Huyền Lăng sớm đã không thích cô ả, thấy cô ả làm ồn như vậy, bèn nhốt lại không cho phép ra ngoài, chỉ mời thái y đến chữa trị. Nhưng cô ả là một phi tần đã thất sủng, lại phát điên như vậy, thái y cũng không tận tâm tận sức, mỗi ngày chỉ đến cho có lệ rồi rời đi luôn.
Tôi thường xuyên đứng trong cung của mình nhìn về phía nơi ở của Tần Phương nghi phía đằng xa, hồi tưởng lại cảnh tượng bị làm nhục ng đó, cảm giác bãi nước bọt dính trên má khô dần giữa làn gió lạnh chưa từng giảm bớt chút nào, lại thêm những thảm trạng từng thấy trong lãnh cung, tất cả đều ghi khắc trong đầu tôi, kết hợp với nỗi đau mất con và lòng muốn báo thù, ngưng kết thành một vết thương khắc cốt ghi tâm trong ký ức.
Nếu không có sự chà đạp nhẫn tâm của Tần Phương nghi, nếu không có cảnh ngộ thê thảm của Phương Tần trong lãnh cung, tôi sao có thể phấn chấn trở lại nhanh như vậy được. Xét từ một khía cạnh nào đó, chính bọn họ đã tạo nên tôi của ngày hôm nay.
Thế là tôi bèn dặn dò Cận Tịch chuyển lời đến lãnh cung, bảo đám cung nhân già ở đó đặc biệt chiếu cố cho Phương Tần, đưa nàng ta đến một nơi sạch sẽ một chút, mọi chi phí về ăn mặc đều do cung của tôi cung ứng. Với Phương Tần, tôi không chỉ có cảm giác đồng bệnh tương liên mà còn coi nàng ta như vết xe đổ để mà nhìn vào. Nếu ngày đó, tôi cứ một mực suy sụp, vậy thì tôi sẽ là Phương Tần thứ hai trong chốn hậu cung này, chỉ có thể ở trong lãnh cung chờ chết mà thôi, cũng chẳng được người nào thương hại lấy nửa phần. Đồng thời tôi cũng cho người đối tốt với Tần Phương nghi về vấn đề ăn uống, ngủ nghỉ, chỉ không cho phép chữa khỏi bệnh điên của cô ả.
Cận Tịch rất ngạc nhiên vì sự chiếu cố đặc biệt của tôi với Phương Tần trong lãnh cung. Tôi cầm một quả quất lên ăn, sắc mặt bình tĩnh như nước, nói: “Cứ nghĩ đến nàng ta là ta lại kinh hãi, nếu ngày đó ta không cẩn thận, cứ để mặc mình đắm chìm trong suy sụp, e rằng người sau này sẽ phải ở cùng nàng ta trong lãnh cung chính là ta.”
Cận Tịch thoáng im lặng, lát sau mới hỏi: “Không biết Tần Phương nghi đã đắc tội lớn thế nào với nương nương mà lại sợ đến phát điên như vậy?”
Tôi cười lạnh, nói: “Ả sợ ta học theo Lữ Hậu biến ả thành ‘con người lợn’, nhưng ta cũng không ngờ ả lại sợ đến vậy. Nếu sớm biết có ngày hôm nay, chắc ả rất hối hận vì lần đó đã đối xử với ta như thế.”
Cận Tịch mỉm cười, nói: “Tần Phương nghi bây giờ đã thành ra như vậy rồi, e là có muốn hối hận cũng chẳng được.”
Tôi đang trò chuyện với Cận Tịch, Bội Nhi liền vén rèm đi vào, nói: “Bên ngoài có Lục Chiêu nghi tới, đang nôn nóng cầu kiến nương nương.” Vừa nói lại vừa tò mò lẩm bẩm: “Vị Lục Chiêu nghi này trước giờ chưa từng qua lại với chúng ta, hôm nay đang yên đang lành sao lại tới đây nhỉ, là vì người biểu muội Tần Phương nghi đã phát điên kia sao?”
Tôi ôm chiếc lò sưởi cầm tay, nói: “Đêm khuya gió lạnh, cô ta tự lo cho mình còn chẳng xong, đâu còn tâm sức mà để ý đến biểu muội nữa. Ngươi biết không, mấy ngày qua biểu muội của cô ta phát điên, cô ta chưa từng dám đến thăm lần nào.” Tôi thở dài, nói: “Cái gọi là thói đời nóng lạnh chính là như vậy đấy, việc có liên quan đến bản thân mình thì ngay đến tỷ muội cũng có thể vứt qua một bên.”
Tôi xoay người quay về noãn các nghỉ ngơi, đồng thời nói với Bội Nhi: “Bản cung không rảnh để gặp cô ta, ngươi cứ đi nói với cô ta, cô ta sẽ không bị liên lụy vì biểu muội của mình, nhưng bản cung cũng không muốn gặp cô ta nữa, càng không muốn khi gặp mặt còn phải coi cô ta là bề trên… Cô ta tự khắc hiểu rõ phải làm thế nào.”
Cận Tịch nhìn tôi dặn dò Bội Nhi, lại nhìn Bội Nhi ra ngoài, rồi mới nói: “Lối hành xử của nương nương hình như hơi khác với trước kia rồi!” Nàng ta hơi cúi đầu. “Nếu là trước đây, nương nương sẽ chẳng thèm ứng phó với loại người như Lục Chiêu nghi.”
Phía trước điện, một gốc mai lục ngạc đang nở hoa rực rỡ, những bông hoa như những ngôi sao nhỏ khiến sắc biếc thêm nồng. Giữa trời đông phủ tuyết, gốc cây đó tạo nên một mảng màu xanh, hết sức bắt mắt. Tôi gác chân lên chiếc lồng sưởi nạm vàng, tựa người vào tấm đệm mềm sau lưng, chậm rãi cất tiếng: “Có nhân ắt có quả, trước đây chính vì ta tốt tính quá, chỗ nào cũng nhường bọn họ, do đó khi ta vừa thất thế, bất cứ kẻ nào cũng dám nhảy lên đầu ta. Hôm nay ta giết một dọa trăm, nhắc nhở những con người đó, rằng bản cung không phải loại dễ ức hiếp.”
Cận Tịch dè dặt nói: “Nương nương trước đây quả thực quá nhân từ nhưng nương nương của hôm nay dường như hơi mang phong cách của Hoa Phi nương nương ngày trước.”
Trong cung, thị nữ nhiều không kể xiết nhưng dám nói chuyện với tôi như vậy thì chỉ có một mình Cận Tịch. Tôi cũng không giận, còn giải thích: “Hoa Phi một mực giữ dằn tàn độc, khiến người ta sợ mà tránh xa, đây không phải là việc tốt. Nhưng dùng thủ đoạn đó để đối phó với những kẻ mang dị tâm trong chốn hậu cung thì lại khá ư hữu dụng, Hoa Phi có thể cai quản hậu cung nhiều năm như vậy cũng không phải không có tài cán gì, ta không thể vì căm hận ả mà coi nhẹ tài năng của ả. Bây giờ ta vùng dậy, có một số việc không thể không tàn độc, mà lối hành xử của Hoa Phi, ta cũng nên chọn lấy điểm tinh hoa mà dùng.” Tôi khẽ buông tiếng thở dài. “Ngày trước người ta là dao thớt, ta là cá thịt, còn hôm nay, vị trí ấy cũng nên thay đổi rồi!”
Cận Tịch tới lúc này mới nở nụ cười nhẹ nhõm. “Nương nương tính toán như vậy thì nô tỳ cũng yên tâm rồi, chỉ mong nương nương vạn sự đều thuận lợi, không còn phải chịu khổ nữa.”
Lục Chiêu nghi quả nhiên hành động rất mau lẹ, ngay ngày hôm sau đã dâng tấu lên Hoàng đế và Hoàng hậu, nói rằng mình vào cung đã lâu mà không sinh nở gì, lại ưa thói xa hoa, dùng nhiều vàng ngọc, làm hư hao quốc khố, thẹn không dám ở lại ngôi đứng đầu Cửu tần, xin tự từ bỏ vị trí người đứng đầu một cung, giáng xuống làm thuận nghi đứng chót trong Ngũ nghi tòng tứ phẩm, dọn đến ở cùng với Tần Phương nghi.
Huyền Lăng có lẽ sớm đã quên mất Lục Chiêu nghi là ai, đương nhiên chẳng có dị nghị gì. Hoàng hậu tuy có chút hoài nghi nhưng do Lục Chiêu nghi vô cùng cương quyết nên cũng đành chiều theo ý cô ta.
Tôi nghe tin này xong thì chỉ cười hờ hững. “Cũng coi như cô ta biết điều, ta những tưởng cô ta sẽ chỉ tự xin giáng xuống làm tiệp dư thôi cơ.”
Đương nhiên, tôi vẫn còn nhớ tới tiểu cung nữ Yến Nhi hiền lành, chân chất bên cạnh cô ta. Trong phen sỉ nhục ngày hôm đó, Yến Nhi là người duy nhất dành cho tôi sự thông cảm, dù rằng tôi căn bản không cần đến. Đối với một cung nữ nhỏ bé như Yến Nhi, đi theo Lục Thuận nghi dọn đến nơi ở mới thật không tốt chút nào, mà một chút lòng thương cảm nàng ta thể hiện ra kia cũng đủ khiến tôi cảm kích, vì thế tôi bèn bảo Khương Trung Mẫn sắp xếp cho nàng ta đến làm việc ở chỗ Hân Quý tần. Hân Quý tần tính tình thẳng thắn, xưa nay vẫn luôn đối xử tốt với các cung nhân, như thế, Yến Nhi cũng coi như có được một nơi chốn tốt.
Hiện giờ, bên dưới Hoàng hậu chỉ còn có Kính Phi, Đoan Phi và Mộ Dung Phi. Đoan Phi và Mộ Dung Phi gần như đã lánh đời, chỉ còn Kính Phi vẫn thường đứng ra quản việc. Trong Cửu tần thì chỉ còn lại một mình Lý Tu dung u uất không đắc chí, kế đến chính là tôi và Hân Quý tần. Địa vị của tôi trong cung đã ngày một vững chắc.
Khi tôi đang làm mưa làm gió, đắc chí tột bậc ở chốn hậu cung, nơi tiền triều đã dần không còn yên bình nữa.
Nguyên nhân cũng chỉ vì một chuyện hoàn toàn có thể hóa giải. Ba ngày trước trong buổi triều sớm, Nhữ Nam Vương Huyền Tế không chỉ đến muộn mà còn mặc giáp trụ lên điện. Đây là một việc rất không hợp lễ nghi, triều đường không phải sa trường, hắn cũng không phải bậc đại tướng vừa đánh thắng trận, với thân phận thân vương mà lại đi mặc giáp trụ, còn thong dong đến trễ, chẳng qua chỉ muốn diễu võ dương oai mà thôi. Huyền Lăng còn chưa nói gì, Ngự sử Trương Nhữ Lâm đã đứng ra tố cáo Nhữ Nam Vương tội đại bất kính.
Nhữ Nam Vương là kẻ đứng đầu các võ tướng trong triều, xưa nay vốn chẳng coi đám văn thần nho sinh chỉ biết múa bút mở miệng nói về Khổng Mạnh ra gì, do đó hai phe văn võ trong triều cơ hồ như nước và lửa, hết sức thù địch nhau. Mà ngự sử vốn có trách nhiệm giám sát lễ nghi quốc gia, trên can gián lỗi lầm của quân vương, dưới trách cứ sai sót của quần thần, lấy việc nói thẳng làm tôn chỉ, xưa nay luôn được mọi người trọng vọng.
Nhữ Nam Vương tính tính cuồng ngạo, há lại để một viên quan ngự sử ngũ phẩm nhỏ nhoi vào trong mắt, tuy không phát tác ngay nhưng trên đường về phủ sau khi tan triều đã chặn Trương Nhữ Lâm lại, vung quyền mà đấm khiến Trương Nhữ Lâm ngất lịm ngay tại chỗ.
Chuyện này vừa truyền ra ngoài liền giống như tảng đá lớn rơi xuống mặt hồ, nhất thời các văn nhân sỹ tử đồng loạt dâng thư yêu cầu nghiêm trị Nhữ Nam Vương để chấn hưng pháp kỷ triều đình, còn Nhữ Nam Vương thì kiên quyết không nhận sai, thậm chí còn cáo bệnh không lên triều.
Nhữ Nam Vương quyền lực to lớn, thanh thế ngày một mạnh khiến Huyền Lăng lo lắng vô cùng, mà chuyện này càng làm tăng thêm sự đối lập giữa hai phe quan viên văn võ, một khi xử lý không tốt sẽ khiến triều đình lâm vào cơn nguy khốn. Vì nguyên cớ này, Huyền Lăng đã ở trong ngự thư phòng suốt một ngày không ra.
Việc có liên quan tới Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung, tôi không khỏi có chút lo lắng, liền sai Lưu Chu chuẩn bị cháo tổ yến làm đồ ăn đêm, sau đó cùng tới Nghi Nguyên điện.
Các đại thần dâng tấu đều đã cáo lui, Huyền Lăng một mình ngồi tựa trên chiếc ghế lớn điêu khắc hình rồng cuộn, ngửa đầu nhắm mắt ngưng thần. Tôi một mình lặng lẽ bước vào, lấy bát cháo tổ yến ra. Y nghe thấy tiếng động liền khẽ mở mắt, nhìn tôi liền cười nụ cười mỏi mệt, nói: “Hoàn Hoàn, nàng tới rồi!”
Tôi cười dịu dàng, nói: “Mong là thần thiếp không làm phiền Hoàng thượng.”
Y lắc đầu, nói: “Chuyện mấy ngày hôm nay chắc nàng cũng nghe nói tới rồi chứ?”
Tôi khẽ gật đầu. “Dạ. Chuyện này sớm đã lan truyền khắp nơi, thần thiếp tuy ở hậu cung nhưng cũng biết được phần nào. Có điều, việc triều chính dù rắc rối nhưng Hoàng thượng cũng phải chú ý giữ gìn long thể.” Tôi đưa bát cháo tổ yến tới trước mặt y, cười, nói: “Cháo tổ yến này là do thần thiếp tự mình hầm đấy, Hoàng thượng đã nghị sự với các vị đại nhân suốt một thời gian dài, giờ hãy ăn một chút cho mát họng nhé?”
Y nghe vậy liền mỉm cười, đón lấy bát cháo, múc một thìa lên ăn. “Ngọt quá!”
Tôi hơi cau mày, cũng múc một thìa lên ăn thử, đoạn nghi hoặc nói: “Đâu có ngọt lắm. Hoàng thượng không thích ăn đồ quá ngọt, thần thiếp đâu dám bỏ quá nhiều đường.”
Hàng lông mày dãn hẳn ra, y đưa tay tới, cười nói: “Trẫm không nói cháo tổ yến ngọt, vị ngọt chính là tâm ý của nàng khi đích thân hầm cháo tổ yến cho trẫm.” Y lật bàn tay tôi lại, ngắm nghía một hồi: “Còn nhớ lần đầu tiên hầm cháo tổ yến cho trẫm, nàng còn không cẩn thận làm tay bị bỏng.”
Tôi thầm xúc động, chuyện đã qua từ lâu lắm rồi mà không ngờ y còn nhớ rõ như thế. Cảnh tượng trước mắt bỗng trở nên mờ ảo, ánh nến soi rọi khắp căn phòng, tựa như ánh trăng ngày Mười bảy, Mười tám. Sự ấm áp tỏa ra từ lò sưởi cùng mùi long diên hương ngọt ngào lan tỏa trong không khí, khung cảnh ngợp giữa sự sáng tỏ và tịch mịch. Tâm trạng dần trở nên nặng nề, tôi khẽ nói: “Thần thiếp sao có thể không cẩn thận như thế được, lần đó chẳng qua là vì nôn nóng mà thôi!”
Trong lúc trò chuyện, y đã húp sạch bát cháo tổ yến, nói: “Chuyện Nhữ Nam Vương đánh quan ngự sử nàng đã biết rồi, vậy… nàng cảm thấy trẫm nên xử trí thế nào đây, liệu có cần dựa theo luật pháp mà trách phạt Nhữ Nam Vương một phen?”
Trong lòng tôi trào dâng muôn vàn suy nghĩ, bất giác có chút hỗn loạn, chỉ cần tôi bảo y dựa theo luật pháp mà xử trí Nhữ Nam Vương là được rồi sao, lẽ nào đây là bước đầu tiên trong việc báo thù? Sau thoáng trầm tư, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại, nói: “Hoàng thượng thân là vua một nước, đương nhiên làm việc gì cũng phải dựa theo pháp luật, nhưng… không thể trách phạt Nhữ Nam Vương được.”
Y hơi nheo mắt chăm chú nhìn tôi, khẽ “ồ” một tiếng khá bất ngờ. “Trẫm cứ ngỡ nàng sẽ đề nghị trẫm trách phạt Nhữ Nam Vương cơ đấy, nàng thử nói nguyên do trẫm nghe xem.”
Tôi mỉm cười nhìn y. “Hoàng thượng không trách thần thiếp tùy tiện bàn đến việc triều chính chứ?”
Y nói: “Không sao, trẫm sẽ coi như nghe nàng nói chuyện phiếm, tuyệt đối không trách tội.”
Tôi cố gắng điều chỉnh lại hơi thở có chút dồn dập của mình, đứng bên cạnh y, chậm rãi nói: “Thần thiếp sẽ không vì tâm tư mà đề nghị Hoàng thượng trách phạt Nhữ Nam Vương. Hiện giờ điều quan trọng nhất là xoa dịu lòng người, hóa giải sự mâu thuẫn giữa các đại thần văn võ. Hai hổ giao tranh, ắt có một bên bị thương, mà bất kể bên nào bị thương thì rốt cuộc cũng sẽ làm ảnh hưởng tới gốc rễ của đất nước. Hiện giờ nếu xử phạt Nhữ Nam Vương, ắt sẽ khiến các võ tướng trong triều bất mãn, mà võ tướng… chính là những con người nắm binh quyền trong tay.”
Huyền Lăng đưa tay phải lên chống cằm, lẳng lặng suy nghĩ. Tôi lại nói tiếp: “Hoàng thượng kỳ thực không cần xử phạt Vương gia để dẹp yên chuyện này, nếu làm như thế chẳng qua là được lòng anh rể mà mất lòng chị dâu, rốt cuộc vẫn có chút thiếu công bằng. Các văn thần náo loạn chẳng qua là muốn có một câu trả lời, Hoàng thượng chỉ cần cho bọn họ một câu trả lời là được rồi, tốt nhất là bảo Vương gia đến tận nơi nhận lỗi.”
Huyền Lăng thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, kế đó bèn xua tay cười gượng, nói: “Nàng muốn bắt Nhữ Nam Vương đến tận nơi nhận lỗi ư? Y xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, bảo y làm thế thà giết y đi còn hơn.”
Tôi mím môi cười. “Chưa chắc đã vậy đâu!” Tôi xoay người đi tới sau lưng y, vuốt nhẹ ống tay áo của mình một chút, dịu dàng nói tiếp: “Vương gia đã từng chinh chiến nơi sa trường, vì nước giết địch, có thể coi là một anh hùng. Mà anh hùng thì khó qua cửa ải nào nhất đây?”
Y vỗ tay cười rộ. “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân! Nàng đúng là tinh ranh, không ngờ lại nghĩ ra được chiêu này!”
“Hoàng thượng cũng biết anh hùng khó qua ải mỹ nhân cơ đấy!” Tôi cười, nói: “Thần thiếp nào biết tới việc quốc gia đại sự gì, chẳng qua từng nghe nói về mấy chuyện vặt vãnh trong nhà giữa phụ nữ với nhau. Vương gia sợ vợ như sợ cọp, tất nhiên là vợ bảo gì nghe nấy, nếu để Nhữ Nam Vương phi đi khuyên nhủ thì sẽ chẳng gặp phải khó khăn gì nữa. Thần thiếp từng có duyên gặp mặt Nhữ Nam Vương phi, biết nàng ta không phải loại người ngu muội, không biết lý lẽ.”
Y ngẫm lại thấy cũng có lý nhưng rất nhanh đã thu lại nụ cười, nói: “Vậy ai có thể đi khuyên Nhữ Nam Vương phi được đây?” Tuy y đang hỏi nhưng ánh mắt đã dừng lại trên người tôi.
Y đương nhiên muốn để tôi đi, mà bất kể là ai mở miệng đề nghị thì kết quả cũng như nhau cả, chi bằng tôi nói ra trước còn hơn, làm như vậy, thứ nhất thể hiện rằng tôi hiểu được tâm ý của y, thứ hai chứng tỏ tôi còn có thể phân ưu cho y. Thế là tôi bèn nói: “Nếu Hoàng thượng không chê thần thiếp bất tài, thần thiếp xin được nhận trách nhiệm này.”
Y quả nhiên tươi cười rạng rỡ, dang tay ôm tôi vào lòng, dịu dàng nói: “Trong chốn hậu cung này, chỉ có Hoàn Hoàn nàng là có thể phân ưu giải nạn cho trẫm thôi. Đám đại thần kia nhận bổng lộc của trẫm nhưng làm ồn suốt hồi lâu mà chỉ nói ra được mấy chủ ý đại loại là phạt hay không phạt, đúng là vô dụng quá chừng!”
Tôi cất tiếng, mang theo bảy phần tươi cười, ba phần hờn dỗi: “Thần thiếp chỉ là một nữ nhân nhỏ bé trong chốn hậu cung, sao có chủ ý riêng của mình được, chẳng qua vô ý đoán bừa, may mắn trúng vào tâm ý của Hoàng thượng mà thôi. Những vị đại thần kia vốn chỉ quen với những luân lý trong sách vở, còn thần thiếp lại hiểu lòng Hoàng thượng, cho nên tâm ý của Hoàng thượng, thần thiếp tất nhiên có thể đoán được đôi phần, còn các vị đại thần kia thì chịu thua hết. Thần thiếp nghĩ bụng, Hoàng thượng là người muốn triều đình yên ổn nhất, sao có thể vì văn thần mà trách cứ võ tướng hoặc là dung túng võ tướng mà đè nén văn thần được.”
Huyền Lăng thở dài, than: “Hoàn Hoàn, quả nhiên chỉ có nàng hiểu lòng trẫm.” Rồi y chợt cau mày. “Nhưng sớm muộn gì cũng phải giải quyết Nhữ Nam Vương, nếu không trong triều sẽ toàn là vây cánh của y, chẳng còn chút chính khí nào nữa, giang sơn của trẫm cũng không bền vững được.”
Quả nhiên y cũng có suy nghĩ này. Trong lòng trào dâng một tia hy vọng, tôi khẽ nói: “Hoàng thượng đã có lòng này, thực là cái phúc cho dân chúng và xã tắc. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để trừ bỏ Nhữ Nam Vương.”
Y chăm chú nhìn tôi, trong mắt ánh lên một tia phó thác. “Hoàn Hoàn, trẫm quyết định đợi sau khi việc này kết thúc sẽ đưa huynh trưởng của nàng vào làm quan trong Binh bộ, nắm binh quyền của thị vệ Vũ Lâm quân bên cạnh trẫm.” Trái tim tôi đập thình thịch một chặp. Trao binh quyền của Vũ Lâm quân cho ca ca tôi, vậy tức là có ý làm giảm bớt uy thế của Nhữ Nam Vương rồi. Huyền Lăng nghiêm túc nói: “Chỉ một mình huynh trưởng của nàng thì chưa đủ, những tướng lĩnh có tài mà không đi lại gần gũi Nhữ Nam Vương trẫm đều sẽ đề bạt. Có điều, không thể làm quá sớm mà rút dây động rừng, còn phải vỗ về an ủi, do đó không thể nôn nóng được.”
Quả thế, nếu rút dây động rừng thì tất cả công sức trước đó đều coi như uổng phí. Tôi tập trung suy nghĩ, hồi lâu sau mới nói: “Nhữ Nam Vương và Vương phi đều đã có thân phận cao quý tột bậc nhưng tấm lòng cha mẹ nào cũng vậy, xem ra chỉ có thể sử ra chút công phu với con cái của bọn họ mà thôi.”
Trong mắt lóe lên một tia sáng rực rỡ, Huyền Lăng mừng rỡ, nói: “Không sai, Vương phi của y sinh được một trai một gái, con gái là Khánh Thành Quận chúa, năm nay vừa tròn mười hai tuổi, trẫm có ý phá lệ phong cho làm công chúa; sau đó lại phong cho con trai của Nhữ Nam Vương làm thế tử, được quyền thừa kế nghiệp cha.”
Tôi gật đầu mỉm cười, nói: “Hoàng thượng anh minh, chủ ý này rất ổn. Nhưng thần thiếp nghĩ không nên chỉ phong làm công chúa, còn cần thay đổi phong hiệu, như hai chữ ‘Cung Định’ chẳng hạn, có thể nhắc nhở phụ vương của cô bé phải ‘cung kính an định’. Tất nhiên, Hoàng thượng cũng muốn không phải động can qua mà hóa giải được mối tai họa ngầm giữa hai huynh đệ, nhưng còn phải xem Vương gia có chịu nhận thiên ân hay không. Hơn nữa, còn nên đưa Cung Định Công chúa vào nuôi dưỡng trong cung, để Thái hậu đích thân chăm sóc… Tương lai lỡ như có điều gì bất trắc thì cũng tạm thời uy hiếp được Nhữ Nam Vương.”
Y thoáng trầm tư, đoạn mừng rỡ nói: “Hay lắm, trẫm nghe lời nàng, sẽ cho người đi soạn ý chỉ ngay.” Y nói xong, bất giác lộ vẻ nhẹ nhõm, đưa tay bế thốc tôi lên, mở cửa đi tới căn phòng phía đông, lại ghé sát sau tai tôi, cười nói: “Vừa rồi nàng mới nói anh hùng khó qua ải mỹ nhân…”
Tôi cười khẽ, lại đẩy nhẹ y một cái. “Hoàng thượng cứ trêu thần thiếp, thần thiếp đâu phải mỹ nhân gì cho cam.” Ngoài miệng thì nói như vậy nhưng trong lòng tôi lại suy nghĩ xem nên tìm cớ gì để thoái thác y. Đêm qua vừa mới hoan hảo với y xong, tôi cũng nên có một vài ngày không gần gũi với y, nếu không sẽ rất dễ khiến y sinh cảm giác nhàm chán.
Đúng lúc y sắp bước vào phòng, Lý Trường bỗng mặt mày nôn nóng rảo bước đi theo bên cạnh, khẽ cất tiếng nhắc nhở: “Hoàng thượng, Hoàng thượng, đêm nay người đã chọn An Tiểu viện thị tẩm rồi!” Y thoáng chút do dự. “Mới rồi bên Tiểu viện đã mấy lần cho người sang đây hỏi thăm.”
Tôi thầm cười lạnh, xem ra Lăng Dung cũng nôn nóng rồi đây. Huyền Lăng chỉ “ồ” một tiếng, dường như giật mình nhớ ra, suy nghĩ một chút bèn nói: “Vậy ngươi đi nói với nàng ta, bảo nàng ta đêm nay không cần qua đây nữa, cứ ở trong cung của mình mà nghỉ ngơi sớm một chút.”
Trong khoảnh khắc mà y suy nghĩ đó, tôi đã nhẹ nhàng giãy ra khỏi lòng y, chỉnh lại cây trâm cài tóc đã gần rớt xuống, nói: “An muội muội mới được Hoàng thượng sủng hạnh không lâu, chính là lúc cần được yêu thương thật nhiều, sao có thể để muội ấy uổng công chờ đợi được? Thần thiếp nên cáo lui thì hơn.” Nói rồi liền xoay người định đi.
Huyền Lăng kéo tay áo tôi lại. “Nàng đừng đi vội.” Đoạn y nghiêm túc quay sang dặn dò Lý Trường hãy đi từ chối Lăng Dung. Tôi lật tay lại, nắm lấy tay áo y, cười dịu dàng, nói: “Không biết bây giờ An muội muội đang ở trong cung mong chờ ý chỉ của Hoàng thượng đến thế nào, Hoàng thượng là bậc cửu ngũ chí tôn, nhất ngôn cửu đỉnh, không thể thất hứa được.”
Y thoáng nghĩ ngợi, cuối cùng cười, nói: “Nhưng trẫm muốn cùng nàng…”
Tôi mỉm cười, kiên trì nói: “Chỉ cần Hoàng thượng nghĩ tới thần thiếp là được rồi, thần thiếp sao có thể tranh giành sự sủng ái với An muội muội chứ Y hết cách trước sự kiên trì và thoái thác của tôi, bèn mỉm cười đồng ý, đưa mắt tiễn tôi rời đi.
3
Trời đêm rất lạnh, giữa mùa đông sau tết Nguyên Tiêu, những bông tuyết to như lông ngỗng vẫn rơi lả tả, trong kiệu có đặt chiếc lò sưởi nạm bạc, hết sức ấm áp. Mấy thái giám khiêng kiệu bước đi trên nền tuyết làm phát ra những tiếng “lộp bộp lộp bộp” nhẹ nhàng, chợt nghe gần đó có tiếng người trò chuyện khe khẽ.
Tôi vén rèm lên, chiếc xe loan chở Lăng Dung đi về phía phòng đông của Nghi Nguyên điện vừa khéo đi ngang qua, người đánh xe cầm trong tay một chiếc đèn lồng đỏ lớn, không ngừng đưa qua đưa lại giữa không trung, bánh xe lăn lộc cộc trên đường, chiếc đèn lưu ly treo trước xe liên tục va đập với gió tuyết, làm phát ra những âm thanh tinh tang vui tai, vang xa theo làn gió.
Tôi buông rèm kiệu xuống, ngồi im lặng. Ai thị tẩm không quan trọng, điều quan trọng là tôi có nắm được trái tim của Huyền Lăng hay không.
Cuộc gặp gỡ với Hạ Phi mấy ngày tới mới thực sự là điểm mấu chốt. Lúc này nhất định không được để Nhữ Nam Vương có cơ hội phản kích, nếu không người phải chết không chỉ là tôi và Huyền Lăng mà còn muôn vạn chúng sinh nữa. Không còn tính mạng, nói gì đến việc báo thù và yên thân? Tôi nhất định phải mưu tính cẩn thận.
Hôm vào cung, Nhữ Nam Vương phi Hạ thị tới chỗ Hoàng hậu thỉnh an trước tiên, nhìn thấy tôi mỉm cười ngồi ngay bên dưới Hoàng hậu thì có chút ngạc nhiên, nhưng rất nhanh đã thản nhiên cười, nói: “Nương nương lành hẳn bệnh rồi sao? Thiếp thân chúc mừng nương nương.”
Tôi cười nhã nhặn, đáp: “Hôm Nguyên Tiêu đó nhìn thấy Vương phi theo đoàn Mệnh phụ cung đình vào cung chúc mừng, ta vốn rất muốn trò chuyện với Vương phi vài câu, chỉ đáng tiếc lại đang có việc cần làm, thành ra lỡ mất cơ hội.”
Hạ Phi cười, nói: “Nương nương thân phận tôn quý, thiếp thân sao dám tùy tiện tới làm phiền nương nương.”
Tôi khẽ cười. “Theo lẽ cương thường thì là như vậy nhưng xét về bối phận trong nhà, bản cung còn phải gọi Vương phi một tiếng ‘tam tẩu’ nữa đấy. Huống chi bây giờ đều là người một nhà, chúng ta vốn nên gần gũi nhau mới phải.”
Hạ Phi nói với Hoàng hậu: “Hoàng hậu nương nương hôm nay khí sắc tốt quá!”
Hoàng hậu đưa tay xoa má, thoáng nét tươi cười. “Vương phi đúng là biết nói chuyện, bản cung thì thấy sau khi sinh được Thế tử, tinh thần Vương phi lại càng tốt hơn đấy.”
Hạ Phi có chút bất ngờ. “Thế tử? Hoàng hậu đang đùa thiếp thân sao? Dư Bạc năm nay mới sáu tuổi, sao đã là Thế tử được?”
Hoàng hậu mặt mày tươi tỉnh, nói: “Vậy mới thể hiện được ân sủng của Hoàng thượng chứ! Trong thế hệ con cháu bây giờ, Hoàng thượng thích Bạc Nhi nhất, Bạc Nhi tuy còn nhỏ tuổi nhưng lại thông minh, lanh lợi, do đó Hoàng thượng mới muốn phong nó làm Nhữ Nam vương thế tử thật sớm để tiện bề dạy bảo, ngày sau còn giống như phụ vương của nó, giúp Hoàng thượng an bang định quốc, mở mang cơ nghiệp.” Nói đoạn, nàng ta liền đưa mắt nhìn tôi, cười khẽ.
Người làm cha mẹ đa phần đều hơi thiên vị con út, Hạ Phi cũng không phải ngoại lệ. Nàng ta vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, nét rạng rỡ trên mặt không sao kìm nén được, vội vàng đứng dậy tạ ơn. Hoàng hậu mỉm cười, nói tiếp: “Không chỉ có vậy đâu, ý của Hoàng thượng là việc tốt thành đôi, người còn muốn phá lệ phong Khánh Thành Quận chúa làm công chúa nữa, ngay đến phong hiệu cũng đã nghĩ sẵn rồi, là ‘Cung Định’, sau này Cung Định Công chúa sẽ được Thái hậu đích thân nuôi dưỡng.”
Hạ Phi vốn rất vui mừng nhưng nghe nói phải giao con cho Thái hậu nuôi dưỡng thì sắc mặt biến đổi hẳn, vội vàng nói: “Đa tạ thánh ân của Hoàng thượng, nhưng con gái thiếp thân Vãn Y năm nay mới mười hai tuổi, rất không hiểu chuyện, nếu được phong làm công chúa giao cho Thái hậu nuôi dưỡng, chỉ sợ sẽ quấy nhiễu Thái hậu, mong Hoàng thượng hãy thu hồi lại thánh lệnh thì hơn.”
Sự thoái thác của Hạ Phi vốn đã nằm trong ý liệu, Hoàng hậu đưa mắt nhìn tôi, tôi bèn mỉm cười, khẽ nói: “Hoàng thượng hiện giờ con cái không nhiều, trong cung chỉ có hai vị công chúa là Thục Hòa và Ôn Nghi, đều còn nhỏ tuổi. Khánh Thành Quận chúa của Vương phi có thể vào cung cho Thái hậu nuôi dưỡng là một chuyện mừng, Đại Chu ta từ khi thành lập đến nay, nghe nói chỉ có Thánh tổ khai quốc là từng phong con gái của thân vương làm công chúa, mà đó còn là trong dịp công chúa sắp thành hôn, sắc phong một phần còn là do nể mặt nhà chồng. Người được sắc phong khi còn nhỏ tuổi như Khánh Thành Quận chúa thật đúng là lần đầu tiên đấy!”
Hạ Phi thoáng trầm ngâm, đang định nói gì đó thì Hoàng hậu đã đứng dậy, nói: “Bản cung hơi mệt rồi, Vương phi xin hãy về đi. Thánh chỉ của Hoàng thượng tối nay sẽ tới Vương phủ.”
Hoàng hậu cười tủm tỉm rời đi, tôi cũng cáo từ về cung, nhưng tôi cố ý đi thật chậm, bước đi tha thướt. Chỗ Hoàng hậu hiện đã không thể nói gì thêm được, Hạ Phi ắt sẽ đến xin tôi khuyên Huyền Lăng giúp.
Quả nhiên còn chưa ra khỏi cửa điện, Hạ Phi đã bước tới, nói: “Sắc trời còn sớm, thiếp thân muốn tới cung của nương nương ngồi một lát, không biết nương nương có hoan nghênh không?”
Tôi mỉm cười, nói: “Vương phi thực khách sáo quá, ta còn mong Vương phi không mời mà tự đến ấy chứ, chúng ta cũng đâu còn xa lạ gì.”
Cùng trở về Oánh Tâm điện, Hạ Phi ngó quanh bốn phía một chút rồi gật đầu cười, nói: “Quả nhiên đã khác hẳn rồi, không còn giống với ngày đó nữa.”
Tôi sai người dâng trà lên, tươi cười rạng rỡ nói: “Trà này tên gọi ‘Tuyết Đính Hàm Thúy’, vừa được đưa tới từ một nơi cách đây năm trăm dặm, Vương phi nếm thử xem có vừa miệng không.”
Hạ Phi nhấp một ngụm trà, không hề để lộ nửa phần ưa thích, sắc mặt vẫn bình thản như thường, chỉ nói: “Cũng được. Hiện giờ nương nương đang được ân sủng, tất nhiên mọi thứ đều là tốt nhất.”
Tôi ngồi xuống, đối diện với nàng ta, nhìn thấy thần sắc nàng ta thì trong lòng đã có chủ trương, bèn cười, nói: “Hôm nay Vương phi cũng có việc mừng thành đôi mà.”
Hạ Phi nghe vậy, sắc mặt liền trở nên ảm đạm. “Mẹ con thiếp thân sắp phải cốt nhục rời xa, sao lại nói là việc mừng được? Lệnh vua không thể trái, thiếp thân chỉ mong nương nương có thể đi khuyên Hoàng thượng, thành toàn cho mẹ con thiếp thân.” Nàng ta thấy tôi có vẻ trầm ngâm, bèn nói tiếp: “Nếu thật sự không được, thiếp thân đành xin Vương gia đi nói với Hoàng thượng giúp thôi.”
Tôi vốn biết chuyện này chẳng dễ dàng gì, do đó mới nhờ Hoàng hậu mở miệng giúp, sau đó thì đến lượt tôi dùng lời khuyên nhủ. Chứ nếu như tôi mà truyền ý chỉ của Huyền Lăng, sau đó lại đứng ra khuyên nhủ, Hạ Phi nhất định sẽ chẳng nghe được lời nào. Mà lỡ như Hạ Phi không chịu, Nhữ Nam Vương ắt cũng sẽ không chịu, như thế, sách lược trước tiên vỗ về để chờ ngày tiêu diệt cũng không thể thực hiện tiếp được.
Tôi không trả lời nàng ta việc vừa rồi mà chỉ tay lên cây xà ngang trong cung điện, nói: “Tính cả hôm nay, bản cung và Vương phi cũng mới gặp nhau có ba lần, nhưng trong lòng đã coi Vương phi như người ruột thịt chí thân. Nhớ lúc xưa bản cung sẩy thai, bị mọi người ghẻ lạnh, sống trong cảnh thê lương tiêu điều, chỉ duy có Vương phi là không tị hiềm mà tới thăm bản cung, còn tặng nhân sâm cho bản cung bồi bổ thân thể, việc ấy bản cung vẫn luôn ghi khắc trong lòng, chỉ mong có dịp nào đó có thể báo đáp tình nghĩa của Vương phi.”
Những lời này rất dễ làm người ta xúc động, nàng ta vội gật đầu, nói: “Không ngờ nương nương là quý nhân mà còn nhớ được việc này.”
Tôi nói: “Đây là lẽ đương nhiên, con người ta ân oán rạch ròi, lẽ nào lại quên được chứ. Bây giờ chính là lúc bản cung báo đáp Vương phi.”
Hạ Phi tỏ ra vui mừng, nói: “Nương nương chịu đi cầu xin Hoàng thượng giúp thiếp thân sao?”
Tôi khẽ lắc đầu. “Bản cung cũng chỉ suy nghĩ cho Vương phi thôi, mong Vương phi hãy tuân theo thánh chỉ, để Thái hậu nuôi dưỡng công chúa.”
Hạ Phi hơi cau mày, trong giọng nói đã thp thoáng nét giận. “Lời này là ý làm sao?”
Tôi bình tĩnh nói: “Vương phi đã làm mẹ, làm vợ người ta, tất nhiên lúc nào cũng phải suy nghĩ cho chồng cho con, đặt bọn họ lên trên hết. Vương phi thấy bản cung nói có đúng không?”
Nàng ta gật đầu. “Làm mẹ, làm vợ người ta quả là không dễ dàng gì, huống chi còn là người trong tông thất hoàng gia.”
Tôi ngồi đối diện với nàng ta, chăm chú nhìn nàng ta, nói: “Mấy ngày trước, Vương gia ra tay đánh quan ngự sử, Vương phi có nghe nói chứ? Việc này khiến không ít người căm phẫn đấy. Triều ta xưa nay luôn xem trọng cả văn lẫn võ, lại đặc biệt trọng thị chức ngự sử, bọn họ thậm chí còn có thể trực tiếp cất lời can gián Hoàng thượng. Vương gia làm như vậy quả là không thỏa đáng chút nào.”
Hạ Phi khẽ thở dài một tiếng, chỉ nói: “Tính Vương gia đúng là hơi nóng nảy, thiếp thân cũng đã khuyên mấy lần rồi. Có điều lần này vị ngự sử kia cũng hơi hồ đồ, không nể mặt Vương gia mà cất lời chỉ trích trước đám đông. Hoàng thượng với Vương gia là anh em ruột cơ mà.”
Tôi mỉm cười khuyên nhủ: “Chính vì là anh em ruột nên Hoàng thượng cũng rất muốn bảo vệ Vương gia, nhưng cũng phải xoa dịu lòng căm phẫn của mọi người, bởi dù gì thì Vương gia cũng là người ra tay trước, Hoàng thượng không thể một mực bảo vệ Vương gia được. Huống chi nếu thiên vị quá, Vương gia ắt sẽ bị người ta nói ra nói vào, không có lợi cho thanh danh của Vương gia.”
Thấy nàng ta có chút xao động, tôi vội tranh thủ cất tiếng khuyên: “Vậy nên Hoàng thượng vừa phải giữ gìn thể diện của hoàng gia, vừa phải cho các văn nhân trong thiên hạ một câu trả lời, hy vọng Vương gia có thể đến tận nơi xin lỗi Trương Nhữ Lâm, như thế một là giữ được phong độ cho Vương gia, hai là thể hiện rằng Vương gia không hề xem nhẹ văn nhân thiên hạ, việc này cũng coi như được giải quyết.”
Hạ Phi vội vàng xua tay, nói: “Không được, không được, với tính của Vương gia xưa nay, chỉ có người khác cầu xin ông ấy, làm gì có chuyện ông ấy đi xin lỗi ai bao giờ.”
Tôi nói: “Vương phi thân là người làm vợ, tất nhiên phải suy nghĩ cho Vương gia. Đám văn nhân đó vốn rất ưa múa mồm động bút, một đời thanh danh của Vương gia rất có thể vì bọn họ mà phải lưu tiếng xấu ngàn năm. Hơn nữa, Liêm Pha đeo roi nhận lỗi với Lạn Tương Như là một giai thoại đến nay vẫn còn lưu truyền, Vương phi thường xem kịch chắc chắn có biết.” Tôi thấy nàng ta khá động lòng, lại nói thêm: “Nam nhân vốn hay lỗ mãng, khi làm việc thường chẳng để ý tới trước sau, do đó, đám nữ nhân chúng ta mới cần đứng phía sau để nhắc nhở, như vậy bọn họ cũng có thể yên tâm hơn nhiều. Nếu Vương phi suy nghĩ cho Vương gia, nhất định phải cố gắng khuyên nhủ Vương gia mới được.”
Hà Phi chậm rãi gật đầu, mím môi nói: “Nhưng cũng không thể để Vương gia phải chịu ấm ức được, Vương gia xưa nay chẳng chịu phục ai đâu.”
Tôi tự tay đưa hai miếng bánh điểm tâm cho Hạ Phi, ân cần nói: “Đúng thế! Hoàng thượng cũng có suy nghĩ này, Vương gia là thần tử có công lao to lớn, lại là anh ruột của ngài, quyết không thể chịu ấm ức được. Do đó, ngài mới quyết định phong Bạc Nhi làm thế tử, phong Vãn Y làm Cung Định Công chúa, như thế Vương gia cũng được nở mày nở mặt.”
“Nhưng nếu phong làm công chúa rồi lại phải ở trong cung, thiếp thân là người làm mẹ…”
Tôi vội vàng vỗ về: “Hai vị Công chúa Thục Hòa và Ôn Nghi đều còn nhỏ, không thể bầu bạn bên Thái hậu được, khi Thái hậu bị bệnh rất thích có đứa bé nào hiểu chuyện bầu bạn kề bên. Hoàng hậu và bản cung tuy cũng muốn ngày ngày ở bên Thái hậu nhưng dù sao cũng chẳng còn đáng yêu mấy nữa. Hoàng thượng thì bận rộn việc nước, không thể lúc nào cũng tới thăm Thái hậu, Công chúa nếu có thể thay Hoàng thượng và Hoàng hậu hầu hạ Thái hậu, ấy thật là một việc hiếu tột cùng, rất mát mặt Vương gia.” Tôi lại bổ sung thêm: “Hoàng thượng tuy rằng có ý bảo vệ Vương gia nhưng dù sao Vương gia cũng ra tay đánh người trước, làm Trương Nhữ Lâm đến giờ vẫn phải nằm bẹp trên giường, do đó, nói gì thì nói Hoàng thượng cũng có chút tức giận. Hơn nữa, Vương gia tính tình thẳng thắn, khó tránh khỏi bị người ta oán trách gièm pha, nếu có công chúa thường xuyên ở trước mặt Hoàng thượng khuyên nhủ vài câu, há lại chẳng tốt hơn sao? Bản cung cũng sẽ nói với Hoàng thượng, để Vương phi có thể vào cung bất cứ lúc nào, như thế Vương phi hễ nhớ Công chúa là có thể tới gặp được ngay, Vương phi thấy thế nào?”
Sau một hồi khuyên nhủ, Hạ Phi rốt cuộc cũng đồng ý đi khuyên Nhữ Nam Vương, cũng chịu để cho con gái vào cung.
Ba ngày sau, Nhữ Nam Vương đích thân tới tận nơi xin lỗi Trương Nhữ Lâm, tuy chỉ là làm qua loa cho xong chuyện nhưng sự việc rốt cuộc cũng lắng xuống. Còn Khánh Thành Quận chúa cũng đã được định ngày để sắc phong làm công chúa, sau đó sẽ vào cung hầu hạ Thái hậu.
Đêm ấy, Huyền Lăng ở chỗ tôi, khi nhắc đến việc này thì tỏ ra vô cùng hào hứng, nói: “Trẫm vốn cũng đổ mồ hôi lạnh thay cho nàng đấy, chỉ lo nàng ta không chịu, như thế, một phen tâm tư này coi như uổng phí. Không ngờ mọi việc lại thuận lợi như vậy, Hoàn Hoàn, nàng đã giúp được trẫm một việc lớn rồi!”
Tôi cười, đáp: “Hoàng thượng không cần khen thần thiếp đâu, phân ưu cho Hoàng thượng vốn là việc nên làm mà. Huống chi việc trong triều thần thiếp không hiểu nên không giúp gì được, chỉ có thể góp chút sức mọn vào mấy chuyện vặt vãnh giữa phụ nữ với nhau thôi.”
Tôi tươi cười rạng rỡ, rót cho y một chén trà Tuyết Đính Hàm Thúy, hương trà thơm dịu lan tỏa bốn phía. Y nhấp một ngụm, tấm tắc khen: “Quả nhiên là trà ngon.” Rồi y nắm tay tôi, cười nói: “Trẫm biết nàng thích thứ trà này nên mới đặc biệt chọn loại ngon nhất cho nàng, nàng vừa ý chứ?”
Tôi mỉm cười, ngồi lên đùi y, nhìn chén trà xanh biếc như phỉ thúy, khẽ nói: “Đương nhiên thần thiếp rất thích. Hôm nay Nhữ Nam Vương phi đến đây, thần thiếp cũng pha loại trà này khoản đãi, tiếc rằng Vương phi có vẻ không thích lắm, e là không hợp khẩu vị. Thần thiếp cứ ngỡ việc sẽ chẳng thành, may mà Vương phi không để bụng, nếu không thần thiếp thực khó mà chối bỏ trách nhiệm.”
Huyền Lăng vốn đang mỉm cười lắng nghe, sau khi nghe xong, thần sắc lại trở nên ảm đạm.
Bên ngoài có cống phẩm gì dâng lên, chỉ cần trong cung có, Nhữ Nam vương phủ ắt sẽ có, thậm chí còn tốt hơn. Điều này Huyền Lăng không phải là không biết.
Sự chán ghét và kiêng kỵ của y, vì thế lại tăng lên một phần.