kiểm tra này rồi.” Paola nói, như là một người đã nhiều lần nghe nói về sự bùng phát của virus Ebola ở châu Phi.

“Vậy thì như cô biết đấy...Hắn phản ứng rất khủng khiếp. Trong buổi kiểm tra, họ đã cho hắn xem những hình ảnh đáng ghê tởm, những hình ảnh cực kỳ xúc phạm.”

“Nghĩa là sao?”

“Những hình ảnh về lạm dụng tình dục trẻ em.”

“Mẹ kiếp !”

Karosky phản ứng rất hung hãn, hắn hành hung người nhân viên kỹ thuật vận hành máy hôm đó. May mà những người bảo vệ bên ngoài kịp ngăn hắn lại, nếu không, có lẽ hắn giết anh chàng kia mất. Sau thảm kịch đó lẽ ra Conroy phải nhận ra rằng không còn hy vọng nào điều trị cho Karosky và phải gửi ngay hắn vào bệnh viện tâm thần. Nhưng ông ta đã không làm như vậy. Thay vào đó, ông ta thuê hai nhân viên bảo vệ lực lưỡng, và ra lệnh cho họ lúc nào cũng phải để mắt đến Karosky. Đồng thời ông ta bắt đầu áp dụng liệu pháp hồi quy cho hắn.

Những biện pháp này được tiến hành trùng với thời điểm tôi đến tu viện. Sau vài tháng, Karosky trở nên khép mình hoàn toàn. Những cơn bùng phát bạo lực của hắn cũng biến mất. Conroy kết luận rằng đó là những thay đổi quan trọng trong tính cách của hắn. Họ bắt đầu lơi lỏng việc giám sát hắn. Và rồi một đêm, Karosky phá được khóa phòng.”

“Hắn bị giam sao?”

“Tại tu viện có quy định khóa cửa bên ngoài phòng Karosky vào những giờ nhất định, để đề phòng.”

“Và chuyện gì đã xảy ra?”

“Hắn chặt đứt cả hai bàn tay của một vị linh mục sống cùng dãy nhà. Karosky tuyên bố với mọi người rằng vị linh mục đó là một kẻ ô trọc, chính hắn đã nhìn thấy ông ta sờ soạng một linh mục khác một cách “không đàng hoàng.”

Khi nghe thấy tiếng gào thét vì đau đớn, các nhân viên bảo vệ chạy vào phòng và chứng kiến cảnh Karosky đang rửa hai bàn tay của nạn nhân dưới vòi hoa sen.”

“Cũng một cách gây án. Như vậy theo tôi, không còn phải nghi ngờ gì nữa,” Paola nhận xét.

Bất chấp sự phản đối giận dữ và cương quyết của tôi, Conroy nhất định không báo cáo vụ việc cho cảnh sát. Họ bồi thường rất nhiều tiền cho vị linh mục xấu số kia, một nhóm bác sĩ tại California cũng nối hai bàn tay cho ông ta, nhưng chắc chắn khả năng vận động không còn được như cũ. Tất cả những gì Conroy làm sau đó là tăng cường công tác bảo vệ và xây một phòng giam cách li rộng 20 mét vuông. Đây là nơi Karosky đã sống cho đến khi hắn trốn khỏi tu viện. Hết buổi điều trị này đến buổi điều trị khác, cùng với liệu pháp điều trị theo nhóm, Conroy vẫn hoàn toàn thất bại trong khi Karosky ngày càng trở thành một con quái vật giống như hiện tại. Tôi liên tục viết thư gửi Hồng y giáo chủ (Mỹ), và báo cáo chi tiết về tình hình tại tu viện, nhưng không nhận được câu trả lời nào cả.

Năm 1999, Karosky trốn khỏi phòng giam và thực hiện vụ giết người đầu tiên mà chúng tôi biết: nạn nhân là linh mục Peter Selznick.”

“Chúng tôi cũng có nghe nói đến vụ này. Họ thông báo là ông ta đã tự sát cơ mà?”

“Không phải vậy đâu: Karosky trốn ra khỏi phòng giam bằng cách phá khóa với một chiếc bút bi, sau đó hắn đã dùng một con dao ăn được mài sắc trong phòng giam để cắt lưỡi và môi của Selznick. Hắn còn xẻo cả dương vật của ông ta rồi nhét nó vào miệng nạn nhân. Selznick đã hấp hối khoảng ba giờ đồng hồ trước khi chết hẳn, nhưng mãi đến sáng hôm sau mọi người mới phát hiện ra sự việc.”

“Thế Conroy nói sao?”

“Ông ta tuyên bố bi kịch đó chỉ là một bước thụt lùi. Ông ta tìm cách bưng bít sự việc, bằng cách thuyết phục thẩm phán hạt và cảnh sát trưởng ra tuyên bố đó là một vụ tự sát.”

“Và những người kia cũng đồng ý sao? Với một tội ác như vậy?” Pontiero phẫn nộ.

“Cả hai người đó đều là tín đồ Công giáo mà. Tôi nghĩ Conroy đã chi phối được họ bằng cách đánh vào tinh thần phụng sự nhà thờ. Và mặc dù không chịu thừa nhận, nhưng quả thực Conroy rất sợ hãi. Ông ta bất lực chứng kiến Karosky tuột ra khỏi tầm kiểm soát của mình, mỗi ngày qua ông ta càng thêm chán nản. Mặc dù vậy, ông ta vẫn nhất quyết không chịu thông báo tình hình lên các cha bề trên, rõ ràng là sợ bị mất việc. Tôi tiếp tục trình việc này lên cho tòa giám mục nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ. Tôi bèn trực tiếp nói chuyện với Karosky và không hề nhận thấy ở hắn chút gì là ăn năn cả, cuối cùng tôi nhận ra hắn đã trở thành một người hoàn toàn khác.

Hắn không còn nhu cầu tiếp xúc bình thường với mọi người. Đó là lần cuối cùng tôi nói chuyện với hắn. Tôi chẳng muốn nói dối làm gì: con quái vật trong buồng giam đó làm tôi ghê sợ. Và thế là Karosky vẫn tiếp tục ở lại tu viện, thay vì phải vào nhà giam. Họ lắp đặt camera giám sát, thuê thêm bảo vệ. Cho đến một đêm tháng sáu năm 2000, hắn biến mất. Tất cả chỉ có vậy.”

“Còn Conroy? ông ta phản ứng thế nào?”

“Ông ta bị chấn động ghê gớm. Ông ta uống ngày càng nhiều. Đến tuần thứ ba thì lá gan của ông ta suy sụp hoàn toàn và ông ta chết. Thật là đáng tiếc.”

“Nếu là tôi thì tôi không đời nào để yên như thế !” Pontiero giận dữ nói.

“Chúng ta nên để cho linh hồn của ông ấy được yên nghỉ. Trong khi chờ đợi các cha bề trên tìm kiếm sự thay thế phù hợp, tôi tạm thời tiếp quản công việc điều hành tu viện. Tòa giám mục chưa bao giờ tin tưởng tôi, có lẽ vì tôi thường xuyên công khai phê phán các cha bề trên. Tôi chỉ chịu trách nhiệm đúng một tháng, nhưng tôi cũng kịp tận dụng khoảng thời gian đó một cách hiệu quả nhất. Tôi nhanh chóng thay đổi bộ máy nhân sự trong phạm vi có thể, thuê những người có trình độ chuyên môn thực sự, và xây dựng những chương trình điều trị mới dành cho các bệnh nhân. Rất nhiều thay đổi này đã không bao giờ được đưa vào thực hiện, nhưng cũng có một số được triển khai, như vậy những nỗ lực của tôi cũng phần nào được bù đắp Tôi gửi một báo cáo ngắn gọn cho một cơ sở cũ của mình tại VICAP ([23]) có tên là Kelly Sanders. Bà ấy đã rất giận dữ trước những thông tin Karosky và vụ việc Selznick bị giết hại dã man nên đã cử một đặc vụ truy tìm Karosky. Nhưng hoàn toàn không có manh mối gì.”

“Thật sao? Hắn biến mất à?” Paola không thể tin vào những gì vị linh mục vừa nói.

“Biến mất tăm. Năm 2001, người ta nghĩ rằng hắn đã lộ diện sau khi có một vụ án mạng tại Albany, New York. Thi thể nạn nhân cũng bị cắt xẻo một phần. Nhưng hóa ra lại không phải hắn. Hầu hết mọi người đều cho rằng hắn đã chết, nhưng rất may là ai đó đã lưu lại hồ sơ của hắn trong máy tính. Tôi tìm được công việc tại một trung tâm phát đồ ăn từ thiện ở khu Harlem Tây Ban Nha của thành phố New York. Tôi làm việc tại đó vài năm liền, cho đến tận cách đây vài hôm. Một cấp trên cũ của tôi đã thay mặt ngành liên hệ với tôi, và tôi đã nghĩ mình sẽ làm cha tuyên úy cho quân đội một lần nữa. Người ta cho tôi biết dường như có những dấu hiệu cho thấy Karosky đã quay lại sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng. Và thế là tôi ở đây. Tôi mang đến cho các vị một tập tài liệu cốt lõi nhất mà tôi đã thu thập về Karosky trong vòng 5 năm tôi làm việc với hắn.”

Fowler đặt chồng tài liệu dày hơn 10 phân lên mặt bàn.

“Có những bức e-mail liên quan đến loại hormone mà tôi vừa kể, những nội dung các buổi phỏng vấn với hắn, một bài báo đề cập đến Karosky, thư từ của các bác sĩ tâm thần, báo cáo... Tất cả gửi cô, tiến sĩ Dicanti. Cô có thể hỏi tôi về bất kỳ nội dung nào trong này.”

Paola với tay qua mặt bàn cầm lấy tập hồ sơ dày cộp, vừa mở tờ bìa cứng bọc ngoài ra cô đã nhăn mặt vì một cảm giác khó chịu đột nhiên xâm chiếm. Gắn ngay trên trang đầu tiên của tập tài liệu là một bức ảnh của Karosky. Đó là một gã đàn ông có nước da trắng nhợt, tóc thẳng màu nâu và cặp mắt màu xám vô cảm. Nhiều năm qua, cô đã quá quen với việc nghiên cứu những bộ mặt bề ngoài lạnh lùng này, hoàn toàn không có chút cảm xúc nào của con người - bộ mặt của những kẻ giết người hàng loạt - cô phát hiện ra đằng sau những cặp mắt dã thú đó chỉ là những cái nhìn trống rỗng. Chúng là những kẻ giết người hoàn toàn tự nhiên và bản năng như người ta ăn cơm hàng ngày. Chỉ có duy nhất một thứ trong tự nhiên có nét tương đồng với những ánh nhìn của chúng, đó là cặp mắt của những con cá mập trắng. Chúng nhìn nhưng không trông thấy gì, một cách lạnh lùng, chết chóc. Một ánh nhìn khủng khiếp và tang tóc.

Và giờ đây, trước mặt cô là toàn bộ ánh mắt vô cảm của Karosky.

“Sốc quá phải không?” Fowler hỏi, chăm chú nhìn Paola. Có gì đó trong vẻ mặt, trong cảm xúc của người đàn ông này. Một điều gì đó không sao định nghĩa nổi. Thoạt tiên hắn chẳng có gì đáng chú ý, lờ đờ, nhợt nhạt, nhưng rồi, tôi không biết phải nói như thế nào nhỉ, khi hắn đột nhiên bùng lên cơn giận dữ, mọi chuyện thật kinh khủng.”

“Và khiến người ta như bị thôi miên?”

“Đúng vậy.”

Paola chuyển tấm ảnh cho Pontiero rồi đến Troy, cả hai cùng chụm đầu lại để nhìn thật rõ bộ mặt của tên giết người.

“Điều gì làm ông e sợ hơn cả, thưa đức cha, sự nguy hiểm về thể chất hay khi nhìn thẳng vào mắt hắn và có cảm giác hắn đang xoi mói, săm soi bản thân ông, lột trần ông ra, như thể hắn thuộc về một chủng tộc thượng đẳng đứng trên mọi giá trị thông thường của xã hội?”

Fowler lặng lẽ nhìn lại tấm ảnh, rồi khẽ đáp.

“Tôi nghĩ nói như vậy tức là cô đã có câu trả lời rồi.”

“Suốt thời gian làm việc tôi đã có cơ hội thẩm vấn ba tên giết người hàng loạt. Cả ba tên đều gợi lên trong tôi những cảm giác giống như tôi vừa nói và rất nhiều người khác nữa cũng đều cảm thấy như vậy. Nhưng đó là một cảm giác không có thật. Đừng bao giờ quên một điều: Những tên giết người này là những kẻ thua cuộc, chứ không phải những nhà tiên tri. Chúng là những kẻ bỏ đi. Chúng không xứng đáng nhận được bất kỳ sự thông cảm nào hết.”

BÁO CÁO VỀ LOẠI HORMONE

TIỀN THỤ THAI TỔNG HỢP 1789

(Nhóm progestin dùng để tiêm)

Tên thương mại: Depo-covetan .

Loại báo cáo: Tuyệt mật, được mã hóa.([24])

Người nhận: Marcus.Bietghofer@betlzer-hogan.com

Người gửi: Lorna.Barr@beltzer-hoan.com

Đồng kính gửi: filesys@beltzer-hoan.com

Nội dung: TUYỆT MẬT: Báo cáo 45 về HPS 1789

Ngày: 17 tháng 3, 1997, 11:43.

Đính kèm: Inf#45 _ HPS1789.Paola Dicanti.

Marcus thân mến,

Trong phần đính kèm của lá thư này anh sẽ thấy một bản sao trước của bản báo cáo mà anh yêu cầu.

Kết quả phân tích được thực hiện trong những cuộc nghiên cứu khu vực ALFA cho thấy có những rối loạn nghiêm trọng về kinh nguyệt, mất ngủ, chóng mặt, và có thể là xuất huyết trong. Báo cáo này đề cập đến những ca nghiêm trọng với các triệu chứng căng thẳng cao độ, nghẽn động mạch, và một số bệnh về tim mạch.

Ngoài ra còn có sự gia tăng một số bệnh lặt vặt cụ thể:

1,3% bệnh nhân bị nhức mỏi cơ và rối loạn giấc ngủ, một tác dụng phụ mà các thử nghiệm trước đó đã không xác định được.

Nếu anh so sánh với báo cáo về loại hormone 1786, mà chúng ta đã xúc tiến tại Mỹ và châu Âu, thì những tác dụng phụ đã thấp hơn 3,9%. Nếu những kết quả phân tích rủi ro của chúng ta không quá sai lệch, chúng ta có thể dự trù tối đa là 53 triệu đô la cho những chi phí đền bù pháp lý. Vì vậy chúng ta vẫn có thể bám sát nguyên tắc chỉ đạo ban đầu, có nghĩa là dưới 7% lợi nhuận.

Không, không cần phải cám ơn tôi. . . cứ tăng lương cho tôi là được!

Ngoài ra, phòng thí nghiệm đã nhận được kết quả thử nghiệm sử dụng chất 1789 trên những bệnh nhân nam, với mục đích là gây ức chế hoặc tiết giảm ham muốn tình dục của họ. Trong chương trình này, chúng ta đã sử dụng liều lượng hóa chất ở mức đủ để làm triệt tiêu khả năng tình dục. Căn cứ vào những báo cáo và kết quả phân tích do phòng thí nghiệm này thực hiện, trong một số trường hợp nhất định người dùng thuốc có xu hướng gia tăng cảm giác hồi hộp, lâng lâng, cùng với nó là những hiện tượng bất thường trong hoạt động của não bộ. Chúng tôi đề nghị mở rộng phạm vi nghiên cứu để làm rõ mức độ của những tác dụng phụ. Sẽ thích hợp nhất nếu tiến hành thử nghiệm với những đối tượng Omega, nhất là những người không còn khả năng phục hồi về mặt tâm thần, hoặc những tử tù sắp bị hành quyết.

Tôi sẽ rất vui lòng được phụ trách những thử nghiệm này.

Thứ sáu này chúng ta sẽ ra ngoài ăn trưa chứ? Tôi mới tìm thấy một nhà hàng nhỏ nhưng rất tuyệt trong làng, có phục vụ món cá vược cực đỉnh của Chilê.

Chúc vui vẻ, Tiến sĩ Lorna Barr

Giám đốc Nghiên cứu.

Mời bạn đón đọc chương tiếp!

 

Nguồn: truyen8.mobi/t122120-diep-vien-cua-chua-chuong-7.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận