Chương 2
Các kế hoạch được thảo luận - Niềm vui thú của việc “cắm trại ngoài trời” vào những đêm đẹp trời - Như trên, vào những đêm mưa gió - Quyết định thỏa hiệp - Montmorency, ấn tượng đầu tiên - Những nỗi lo ngại rằng nó quá tuyệt vời đối với thế giới này cuối cùng đã bị bác bỏ vì không có căn cứ - Cuộc họp bị hoãn.
Chúng tôi trải bản đồ ra và thảo luận các kế hoạch.
Bọn tôi bố trí khởi hành vào thứ Bảy tuần sau ở Kingston. Harris và tôi sẽ xuống đó từ sáng và mang thuyền đến Chertsey, còn George, vì không thể rời khỏi thành phố trước buổi chiều (George có nhiệm vụ đến một ngân hàng để ngủ từ mười giờ sáng đến bốn giờ chiều mỗi ngày, trừ các ngày thứ Bảy, khi họ đánh thức hắn dậy và tống ra ngoài lúc hai giờ), sẽ gặp chúng tôi ở đó.
Chúng tôi nên “cắm trại ngoài trời” hay ngủ trong nhà trọ đây?
George và tôi ủng hộ cắm trại bên ngoài. Theo chúng tôi thì như thế sẽ thật phóng túng và tự do, thật hết sức nam tính.
Ký ức dát vàng của một mặt trời đã chết mờ nhạt dần trong trái tim những đám mây lạnh lẽo u buồn. Lặng lẽ như những đứa trẻ đang sầu não, lũ chim ngừng hót bài ca của chúng và chỉ còn tiếng kêu não nùng của những con gà gô đỏ cùng tiếng cục cục của lũ gà nước làm khuấy động sự tĩnh lặng đáng sợ quanh làn nước, nơi ngày tàn đang trút hơi thở cuối cùng.
Từ những cánh rừng âm u hai bên bờ, đoàn quân ma quái của Bóng đêm, những bóng xám lặng lẽ bò ra xua đuổi đạo quân tập hậu của ánh sáng đang lảng vảng, rồi với đôi chân vô hình không gây tiếng động, chúng lướt trên lớp cỏ đang dợn sóng dập dềnh và xuyên qua làn sóng đang thở dài; Bóng đêm, trên ngai vàng ảm đạm của nó, gập đôi cánh đen bao phủ thế giới đang tối dần, và từ cung điện bóng ma được các ngôi sao xanh nhờ chiếu sáng của mình, Bóng đêm ngự trị trong tĩnh lặng.
Lúc ấy chúng tôi đã chèo con thuyền nhỏ vào một góc yên tĩnh nào đấy, chiếc lều bạt đã được dựng lên, bữa tối đạm bạc đã được nấu và ăn xong. Thế rồi, những cái tẩu lớn được nhồi đầy thuốc và châm lên, cuộc tán gẫu dễ chịu đưa đẩy vòng quanh trong tiếng thì thầm du dương; trong khi đó, giữa những khoảng lặng trong câu chuyện của chúng tôi, dòng sông nô giỡn quanh con thuyền, thì thào những câu chuyện và những bí mật cổ xưa kỳ lạ, khe khẽ ca bài hát thiếu nhi xưa cũ mà nó đã hát hàng nghìn năm nay - và hàng nghìn năm sau nữa vẫn sẽ hát, trước khi giọng nó trở nên khàn đặc và già nua - một bài hát mà chúng tôi, những người đã học cách yêu vẻ mặt luôn thay đổi của nó, những người đã thường xuyên được ấp ủ yên ấm trong lồng ngực mềm mại của nó, không hiểu sao nghĩ rằng mình hiểu, mặc dù chúng tôi không thể kể lại bằng lời cho bạn nghe câu chuyện mà chúng tôi lắng nghe ấy.
Và chúng tôi ngồi đó, bên bờ sông, trong khi mặt trăng, cũng yêu dòng sông tha thiết, cúi xuống hôn nó bằng nụ hôn của tình chị em và quàng hờ vòng tay bạc quanh nó; và chúng tôi ngắm nhìn con sông, vẫn hát rì rầm, vẫn thì thào như thế, trôi đến gặp biển cả, chúa tể của nó - cho đến khi giọng chúng tôi tắt đi trong im lặng, và tẩu thuốc đã cháy hết - cho đến khi chúng tôi, những kẻ thường dân, những chàng trai bình thường, lạ lùng thay lại cảm thấy trong mình tràn đầy những suy tư, vừa buồn man mác vừa ngọt ngào, và chẳng còn khao khát hay mong muốn nói ra thành lời nữa - cho đến khi chúng tôi cười thành tiếng, đứng lên, gạt tàn thuốc từ những chiếc tẩu đã cháy hết và nói “Chúc ngủ ngon,” rồi được tiếng sóng vỗ bập bềnh và những hàng cây xào xạc ru ngủ, chúng tôi thiếp đi dưới những ngôi sao vĩ đại đang đứng yên lặng lẽ, và mơ thấy thế giới trẻ lại - trẻ trung và ngọt ngào như đã từng như thế, trước khi bao thế kỷ lo phiền làm hằn sâu những nếp nhăn trên gương mặt đẹp đẽ của người, trước khi bao tội lỗi và hành động rồ dại của con cái khiến trái tim yêu thương của người già nua đi - lại ngọt ngào như đã từng như thế trong bao tháng ngày xưa cũ, khi người mới là một bà mẹ trẻ, nuôi nấng chúng ta, con cái của người, trong lồng ngực rộng lớn ấy - trước khi những mưu kế của nền văn minh được tô vẽ dụ dỗ chúng ta xa khỏi vòng tay yêu thương đó, và những lời nhạo báng tẩm thuốc độc của sự nhân tạo đã khiến chúng ta thấy xấu hổ với cuộc sống giản dị mà chúng ta đã có bên người, và với tổ ấm đơn sơ, đường hoàng nơi nhân loại đã được sinh ra bao nhiêu ngàn năm trước ấy.
Harris bảo:
“Nếu trời mưa thì sao nhỉ?”
Chẳng bao giờ khích động được Harris. Chẳng có cái gì gọi là thơ mộng trong Harris hết - hắn không hề có cái mong muốn ngông cuồng là được với tới những thứ không thể. Harris chẳng bao giờ “tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồ”. Nếu Harris mà có đầm đìa nước mắt thì quý vị có thể chắc chắn rằng đấy là vì hắn đã ăn hành sống, hoặc cho quá nhiều tương ớt Worcester lên miếng sườn mà hắn vừa tọng vào bụng.
Nếu bạn đứng bên bờ biển trong đêm với Harris và nói rằng:
“Nghe này! Cậu không nghe thấy ư? Đó là tiếng các nàng tiên cá hát ở tít sâu dưới làn nước đang dập dềnh kia; hay những linh hồn u sầu đang ngâm nga bài ca cầu hồn cho những xác chết tái nhợt bị rong biển quấn quanh?”
Harris sẽ chộp lấy cánh tay bạn và nói:
“Tôi biết đấy là cái gì rồi, anh già ơi; cậu dính cảm đấy. Nào, đi với tớ. Tớ biết một chỗ ở ngay góc kia thôi, ở đấy cậu có thể nhấp một ít whisky Scotland ngon nhất trần đời - và rồi cậu sẽ trở lại bình thường ngay cho mà xem.”
Harris luôn biết một chỗ nào đấy ngay ở góc kia, nơi ta luôn có thể có gì đó tuyệt vời để uống. Tôi tin rằng nếu ta gặp Harris trên Thiên đường (cứ giả sử là có nơi nào đó như thế đi), hắn sẽ ngay lập tức chào đón ta thế này:
“Hay quá, cậu đến rồi, bạn già ơi. Tớ biết một chỗ ở ngay góc kia, cậu sẽ kiếm được ít tiên tửu thượng hảo hạng ở đấy đấy.”
Tuy nhiên, trở về với hoàn cảnh hiện tại, về vụ cắm trại ngoài trời, thì quan điểm theo chủ nghĩa thực tế của hắn quả là một lời nhắc nhở đúng lúc. Cắm trại ngoài trời trong cơn mưa gió không phải chuyện dễ chịu cho lắm.
Lúc ấy trời đã tối. Ta ướt nhẹp từ đầu đến chân, có đến năm centimet nước lõng bõng trong thuyền và tất cả mọi thứ đều ướt sũng. Sau khi tìm được một chỗ trên bờ sông không có quá nhiều vũng nước và ngầu bùn như những chỗ khác, ta đổ bộ và lôi lều ra, và hai người bọn ta bắt đầu xử lý cái lều.
Cái lều ướt sũng và nặng trịch, nó cứ sụp xuống và đổ vào đầu ta, rồi lủng lẳng trên đầu và làm ta điên tiết. Mưa thì cứ dần nặng hạt thêm mãi. Trời khô ráo đã khó dựng được cái lều cho chắc chắn rồi; lúc trời mưa thì nhiệm vụ này đúng là phải khỏe như Hercules may ra mới làm được. Thay vì đỡ ta một tay thì có vẻ như cái thằng cha kia chỉ làm tình hình rối thêm. Chẳng hạn ta vừa mới dựng xong bên thành lều của mình một cách đẹp đẽ, thì hắn lại húc một phát vào phía bên kia cái lều và làm hỏng bét hết cả.
“Đây cơ mà! Cậu làm cái gì thế hả?” ta gào với sang.
“Cậu đang làm cái gì thế?” hắn vặn lại. “Không nhanh lên được à?”
“Đừng có mà kéo; cậu làm lộn hết cả lên rồi, đồ ngu!” ta gào lên.
“Tớ chẳng làm gì cả,” hắn gào trả lại, “buông bên ấy ra!”
“Tớ bảo là cậu đã làm lộn hết cả lên rồi!” ta rống lên, ước gì có thể túm lấy hắn, và ta kéo sợi dây bên mình một phát mạnh đến mức tất cả các cọc lều phía hắn bị nhổ bật cả lên.
“Ối giời, đồ ngu của nợ!” ta nghe thấy hắn lầu bầu một mình; và sau đó là một cái giằng thô bạo, và cọc bên ta cũng bật tung lên sạch. Ta đặt cái vồ xuống và bắt đầu đi sang phía bên kia để bày tỏ cho hắn biết ta nghĩ gì về toàn bộ chuyện này, và chính trong lúc ấy hắn cũng đi vòng cùng chiều với ta để sang bên này và giải thích quan điểm của hắn cho ta. Và hai người cứ đi vòng quanh mãi thế, chửi rủa lẫn nhau cho đến khi cái lều lộn nhào xuống thành một đống, để lại cả hai nhìn nhau trừng trừng qua mớ hoang tàn, rồi căm phẫn đồng thanh thốt lên:
“Đấy! Tớ đã bảo cậu thế nào hả?”
Trong lúc đó thì kẻ thứ ba, người vừa tát hết nước khỏi con thuyền và để nước chảy tong tỏng dọc ống tay áo sơ mi, lại còn chửi rủa một mình trong suốt mười phút vừa qua, cũng muốn biết hai thằng kia đang lên cơn chơi trò gào thét rú rít gì thế, và tại sao cái lều tội nghiệp vẫn chưa được dựng lên.
Cuối cùng, bằng cách này hay cách khác, cái lều cũng được dựng xong và ta đem đồ đạc lên bờ. Nỗ lực nhóm lửa bằng củi là vô vọng, vì thế ta phải đốt bếp cồn và xúm xít quanh nó.
Nước mưa là món chính của bữa tối ăn kiêng. Độ hai phần ba bánh mì được tẩm nước mưa, bánh nhân bít tết thì ngâm sũng nước, và món xúp là một thứ hổ lốn kết hợp từ thịt dăm bông, bơ, muối, cà phê và nước mưa.
Sau bữa tối, ta thấy thuốc lá bị ẩm, và ta không thể hút thuốc được. May là ta còn có một chai gì đó có thể khiến người ta vui lên và say sưa nếu uống với liều lượng thích hợp, và chính cái này đã trả lại cho ta đủ niềm yêu sống để lên giường đi ngủ.
Ở đấy ta mơ thấy có một con voi bỗng nhiên ngồi chễm chệ lên ngực ta và rằng núi lửa đã phun trào và ném ta xuống tận đáy biển - nhưng cái con voi kia vẫn ngủ một cách bình yên trên lồng ngực ta. Ta tỉnh dậy và lập tức trong đầu hiện ra ngay ý tưởng rằng thật sự có gì đó khủng khiếp đã xảy ra. Ấn tượng đầu tiên là ngày tận thế đã đến; rồi ta lại nghĩ rằng không thể thế được, và rằng đó là bọn kẻ cắp và giết người, hoặc nếu không thì đã có hỏa hoạn, và ta bộc lộ ý kiến này theo cách thông thường nhất. Tuy nhiên, chẳng thấy ai đến cứu giúp, và tất cả những gì ta biết là có đến hàng nghìn kẻ đang đá tới tấp vào mông ta và ta đang sắp chết ngạt đến nơi.
Có vẻ như ai đó khác cũng đang gặp rắc rối. Ta có thể nghe thấy tiếng kêu yếu ớt của hắn ta đâu đó bên dưới giường mình. Quyết định rằng, dù trong tình huống nào đi nữa cũng không thể bán rẻ cuộc đời mình, ta vừa gào thét dữ dội vừa vùng vẫy quyết liệt, chân tay đập lung tung sang cả trái lẫn phải, và cuối cùng cái thứ đó cũng phải nhường lối cho ta, để rồi ta nhận ra đầu mình đang ở ngoài không khí trong lành. Cách đó chừng nửa mét ta lờ mờ thấy một tên vô lại mình trần đang chờ sẵn để cắt tiết ta, và ta đang chuẩn bị tinh thần cho một cuộc vật lộn sống mái với hắn thì bỗng dưng nhận ra đó chính là Jim.
“Ô, cậu đấy à?” hắn nói, cùng lúc đó cũng nhận ra ta.
“Ừ,” ta trả lời, dụi dụi mắt, “chuyện gì thế?”
“Cái lều khốn kiếp đổ sụp xuống, tớ nghĩ thế,” hắn nói. “Bill đâu rồi?”
Thế rồi cả hai cùng cao giọng lên hét gọi “Bill!” rồi mặt đất dưới chân ta bỗng rùng rùng chuyển động, cái giọng nghèn nghẹt mà ta đã nghe thấy lúc trước đáp lại trong đống đổ nát hoang tàn:
“Nhấc cái chân ra khỏi đầu tôi đi, được không hả?”
Và Bill vất vả chui ra, trong hình hài một đống thảm hại bị giẫm đạp và bê bết bùn, và với một vẻ cau có hết sức không cần thiết - hắn đang có một niềm tin vững chắc rằng tất cả chuyện này đều được thực hiện một cách có chủ ý.
Suốt buổi sáng cả ba đều chẳng nói được câu nào vì đã bị cảm lạnh nặng trong đêm; cả bọn đều thấy cáu kỉnh hết sức, và cả lũ chửi rủa nhau bằng cái giọng khàn khàn phều phào suốt bữa sáng.
Vì thế nên chúng tôi quyết định rằng chúng tôi sẽ ngủ ngoài trời vào những đêm đẹp trời; và nếu trời mưa hay khi thấy muốn thay đổi thì sẽ ngủ ở khách sạn, nhà trọ hoặc quán rượu như những con người đáng kính.
Con Montmorency chào đón sự thỏa hiệp này với vẻ rất đồng tình. Nó chẳng ham thích cái kiểu cô độc lãng mạn ấy lắm. Cho nó thứ gì đó ồn ào, nếu có thêm ít tiếng súng đì đùng thì càng vui hơn nữa. Nhìn Montmorency bạn sẽ hình dung rằng nó là một thiên thần, vì lý do nào đó mà loài người không được phép biết đến, đã bị đày xuống hạ giới trong hình dạng một con chó săn cáo nhỏ. Có một vẻ kiểu như ôi-đây-thật-là-một-thế-giới-tồi-tệ-và-ước-gì-tôi-có-thể-làm-gì-đó-khiến-nó-tốt-đẹp-và-cao-quý-hơn trong Montmorency, cái vẻ mà ai cũng biết là đã đem đến những giọt nước mắt long lanh trong mắt các quý bà quý ông già nua ngoan đạo.
Lúc đầu khi nó đến ăn nhờ ở đậu chỗ tôi, tôi không bao giờ nghĩ mình có thể giữ nó ở lại được lâu. Trước đây, tôi hay ngồi ngắm nó những lúc nó ngồi trên tấm thảm ngước mắt nhìn tôi, và nghĩ: “Ôi, cái con chó kia sẽ chẳng sống nổi đâu. Rồi nó sẽ bị tóm cổ vào một cỗ xe ngựa rồi bay thẳng lên trời thôi, đấy là điều chắc chắn sẽ xảy ra với nó.”
Nhưng sau khi đã phải trả tiền cho khoảng độ nửa tá gà con bị nó làm thịt; và đã phải tóm gáy nó lúc nó đang vừa gầm gừ vừa đá chân lung tung để kéo nó ra khỏi độ một trăm mười bốn cuộc đánh lộn ngoài phố; và đã bị một quý bà giận dữ gọi tôi là kẻ giết người mang một con mèo chết đến dí vào mặt bắt phải điều tra; và đã được người hàng xóm cách một nhà mời sang phàn nàn vì tội là chủ của một con chó dữ thả rông đã khiến ông ta phải chết dí trong nhà kho của chính mình, không dám ló mặt ra khỏi cửa suốt hai giờ liền trong một đêm lạnh lẽo; và biết rằng một người làm vườn, mà chính tôi cũng chẳng quen, đã thắng ba mươi xu nhờ đặt cược cho nó trong cuộc cá cược giết chuột tính giờ, thì cuối cùng tôi cũng bắt đầu nghĩ rằng có lẽ người ta đã để cho nó ở lại trái đất này hơi lâu quá chăng.
Quẩn quanh bên một cái chuồng ngựa và tập hợp một đám đàn em toàn những con cẩu có thành tích bất hảo nhất trong khu phố và dẫn chúng diễu qua các khu ổ chuột để đánh nhau với những con cẩu mất dạy khác, đây chính là ý niệm về “cuộc sống” của Montmorency; và vì thế, như tôi đã nhận định từ trước, nó ủng hộ đề xuất về các nhà trọ, quán rượu và khách sạn với sự tán thành nồng nhiệt nhất.
Vậy là đã thu xếp xong vấn đề ngủ nghê thỏa lòng cả bốn chúng tôi, điều duy nhất cần bàn bạc là chúng tôi sẽ mang theo những gì; và cả bọn lại bắt đầu tranh cãi, lúc này Harris chợt nói đêm nay hắn nghe diễn văn đủ rồi, và gợi ý rằng chúng tôi nên đi chơi và tươi tỉnh lên một tí, tiện thể nói thêm rằng hắn mới tìm được một chỗ ngay góc đằng kia, và chúng tôi có thể tới đó nhấm nháp một ít cái thứ rượu Ailen xịn rất bõ công đổ vào mồm.
George bảo hắn thấy khát (tôi chưa lúc nào thấy George không khát cả); và vì tôi có linh cảm rằng chút whisky ấm với một lát chanh sẽ có ích cho căn bệnh của mình, cuộc tranh luận được dời sang tối hôm sau với sự đồng thuận của tất cả; rồi các đại biểu đội mũ vào và tớn đi chơi.
Chương 3
Những sự sắp xếp được ấn định - Phương pháp làm việc của Harris - Làm thế nào mà bậc tiền bối trong gia đình có thể treo một bức tranh - George có một nhận xét chí lý - Niềm vui của việc tắm buổi sáng - Đồ dự trữ đề phòng thuyền lật.
Vậy là tối hôm sau, chúng tôi lại tụ tập, để thảo luận và bố trí các kế hoạch. Harris bảo:
“Bây giờ việc đầu tiên cần xác định là nên đem theo cái gì. J., cậu lấy một mẩu giấy để ghi lại, còn Geogre, cậu lấy cuốn danh mục hàng tạp hóa ra đây, và ai đó đưa cho tớ mẩu bút chì nào, tớ sẽ thảo một danh sách.”
Đấy đích thị là Harris - vô cùng sẵn lòng tiếp nhận gánh nặng của mọi thứ, và rồi chất nó lên lưng những người khác.
Hắn luôn làm tôi nhớ đến ông chú tội nghiệp của tôi - chú Podger. Cả đời ta sẽ chẳng bao giờ thấy được cảnh hỗn loạn tanh bành đến thế trong một căn nhà như khi chú Podger của tôi đảm nhận việc gì đó. Một bức tranh - được mang về nhà từ cửa hàng đóng khung - đang dựng trong phòng ăn chờ được treo lên; và cô Podger sẽ hỏi nên làm gì với nó, và rồi chú Podger sẽ bảo:
“Ồ, bà để cái đó cho tôi. Đừng có ai, bất kỳ ai trong nhà, lo lắng về việc đó. Tôi sẽ xử lý mọi việc cho.”
Rồi chú sẽ cởi áo khoác ra và bắt đầu công việc. Chú sẽ cử cô con gái đi mua sáu xu đinh, và sau đó cử một trong số các cậu trai đuổi theo để bảo cần mua đinh cỡ nào; và kể từ lúc đó, dần dần chú sẽ sai phái và khuấy động cả nhà lên.
“Will, mày đi lấy cho tao cái búa,” chú sẽ hét lên thế; “thằng Tom, mang cho tao cái thước; và tao sẽ cần cái thang gấp đấy, và tốt nhất là tao nên có cả một cái ghế trong bếp nữa; và này Jim! Mày chạy ngay ra chỗ ông Goggles và bảo ông ấy là ‘Bố cháu gửi lời hỏi thăm và hy vọng chân ông đã đỡ rồi; và liệu ông có thể cho bố cháu mượn cái thước đo độ ngang không?’ Và đừng có mà đi đâu đấy, Maria, vì tôi sẽ cần có ai đó giữ đèn; và khi nào con bé về thì nó phải đi tiếp để mua ít dây treo tranh nữa; và này Tom! Thằng Tom đâu? Tom, mày đến đây; tao sẽ cần mày giơ cái tranh lên đấy.”
Và rồi chú sẽ nhấc cao cái tranh lên, sau đó đánh rơi nó, tiếp theo, nó sẽ bung ra khỏi cái khung, và rồi chú sẽ cố cứu lấy tấm kính, và tự làm đứt tay mình; và rồi chú sẽ nhảy dựng lên khắp cả phòng để đi tìm cái khăn tay. Chú Podger sẽ không thể tìm thấy cái khăn vì nó đang ở trong túi cái áo khoác mà chú đã cởi ra, mà chú lại không biết mình đã để cái áo ở đâu, và thế là cả nhà sẽ phải ngừng tìm các dụng cụ cho chú, để bắt đầu đi tìm cái áo khoác; trong lúc đó thì chú Podger nhảy chồm chồm xung quanh và cản trở họ.
“Có ai trong cái nhà này biết áo khoác của tôi ở đâu không? Cả đời tôi chưa bao giờ gặp phải chuyện gì như thế này - thề là chưa bao giờ. Sáu con người! - ấy thế mà các người không thể tìm nổi một cái áo khoác tôi vừa mới đặt xuống chưa đến năm phút trước à! Ôi, thật là...”
Và rồi chú đứng lên và nhận ra mình đang ngồi lên cái áo, vậy là chú sẽ hét:
“Ôi, các người có thể ngừng tìm được rồi đấy! Tôi tự tìm được rồi. Thà bảo con mèo đi tìm cái gì đấy còn hơn trông đợi lũ các người tìm được.”
Và sau khi đã mất độ nửa tiếng băng bó ngón tay và một tấm kính mới đã được khênh tới và các dụng cụ, cái thang, cái ghế và cây nến đã được mang đến, chú sẽ thử lại lần nữa, và toàn bộ gia đình, kể cả cô con gái và người giúp việc, đứng xung quanh theo hình bán nguyệt trong tư thế sẵn sàng hỗ trợ. Hai người sẽ phải giữ cái ghế, người thứ ba sẽ giúp chú Podger trèo lên và giữ chắc chú ở đó, rồi người thứ tư sẽ đưa cho chú một cái đinh, còn người thứ năm sẽ chuyển cho chú cái búa, và cuối cùng chú sẽ cầm lấy đinh và làm rơi.
“Đấy!” chú sẽ nói với một giọng bị tổn thương sâu sắc, “giờ thì cái đinh lại rơi mất rồi.”
Và tất cả bọn tôi sẽ phải bò lê bò càng ra mà tìm trong khi chú đứng trên ghế cằn nhằn, rồi đòi biết liệu chú ấy có phải đứng trên đó suốt buổi tối không.
Cuối cùng cũng tìm thấy cái đinh, nhưng đến lúc đó thì chắc chú đã làm lạc mất đâu cái búa rồi.
“Cái búa đâu? Tôi đã làm gì với cái búa? Trời đất ơi! Cả bảy mạng các người đang há hốc mồm ra đó mà không biết tôi đã làm gì cái búa hả?”
Chúng tôi sẽ đi tìm cái búa cho chú, và rồi chú lại chẳng thấy cái vệt do chính chú đánh dấu trên tường đâu nữa, đấy là chỗ cái đinh cần được đóng vào, và mỗi người bọn tôi sẽ phải trèo lên ghế, đứng đằng sau chú, và xem có thể tìm ra nó không; và mỗi người sẽ phát hiện ra cái dấu ấy ở một chỗ khác nhau, rồi chú sẽ gọi tất cả bọn tôi là lũ ngốc, hết người này đến người khác, và bắt chúng tôi trèo xuống. Và rồi chú Podger sẽ cầm thước ra đo lại, và nhận ra rằng chú muốn đóng vào chỗ cách đó một khoảng trung bình cộng của bảy mươi tám và chín mươi sáu centimet tính từ góc, và sẽ cố lẩm bẩm tính nhẩm trong đầu rồi cáu điên lên.
Và tất cả chúng tôi sẽ thử tính nhẩm, rồi tất cả đều có kết quả khác nhau, và người này cười nhạo người kia. Và tất yếu là con số đầu tiên bị quên lãng hoàn toàn, và chú Podger sẽ phải tính lại từ đầu.
Lần này chú sẽ sử dụng một ít dây, và vào thời khắc quan trọng khi ông già gàn đang nghiêng người một góc bốn nhăm độ qua cái ghế, và đang cố vươn đến một điểm cách xa tầm với của mình chỉ gần mười centimet, thì sợi dây tuột mất, và chú sẽ trượt vèo xuống cái đàn piano, một hiệu ứng âm thanh hết sức tinh tế sẽ được tạo ra nhờ việc cả đầu và người chú đột ngột đập vào tất cả các phím cùng một lúc.
Và cô Maria sẽ bảo cô sẽ không cho phép bọn trẻ đứng xung quanh nghe thứ ngôn ngữ ấy nữa.
Cuối cùng, chú Podger cũng đánh dấu lại được chỗ cần đóng, và chú tay trái cầm mũi đinh dí lên đấy còn tay phải cầm búa. Và, phát đập đầu tiên, chú sẽ đập te tua ngón tay cái của mình và đánh rơi cái búa, kèm theo một tiếng rú, vào ngón chân ai đó đứng dưới.
Cô Maria sẽ dịu dàng phát biểu rằng, lần sau khi nào định đóng đinh vào tường thì hy vọng chú Podger sẽ cho cô biết kịp thời để cô còn thu xếp đến ở một tuần với mẹ cô trong khi cái việc ấy được thực hiện.
“Ôi, đàn bà các người, chuyện gì các người cũng làm ầm ĩ hết cả lên,” chú Podger đáp lại, nhấc người lên. “Sao chứ, tôi thích làm những việc nho nhỏ kiểu này đấy.”
Và rồi chú tiếp tục thử lại lần nữa, và, với cú đập thứ hai, cái đinh sẽ đi gọn gàng xuyên qua lớp vữa, cộng thêm một nửa cái búa kéo theo sau, và chú Podger sẽ bị xô vào tường với một lực gần đủ để làm mũi chú bẹp dí.
Thế rồi chúng tôi lại phải đi tìm thước và dây, sau đó thêm một cái hố mới lại được tạo ra; và đến khoảng nửa đêm thì bức tranh sẽ được treo lên - xiên xẹo và lung lay, bức tường quanh đấy hàng mấy mét trông cứ như thể bị một cái bồ cào oanh tạc, và tất cả mọi người đều mệt lử và khổ sở - chỉ trừ mỗi chú Podger.
“Đấy nhé,” chú nói, nặng nề bước xuống ghế rồi giẫm lên ngón chân của người giúp việc, và khảo sát mớ hỗn độn mình vừa tạo ra với niềm tự hào lộ liễu: “Sao chứ, người ta cần một người đàn ông trong nhà để làm những việc nho nhỏ như thế này đấy!”
Harris sẽ là một người như thế khi hắn già đi, tôi biết thế, và tôi cũng bảo hắn thế. Tôi bảo rằng tôi không thể cho phép hắn huy động của bản thân nhiều sức lao động đến thế. Tôi bảo:
“Không; cậu lấy giấy đi, cả cái bút chì và cuốn danh mục nữa, George ghi lại, còn tớ sẽ lên danh sách cho.”
Danh sách đầu tiên của chúng tôi buộc phải quăng đi. Rõ ràng các nhánh thượng nguồn sông Thames không thể lưu thông nổi một con thuyền đủ rộng để chứa hết những thứ chúng tôi gạch chân là tuyệt đối cần thiết; vậy là chúng tôi xé danh sách ấy đi và đành ngồi nhìn nhau!
George bảo:
“Các cậu biết đấy, ta đã đi hoàn toàn sai hướng. Chúng ta không nên nghĩ đến những thứ chúng ta có thể mang theo mà chỉ tính 2f8f tới những thứ không thể không cần đến thôi.”
Thỉnh thoảng George hóa ra lại rất có lý. Bạn sẽ phải ngạc nhiên cho mà xem. Tôi gọi đó là trí tuệ đích thực, không đơn thuần xét đến tình huống hiện nay mà còn liên hệ đến chuyến đi của chúng tôi trên dòng sông cuộc đời nói chung. Trong hành trình ấy, biết bao người chất đầy con thuyền của họ cả mớ những thứ đồ ngu ngốc mà họ tưởng là thiết yếu cho một chuyến đi vui vẻ và thoải mái, nhưng thật sự chỉ là những thứ đồ bỏ đi vô dụng, cho đến khi con thuyền có nguy cơ bị ngập nước.
Họ đã chất đầy lên đến tận cột buồm của con thuyền nhỏ bé tội nghiệp những quần áo đẹp và những ngôi nhà to; những người hầu vô dụng, và một đám bạn bè bảnh chọe chẳng buồn quan tâm đến họ tí nào, và họ cũng chẳng quan tâm đến những người ấy nhiều hơn; những trò giải trí đắt giá mà chẳng ai thích, với lễ tiết và kiểu cách, với sự giả vờ giả vịt và sự phô trương khoe của, và với - ôi, cái thứ đồ bỏ đi nặng nhất và rồ dại nhất! - nỗi lo lắng không hiểu hàng xóm sẽ nghĩ gì, với những thứ đồ xa xỉ chỉ làm người ta phát ngấy, với những niềm vui đã phát ớn, với những buổi trình diễn trống rỗng mà, y như chiếc vương miện sắt của bọn thảo khấu ngày xưa, làm cái đầu đeo nó chảy máu và sưng phồng lên!
Đấy là những thứ đồ bỏ đi thôi, các bạn ạ - toàn là đồ bỏ đi thôi! Vứt khỏi thuyền đi. Chúng khiến con thuyền nặng nề, làm ta gần như ngất xỉu với mấy mái chèo. Chúng làm việc điều khiển con tàu trở nên vướng víu và nguy hiểm, và rồi ta sẽ chẳng bao giờ biết đến, dù chỉ trong khoảnh khắc, sự tự do khi thoát khỏi những nỗi lo lắng và bận tâm, không bao giờ có được một khoảnh khắc nghỉ ngơi dành cho sự mơ màng lười biếng - không có thời gian để ngắm nhìn bóng cơn gió nhẹ nhàng lướt qua những chỗ nước nông, ngắm ánh mặt trời lấp lánh vút qua làn sóng gợn lăn tăn, những thân cây to lớn bên bờ cúi xuống nhìn bóng của chính chúng, hay những khu rừng toàn màu xanh và ánh vàng kim, những bông bách hợp trắng và vàng, những cây bấc đu đưa ủ rũ, những cây lau cây lách, hoa phong lan, và cả hoa lưu ly xanh nữa.
Hãy vứt cái mớ đồ bỏ đi ấy đi, bạn ơi! Hãy để cho con thuyền cuộc đời bạn trở nên nhẹ nhàng, chỉ chất chứa những thứ bạn cần - một tổ ấm ấm cúng và những niềm vui giản dị, một hay hai người bạn xứng đáng với danh xưng ấy, ai đó để bạn yêu và để yêu bạn, một con chó, một con mèo, và một hai cái tẩu, những thứ đủ để ăn và để mặc, và những thứ trên mức đủ để uống; vì cơn khát là một thứ nguy hiểm.
Lúc đó bạn sẽ thấy con thuyền dễ chèo hơn nhiều, và nó sẽ không dễ dàng bị lật úp, và cũng sẽ chẳng vấn đề lắm nếu nó bị lật úp thật; những thứ đồ tốt và giản dị sẽ chịu được nước. Bạn sẽ có thời gian để nghĩ ngợi cũng như để làm việc. Thời gian để say sưa tận hưởng ánh dương cuộc đời - thời gian để lắng nghe thứ âm nhạc của thần Aeolius mà cơn gió của Chúa Trời đã kéo lên quanh ta từ những sợi tơ lòng của con người - thời gian để...
Thật tình xin lỗi các bạn nhé. Tôi quên khuấy mất rồi.
Vậy là chúng tôi để danh sách cho George xử lý, và hắn ta bắt đầu.
“Chúng ta sẽ không mang lều đi,” George đề xuất, “chúng ta sẽ kiếm một con thuyền có mái che. Như thế đơn giản hơn nhiều, mà lại còn tiện lợi nữa.”
Đấy có vẻ là ý hay, và chúng tôi ủng hộ ý ấy. Tôi không biết liệu bạn đã bao giờ nhìn thấy cái thứ mà tôi muốn nói đến chưa. Ta sẽ cố định mấy vòng đai sắt lên phía trên con thuyền và căng một tấm vải dầu thật to lên, buộc chặt xung quanh, từ mũi thuyền đến đuôi thuyền, và cái ấy sẽ biến con thuyền thành một thứ như kiểu một ngôi nhà be bé, và nó sẽ thật ấm cúng đẹp đẽ, mặc dù hơi bí một tí; nhưng đấy, cái gì mà chẳng có cái dở của nó chứ, đúng như lời một thằng cha phán khi mẹ vợ hắn về nơi thiên cổ và người ta đến đòi hắn chi phí đám tang.
George bảo mỗi người chúng tôi nên mang đi một cái chăn, một cái đèn bàn, xà phòng, một cái bàn chải và lược (cái này dùng chung cũng được), một cái bàn chải răng (mỗi người), một cái chậu, một ít kem đánh răng, và đồ cạo râu (nghe cứ như bài tập tiếng Pháp ấy nhỉ?), một hai cái khăn bông to để tắm. Tôi để ý thấy rằng người ta luôn chuẩn bị hoành tráng cho việc tắm rửa khi sắp sửa ở đâu đó gần nước, nhưng khi đến đấy rồi thì họ lại chẳng tắm táp nhiều cho lắm.
Cũng tương tự như thế khi bạn đi biển. Lúc ở London nghĩ về chuyện này, lúc nào tôi cũng quyết tâm rằng sáng nào cũng sẽ dậy sớm, đi tắm một phát trước bữa sáng, và đã cẩn thận đóng gói hẳn một đôi quần tắm và một cái khăn bông. Tôi luôn mặc quần tắm màu đỏ. Tôi thích hình dung mình mặc quần tắm màu đỏ. Chúng hợp với màu da của tôi. Nhưng khi ra đến biển, chẳng hiểu sao tôi lại không hề thấy muốn tắm vào buổi sáng sớm như lúc còn ở thành phố chút nào.
Trái lại, tôi thấy muốn nấn ná trên giường đến phút cuối rồi xuống ăn sáng. Có độ một hay hai lần gì đó, đức tính chăm chỉ thắng thế và tôi ra ngoài lúc sáu giờ sáng, ăn mặc phong phanh, mang theo quần bơi và khăn tắm, và uể oải nhảy xuống. Nhưng tôi chẳng thấy thích thú gì cho lắm. Có vẻ ai đấy đã dành riêng một cơn gió Đông lạnh đặc biệt, chờ sẵn đấy, chỉ rình khi nào tôi đi tắm sớm; và ai đấy đã chọn lọc kỹ càng tất cả những hòn sỏi ba cạnh và để lên trên cùng, các tảng đá thì được mài nhọn hoắt và phủ lên một ít cát để tôi không nhìn thấy, và biển thì tự dưng trôi ra xa tít đến hơn hai dặm khiến cho tôi cứ phải co ro vòng tay ôm lấy người, nhảy lò cò và run lên trong làn nước sâu mười lăm centimet. Và lúc tôi ra đến nơi, biển động mạnh và dập vùi tôi một cách thô bạo.
Một cơn sóng khổng lồ tóm lấy và vận hết sức quăng tôi, trong tư thế ngồi, xuống một tảng đá đã được để sẵn ở đấy dành riêng cho tôi. Và, trước khi tôi rú lên “Ối! Á!” và nhận ra chuyện gì vừa xảy ra thì cơn sóng đã lại trở lại và đem tôi ra tận giữa đại dương. Tôi bắt đầu vùng vẫy điên cuồng để vào bờ và tự hỏi không hiểu mình có bao giờ về được nhà và gặp lại bạn bè nữa hay không, và ước gì mình đã tử tế hơn với con nhóc em gái khi còn là một cậu bé (khi tôi còn là một cậu bé, ý tôi là thế). Tôi vừa mới từ bỏ hết mọi hy vọn thì bỗng cơn sóng rút đi để lại tôi bò lổm ngổm như một con sao biển trên bờ cát, và tôi nhỏm dậy, quay lại nhìn và nhận ra mình đã bơi cật lực trong độ sáu mươi centimet nước để tự cứu mạng mình. Tôi nhảy lò cò lại chỗ cũ, mặc quần áo và lết về nhà, ở đấy tôi lại phải giả vờ như mình thích tình cảnh vừa rồi lắm ấy.
Trở lại với tình huống hiện tại, tất cả bọn tôi đều tán chuyện cứ như thể sáng nào chúng tôi cũng sẽ đi bơi thật lâu vậy. George nói rằng sẽ vui biết bao khi tỉnh giấc trên thuyền vào một buổi sáng trong lành và ném mình xuống dòng sông trong vắt. Harris thì bảo chẳng có gì kích thích dạ dày bằng việc tắm một phát trước bữa sáng. Hắn nói việc đó luôn khiến hắn ngon miệng. George bảo nếu cái việc tắm táp ấy khiến Harris ăn nhiều hơn khẩu phần bình thường của tên này thì hắn xin cực lực phản đối.
Hắn còn bảo chỉ riêng việc lôi ngược dòng số thức ăn đủ cho Harris xơi trong chuyến đi là đã quá chừng vất vả rồi.
Tuy nhiên, tôi thuyết phục George rằng kể cả có phải tải thêm vài tạ thực phẩm dự trữ nữa thì cũng sẽ dễ chịu đến thế nào nếu chúng tôi có một Harris sạch sẽ và tươi tỉnh trên thuyền; và hắn phải nhìn nhận việc này theo cách của tôi mà rút lại sự phản đối trước việc tắm táp của Harris. Cuối cùng tất cả nhất trí là chúng tôi sẽ mang ba cái khăn tắm đi để không ai phải chờ ai cả.
Về quần áo, George nói hai bộ đồ vải flannel là đủ vì chúng tôi có thể tự giặt quần áo dưới sông khi chúng bẩn. Chúng tôi hỏi George xem hắn đã bao giờ thử giặt đồ flannel bằng nước sông chưa và hắn trả lời: “Không, không hẳn là tớ đã giặt; nhưng tớ biết vài người đã làm thế và nói chung cũng dễ thôi mà”; và Harris và tôi lại non nớt đến độ tưởng rằng tên kia biết mình đang nói gì, và rằng ba thanh niên đáng kính, không địa vị hay tầm ảnh hưởng và không có tí kinh nghiệm nào trong việc giặt giũ, có thể thật sự tự mình giặt áo quần trong dòng nước sông Thames với một mẩu xà phòng.
Chỉ vài ngày nữa thôi, rồi chúng tôi sẽ nhận ra, khi đã quá muộn, rằng George là một thằng lừa đảo khốn khổ, một kẻ rõ ràng không biết tí gì về vấn đề này. Giá mà bạn thấy mớ quần áo ấy sau này nhỉ - nhưng, như trong những cuốn tiểu thuyết rẻ tiền vẫn viết đấy, ta có thể đoán trước được mà.
George đặc biệt nhấn mạnh với chúng tôi rằng cần phải mang thật nhiều đồ lót và tất phòng trường hợp chúng tôi bị lật thuyền và muốn thay; cũng cần thật nhiều khăn tay nữa, vì chúng sẽ hữu dụng khi cần lau cái gì đó, và ngoài giày đi thuyền thì cần cả một đôi ủng da, vì chúng tôi sẽ muốn có chúng nếu thuyền bị lật.
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật một cách nhanh nhất !