Frankenstein Mở đầu


Mở đầu
Ta có khẩn cầu người. Đưa ta từ chốn tăm tối lên không?

 

Frankenstein,
hay Prometheus thời hiện đại

 

Ta có yêu cầu người, Kẻ sáng tạo, từ đất sét

Nhào nặn ta thành người không?

Ta có khẩn cầu người

Đưa ta từ chốn tăm tối lên không?

Thiên đàng đánh mất, X, 743–745

 

 

Thư I

Gửi bà Saville, Anh quốc

St.Petersburgh, 11 tháng Mười hai, 17...

Hẳn chị sẽ vui mừng được biết không có tai họa nào xảy tới cho chặng đầu công nghiệp mà chị từng dự đoán sẽ không ít gay go. Ngày hôm qua em đến đây, việc đầu tiên em làm là vội khẳng định với chị gái của em là em khỏe mạnh an bình, và ngày càng tin tưởng việc mình định làm sẽ thành công mỹ mãn.

Giờ em đã cách London một chặng đường dài về phía Bắc; và mỗi khi thả bộ trên phố phường Petersburgh, em cảm thấy gió bấc mơn man trên má, làm dịu thần kinh mình, và đem lại biết bao vui thích. Chị có hiểu được cảm giác này không? Gió ấy thổi tới từ những vùng em sắp đặt chân đến, nó báo trước cho em mùi vị những xứ sở giá lạnh kia. Nhờ làn gió đầy hứa hẹn này tiếp sức, những mơ tưởng của em thêm sục sôi và sống động. Em hoài công thuyết phục mình rằng ở Bắc cực chỉ có giá băng và quạnh hiu ngự trị; trong tưởng tượng của em nó vĩnh viễn là miền đất ngập tràn vẻ đẹp và nỗi hân hoan. Ở đó, Margaret ạ, mặt trời không bao giờ lặn, vầng đĩa lớn chỉ chạm khẽ chân trời tỏa ánh huy hoàng vĩnh viễn. Ở đó – vì nếu chị cho phép, em sẽ liều đặt chút lòng tin vào những nhà hàng hải đi trước mình – ở đó tuyết và sương giá đều bị loại trừ; và sau khi giong buồm trên mặt biển phẳng lặng, có lẽ chúng em sẽ nương gió tấp vào một miền đất kỳ diệu và đẹp đẽ vượt xa bất kỳ vùng nào đã được khám phá ra trên mặt địa cầu có người ở này. Các sản vật, những nét đặc trưng nơi đó rất có thể không giống nơi nào khác, cũng như đôi vầng nhật nguyệt rõ ràng đã châu tuần khác hẳn ở chốn tĩnh mịch khuất mắt người đây. Còn gì không thể hình dung được ở một xứ sở ánh sáng vĩnh hằng như thế? Có thể ở đó em sẽ khám phá ra lực kỳ diệu khiến cây kim bị hút, và chỉ cần một chuyến đi này là tiến hành được cả ngàn lượt quan sát các hành tinh để khẳng định được vĩnh viễn những chuyển động tưởng như vô định của chúng. Em sẽ thỏa mãn được trí tò mò cháy bỏng khi nhìn ngắm phần thế giới chưa ai biết tới, và có thể được giẫm chân lên miền đất chưa hề có dấu chân người. Đó, em bị quyến rũ là vì thế đó, nó đủ khắc phục được mọi nỗi sợ hiểm nguy hay cái chết, và cuốn em vào chuyến du hành gian nan này với niềm vui của một đứa trẻ cùng bạn bè trong kỳ nghỉ hè lên thuyền ngược dòng đi thám hiểm con sông quê. Nhưng, giả dụ mọi ức đoán của em là hão huyền đi chăng nữa, chị vẫn không thể phủ nhận lợi ích đáng kể mà em sẽ đem đến cho toàn nhân loại tới tận những thế hệ mãi mãi về sau, nhờ khám phá ra con đường gần cực quả đất đi đến những đất nước mà bây giờ phải mất nhiều tháng mới tới được; hoặc khẳng định được bí mật của từ trường, một điều mà giả sử có thực hiện được, thì chỉ có thể bằng một chuyến mạo hiểm như em đang làm đây.

Những ý nghĩ trên đã xua tan mọi xáo động trong em khi mới bắt đầu viết thư, tim em như nở ra vì một nỗi phấn chấn đưa em lên tận mây xanh; bởi vì không gì trấn an tâm trí ta hơn là một mục đích kiên định – một điểm để hồn ta gắn cặp mắt trí tuệ vào đó. Từ hồi còn nhỏ em đã mơ một chuyến thám hiểm như thế này. Em đọc ngấu đọc nghiến tường thuật về những chuyến hải hành đi tìm con đường tới Bắc Thái Bình dương vòng qua Bắc cực. Chắc chị còn nhớ sách vở về các chuyến đi biển nhằm mục đích khám phá đã chiếm trọn thư viện chú Thomas yêu quý của chúng ta. Em không được học hành tới nơi tới chốn, nhưng em rất ham đọc sách. Mấy cuốn sách đó được em nghiền ngẫm suốt đêm ngày, và càng thân thuộc với chúng em càng cảm thấy nỗi khổ tâm đã từng trải qua hồi bé, khi được biết cha trước khi mất dặn lại chú cấm cho phép em đi biển.

Những mơ mộng này từng nhạt nhòa đi khi em lần đầu nghiền ngẫm những thi nhân đã để tình cảm tuôn trào mê hoặc lòng em, đưa em bay bổng lên chín tầng mây. Em cũng trở thành một thi sĩ, và suốt một năm trời đã sống trên thiên đường tự mình tạo dựng; em hình dung mình sẽ chiếm được góc chiếu riêng trong ngôi đền thờ Homer và Shakespeare. Câu chuyện em thất bại ra sao, và chịu đựng nỗi thất vọng khó khăn đến thế nào, chị đều đã rõ. Tuy nhiên đúng lúc ấy em được hưởng gia sản của người anh họ, thế là tâm trí của em lại trở về với con đường cũ.

Sáu năm đã trôi qua kể từ khi em dứt khoát lựa chọn sự nghiệp này. Ngay cả bây giờ em vẫn còn nhớ cái giờ phút em hoàn toàn hiến mình cho công nghiệp vĩ đại em đang theo đuổi đây. Em khởi đầu bằng việc bắt mình phải chịu đựng gian khổ. Em theo nhiều đoàn săn cá voi ở biển Bắc; em cố tình chịu lạnh, chịu đói, chịu khát, mất ngủ; ban ngày em làm việc cực hơn các thủy thủ khác, ban đêm, em học toán, lý thuyết y học và nhiều ngành vật lý mà một nhà hàng hải phiêu lưu có thể từ đó rút ra được những ứng dụng tuyệt vời vào thực tế. Hai lần em xin làm một thuyền viên trên con tàu săn cá voi ở Greenland và đã chứng tỏ mình xứng đáng được người ta khâm phục. Em phải thừa nhận mình có hơi cảm thấy tự hào khi thuyền trưởng đề nghị em làm thuyền phó của tàu, và thiết tha yêu cầu em ở lại một cách chân thành nhất; ông ta đánh giá công lao của em cao biết mấy.

Và sau những chuyện đó, chị Margaret thân yêu, lẽ nào em không xứng đáng đạt tới một mục tiêu to lớn nào đó? Đời em đã có thể trôi qua trong giàu sang phú quý, nhưng em quý trọng vinh quang hơn bất kỳ sự cám dỗ nào mà của cải có thể trải xuống con đường em đi. Ôi! giá mà có tiếng nói cổ vũ nào khẳng định em làm đúng! Em có lòng can đảm, có quyết tâm; nhưng hy vọng thì thất thường, đôi khi nản chí. Em sắp lao mình vào con đường dài chông gai, những chuyện bất ngờ gặp phải rồi đây sẽ đòi hỏi trọn vẹn sự vững vàng của em: không những em cần nâng cao tinh thần anh em, mà còn phải giữ vững tinh thần của chính mình khi mọi người chán nản.

Qua Nga thời điểm này là giai đoạn thuận lợi nhất. Người ta có thể trượt thật nhanh trên tuyết bằng xe trượt; xe lắc lư thế rất thú vị, và theo ý em, dễ chịu hơn xe ngựa chở khách ở Anh nhiều. Cái lạnh cũng không đến nỗi quá tệ, nhất là nếu choàng kín áo lông – em vừa mua một cái gần đây; bởi có khác biệt rất lớn giữa việc đi dạo trên boong và ngồi im bất động trong nhiều tiếng đồng hồ, không có hoạt động gì để ngừa máu đông lại trong mạch máu theo đúng nghĩa đen. Em không có tham vọng bỏ mình trên con đường đưa thư từ St.Petersburgh tới Archangel(1)_ đâu.

Em sẽ đi Archangel sau hai hoặc ba tuần nữa; em dự định thuê một tàu thủy, nghĩa là chỉ cần đặt bảo hiểm cho chủ tàu, và thuê đủ số thủy thủ cần thiết trong số những người đã quen săn cá voi. Em không định ra khơi khi tháng Sáu còn chưa tới. Còn bao giờ em trở về ấy ư? Chị gái thân yêu, em sao trả lời được? Em mà thành công thì còn nhiều nhiều tháng nữa, thậm chí nhiều năm nữa chị em ta mới lại gặp nhau. Em mà thất bại thì ta gặp nhau sớm thôi, hoặc có thể là không bao giờ.

Tạm biệt chị Margaret thân yêu, chị Margaret xuất chúng của em. Trời sẽ ban phước cho chị, và phù hộ cho em còn có nhiều dịp chứng minh lòng biết ơn đối với tình yêu và lòng tốt của chị.

Em trai thân yêu của chị,

R.WALTON

 

 

Thư II

Gửi bà Saville, Anh quốc

Archangel, 28 tháng Ba năm 17...

Thời gian trôi giữa vòng vây băng tuyết sao mà chậm chạp đến thế này! Tuy nhiên em đã tiến được thêm một bước để chuẩn bị cho công nghiệp của mình. Em đã thuê một con tàu và đang bận rộn tập hợp thủy thủ; và những người em đã lựa chọn được đều tỏ ra đáng tin cậy, và rõ ràng đều mang trong mình lòng can đảm phi thường.

Nhưng em có một nhu cầu vẫn chưa thỏa mãn được, thiếu thứ đó mang lại cho em nỗi khốn khổ nhất đời. Em không có bạn, chị Margaret ạ: khi bừng bừng niềm hăng hái của thành công, không có ai cùng em chia sẻ; khi nỗi thất vọng nhằm em mà tấn công, cũng chẳng ai cố gắng nâng đỡ mình qua chán nản buồn phiền. Quả là em có gửi gắm được những tư tưởng của mình vào giấy trắng, nhưng để truyền đạt cảm xúc thì phương tiện ấy mới thảm hại làm sao. Em mong mỏi có được một con người bên cạnh biết đồng cảm với em, một đôi mắt đáp lại ánh mắt em. Chị có thể cho là em đa cảm quá, chị gái thân yêu ạ, nhưng em cảm thấy một cách khổ sở sự cần thiết có một người bạn. Quanh em không có lấy một người vừa điềm đạm lại can trường, có học thức cũng như có năng lực trí tuệ, một người có sở thích giống em, để tán đồng hoặc bổ sung các kế hoạch của em. Một người bạn như vậy sẽ sửa chữa cho cậu em đáng thương của chị biết bao nhiêu sai lầm mà kể! Em làm việc gì cũng nhiệt tâm thái quá, lại thường nôn nóng khi gặp khó khăn. Tai hại hơn nữa em chỉ là người tự học: trong mười bốn năm đầu của đời mình lêu lổng suốt ngày, chẳng đọc gì ngoài tủ sách hải hành của chú Thomas. Ở tuổi ấy em đã làm quen với các thi sĩ danh giá nhất nước ta; nhưng cho tới khi không còn tìm được lợi lộc gì từ lòng tin ở thi văn, em mới thấm thía được sự cần thiết phải làm quen với nhiều ngoại ngữ nữa ngoài tiếng mẹ đẻ. Giờ đây đã hai mươi tám tuổi, kiến thức của em thực sự không bằng cậu học trò mười lăm. Em suy nghĩ nhiều hơn, đúng vậy, những mộng tưởng của em huy hoàng và trải rộng hơn nhiều; nhưng chúng thiếu đi hòa điệu (các họa sĩ gọi thế); và em khẩn thiết cần một người bạn đủ lương tri để đừng coi khinh em đa cảm, đủ tình yêu thương để hết lòng điều chỉnh trí óc của em đi đúng con đường.

Thực tình, có phàn nàn cũng vô ích mà thôi; chắc chắn em sẽ chẳng tìm ra bạn trên đại dương mênh mông, cũng như tại Archangel này, giữa đám thương nhân và thủy thủ. Ấy thế nhưng, trong những lồng ngực thô tháp này, cũng vẫn có một vài tình cảm không hề vấy chút cặn bã của bản chất con người. Tỷ như tay phó của em: can đảm tuyệt vời, dám nghĩ dám làm; anh ta điên cuồng khao khát vinh quang – hoặc, diễn đạt lại cho đúng bản chất hơn, khao khát thăng tiến trong nghề nghiệp. Anh ta là người Anh, và giữa những định kiến về dân tộc và nghề nghiệp của mình, mà nền nếp giáo dưỡng không làm khoan từ hơn được, vẫn còn lại ít nhiều tư chất cao quý của con người trong anh ta. Em làm quen với anh ta lần đầu trên một tàu săn cá voi: biết rằng anh ta đang không có việc làm trong thành phố, em dễ dàng thỏa thuận với anh ta tham gia công nghiệp của em.

Ông chủ tàu là một người tính khí phi thường, thực hiện kỷ luật trên tàu mình một cách hòa nhã dịu dàng hiếm thấy. Chính điều đó, bổ sung cho lòng chính trực và dũng cảm kiên cường của ông mà ai cũng biết, khiến em một mực phải mời cho được ông ta. Tuổi niên thiếu trôi qua trong cô đơn, những năm đẹp nhất là năm tháng được chị nuôi nấng với tình cảm hiền hậu của người phụ nữ đã hình thành nên bản chất con người em tới nỗi em không bao giờ hết ghê tởm cách đối xử thô bạo thường thấy trên tàu: em chưa bao giờ nghĩ điều đó là cần thiết, và khi nghe tiếng một người như thế, nổi danh về tấm lòng nhân ái và cũng nổi danh được thủy thủ đoàn vâng lời và kính trọng, em thấy mình thật diễm phúc vô cùng khi mời được ông ta. Em nghe tiếng ông ta trước tiên là qua một sự tình khá lãng mạn, từ chính người phụ nữ nhờ ông ta mà có được hạnh phúc. Câu chuyện đại khái thế này. Mấy năm trước đây ông yêu một tiểu thư Nga tài sản chẳng có bao nhiêu; vì nhận được một món khá lớn từ tiền bán chiến lợi phẩm của chàng rể tương lai, người bố hết sức bằng lòng. Trước ngày cưới đã định ông gặp vợ chưa cưới có một lần; nhưng nàng khóc sướt mướt, và quỳ phục xuống chân ông, van xin ông để cho nàng đi, thú thật nàng yêu một người khác, nhưng anh ta nghèo, và cũng thú thật luôn ông bố sẽ không đời nào chấp thuận anh chàng ấy. Người bạn bao dung của em trấn an cô gái đang van vỉ, và khi được biết tên người yêu của cô gái, lập tức từ bỏ cuộc theo đuổi của mình. Trước đó ông đã mua một trang trại, dự định sống ở đó cho đến cuối đời; nhưng ông đã tặng toàn bộ cho đối thủ của mình, cùng với phần còn lại của khoản chiến lợi phẩm để gây dựng cơ nghiệp, rồi đích thân xin bố cô gái chấp thuận cho cô lấy người mình yêu. Nhưng ông già khăng khăng từ chối, coi như vậy là thất hứa với bạn em; và thấy ông không thể nào lay chuyển, bạn em bèn bỏ xứ ra đi, được tin vị hôn thê cũ đã thành hôn theo ý muốn mới trở về. “Con người cao thượng biết bao!” hẳn chị thế nào cũng kêu lên như vậy. Ông ta quả là cao thượng; nhưng mặt khác, ông hoàn toàn không được giáo dục đến nơi đến chốn, ông ít lời như một gã Thổ, và ông lúc nào cũng có một vẻ vô ý vô nguyên tắc nào đó và điều này, mặc dù khiến cho lối cư xử của ông càng lạ lùng một cách đáng quý, lại cản trở cảm tình rất xứng đáng mà lẽ ra người khác phải dành cho ông.

Nhưng nếu có phàn nàn đôi chút, hoặc đã hình dung trước sự đền bù cho những gian lao mà rất có thể em sẽ không biết tới như vậy, cũng không có nghĩa em dao động đâu chị ạ. Tất cả đã được quyết định như số mệnh vậy; và giờ em chỉ còn chờ tới khi thời tiết cho phép hạ thủy. Mùa đông này vô cùng khắc nghiệt, nhưng mùa xuân hứa hẹn sẽ thật tươi đẹp, và mùa xuân ở đây tới khá sớm; có lẽ em sẽ xuống tàu sớm hơn mình tưởng. Em sẽ không hấp tấp đâu: chị biết em có thể trông cậy vào sự thận trọng và chín chắn của bản thân mỗi khi an toàn của bao người khác được trao vào tay mình mà.

Em không thể diễn tả nổi cảm xúc của mình khi triển vọng cuộc thám hiểm sắp tới gần. Biết nói với chị ra sao về cảm giác run rẩy, nửa mừng nửa sợ, sẽ cùng em lên đường. Em đang đi thẳng tới những miền chưa ai biết, tới “vùng tuyết và sương mù ngự trị”, nhưng em sẽ không giết con chim hải âu nào đâu, do đó đừng lo cho sự an toàn của em, cũng đừng lo em sẽ trở về với chị tiều tụy, thiểu não như “Người thủy thủ già”_(2). Hẳn chị sẽ mỉm cười trước so sánh ấy của em; nhưng em bật mí với chị điều này. Sự gắn bó của em, nhiệt tình đam mê với đại dương bí ẩn đầy nguy hiểm, em vẫn thường cho là sinh ra dưới ấn tượng về tác phẩm tuyệt diệu này của óc tưởng tượng kỳ diệu nhất trong số các nhà thơ hiện đại. Có một điều gì đó đang diễn ra trong em mà em không hiểu nổi. Thực tế em là người quen lao lực, giỏi chịu khó khăn, một người lao động kiên trì gian khổ, nhưng bên cạnh đó lại có một niềm say mê những điều kỳ diệu, tin ở sự diệu kỳ đan bện vào mọi dự án của em, nó thôi thúc em đi vượt ra ngoài con đường tất cả cùng theo, đến tận biển cả, tới những vùng đất chưa khai phá em sắp tới thám hiểm đây.

Nhưng giờ hãy nói về những điều chúng ta quan tâm thiết tha hơn. Liệu em có gặp lại chị không, sau khi đã vượt biển cả mênh mông, và vòng lại qua mũi cực Nam của Phi châu hay Mỹ châu? Em không dám hy vọng về một thành công đến thế, nhưng em cũng không dám nhìn vào mặt sau của bức tranh. Có được dịp nào chị hãy cứ viết thư cho em nhé: biết đâu em sẽ nhận được thư chị vào dịp nào đó khi em đang cần chúng nhất để nâng đỡ tinh thần mình. Em yêu chị vô cùng. Chị sẽ nhớ đến em một cách trìu mến nhé, nếu sau này có bặt tin em vĩnh viễn.

Đứa em yêu chị tha thiết,

ROBERT WALTON

 

 

Thư III

Gửi bà Saville, Anh quốc

7 tháng Bảy 17...

Chị thân yêu, em viết vội vài chữ cho chị biết em vẫn an bình và đã đi thêm một chặng rất xa trong chuyến du hành. Thư này em gửi qua một tàu buôn đang từ Archangel trở về Anh, nó may mắn hơn em người không được nhìn thấy quê cha đất tổ, có lẽ trong nhiều năm nữa. Tuy thế, tinh thần em rất phấn chấn: thủy thủ đoàn của em dũng cảm và tỏ ra rất quyết tâm; cả những tảng băng trôi qua liên tiếp, báo hiệu về nỗi hiểm nguy của những vùng đang đến, cũng không làm họ bận lòng. Bọn em đã lên tới một vĩ độ rất cao; nhưng giờ đang giữa mùa hè, và tuy không ấm như ở Anh, những cơn gió mạnh từ phía Nam vẫn đẩy tàu đi nhanh hơn tới những bến bờ em đang nóng lòng được đặt chân lên, cũng đưa lại luồng không khí ấm lòng thật bất ngờ.

Cho tới nay không xảy ra sự kiện gì đặc biệt đáng nhắc đến trong thư. Vài trận gió quá mạnh, một khe băng nứt ra, chỉ là các tai nạn nhỏ mà nhà hàng hải dày dạn kinh nghiệm hiếm khi thấy cần ghi lại; và nếu không có gì tệ hơn xảy đến dọc đường đi là em hài lòng rồi.

Tạm biệt chị Margaret. Cứ tin rằng vì bản thân mình – và cả vì chị nữa – em sẽ không vội vã lao vào hiểm nguy. Em sẽ nhớ bình tĩnh, bền gan và thận trọng.

Nhưng thành công chắc chắn sẽ đến với những nỗ lực của em. Sao lại không kia chứ? Em đã đi xa đến thế kia mà, vạch ra một chặng đường an toàn trên những vùng biển chưa hề có đường đi: các vì sao làm chứng cho thắng lợi của em. Tại sao không tiếp tục tiến thêm trên mặt biển chưa thuần phục hẳn nhưng đang ngoan ngoãn vâng lời? Trái tim quả quyết và ý chí sắt đá của con người có gì cản nổi?

Trái tim đang căng phồng của em đã tự phản mình mà bộc lộ nhiều thế này đây. Nhưng em phải dừng lại thôi. Chúa ban phúc cho chị thân yêu của em!

R.W.

 

 

Thư IV

Gửi bà Saville, Anh quốc

5 tháng Tám 17...

Một sự việc kỳ lạ quá sức vừa xảy đến với bọn em khiến em không cưỡng nổi phải ghi lại nó, mặc dù rất có thể chị đã gặp lại em trước khi lá thư này đến được tay chị.

Thứ Hai vừa rồi (31 tháng Bảy) chúng em đã gần như bị băng bọc kín; băng vây tứ phía con tàu, chỉ còn chừa một khoảng nước bé tẹo để bọn em cho tàu bập bềnh. Tình hình có phần gay go, nhất là lại có màn sương rất dày bao phủ. Chúng em đành neo lại đó, hy vọng khí quyển và thời tiết sẽ thay đổi đi.

Khoảng hai giờ chiều thì sương mù tan, để lộ trước mắt chúng em từng vạt băng rộng lớn hình thù kỳ dị trải dài khắp bốn phương như tới vô tận. Mấy thủy thủ trong đoàn càu nhàu, và bản thân tâm trí em cũng bắt đầu căng thẳng và chồng chất những ý nghĩ lo lắng, thì bỗng nhiên một cảnh tượng quái dị thu hút sự chú ý của chúng em, khiến nỗi lo lắng cho hoàn cảnh của chúng em tạm thời chuyển sang một đối tượng khác. Chúng em nhìn thấy một thùng xe ngựa thấp đóng vào xe trượt do chó kéo, vượt qua trên đường về phía Bắc, cách chúng em độ nửa dặm: một sinh vật hình dạng giống người, nhưng vóc dáng khổng lồ, ngồi trong xe trượt và cầm cương lũ chó. Chúng em dùng ống nhòm theo dõi kẻ du hành đang phi như bay, cho tới khi hắn ta mất hút sau những tảng băng to nhỏ đằng xa.

Sự xuất hiện này khơi dậy trong chúng em nỗi kinh ngạc vô bờ bến. Chúng em tin rằng mình đang ở xa đất liền hàng trăm dặm; nhưng cái bóng vừa qua dường như lại báo hiệu rằng, thực tế, nó không còn xa như em tưởng. Tuy nhiên, đang bị băng vây bọc kín xung quanh, chúng em chẳng thể theo được con đường của hắn, con đường mà mình đã theo dõi chăm chú đến thế.

Sau sự kiện này hai giờ, chúng em nghe thấy sóng lớn ở đằng xa; và trước khi đêm xuống băng bắt đầu vỡ ra, con tàu được giải phóng. Nhưng chúng em vẫn nằm chờ đến sáng, sợ trong đêm tối đâm phải những tảng băng lớn trôi nổi thường thấy sau lúc băng tan. Em tranh thủ lúc ấy nghỉ ngơi vài tiếng.

Tuy thế sáng hôm sau, khi trời vừa hửng, em đã lên boong, và bắt gặp toàn đám thủy thủ đang tụ tập ở một mạn tàu, đang nói chuyện với ai đó trên biển. Đó là một chiếc xe trượt, giống chiếc vừa bắt gặp hôm qua, đã trôi dạt về phía chúng em trong đêm trên một tảng băng lớn. Chỉ còn một con chó sống sót; tuy nhiên trên xe vẫn có một người, đang được các thủy thủ thuyết phục lên tàu. Không giống người đánh xe kia, anh không có vẻ giống một thứ dân man di nào đó trên một hòn đảo chưa ai biết tới, mà là một người Âu châu. Khi em xuất hiện trên boong thì ông chủ tàu buôn nói, “Đây là thuyền trưởng của chúng tôi, ông ấy không đời nào để ông chết dập chết vùi trên biển đâu.”

Khi nhìn thấy em, người kia bèn nói với em bằng tiếng Anh, dù có âm sắc lơ lớ: “Trước khi tôi lên thuyền, liệu ngài có thể vui lòng cho biết con tàu này sẽ về đâu không ạ?”

Hẳn chị hình dung được em kinh ngạc thế nào khi nghe câu hỏi đó từ một con người đã gần như hấp hối, lẽ ra phải coi con tàu của em là thứ quý giá nhất mà mọi của cải trên đời này cũng không đổi được. Tuy nhiên em vẫn đáp tàu mình đang trên đường thám hiểm và hướng về Bắc cực.

Nghe vậy anh lộ vẻ hài lòng, và đồng ý lên tàu. Trời ơi! Margaret, giả sử chị nhìn thấy con người chỉ chịu thuận lòng cứu lấy mình trong điều kiện ấy, chị hẳn sẽ sửng sốt vô bờ bến. Chân tay anh gần như đông cứng lại, thân hình gầy đét vì mệt nhọc và đau đớn. Em chưa thấy ai ở tình trạng khốn khổ khốn nạn đến như thế. Chúng em định đưa anh vào cabin; nhưng vừa thiếu đi khí trời là anh bất tỉnh. Thế là chúng em mang anh ra boong như trước, dùng rượu mạnh xoa bóp để anh tỉnh lại, còn cố bắt anh nuốt một ngụm nhỏ nữa. Ngay khi anh có dấu hiệu hồi tỉnh, chúng em quấn anh kín trong chăn, và đặt anh gần ống khói lò bếp. Dần dà anh hồi lại, và ăn một tí xúp, nhờ đó thể trạng khá lên một cách thần kỳ.

Hai ngày đã trôi qua trong tình trạng ấy trước khi anh nói được; và trong hai ngày ấy em thường lo sợ trải qua đau đớn có thể làm anh mất hết trí khôn. Khi anh phần nào hồi phục, em chuyển anh vào cabin của chính mình, tận tình săn sóc trong mọi lúc em rảnh rỗi. Em chưa từng gặp một sinh linh nào thú vị đến như vậy: đôi mắt anh thường thoáng ánh hoang dại, hay thậm chí điên cuồng; nhưng có những phút, nếu có ai xử sự tử tế với anh, hoặc giúp anh một việc cho dù rất nhỏ, cả khuôn mặt anh sáng bừng lên, với một vẻ dịu dàng hiền hậu em chưa từng thấy ở ai bao giờ. Nhưng nhìn chung anh luôn chìm trong buồn bã và tuyệt vọng; và đôi khi anh nghiến răng ken két, tựa như sức nặng của nỗi đau khổ anh mang là quá sức mình.

Khi vị khách của em hồi phục đôi chút, em mất bao công sức giữ cho thủy thủ đoàn khỏi chất lên anh hàng ngàn câu hỏi; em không thể để anh khổ sở vì sự hiếu kỳ thiếu lễ độ của họ, trong trạng thái thể chất và tinh thần rõ ràng chỉ có thể hồi phục nếu được nghỉ ngơi hoàn toàn. Tuy nhiên có một lần tay phó hỏi anh: vì sao lại đi xa đến như vậy trên mặt băng, bằng một chiếc xe kỳ quái đến như vậy?

Nét mặt anh tức khắc toát lên vẻ u ám đau buồn nhất, và anh trả lời: “Để truy tìm một kẻ đã bỏ trốn khỏi tôi.”

“Có phải người anh đuổi theo cũng đi bằng phương tiện giống anh không?”

“Đúng đấy.”

“Thế thì tôi thiết tưởng đã trông thấy hắn rồi; trước hôm đón được anh lên tàu, chúng tôi nhìn thấy mấy con chó kéo một chiếc xe trượt qua lớp băng, trong xe có người ngồi.”

Điều đó gây chú ý cho người lạ: anh trút xuống cả tràng câu hỏi xem tên ác thần đó – anh gọi hắn ta thế – đã đi hướng nào. Không lâu sau, kh 39f5 i chỉ còn một mình với em, anh bảo: “Hẳn nhiên tôi đã kích động trí tò mò của anh, cũng như của những người tốt bụng kia; nhưng anh quá chu đáo nên không nỡ hỏi han gì hết.”

“Dĩ nhiên rồi; tôi sẽ phải táo tợn và bất nhẫn lắm mới dám quấy rầy anh để thỏa mãn thói tọc mạch của tôi.”

“Vậy mà anh đã cứu tôi khỏi một hoàn cảnh lạ lùng và nguy hiểm; anh đã trả tôi trở lại cuộc sống một cách nhân hậu biết bao.”

Không lâu sau đó anh hỏi em có nghĩ rằng băng tan đã đánh chìm chiếc xe trượt kia không? Em trả lời rằng mình không dám đoan chắc điều gì; vì gần nửa đêm băng mới bắt đầu tan, lúc ấy hẳn kẻ kia đã đến được một nơi an toàn rồi; tuy nhiên cả điều này nữa em cũng không thể phán đoán được.

Từ lúc đó trở đi, cơ thể tàn úa của người lạ như được thổi một luồng sinh khí mới. Anh bày tỏ niềm hăm hở chân thành nhất muốn lên boong, muốn canh chừng chiếc xe trượt đã hiện ra trước kia; nhưng em đã thuyết phục anh hãy cứ ở trong cabin đã, bởi anh còn quá yếu không chịu nổi khí hậu khắc nghiệt bên ngoài. Em cũng hứa sẽ cho người theo dõi hộ anh, và nếu có vật lạ hiện ra trong tầm mắt sẽ thông báo cho anh ngay lập tức.

Đó là bản tường thuật của em về những gì liên quan tới chuyện lạ này cho đến hôm nay. Người lạ đã khỏe dần lên, nhưng vô cùng lặng lẽ, và thường tỏ ra bứt rứt nếu có ai ngoài em vào cabin. Nhưng anh lại có những phong thái dịu dàng ưu nhã đến nỗi mọi thủy thủ đều quý mến anh, cho dù họ chẳng nói chuyện với anh bao nhiêu. Riêng em, em bắt đầu yêu mến anh như người em ruột; và nỗi khổ tâm thường trực và sâu sắc của anh làm em thương cảm vô cùng. Hẳn xưa kia trong những ngày tốt đẹp đây phải là một con người cao đẹp lắm; bởi tàn tạ đến như thế này mà anh còn dễ thương và lôi cuốn chúng em làm sao.

Chị Margaret thân yêu, em đã viết trong một thư trước rằng chắc em không làm sao tìm được bạn trên đại dương mênh mông này; ấy thế mà em đã tìm được một người, giả sử gặp anh lúc chưa bị giày vò đến đỗi thảm thương thế này, hẳn em đã sung sướng nhận làm anh em bạn thiết.

Em sẽ thỉnh thoảng viết tiếp bản tường thuật liên quan đến người lạ, mỗi khi có sự kiện gì mới cần kể lại.

 

13 tháng Tám 17...

 

Càng ngày em càng yêu mến người khách của em hơn. Anh cùng lúc kích thích lòng ưu ái lẫn tình thương cảm trong em đến mức khó tin. Làm sao nhìn con người cao quý rơi vào cảnh thảm thương đến như vậy mà em không tan ruột nát lòng cho được? Anh dịu dàng hết mực, nhưng lại khôn ngoan tuyệt vời; trí tuệ vô cùng mẫn tiệp; và mỗi lần anh cất tiếng nói, tuy lời lẽ nào cũng văn hoa nhất mực, nhưng lại trôi chảy và hùng hồn chẳng ai sánh bằng.

Lúc này anh đã hồi phục nhiều sau cơn ốm yếu, và anh liên tục lên boong, rõ ràng muốn tìm kiếm chiếc xe trượt đã chạy trước mình. Tuy nhiên, dù đang trong cảnh thảm thương như vậy, anh cũng không chỉ đăm đắm lo việc mình mà vẫn quan tâm sâu sắc đến những dự tính của người khác. Anh trò chuyện với em rất nhiều về đề án của em, em đã kể lại với anh không giấu giếm gì cả. Anh đã chăm chú theo dõi mọi lý lẽ mà em dùng chứng tỏ cuối cùng mình sẽ thành công, cũng như từng chi tiết những biện pháp em đã làm nhằm đạt được thành công ấy. Thái độ đồng cảm anh bày tỏ đã khiến em tin cẩn mà nói lên những lời lẽ vẫn cất trong tim mình, thổ lộ mối nhiệt tâm nóng bỏng trong em; và giãi bày một cách say sưa làm cả người em bừng bừng phấn hứng, rằng em sẵn lòng biết bao được hy sinh tài sản, hy sinh tính mạng, hy sinh mọi hy vọng của mình để công nghiệp của em có thể tiến lên. Một kiếp người, một cái chết cũng chỉ là cái giá quá rẻ để đạt được tri thức em tìm kiếm, đổi lấy quyền lực em sẽ có để chi phối những địch thủ tự nhiên của giống nòi ta. Trong khi em nói, sắc diện u ám lan dần trên khuôn mặt người khách lạ. Lúc đầu em nhận thấy anh cố kiềm chế xúc động; anh lấy hai tay che mắt; giọng nói em run rẩy rồi tắt lịm đi khi nhìn thấy nước mắt chảy tràn qua kẽ bàn tay anh – một tiếng rên rỉ bật ra từ lồng ngực đang hổn hển. Em ngưng lại – mãi sau anh mới cất lời, giọng ngắt quãng từng đợt: “Con người bất hạnh! Chẳng lẽ anh cũng điên như tôi ư? Cũng uống phải thứ rượu độc mê muội ấy? Nghe đây – hãy để tôi tiết lộ chuyện đời mình, chắc chắn anh sẽ đập tan cốc rượu đang kề môi cho mà xem!”

Những lời ấy, như chị có thể đoán được, kích động mạnh trí tò mò của em; nhưng cơn bột phát đau đớn của người lạ đã vắt kiệt chút sức lực chưa hồi lại hẳn của anh, và phải mất nhiều giờ nghỉ ngơi và chuyện trò nhẹ nhàng, anh mới bình tĩnh trở lại như cũ.

Khi dập tắt được những tình cảm bạo liệt của mình rồi, anh có vẻ như tự khinh mình đã để cảm xúc chi phối; và khi chế ngự được nỗi tuyệt vọng đen tối, anh lại lái em nói về bản thân em. Anh hỏi han về những năm thiếu thời của em. Câu chuyện không dài, nhưng nó đã gợi lên cho em bao dòng hồi tưởng. Em nói về niềm khao khát tìm được một người bạn – về mong muốn thiết tha một mối giao tình thân mật với một tâm trí gần gũi, một điều chưa từng xảy đến với số phận em; và cũng bày tỏ niềm tin tưởng rằng ai không được hưởng phước lành này thì chưa thể tự khoe là mình hạnh phúc được.

“Tôi đồng ý với anh,” người lạ đáp, “chúng ta sẽ chỉ là những kẻ bất thành nhân dạng, chỉ được tạo thành từng nửa một, nếu như không có một người nào đó khôn ngoan hơn, tốt đẹp hơn, đáng quý hơn chúng ta – một người bạn đích thực phải như vậy – đưa tay giúp chúng ta hoàn thiện bản chất yếu đuối và còn nhiều sai sót của mình. Tôi đã từng có một người bạn, một sinh linh cao quý nhất của loài người, vì vậy tôi có quyền đánh giá về tình bạn. Anh còn hy vọng, còn cả thế giới trước mắt anh, anh không có gì khiến anh thất vọng. Chứ còn tôi… tôi đã mất tất cả rồi, không sao bắt đầu lại cuộc đời được nữa.”

Khi nói vậy, nét mặt anh thể hiện một nỗi đau đã nén nhịn tới thành bình thản, khiến em xúc động tận tâm can. Nhưng anh không nói gì thêm nữa, và lập tức rút lui vào trong cabin.

Mặc dù, cõi lòng tan nát đến như vậy, anh vẫn cảm thụ được sâu sắc vẻ đẹp của thiên nhiên hơn ai hết. Bầu trời đầy sao, biển cả bao la, mỗi cảnh tượng mà những vùng đất kỳ lạ ấy bày ra trước mắt hình như vẫn còn có mãnh lực nâng tâm hồn anh bay bổng khỏi trái đất. Con người ấy như có hai cuộc sống: anh có lúc đau khổ, hay hoàn toàn buông mình cho thất vọng; nhưng mỗi khi rút vào tâm tưởng, anh lại giống như một tinh linh thượng giới, với vầng hào quang bao quanh, không một nỗi thương tâm hay liều lĩnh điên rồ nào xâm nhập được.

Chị mỉm cười chăng, khi thấy em quá nhiệt tình nói về kẻ lang thang thần thánh ấy? Sẽ không thế đâu nếu chị nhìn thấy anh. Chị được dạy dỗ và rèn cặp nhờ sách vở và sự cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, và do đó, chị phần nào trở nên khe khắt; nhưng chính vì thế chỉ có chị mới đánh giá đúng những đức hạnh phi thường ở con người tuyệt vời này. Em đã lao tâm khám phá xem cái đức tính ở anh đã nâng anh lên tới tầm cao hơn hẳn bất cứ ai em biết, rốt cuộc là gì. Em cho rằng đó là khả năng nhận thức qua trực giác; năng lực phán đoán nhanh nhạy nhưng không bao giờ sai lạc; khả năng thẩm thấu vào nguyên nhân sự vật một cách rõ ràng và chính xác không ai bì nổi; thêm vào tất cả là tài năng diễn đạt và giọng nói trầm bổng như nhạc tính chế ngự lòng người.

 

19 tháng Tám 17...

 

Hôm qua người khách lạ bảo em: “Thuyền trưởng Walton, hẳn anh dễ dàng nhận thấy tôi đã phải chịu đựng những bất hạnh to lớn không gì sánh nổi. Đã có lúc tôi thề rằng ký ức về những chuyện tàn độc đó sẽ chết cùng tôi, nhưng chính anh đã làm tôi thay đổi quyết định đó. Anh tìm kiếm hiểu biết và khôn ngoan như tôi ngày trước; tôi nhiệt thành mong muốn những ước vọng của anh khi thành công trạng sẽ không quay lại mổ vào anh như với tôi đây. Tôi cũng không biết kể lại những thảm kịch của đời tôi có đem lại lợi ích gì cho anh chăng; tuy vậy khi cân nhắc rằng anh đang theo đuổi cùng một con đường với tôi, phơi mình ra trước cùng một hiểm nguy đã đưa tôi đến thế này; tôi mạo muội cho rằng từ câu chuyện của tôi anh có thể rút ra một bài học thích hợp; một bài học sẽ đưa đường chỉ lối cho anh nếu anh thành công trong công cuộc của mình, mà vạn nhất thất bại nó cũng ít nhiều an ủi anh. Hãy chuẩn bị lắng nghe những sự kiện mà thông thường người ta sẽ đánh giá là kỳ diệu. Nếu chúng ta đang ở giữa khung cảnh thiên nhiên văn minh hơn, ắt tôi đã sợ mình sẽ bị anh ngờ vực, thậm chí là giễu cợt; nhưng giữa những vùng đất hoang sơ bí ẩn này, biết bao điều vốn sẽ chỉ gây cười cho những người không biết tới sức mạnh luôn biến đổi của thiên nhiên lại trở thành khả thể; tôi cũng không hề ngờ vực chút gì rằng câu chuyện tôi kể tự nó đã chứa những bằng chứng về tính xác thực của những sự kiện trong đó.”

Chị có thể dễ dàng hình dung được em thỏa nguyện đến thế nào khi anh tỏ ý muốn chuyện trò; nhưng em không cam tâm để anh phải sống lại lần nữa nỗi khổ tâm của mình khi thuật lại những tai họa đó. Em thấy trong mình mong muốn mãnh liệt được nghe câu chuyện anh đã hứa, phần bởi tò mò, phần bởi khát khao muốn cải biến số phận anh, nếu lực em làm được. Em bày tỏ điều này khi trả lời anh.

“Cảm ơn tình cảm tốt đẹp của anh,” anh nói, “nhưng vô ích: số phận tôi đã sắp hoàn tất. Tôi chỉ còn sống để chờ một việc nữa thôi rồi sẽ yên nghỉ thanh thản. Tôi hiểu lòng anh lắm,” anh nói tiếp ngay khi thấy em định ngắt lời; “nhưng anh nhầm rồi bạn ơi – nếu anh cho phép tôi được gọi anh là bạn; không gì thay đổi được số kiếp tôi đâu: hãy cứ nghe tôi kể chuyện mình đã, rồi anh sẽ hiểu vì sao nó đã được quyết định dứt khoát đến mức ấy.”

Rồi anh cho biết ngày mai sẽ bắt đầu câu chuyện khi nào em rảnh rỗi. Lời hứa hẹn được em cảm ơn nồng nhiệt. Em đã quyết cứ mỗi đêm, khi tạm thời thoát khỏi những bổn phận bắt buộc của mình, sẽ ghi lại chính xác hết mức có thể những lời anh kể ban ngày. Nếu có bận bịu quá đi nữa, ít nhất em cũng sẽ ghi sơ lược lại. Bản thảo này rõ ràng sẽ mang lại cho chị rất nhiều thú vị; còn đối với em, người đã biết anh, nghe kể từ chính miệng anh, thì rồi đây trong tương lai em sẽ đọc lại với sự quan tâm và thiện cảm vô chừng! Ngay cả lúc này đây, bắt tay vào thực hiện công việc đã định, giọng trầm bổng của anh vẫn vang lên bên tai, đôi mắt rực sáng của anh vẫn nhìn em với nỗi u sầu dịu ngọt; em nhìn thấy cánh tay gầy guộc của anh đưa lên, trong khi mỗi đường nét trên khuôn mặt sáng rực lên vì có tâm hồn anh soi rọi. Câu chuyện của anh chắc hẳn sẽ kỳ lạ và đau đớn lắm, trận bão tố siết lấy con tàu tráng lệ đang giữa hải trình rồi quật tan nó chắc hẳn sẽ khủng khiếp vô cùng – vậy đấy!

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật một cách nhanh nhất !

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/26152


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận