Sau khi Hoa Phi thất thế, hậu cung yên ắng hơn hẳn. Không có cường địch trước mắt, tôi và My Trang đều thở phào một hơi, chỉ cần yên tâm củng cố sủng ái. Hoa Phi mất đi quyền phụ trợ quản lý lục cung, số người xu nịnh nàng ta đương nhiên không còn náo nhiệt như xưa. Sau nhiều lần cầu kiến Huyền Lăng nhưng không gặp, nàng ta cũng không làm rộn sinh sự nữa, ngoại trừ mỗi ngày sáng chiều thỉnh an, ả gần như không bước chân ra ngoài, vờ như không nghe thấy những lời xì xào châm biếm hay khiêu khích, châm chọc của các phi tần khác.
Đến giữa tháng Năm, thời tiết ở kinh đô càng lúc càng nóng nực. Bởi mùa hè ở kinh đô nắng nóng, các triều đại Hoàng đế mỗi năm đều đi tránh nắng tại Thái Bình hành cung ở Tây Kinh từ trước tháng Sáu, đến chớm thu mới quay trở lại. Huyền Lăng vốn không sợ nóng nhưng quy củ tổ tiên định lại như thế, hơn nữa, cung quyến quý tộc đa phần không chịu được cái nóng, do vậy bèn ban chỉ xuống, phủ Nội vụ sớm đã sắp xếp đâu vào đó rồi. Huyền Lăng theo lệ, dẫn Hoàng hậu, phi tần, quý tộc và trăm quan, xa giá nối đuôi lũ lượt rời khỏi kinh thành, chuyển đến Thái Bình hành cung.
Thái Bình hành cung vốn được cải tạo từ Hảo Sơn uyển của Cảnh Tông tiền triều, nơi này mặt hướng sông, lưng dựa núi, cảnh trí đẹp vô cùng. Đến triều đại của chúng tôi, thiên hạ thái bình, dân giàu nước mạnh, dựa trên cảnh vật cũ ở Hạo Sơn uyển, lần lượt dựng thêm nhiều đình đài lầu các, trải qua gần trăm năm, cuối cùng đã trở thành vườn ngự có quy mô lớn nhất của hoàng cung.
Hậu cung đi theo Hoàng đế, ngoài Hoàng hậu ra, chỉ có thêm sáu, bảy phi tần được sủng ái. Tào Dung hoa cũng nằm trong số đó. Hoa Phi thất thế, Tào Dung hoa tuy là thân tín của ả nhưng không hề bị liên lụy, quá nửa là vì bình thường nàng ta tuy luôn đi theo Hoa Phi nhưng tính tình lại rất hiền hòa. Huống hồ ngày trước, Lệ Quý tần quá sức ngông nghênh phách lối, một tĩnh một động, càng cho thấy Tào Dung hoa được lòng người hơn. Hơn nữa, Huyền Lăng không có nhiều con cái, trừ đi số mất sớm thì chỉ có một hoàng tử và hai công chúa. Tào Dung hoa lại là mẹ đẻ của hoàng nhị nữ, Ôn Nghi công chúa. Ôn Nghi công chúa vẫn chưa tròn một tuổi, đi đứng, ăn ở tuy có một đám vú em, cung nữ hầu hạ nhưng cũng không thể thiếu sự chăm sóc tận tình của mẹ ruột được.
Tuy Hoa Phi đánh mất thiện cảm của Huyền Lăng, nhưng vẫn giữ địa vị đứng đầu tam phi, Hoàng hậu cũng sắp xếp cho ả ta đi chuyến này. Chỉ có điều, trước khi đến Tây Kinh, ả chẳng thèm bước xuống xe nửa bước, cố ý tránh sự gượng gạo khi phải gặp mặt mọi người. Đoan Phi đang bệnh nặng, không thể chịu được nóng, tuy đi xe ngựa vất vả nhưng cũng cố theo mọi người đến đây. Nàng ta chỉ ở lì trong xe, không ra gặp chúng tôi. Còn Lăng Dung và Thuần Thường lại vẫn chưa được sủng ái, Sử Mỹ nhân thì thất sủng đã lâu, đều phải ở lại trong cung, không được đi theo. Lăng Dung nhát gan, cẩn thận, Thuần Thường lại nhỏ tuổi, ngây thơ đều chẳng mấy để tâm. Chỉ có Sử Mỹ nhân vì thế mà hậm hực suốt mấy ngày liền, đến lúc chúng tôi rời cung cũng chẳng thèm đến tiễn.
Ở trong hậu cung, suốt ngày bận bịu giao tế, vừa rời khỏi cung tường sơn đỏ trăm thước, vén rèm lên đã thấy ngay đồng lúa, ruộng dâu, khói nhẹ vấn vương, ngửi mùi hương tươi mới của hoa đồng cỏ nội, tôi chợt cảm thấy cơ thể thoải mái, tâm tình cũng vui vẻ hơn nhiều.
Thái Bình hành cung được xây dựa vào sườn núi Ca Lộc, trong núi có vườn, trong vườn có núi, nằm kề hồ nước, rừng rậm. Cảnh trí trong cung bố trí theo những thắng cảnh đẹp nhất từ nam chí bắc, kết hợp thành một tổng thể duy nhất, có phong vị khác hẳn chốn Tử Áo thành.
Tại Thái Bình hành cung, lúc nào cũng cảm thấy thoải mái, tự do hơn trong hoàng cung nhiều, dẫu hậu cung vẫn hệt như cũ, chỉ thay đổi chỗ ở mà thôi. Lần đi tránh nắng ở Tây Kinh này, Thái hậu ngại phiền phức ồn ào, lại bảo tuổi già tĩnh tâm lễ Phật, không ngại nắng nóng nên tiếp tục lưu lại cung. Tuy tôi vào cung đã được hơn nửa năm nhưng trừ những ngày lễ Tết trọng đại, thường chẳng bao giờ thấy Thái hậu bước ra khỏi Di Ninh cung nửa bước, hằng ngày thỉnh an chỉ gặp mỗi Hoàng thượng, Hoàng hậu cùng hoàng tử, hoàng nữ, tần phi không được gọi đến thì không được đến hầu. Do vậy, đến giờ tôi vẫn chưa gặp mặt Thái hậu lần nào. Nhưng sự tích anh minh của Thái hậu hồi trẻ, tôi từng nghe cha và đại ca nhắc đến nhiều lần, do vậy trong lòng không khỏi cảm thấy kính trọng và ngưỡng mộ bà. Lúc này, không ở cùng một cung với Thái hậu, tựa như thuở bé được rời khỏi vòng tay cha nghiêm khắc, đến nhà ngoại chơi vậy, tôi có cảm giác vô cùng thoải mái, tự do.
Huyền Lăng chọn Thủy Lục Nam Huân điện mát mẻ, yên tĩnh làm nơi nghỉ ngơi. Hoàng hậu đương nhiên là ở Quang Phong Tễ Nguyệt điện, nơi có quy chế tương đương với Thủy Lục Nam Huân điện. My Trang rất thích khoảnh rừng trúc xanh ngắt, cành lá um tùm, gió thổi vi vu trong Ngọc Nhuận đường, bèn chọn ở lại nơi đó. Tôi vốn rất sợ nóng, Huyền Lăng lại không nỡ để tôi ở quá xa, định cho tôi ở lại tòa điện phụ trong Thủy Lục Nam Huân điện, ngày đêm đều nhìn thấy nhau. Nhưng như thế quá chướng mắt, chỉ sợ sẽ lại dẫn đến không ít phong ba, tôi đành tìm cớ khước từ. Thế là Huyền Lăng chọn Nghi Phù quán gần đó nhất cho tôi ở, vừa bước vào cửa đã nhìn thấy hồ sen tươi đẹp như ngọc, gió mát từ mặt hồ len lỏi thổi qua kẽ lá, thanh mát, hợp lòng người.
Vừa vào Nghi Phù quán, tôi đã nhìn thấy phòng chính ở điện phụ có đặt mấy chục chậu hoa nhài, tố hinh, ngọc lan, trắng muốt đáng yêu. Mỗi gian phòng đều đặt một chiếc quạt gió. Hoàng Quy Toàn khuỵu gối hành lễ, tươi cười nịnh nọt: “Hoàng thượng biết tiểu chủ vốn yêu thích mùi hương nhưng đang lúc nắng nóng, đốt hương bất tiện lắm, bèn lệnh cho nô tài tìm hoa thơm mới hái, đặt vào trong quạt gió ướp lạnh lấy hương thơm.” Quả nhiên quạt gió quay đều, gió mát rười rượi, mùi hương thơm ngát lan tỏa khắp điện.
Hoàng Quy Toàn còn ton hót thêm: “Các tiểu chủ nương nương khác đều chẳng có thứ này đâu. Ân sủng của Hoàng thượng dành cho tiểu chủ là đứng đầu cả hậu cung đấy!”
Huyền Lăng quả nhiên chu đáo, tỉ mỉ. Tôi cảm động, quay sang bảo Hoàng Quy Toàn: “Hoàng thượng long ân. Ngươi về bẩm báo lại, lát nữa ta sẽ đích thân sang đó tạ ơn người.”
Hoàng Quy Toàn thưa: “Vâng ạ! Lát nữa e là Hoàng thượng sẽ đi săn bắn. Tiểu chủ cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi hẵng từ từ sang đó.”
Tôi tủm tỉm cười khen: “Nghĩ ra phương pháp này khéo thật đấy! Hoàng thượng quả là phí tâm.”
Hoàng Quy Toàn thưa: “Hiện giờ trời vẫn chưa nóng hẳn, đến mùa nóng, bên trong điện sẽ đặt thêm mấy khối băng lấy ra từ hầm băng, lúc ấy mới gọi là mát mẻ, thoải mái. Hoàng thượng đã dặn dò phủ Nội vụ từ sớm, chỉ cần tiểu chủ thấy nóng, sẽ lập tức dâng băng lên. Sao đám nô tài dám không để ý cho được.”
Tôi lườm hắn mấy cái rồi mới tủm tỉm cười: “Khổ cực cho Hoàng công công rồi! Thực ra việc này cứ tùy tiện gọi một người tới chỉ dẫn là đủ, phiền công công đích thân chạy một chuyến. Mau đến chỗ Thôi Thuận nhân lĩnh một ít bạc đi, coi như là ta mời các công công dùng trà.”
Hoàng Quy Toàn vội thưa: “Tiểu chủ nói thế, sao nô tài dám nhận kia chứ. Bọn nô tài có thể hầu hạ được gì cho tiểu chủ đã là phúc phận tu mấy kiếp mới có được, ngàn vạn lần không dám nhận thưởng của tiểu chủ đâu.” Nói xong, hắn vội vã khuỵu gối hành lễ rồi khom người, lui ra ngoài.
Bội Nhi đứng bên cạnh, nhìn theo bóng hắn lui ra ngoài, nhận xét: “Hoa Phi vừa ngã, gã ta đã học khôn ngay, hiện giờ biết cụp đuôi làm việc rồi, chỉ sợ có chỗ nào không được chu đáo.”
Lưu Chu cười nhạt, nói: “Dẫu Hoa Phi chưa ngã, trong cung này có ai dám không chu đáo với tiểu thư của chúng ta nào!”
Tôi lườm nàng ta một cái rồi mắng: “Chỉ lo đấu võ mồm thôi, mau đi hái mấy lá sen tươi non về nấu canh đi, ta cần dùng gấp.”
Nghỉ ngơi một lát, trang điểm, ăn mặc xong xuôi, tôi bèn dẫn theo Hoán Bích chầm chậm đi về phía tẩm điện của Huyền Lăng. Băng qua Luyện kiều, Kính kiều, U Phong kiều trên hồ Phiên Nguyệt, qua hành lang dài chạm trổ tinh vi, uốn lượn quanh co, len lỏi qua hoa cỏ xanh um là đến vĩnh hạng dài dằng dặc, hai bên trồng toàn cây cổ thụ, hoa lá um tùm, che khuất quá nửa ánh sáng mặt trời, bóng râm mát rượi.
Chợt nghe trên đầu “xoẹt” một tiếng, có tiếng vũ khí lao vút qua trời cao, phát ra những âm thanh sắc nhọn, tôi ngẩng đầu, chỉ thấy một mũi tên dài bay vọt lên tận mây xanh, thế bắn mãnh liệt khác thường, trong chớp mắt đã khuất bóng sau cụm mây bồng bềnh, trắng xốp như bông.
Sau đó, chợt có một bóng đen từ xa tít trên cao rơi vụt xuống đất, theo bản năng tôi lùi về phía sau mấy bước. Có vật nặng hạ xuống tàng cây rồi rơi mạnh xuống đất, bụi đất mịt mù, lông chim lẫn hoa lá rơi lả tả, mùi máu tanh gắt mũi ập tới. ịnh thần nhìn kĩ, tôi thấy một mũi tên xuyên qua đầu hai con chim hải đông thanh, trúng vào bốn con mắt của chúng. Một con hải đông thanh chưa chết hẳn, cánh chim cứng như sắt đập phành phạch mấy tiếng rồi mới duỗi ra bất động.
Tôi thầm hô to một tiếng: “Giỏi!” Hải đông thanh gốc ở Liêu Đông, thân hình tuy nhỏ nhưng hung hãn, mạnh mẽ dị thường, mỏ như móc thép, cánh như bọc sắt, cứng cáp, thông minh hơn hẳn các loài chim khác. Có thể một tên bắn chết cả hai con, còn xuyên qua bốn mắt, thuật bắn tên vừa mạnh mẽ vừa chính xác thế này thực khiến cho người khác phải khâm phục.
Hoán Bích không kìm được, cất tiếng tán thưởng: “Thuật bắn tên hay tuyệt!”
Cách đó không xa vang lên tiếng vỗ tay vang dội. Một nội thị hấp tấp chạy đến, nhặt hai con hải đông thanh, thấy tôi ở đó bèn vội vàng hành lễ vấn an. Tôi bất giác lên tiếng hỏi: “Là Hoàng thượng đang săn bắn trong vườn sao?”
Gã nội thị cung kính thưa: “Thanh Hà vương vừa tới, Hoàng thượng đang săn bắn cùng Vương gia.”
Nghe đến ba chứ Thanh Hà vương, tôi không kìm được tình tự, nhớ đến lần đầu tiên gặp Huyền Lăng trong Thượng Lâm uyển, khi đó y tự xưng là Thanh Hà vương. Tình cảm tha thiết giấu tận đáy lòng chợt xao động, tôi bất giác cảm thấy thật hạnh phúc. Tôi thấy đuôi mũi tên có khắc hoa văn vàng sậm, bèn tủm tỉm cười: “Thuật bắn tên của Hoàng thượng hay tuyệt!”
Tên nội thị cười vuốt đuôi: “Thuật bắn tên của Vương gia rất hoàn hảo, Hoàng thượng cũng khen không ngớt miệng!”
Tôi hơi ngẩn ra, trước giờ nghe nói Thanh Hà vương mê đắm cầm kỳ thi họa, tính tình ung dung, phóng khoáng, ai ngờ thuật bắn tên của hắn lại tinh chuẩn đến thế, đúng là ngoài sức tưởng tượng.
Nhưng tôi chỉ bất ngờ một chút thôi, vốn chuyện chẳng liên quan gì đến tôi, liền thuận miệng hỏi: “Còn người nào khác ở đó không?”
“Có Tào Dung hoa đi theo hầu hạ Hoàng thượng.”
Tôi gật đầu, nói: “Vậy mau đem hải đông thanh đến đó đi. Bẩm báo với Hoàng thượng là ta sẽ đến ngay.”
Hắn vâng dạ rồi chạy biến đi. Tôi thấy hắn đã đi được hồi lâu, mới chỉnh lại tóc tai, y phục rồi gọi Hoán Bích: “Chúng ta cũng sang bên đó thôi!”
Vừa tiến vào vườn, từ xa tôi đã nhìn thấy đám thị vệ vây quanh một bóng người vận áo dài xanh biến mất sau hàng cây um tùm, rậm rạp. Chỉ một bóng lưng thôi nhưng cũng đủ nhìn ra được vẻ xa vắng nhàn hạ như núi xuân tùng xanh, phong thái nhàn nhã không sao diễn tả thành lời. Tôi vô cùng tò mò, bất giác đưa mắt nhìn theo hồi lâu.
Một nội thị chạy tới nghênh đón, thưa: “Hoàng thượng đang ở Thủy Lục Nam Huân điện chờ tiểu chủ.” Nói xong bèn dẫn tôi sang bên đó.
Thủy Lục Nam Huân điện nằm ở bờ tây của hồ Thái Dịch, được dựng sát bờ nước, quá nửa vươn ra mặt hồ. Bốn bề hành lang thoáng đãng vây quanh, rèm trúc buông rủ kín đáo, bên trong điện cực kỳ mát mẻ, yên tĩnh. Vừa bước vào điện, tôi đã ngửi thấy hương trà thanh đạm nhàn nhạt hòa trong làn hơi nươc hồ mát rượi. Quả nhiên, Huyền Lăng và Tào Dung hoa đang ngồi đó thưởng trà. Huyền Lăng thấy tôi đến, bèn tủm tỉm cười: “Nàng đến rồi à?”
Theo lễ ra mắt, tôi mỉm cười thưa: “Hoàng thượng có hứng thú quá, người tìm đâu ra được loại trà ngon, thơm ngát thế này ạ?”
Huyền Lăng phá lên cười ha hả: “Ngoài lão lục ra thì còn ai nữa, phí công phí sức lắm mới tìm được nửa cân trà Tuyết đỉnh hàm thúy đấy, đúng là trà ngon. Nàng cũng đến đây nếm thử một chén nào!”
Tuyết đỉnh hàm thúy sinh trưởng trên đỉnh núi cheo leo ở vùng cực bắc lạnh giá, khó khăn lắm mới hái được, trên thế gian chắc chỉ có chưa tới mười mấy gốc. Nhờ thường được nước tuyết bồi đắp, vị trà vừa anh tân vừa lạnh giá, vô cùng hiếm có, hoàng thất quý tộc bình thường cũng khó có cơ hội được nếm thử.
“Vương gia đúng là có lòng!” Tôi nhìn quanh quất rồi nói: “Thần thiếp nghe nói Hoàng thượng khi nãy đi săn với Vương gia đã thắng được một ván, sao mới chớp mắt mà đã không thấy đâu rồi?” Tôi cố ý đùa Huyền Lăng. “Hẳn là Vương gia nghe nói thần thiếp xấu như Chung Vô Diệm, sợ sẽ run rẩy phát khiếp nên mới né tránh chứ gì?”
Huyền Lăng nghe tôi trêu như vậy thì phá lên cười, chỉ vào tôi rồi nói với Tào Dung hoa: “Cầm Mặc, nàng xem, nếu nàng ta tự so mình với Chung Vô Diệm thì mọi người trong hậu cung của trẫm chẳng phải trở thành xấu xa như Đông Thi rồi còn gì.”
Ánh mắt Tào Dung hoa lúng liếng, duyên dáng nở nụ cười, tay vẫn chầm chậm lột vỏ một quả nho, nói với tôi: “Vương gia khi nãy vẫn còn ở đây nhưng nghe nói Việt Châu vừa tiến cống một số đồ sứ tráng men, Vương gia đã vội vã đi ngắm nghía rồi.” Nói xong giơ tay đưa trái nho đã lột vỏ đến trước miệng Huyền Lăng. “Uyển nghi muội muội mỹ lệ động lòng người, chẳng qua chỉ nói vài lời khiêm tốn vậy thôi. Hoàng thượng cứ coi như nghe lời nói đùa vậy mà.”
Huyền Lăng há miệng, nuốt quả nho rồi chau mày cười bảo: “Không sai, không sai, hèn gì Khổng phu tử từng nói “Chỉ có nữ nhân và tiểu nhân là khó chiều lòng”.”
Tôi nhấc quạt tròn lên che mặt, giả vờ tức giận. “Lời này thần thiếp nghe rõ hết rồi đấy, Hoàng thượng đang ví thần thiếp với tiểu nhân chứ gì, thần thiếp chẳng chịu đâu.” Nói xong phất tay áo. “Hoàng thượng không thích nhìn mặt thần thiếp nữa thì thần thiếp xin cáo lui vậy.”
Huyền Lăng đứng dậy kéo tôi lại, nói: “Nói nhiều như vậy mà không sợ khô miệng sao? Lại đây, nếm thử chung trà Tuyết đỉnh hàm thúy này, coi như trẫm xin lỗi nàng vậy, thế có được không?”
Tôi lúc ấy mới xoay người từ giận dỗi chuyển sang vui vẻ, nói: “Hoàng thượng đúng là biết mượn hoa hiến Phật, lấy đồ của Lục vương để ban ân cho người khác.”
Huyền Lăng đáp: “Thế cũng chẳng sao, chỉ cần nàng thích là được!” Thế là tôi ngồi xuống, ba người cùng phẩm trà.
Tào Dung hoa nghe tôi và Huyền Lăng nói đùa, chỉ lẳng lặng tủm tỉm cười không nói, đáy mắt lúng liếng, lộ ra phong thái tươi đẹp riêng biệt. Hồi lâu sau, nàng ta mới mỉm cười, chậm rãi thốt lên: “Tục ngữ có câu: Ngàn vàng đổi lấy tiếng cười. Hành động của Hoàng thượng đối với Uyển nghi muội muội đúng là chẳng kém gì.”
Tôi đỏ mặt, cười nói: “Khiến Dung hoa tỷ tỷ chê cười rồi!”
Tào Dung hoa nhấc chén trà lên, uống một ngụm rồi nói: “Cả miệng đầy hương, thần trí thanh thản, Lục vương quả nhiên có lòng!” Nói xong, dùng quạt tròn che nửa mặt, thưa: “Thần thiếp nghe nói Hoàng thượng lúc trước khi vừa gặp mặt Uyển nghi muội muội, vì sợ muội muội quá giữ lễ bèn mượn tên của Lục vương cùng muội muội trò chuyện thưởng tiêu, nhờ vậy mới thành tựu nhân duyên hôm nay, đúng là một giai thoại lưu truyền thiên cổ.”
Nghe Tào Dung hoa nhắc lại tình cảnh gặp gỡ lần đầu với Huyền Lăng, lòng tôi bất chợt ngọt ngào, hai má ửng hồng như ráng chiều óng ánh. Huyền Lăng ngồi đối diện tôi, cùng tôi nhìn nhau mỉm cười thông hiểu.
Tôi chợt cảm thấy có gì đó không ổn, chuyện ngày trước tôi gặp gỡ Huyền Lăng tuy người trong cung cũng nghe ngóng được kha khá nhưng sao nàng ta có thể biết được chuyện bí mật nhỏ nhặt như Huyền Lăng mượn tên Thanh Hà vương. Trong ký ức, hình như tôi chưa hề kể lại với ai chuyện này. Nghĩ đến đó, lòng tôi bất giác trở nên nặng trĩu.
Trong lúc tôi ngẫm nghĩ, Tào Dung hoa lại lên tiếng: “Nếu nói như vậy, Lục vương còn là người mai mối cho Hoàng thượng và Uyển nghi muội muội nữa, lẽ ra nên tạ ơn người một phen mới phải. Huống chi người mai mối này tuấn tú, phong lưu, không biết được bao nhiêu tiểu thư con quan trong triều mê mẩn, chỉ mong được gần gũi đêm ngày. Hẳn là lúc muội muội còn ở nhà đã từng nghe qua danh tiếng của Lục vương chúng ta rồi phải không?”
Tuy tôi tập trung ứng đối lại Tào Dung hoa nhưng vẫn thầm để tâm lưu ý đến vẻ mặt của Huyền Lăng. Bộ dạng Huyền Lăng vẫn bình thường, không có gì khác lạ. Tôi đã chối bay chối biến mọi quan hệ, chỉ hy vọng Huyền Lăng không để ý đến lời khích bác của Tào Cầm Mặc. Nếu y thực sự sinh lòng nghi ngờ thì tim tôi hơi giá lạnh. Không, với tình cảm mà y vẫn dành cho tôi, y sẽ không nghi ngờ tôi như vậy đâu.
Tào Dung hoa chỉ yên lặng mỉm cười, chẳng khác gì chú chuồn chuồn lặng lẽ đậu trên búp sen, khiến người không sao ngờ nổi dưới vẻ tĩnh lặng, hiền hòa của nàng ta lại chứa đựng những lời nói sắc bén, ác nghiệt, gây ra bao sóng gió trập trùng. Nàng ta đưa mắt nhìn ra ngoài trời rồi đứng dậy, xin cáo từ: “Thần thiếp e là Ôn Nghi đã đói bụng rồi, thần thiếp xin về trước xem sao.”
Huyền Lăng gật đầu đồng ý. “Cũng được, Ôn Nghi dạo này hay khóc lóc, quấy nhiễu. Giang thái y thường hay bắt mạch bình an cho nàng, nói với hắn xem vì sao Ôn Nghi cứ hay khóc lóc, nhõng nhẽo như thế.”
“Vâng ạ! Thần thiếp sẽ bảo Giang thái y xem thử rồi sẽ bẩm lại cho Hoàng thượng biết.” Nói xong, nàng ta ung dung mỉm cười, lui xuống.
Trong điện giờ chỉ còn mỗi tôi và Huyền Lăng, Hoán Bích và các cung nhân khác đứng hầu ở bên ngoài. Không khí như có hơi lạnh ngưng tụ, mùi hương thơm mát của lá trà như bị đông cứng, mất đi phong thái nhẹ nhàng, linh hoạt, chỉ cảm thấy nặng nề, nhơm nhớp. Ở ngọn cây đằng xa, tiếng ve kêu khàn khàn rền rĩ, khiến người nghe cảm thấy buồn bực, khó chịu.
Khóe môi Huyền Lăng vẫn đọng nt cười nhàn nhạt, y lệnh cho người hầu bưng ra một cây cổ cầm. “Cây cổ cầm này vốn là vật yêu thích ngày trước của Thư Quý phi thời tiên hoàng, tiên hoàng khó khăn lắm mới tìm được nó cho bà. Trước khi nàng tới, trẫm vốn muốn gọi người đàn một khúc, chỉ tiếc là Cầm Mặc, người đúng như tên, cầm nghệ chẳng giỏi giang chút nào.”
Tôi thưa: “Vậy để thần thiếp bảo người mời Huệ Tần tỷ tỷ đến đây vậy.”
“Huệ Tần tinh thông âm luật khúc điệu hơn hẳn nàng nhưng tình ý trong khúc nhạc thì lại kém nàng xa. Cây cổ cầm tốt như vậy nếu mất đi tình ý thì âm thanh chẳng còn phong vị gì nữa, nàng cứ đến đàn một khúc đi!”
Tôi thưa: “Vậy thần thiếp xin đàn một khúc hầu Hoàng thượng vậy!”
Huyền Lăng nhìn tôi, nói: “Hay lắm, sóng biếc gió trong, phẩm trà nghe đàn, ngồi ngắm mỹ nhân, đúng là chuyện hứng thú của người đời. Nàng cứ đàn nửa khúc Sơn chi cao là được.”
Tôi vâng theo, khẽ lướt ngón tay trên dây đàn. Quả nhiên là một cây cổ cầm thượng hạng, âm sắc trong trẻo như hạt châu lớn bé rơi leng keng xuống mâm ngọc. Chỉ là giờ phút này lòng tôi đang canh cánh chuyện khác, không thể tập trung toàn bộ tâm tư vào tiếng đàn, thật có lỗi với cây đàn quý.
Đàn xong một khúc, Hoàng đế vỗ tay khen: “Quả nhiên là đàn hay.” Hoàng đế nhìn thẳng vào tôi với ánh mắt sáng ngời, lát sau mới nở nụ cười nhàn nhạt, hỏi: “Trẫm rất rõ tình ý của Hoàn Hoàn dành cho trẫm. Chỉ không biết khi nào Hoàn Hoàn mới bắt đầu nảy sinh tình cảm với trẫm vậy?”
Tim tôi đột nhiên giật thót, quả nhiên y đã lên tiếng hỏi tôi. Cuối cùng y cũng hỏi tôi. Tôi không có thì giờ ngẫm nghĩ, bình tĩnh quỳ xuống, thưa: “Người Hoàn Hoàn yêu thương là người đang đứng trước mặt Hoàn Hoàn lúc này, chẳng liên quan gì đến địa vị hay tên gọi cả.”
Hoàng đế không gọi tôi đứng dậy, chỉ ung dung hỏi: “Nói thế nghĩa là sao?”
“Hoàng thượng mượn danh Thanh Hà vương cùng thần thiếp nghe tiêu, thưởng hoa, Hoàn Hoàn tuy cảm mến tài hoa của Hoàng thượng nhưng cứ nghĩ người là Vương gia nên lúc nào cũng cư xử cẩn thận, tuyệt không dám vượt quy củ gần gũi với người. Sau khi nói rõ thân phận của mình, Hoàng thượng chăm sóc Hoàn Hoàn, sủng ái Hoàn Hoàn. Hoàng thượng đối với Hoàn Hoàn khác hẳn những phi tần khác, Hoàn Hoàn dành cho Hoàng thượng không chỉ là lễ quân thần mà còn có cả tình phu thê.” Nói đến đây, tôi ngẩng đầu, liếc nhìn Huyền Lăng, thấy vẻ mặt của y thoáng lộ vẻ xúc động thì mới an tâm được đôi chút.
Tôi lại nói tiếp: “Nếu muốn tìm hiểu đến cùng Hoàn Hoàn nảy sinh tình ý với Hoàng thượng lúc nào thì đó chính là lúc Hoàng thượng giải vây giúp Hoàn Hoàn khi Hoàn Hoàn bị Dư Canh y làm khó. Hoàn Hoàn trước giờ không thích gây chuyện thị phi. Ngày đó, Dư thị cư xử lỗ mãng, Hoàn Hoàn thực tình bối rối chẳng biết làm sao. Hoàng thượng mở miệng giúp đỡ, chẳng những giúp giải vây cho Hoàn Hoàn mà còn duy trì sự tôn nghiêm của Hoàn Hoàn nữa. Đối với Hoàng thượng, đó là chuyện dễ như trở bàn tay nhưng trong mắt của Hoàn Hoàn, Hoàng thượng chính là quân tử cứu người gặp nạn.”
Vẻ xúc động trong đáy mắt Huyền Lăng càng thêm đậm, nụ cười trên môi càng lúc càng tươi, y âu yếm đưa tay đỡ tôi: “Trẫm chỉ là thuận miệng hỏi thế thôi!”
Tôi cương quyết không chịu đứng dậy: “Xin Hoàng thượng cho Hoàn Hoàn nói hết.” Tôi quỳ mọp xuống đất, thưa: “Hoàn Hoàn tội đáng chết, nói một câu phạm thượng tiếm quyền. Hoàn Hoàn trong lòng kính trọng người là bậc quân vương, nhưng lại càng yêu thương người như bậc phu quân của Hoàn Hoàn vậy.” Nói đến mấy câu sau, giọng nói của tôi trở nên nghẹn ngào, nức nở không thành tiếng.
Huyền Lăng đau lòng, ôm chặt lấy tôi, thương xót nói: “Sao trẫm lại không hiểu rõ tâm tư của nàng cơ chứ, do đó, trẫm mới yêu nàng, trọng nàng hơn những tần phi khác. Chuyện hôm nay quả thực là do trẫm quá đa nghi, Hoàn Hoàn, nàng đừng trách trẫm nữa!”
Tôi dựa vào ngực y, khẽ khàng gọi hai tiếng: “Tứ lang!”
Y càng ôm tôi chặt hơn: “Hoàn Hoàn, khi nãy nàng tự biện bạch cứ mãi gọi trẫm là Hoàng thượng, trẫm vừa cảm động vừa thấy đau lòng, trước giờ khi chẳng có người lạ, nàng luôn gọi trẫm là Tứ lang mà. Hoàn Hoàn, là trẫm không tốt, khiến nàng đau lòng!” Từng giọt lệ của tôi thấm đẫm hoa văn rồng thêu kim tuyến sống động, hùng mạnh trên long bào của y. Mùa hè khí trời nóng nực, tôi lại bị Huyền Lăng ôm chặt trong lòng nhưng tim tôi chẳng khác gì lòng bàn tay lộ ra ngoài gió dạo cuối thu, từng chút, từng chút đều ngấm đầy hơi lạnh.
Lúc tôi rời khỏi Thủy Lục Nam Huân điện đã là giữa trưa ngày hôm sau. Tuy là đi tránh nắng nhưng buổi chầu sớm không thể hủy bỏ. Huyền Lăng vẫn lên triều như thường lệ, dặn dò tôi cứ ngủ cho ngon rồi thức dậy sau.
Hoán Bích theo tôi quay trở về cung, thấy tôi tư lự chẳng vui, bèn e dè khuyên nhủ: “Tiểu thư đừng thương tâm nữa, Hoàng thượng vẫn còn hết sức coi trọng người mà.”
Khóe môi tôi cong lên, để lộ nụ cười lạnh đầy u ám: “Hoàng thượng thực sự coi trọng ta sao? Nếu quả thực coi trọng thì sao có thể tin lời gièm pha của Tào Cầm Mặc rồi sinh lòng nghi ngờ ta?”
Hoán Bích im lặng không đáp, tôi nói: “Ngươi biết không, hôm qua ta chẳng khác gì vừa lướt qua Quỷ môn quan một chuyến, khó khăn lắm mới giải khai được lòng nghi ngờ của Hoàng thượng, giữ được tính mạng này.”
Hoán Bích kinh hãi, lập tức quỳ xuống, thưa: “Sao tiểu thư lại nói lời cay đắng đến nhường ấy?”
Tôi vươn tay, đỡ nàng ta dậy, buồn bã đáp: “Những lời của ta lúc đó, nếu có chút sai sót, không cẩn thận thì chỉ còn mỗi con đường chết mà thôi. Ngươi cho rằng Hoàng thượng chỉ thuận miệng nhắc lại giây phút êm đềm thuở xưa hay sao? Sai lầm lớn rồi! Y có ý muốn dò xét tìm hiểu xem, ta khi xưa động lòng với Hoàng thượng giả danh Thanh Hà vương hay là Hoàng thượng cửu ngũ chí tôn. Nếu ta đáp rằng đó là Hoàng thượng từng cùng ta trò chuyện, nghe tiêu, vậy thì ta thân là cung tần thiên tử mà lại gần gũi với người đàn ông khác, là tội dâm loạn thập ác bất xá.”
Hoán Bích không nhịn được, ngờ vực hỏi lại: “Nhưng đó là do Hoàng thượng cố ý giấu giếm ngay từ đầu mà?”
“Thế thì sao chứ? Y là Hoàng đế, sẽ không bao giờ sai lầm cả. Chỉ vì ta không biết y là Hoàng đế, vậy thì trong mắt ta, y chỉ là một nam nhân bình thường, mà ta lại động lòng thương yêu y, đó chính là tội chết.”
Hoán Bích há hốc miệng: “Vậy vì sao người lại không thể động lòng với Hoàng thượng khi đã biết rõ thân phận kia chứ?”
“Y là Hoàng đế, ta chỉ có thể kính trọng, có thể khiếp sợ nhưng không thể yêu thương. Bởi y là quân, ta là thần, ranh giới đó vĩnh viễn không thể nào vượt qua được. Nếu ta nói ta động lòng với Hoàng đế sau khi đã biết rõ thân phận của y, vậy thì y sẽ cho rằng ta khuất phục trước thân phận của y chứ không phải chính con người của y. Đối với một người đàn ông, đó là một sự nhục nhã. Hơn nữa, y sẽ cho rằng ta chẳng qua chỉ là nhún mình hầu hạ, nịnh bợ đón chào, hệt như thái độ của các tần phi khác, chẳng có chút chân tình nào. Nói như vậy, ta phải đối mặt với nguy cơ bị thất sủng.”
Tôi vừa nói xong, trán của Hoán Bích đã đẫm mồ hôi lạnh.
Tôi buông tiếng thở dài, nói: “Ngươi phải biết rằng, sủng ái và không sủng ái, sinh và tử chỉ cách nhau có một ranh giới mỏng manh!”
Hoán Bích chẳng biết nói gì thêm, hồi lâu sau mới lên tiếng khuyên nhủ: “Hoàng thượng cũng là đàn ông, khó tránh khỏi ghen tuông. Thanh Hà vương lại là kiểu người ưu tú như vậy, Hoàng thượng hỏi như thế cũng là vì để ý đến tiểu thư thôi!”
“Có lẽ thế!” Tôi ngẩn ngơ, mân mê một đóa ngọc lan trên tay, mật ngọt thơm ngát nhơm nhớp trong lòng bàn tay nhưng những cánh hoa đã yếu ớt, rụng lả tả.
Cận Tịch ở trong cung nhiều năm, từng trải không ít chuyện, tính tình lại trầm tĩnh. Nhân lúc thay áo, rửa mặt buổi tối, không có ai khác kề bên, tôi bèn tỉ mỉ kể lại mọi chuyện xảy ra ở Thủy Lục Nam Huân điện cho nàng ta nghe.
Cận Tịch trầm tư hồi lâu, khẽ thở hắt ra một hơi, thưa: “Tiểu chủ nghi ngờ có người kể lại chuyện riêng giữa tiểu chủ và Hoàng thượng cho Tào Dung hoa sao?”
Tôi gật gật đầu. “Chẳng qua ta chỉ nghi ngờ vậy thôi, chứ chẳng có chứng cứ.”
Cận Tịch hạ giọng: “Những chuyện đó chỉ có những người thân cận nhất với tiểu chủ mới biết, nô tỳ đến hôm nay mới nghe thấy tiểu chủ nhắc đến. Ngày đó, chính mắt nhìn thấy chuyện đó chỉ có một mình Lưu Chu cô nương. Nhưng Lưu Chu cô nương theo hầu tiểu chủ từ nhà…”
Tôi cau mày trầm tư. “Ta biết chứ! Nàng ta theo hầu ta nhiều năm rồi, ta rất tin tưởng, nàng ta tuyệt đối không thể cấu kết với Tào thị để bán rẻ ta được.”
“Vâng!” Cận Tịch ngẫm nghĩ một lát rồi thưa: “Nô tỳ cho rằng, Lưu Chu cô nương tính tình ngay thẳng, không chừng có lúc vô tâm kể lại cho người khác nghe, lời đồn lan truyền đến tai Tào Dung hoa. Dù gì trong cung cũng đông người lắm miệng mà.”
Nghĩ đi nghĩ lại thì chỉ có cách này là hợp lý nhất. Tôi đành nói: “Cũng may Hoàng thượng còn tin tưởng ta, nếu không người nói xói vàng, đúng là một mũi dao vô hình mà!”
Cận Tịch gật đầu thưa: “Đúng thế! Những chuyện khác chẳng có gì quan trọng, chỉ cần trong lòng Hoàng thượng vẫn tin tưởng tiểu chủ là được.”