Không Lối Thoát Chương 1


Chương 1
KHU VƯỜN

Tìm kiếm vận may

Ngày xưa, rất lâu trước khi bạn ra đời, gia đình Piper đã sống ở đảo Cape Breton. Người cha, James Piper, cố gắng cả đời để tránh xa những mỏ dầu vì mẹ ông đã từng lo sợ rằng con mình lớn lên sẽ làm việc tại các hầm mỏ. Bà dạy con trai mình đọc các tác phẩm cổ điển, chơi piano và hy vọng vào những thứ tốt đẹp thay vì dạy tất cả mọi thứ và đó cũng chính là những gì James mong đợi ở các con của mình.

Mẹ James xuất thân từ một gia đình đóng tàu khá giả ở Wreck Cove. Cha James là một thợ đóng giày nghèo xơ xác đến từ Port Hood và đem lòng yêu mẹ James vào một lần đo chân cho bà. Ông đã hứa với cha của bà rằng sẽ không đưa bà đi đâu quá xa nhà, nhưng ông vẫn cưới và đưa bà đến Ai Cập, nơi James ra đời. Họ ở quận Inverness, một nơi cô lập rất xa phía bên kia đảo, trong khi James thì chẳng bao giờ có anh chị để chơi chung. Cha James đã bán cái khuôn đóng giày bằng sắt của ông để mua một chiếc chảo thiếc, nhưng từ đó về sau,


và kể cả trước đó, không ai nghe nói đến cuộc đổ xô đi tìm vàng ở Cape Breton.

James và mẹ thường nói tiếng Xen-tơ với nhau, và điều này đôi khi làm cha James nổi giận vì ông chỉ nói tiếng Anh. Xen-tơ là tiếng mẹ đẻ của James. Người Anh luôn tẻ nhạt và tàn nhẫn, như ánh nắng mặt trời sau một đêm dài đánh cá, thế nhưng mẹ James lại khẳng định rằng con trai mình tài giỏi như một vị hoàng tử trẻ bởi họ xuất thân từ Hoàng gia Anh và James cần phải có con đường riêng của mình.

 

Một buổi sáng ngay trước sinh nhật 15 tuổi, James thức dậy và nhận ra rằng cậu có thể đủ sức đánh trả lại cha mình. Thế nhưng khi đi xuống cầu thang James mới phát hiện ra cha cậu đã bỏ đi và cây đàn piano của mẹ cậu đã bị tháo rời ra một cách lặng lẽ trong đêm. James đã dành 6 tháng ròng để ráp nó lại và nhờ đó mà cậu trở thành một người lên dây đàn piano. Mười lăm tuổi, tất cả những gì James mong muốn là được một lần quật lại cái dây lưng vào cha mình. Mười lăm tuổi rưỡi, tất cả những gì James muốn là được nghe mẹ đàn một lần nữa, nhưng bà đã qua đời trước khi cậu hoàn tất công việc. James lấy cái chăn carô mà mẹ cậu đã dệt, những cuốn sách hay bà đã dạy cậu đọc và nhét chúng vào cái túi giắt trên yên con ngựa già thường dùng khi đi hầm mỏ. Cậu quay trở vào nhà, ngồi xuống bên cây đàn và say sưa chơi bản Sonat Ánh trăng. Sau 4 nhịp, cậu đứng dậy chỉnh lại nốt đô thăng rồi lại ngồi xuống đung đưa theo bản Bài ca con tàu xứ Vơ-ni-đơ. Sau 5 nhịp, cảm thấy đã thỏa mãn, James lấy cái lọ may mắn trong rổ đựng đồ may vá của mẹ, hạ cây đàn xuống và châm lửa đốt. Cậu trèo lên con ngựa mù và cưỡi nó đi khỏi Ai Cập.

Những người họ hàng trong gia đình Wreck Cove ngỏ ý cho James làm việc đánh bóng tàu, nhưng cậu vẫn mong những điều gì đó tốt hơn. Cậu sẽ cưỡi ngựa tới Sydney, nơi mà cậu biết rằng ở đó có rất nhiều đàn piano.

Sydney là thành phố duy nhất trên đảo Cape Breton, nó nằm rất xa về phía Nam, con đường dọc theo bờ biển Đại Tây Dương dẫn đến đó vẫn hay biến mất bởi phần lớn nó được tạo thành bởi các vịnh nhỏ và góp phần kéo chuyến đi của James thêm dài ngày.

Có rất ít người trên đường đi, nhưng những người James gặp đều sẵn sàng dành một bữa ăn cho cậu bé gọn gàng sạch sẽ , ngồi thẳng thớm và không hỏi xin điều gì, cùng câu hỏi "Cậu từ đâu đến vậy cậu bé, cha của cậu là ai?". Hầu hết những người nói tiếng Xen-tơ đều thích mẹ cậu, thế nhưng James vẫn luôn từ chối một chiếc giường, thậm chí là một chỗ trong đống rơm với dự định cháy bỏng rằng mái nhà tiếp theo có thể che chắn giấc ngủ của cậu sẽ là ngôi nhà của chính mình. Rêu phong là những lời an ủi của đá, những cây tùng không những không bám chặt vào bãi đất thấp mà thay vào đó còn dang rộng những tán lá cây ra gấp mười lần để che chở cho mặt đất mỏng manh và đáng chán dưới chân mình. Và thế là James ngủ ngoài trời nhưng không cô độc, cậu còn nhiều thứ để nghĩ đến.

Khi đi dọc theo bãi biển ở một đoạn đường dễ đi, James phát hiện ra rằng không có thứ gì hợp với những suy nghĩ trong sáng hơn là một cảnh biển đẹp. Nó giúp đầu óc cậu thông thoáng, làm thần kinh cậu thư giãn và tẩy rửa tâm hồn cậu. James đã quyết định sẽ luôn sống ở nơi có thể nhìn thấy biển.

Trước đây James chưa bao giờ đến thành phố, nơi những tảng đá lạnh tỏa mùi của biển nhường chỗ cho than đá đốt nóng và màn sương mù u ám kẻ những sọc màu cam bao quanh cậu. James nhìn xa xăm lên trên và thấy những đám mây sáng rực cuồn cuộn tạo thành những đụn sắt thép trên bầu trời. Chúng điểm màu hổ phách lên bầu trời đang chìm ngập dần trong từng mảng màu nghệ, cứ thế to phồng dần lên và biến mất vào những bộ quần áo bằng khói tuyệt đẹp bay đến bên thị trấn mang tên Whitney Pier.

Tại đây những căn nhà làm từ các mảnh ván ghép nhiều màu sắc chen chúc nhau giữa các tiệm rèn và những lò nấu của các nhà máy xay vĩ đại, cũng tại đây James đã một lần bị hoảng sợ vì cậu chưa từng tận mắt thấy một người châu Phi nào trừ những gì cậu biết trong sách vở. Những cánh buồm mới tung bay trên dây phơi quần áo, James hướng ngựa đi vào con đường trải nhựa, băng qua cây cầu mà từ đó cậu có thể nhìn lại những tòa nhà bằng gạch nung trải dài cả dặm dọc theo bến tàu và ngắm nhìn sự sạch sẽ của thứ thép sinh ra từ muội lò.

James thấy hàng đống dấu vết, mùi nhựa đường và một cái hồ xấu xí bên phía tay phải cậu và trên con đường Pleasant, một đám trẻ chân trần đang đá cái vỏ lon gỉ sét. James đi theo tiếng kêu của những con mòng biển và đến vùng Esplanade nơi các bến tàu của cảng Sydney trải rộng cùng những con tàu cao ngất đến từ khắp mọi nơi. Lớp vỏ sắt của thân tàu phủ đầy rong biển và bị ăn mòn bởi muối, một số còn có những cái tên không thể đọc nổi được sơn theo kiểu chữ bay bổng trên nó. Một người đàn ông muốn cậu làm việc bốc dỡ nhưng James đã từ chối "Không ạ, cám ơn ông." Những tay vịn dọc con đường lát vỉa hè phản chiếu hình ảnh các dây cáp đong đưa trên đầu và dẫn cậu vào trung tâm thành phố, chiếc tàu điện chở hàng lóe sáng và phát ra những âm thanh vang rền ngay sau lưng cậu, mặt trời đã xuất hiện. Đường Charlotte: mặt tiền những ngôi nhà ba tầng dát bằng gỗ hảo hạng vươn cao cả hai bên đường, những dòng chữ hoa mĩ được dùng cho mọi thứ, những ô cửa kính thu hút cái nhìn thèm muốn của người khác, tại đây không có thứ hàng làm sẵn nào là không có: McVey, McCurdy, Ross, Rhodes and Curry, Moore, McKenzie, MacLeod, Mahmoud, MacEchan, Vitelli, Boutillier, O’Leary, MacGilvary, Ferguson, Jacobson, Smith, Mac-Donald, Mcdonald, Macdonell. James chưa bao giờ thấy nhiều người như vậy, họ ăn mặc đẹp hơn cả ngày chủ nhật, tất cả đều có nơi nào đó để đi, cậu đã nhìn thấy kem và cuối cùng là phía trên đồi, nơi những người giàu có sinh sống.

Con ngựa gục dưới chân James và gặm vào rìa bãi cỏ xinh đẹp của nhà ai đó trong lúc James đang đi đến đoạn cuối cho những ý tưởng du ngoạn của mình. Cậu sẽ có đủ tiền để mua một căn nhà tuyệt đẹp, mua những thứ làm sẵn, cưới một người vợ có đôi tay mềm mại, có một gia đình và cùng nhau làm cho ngôi nhà luôn ngập tràn những giai điệu đẹp đẽ của âm nhạc và sự trầm lặng của những
cuốn sách.

James đã đúng, rằng ở Sydney có rất nhiều đàn piano.

 

Con mắt trái

Lần đầu tiên James thấy Materia là vào đêm giao thừa năm 1898 tại nhà bố cô, lúc James 18 tuổi. Cậu được gọi đến chỉnh âm cho cây đàn piano lớn của nhà Mahmoud để chuẩn bị cho buổi tiệc tối. Không phải James mới đến đây lần đầu, cậu đã chăm sóc cho cây đàn Steinway của nhà này cả năm qua, nhưng vẫn không biết ai là người thường xuyên chơi đàn và chơi nhiệt tình đến mức cây đàn cần phải được chăm sóc đều đặn.

Cây đàn là trung tâm của đại sảnh, nơi chứa đầy những chiếc ghế sô pha tròn, ghế thêu chỉ mạ vàng, thảm hoa sặc sỡ và những chiếc bàn mặt cẩm thạch trang nhã. Một căn phòng có thể làm cho các lễ hội kéo dài mãi mãi, kể cả với những người ngoại đạo như James, với những cái gương mạ vàng, rèm cửa tua rua và những chiếc ghế nệm dài quyến rũ. Những đĩa kẹo và đậu phộng đầy ắp, những bức tượng nhỏ của quý tộc Anh được trưng bày khắp bốn phía. Trên tường treo những bức tranh sơn dầu, một trong số đó tự hào được đặt trên bệ lò sưởi, đó là bức tranh vẽ một cây tùng đơn độc trên ngọn núi.

James được một người phụ nữ da màu đậm người cho phép vào bếp, lúc đầu cậu tưởng đó là người hầu, nhưng thực ra đó là bà Mahmoud. Bà luôn cho cậu ăn trước khi ra về, bà nói rất ít tiếng Anh nhưng cười rất nhiều và luôn nói "Ăn đi!". Lúc đầu cậu cứ sợ bà cho cậu ăn thứ gì đó có độc hoặc tồi tệ như thịt sống hoặc một con mắt chẳng hạn, nhưng không, đó là thịt nướng thơm phức kẹp bánh mì, một đĩa rau xà lách trộn ngon lành với ngũ cốc mềm, mùi tây và cà chua, cùng một món cậu chưa được nếm bao giờ: chanh. Những món kẹo lạ và ngon miệng, các món ngâm, các món ăn được gói kĩ lưỡng, và cả quế nữa.

Một ngày nọ, cậu đến và thấy bà Mahmoud đang nói chuyện bằng tiếng Xen-tơ với một người đàn ông bán hàng rong, James vừa ngạc nhiên vừa vui mừng khi thấy một người nói cùng ngôn ngữ mẹ đẻ với mình vì cậu quen rất ít người ở Sydney và hình như những người nói tiếng Xen-tơ đều đã rời khỏi đất nước này. Họ ngồi ở bàn bếp, bà Mahmoud kể cho cậu nghe về những ngày đầu bà mới đến mảnh đất này, khi mà vợ chồng bà phải đi bộ khắp cả hòn đảo để bán thực phẩm khô đựng trong hai cái giỏ vắt trên lưng con lừa. Đó là cách bà học được tiếng Xen-tơ mà không phải tiếng Anh. Ông bà Mahmoud có rất nhiều bạn, vì hầu hết những người vùng quê rất thích thăm viếng nhau, do đó chuyện buôn bán trở thành một lí do tốt để mở rộng quan hệ. Thường thì nhà Mahmoud sẽ chuyển các thông điệp đi khắp nơi trong quận, từ gia đình này đến gia đình khác, nhưng chỉ toàn là tin tốt thôi, bà Mahmoud khẳng định vậy. Cũng như khi bà đọc trong chiếc ly của người khác, "Tôi chỉ thấy những điều tốt đẹp". Vì vậy mà khi bà chăm chú nhìn vào những cái xác trà ở đáy ly của James thì cậu không hề lo sợ hay nghi ngờ mà chỉ thấy mình ngập trong một sự tin tưởng mơ hồ và không lí do, đúng như những gì người ta gọi là niềm tin, khi bà nói "Ta thấy một ngôi nhà lớn. Một gia đình. Có rất nhiều tình yêu ở đây. Ta nghe thấy tiếng nhạc... Một cô gái xinh đẹp. Ta nghe thấy tiếng cười... Nước"

Khi nhà Mahmoud để dành đủ tiền, họ mở một cửa hàng và làm ăn rất phát đạt. Ông Mahmoud mua cho vợ mình ngôi nhà lộng lẫy này và bảo bà thôi không phải làm việc nữa để hưởng thụ cuộc sống gia đình. Thế nhưng James vẫn không thấy ở họ dấu hiệu nào của một gia đình, các con bà đều đi học ở trường, những cậu con trai lớn thì phụ giúp cha ở cửa hàng. Bà Mahmoud rất nhớ những người bạn Xen-tơ ở nước bà và rất mong có cháu. Bà không bao giờ nói về quê hương của mình.

Vào ngày cuối cùng của năm, bà Mahmoud đón James ở cửa với một lời chúc mừng năm mới nhưng không đưa cậu vào đại sảnh mà vẫn ở trong bếp làm việc chung với cô gái Ailen làm thuê và đang học rất nhiều việc. Cậu tự đi đến đó một mình, cảm thấy khá dễ chịu trong ngôi nhà này, cậu cởi áo khoác ngoài và bắt đầu làm việc.

Cậu tháo vài phím đàn và đang lom khom dưới cái nắp của cây piano "sún răng" nên không nhìn thấy Materia khi cô bước vào dưới mái vòm. Nhưng cô đã thấy cậu, cô đã lén lút quan sát cậu từ phòng ngủ của mình trên gác khi cậu đến gõ cửa bếp ở phía dưới, một cậu trai tóc vàng chải chuốt cẩn thận, vai vác theo túi đồ nghề. Cô đã lén nhìn cậu qua chấn song gỗ khắc hình những chùm nho khi cậu bước vào đại sảnh và treo áo khoác trên chiếc tủ dưới cầu thang, mắt cậu thật là xanh, tóc cậu thật là đẹp. Đàng hoàng và gọn gàng: cổ áo, cà vạt, khuy măng sét. Cứ như một bức tượng bằng sứ. Cứ tưởng tượng được chạm vào tóc cậu, tưởng tượng cảnh cậu đỏ mặt. Cô nhìn cậu băng qua lối đi lớn và mất hút dưới khung cửa mái vòm của đại sảnh và đi theo.

Cô ngừng lại ở khung cửa, nhón chân xem xét cậu trong một giây lát, nghĩ đến việc kéo dây đeo quần của cậu và tự mỉm cười, cô rón rén đến bên cây piano và bấm vào nốt Đô. Cậu giật nảy mình hét lên một tiếng, tay ôm lấy một bên mắt, mắt còn lại nhìn chằm chằm vào thủ phạm. Ngay lúc đó Materia chợt lo sợ rằng cô đã làm hơi quá, cô cắn môi, chắc chắn là cậu đau lắm, chắc chắn là cậu sẽ nổi điên lên.

Đôi mắt sâu thẳm nhất mà cậu từng thấy, ướt át và sáng lấp lánh. Những lọn tóc xoăn đen nhánh chìa ra từ hai bím tóc dài. Làn da mang màu bãi biển mùa hè ngập trong thủy triều. Mảnh khảnh trong chiếc áo khoác trẻ con kiểu hải quân Holy Angels màu xanh lá. Mắt phải của cậu vẫn đang chảy nước mắt trong khi niềm vui dâng lên trong mắt trái. Đôi môi mấp máy, cậu muốn nói "Tôi biết em" nhưng không có một sự kiện nào trong đời cậu minh chứng cho điều này nên cậu chỉ đứng yên, say sưa ngắm nhìn và không lộ chút ngạc nhiên nào.

Cô mỉm cười và nói "Tôi sẽ cưới một nha sĩ". Cô có một giọng nói mà cho tới khi lớn lên vẫn không bỏ được, kiểu nói làm cho các phụ âm nhẹ bớt đi, âm "r" nhẹ và hơi chảy dài, một xu hướng nuốt chữ không phải bằng môi mà ngay từ trong cổ họng. Những gì cô làm với tiếng Anh là một thứ âm nhạc thuần khiết.

"Tôi không phải là nha sĩ", cậu nói, tai bắt đầu đỏ dần lên.

Cô lại cười và nhìn xuống những cái "răng" của cây đàn piano đang rơi vãi dưới chân cậu.

Lúc đó cô mười hai tuổi, chuẩn bị bước sang tuổi mười ba.

Nếu cô bấm nốt Mi thì mọi việc đã không tiến xa như vậy, nhưng cô đã bấm nốt Đô và cả hai không ai có lí do để nghĩ đến điều gì đó bất hạnh. Họ sắp xếp để gặp nhau. Cậu muốn hỏi xin phép mẹ cô nhưng cô đã nói "Đừng lo!". Do đó cậu đợi cô, run rẩy trên những bậc tam cấp của trường Lyceum cho tới khi thấy cô bước ra khỏi cánh cửa lớn của trường Holy Angels phía bên kia đường. Những cô bé khác tràn xuống các bậc thang, cười rúc rích thành từng nhóm hoặc từng cặp, nhưng cô chỉ có một mình. Khi nhìn thấy bóng dáng cậu, cô bắt đầu chạy. Cô lao vào vòng tay của cậu và cậu xoay vòng cô như một đứa trẻ, họ cười lớn và ôm lấy nhau. Cậu nghĩ rằng trái tim của cậu sẽ giết chết chính mình, cậu không có chút khái niệm nào về khả năng của nó. Đôi môi của cậu tô hồng gò má cô, tóc cô tỏa ra một mùi hương lạ và ngọt ngào, một sự quyến rũ chết người đối với cậu. Làn sương muối kéo đến từ phía cảng Sydney đóng thành những sợi pha lê long lanh trên môi và lông mi cậu, cậu như chàng Alađin giữa một đống kim cương.

Cô nói "Em có 5 xu, còn quý ông thì sao nào?"

"Anh có bảy mươi tám đô la và bốn xu trong ngân hàng, một đô la trong túi, nhưng mà một ngày nào đó anh sẽ giàu có."

"Vậy đưa một đô la đó cho em, quý ông giàu có à."

Cậu làm theo và cô dắt cậu đến tiệm chụp hình Wheeler ở đường Charlotte, họ chụp một tấm chung với nhau trước bức tranh vẽ hình mái vòm La Mã được viền khung sáp hình lá dương xỉ. Trước khi cậu biết điều gì đó về xuất thân của cô, cậu có cảm giác như tấm hình đã làm cho hai người hóa thành một.

Họ đi tiếp đến tiệm bánh Crown, cùng ăn một đĩa kem Neapolitan rồi viết chữ cái tên hai người lên cửa sổ và ngồi ngắm chúng tan vào nhau. Cậu nói "Anh yêu em, Materia."

Cô cười lớn và nói "Nói lại đi."

"Anh yêu em."

"Không, tên em kìa."

"Materia."

Cô lại cười lớn. Cậu hỏi "Anh nói đúng chứ?"

"Vâng, dễ thương lắm, cái cách anh gọi tên em thật là dễ thương."

"Materia."

Cô lại cười và nói "James."

"Nói lại đi."

"James."

Ngay lúc cô nói tên cậu ra bằng cái giọng rù rì nhẹ nhàng đặc trưng thì cậu bỗng cảm thấy những ham muốn của mình lần đầu tiên trở nên quá trần tục, cậu đỏ mặt và điều này có thể khẳng định với bất kì ai về những cảm giác đó. Cô chạm vào tóc cậu, cậu hỏi "Giờ em muốn về nhà không?"

"Không, em muốn đi với anh."

Họ đi đến cuối con đường Old Pier cách xa Esplanade và ngắm nhìn những con tàu từ khắp mọi nơi. Cậu chỉ tay "Đó là con tàu Red Cross Line, một ngày nào đó anh sẽ lên nó, chào tạm biệt và ra đi."

"Đi đâu?"

"Thành phố New York."

"Em đi với anh được không?"

"Dĩ nhiên rồi."

Thực ra cô đã hứa hôn với một nha sĩ, lời hứa được thực hiện khi cô mới bốn tuổi. Người nha sĩ đó hiện vẫn đang ở Old Country nhưng ông ta sẽ tới để cưới cô khi cô mười sáu tuổi.

"Thật là dã man!", James thốt lên.

" Lạc hậu, đúng không?"

"Em có thích hắn không?"

"Em chưa gặp ông ta bao giờ."

"Thật là...cổ hủ, tàn nhẫn!"

"Đó là truyền thống mà."

"Hắn ta trông như thế nào?"

"Già rồi."

"Ôi Chúa ơi!"

Họ nắm tay nhau đi trở về đường Old Pier, bên phải, mặt trời đang hờ hững lặn dần xuống, còn bên trái, những cột khói từ nhà máy sắt thép Dominion phun trào vào buổi làm việc của một ngày mới. Những hạt tuyết màu cam nhẹ bắt đầu rơi.

Sydney rất nhỏ, lúc đó có vài người đã nhìn thấy họ đi với nhau và lời đồn truyền tới tai bà Mahmoud, nhưng bà giấu không cho ông Mahmoud biết. Materia bị cấm tuyệt đối không được giao du với người chỉnh đàn piano. Cô bị kiểm tra kĩ lưỡng. "Nó có đụng vào con không? Con có chắc không?" Các nữ tu luôn cảnh giác cao độ, Materia không bao giờ được ở một mình và vào buổi tối thì mẹ cô sẽ khóa cửa phòng ngủ của cô lại.

Lúc họ cập bến cảnh Sydney, Materia chỉ mới sáu tuổi và bố cô đã nói "Nhìn kìa. Đây là Thế giới mới. Ở đây mọi thứ đều có thể." Cô còn quá nhỏ để có thể nhận biết được rằng ông đang nói với các anh của cô, do đó, vào đêm sinh nhật thứ mười ba, cô trèo khỏi cửa sổ phòng ngủ và rời khỏi Old Country mãi mãi.

"Em gái nhỏ từ vùng Lebanon, hãy đến với anh". Ngày 17 tháng 2 năm 1899, một đêm không trăng. "Anh là hoa hồngcủa Sharon, là những bông hoa lily của thung lũng". Họ bắt đầu lên đường trước khi bình minh lên trên một con ngựa thuê và cưới nhau vào ngày hôm đó tại Irish Cove, buổi lễ được tiến hành theo kiểu Thiên chúa giáo và được dẫn dắt bởi một vị giáo sĩ vốn là cựu hải quân. Ông không hề có câu hỏi nào, đổi lại ông được một bình rượu. Cô dâu của anh, đôi môi em như một tổ ong, và mật ngọt, và sữa đều ở ngay trong miệng em. Họ lội trong tuyết và đi đến một túp lều thợ săn ở bên hồ Great Bras d’Or, trước đây nó vẫn được những người giàu có sử dụng trong mùa thu. Em đã cướp đi trái tim của anh, cô gái nhỏ, cô dâu của anh. Tất cả đều đã bị bít kín nhưng cậu đã sửa sang lại. Em đã cướp đi trái tim của anh chỉ bằng một con mắt. Cậu đã cạy khung cửa sổ ra, may lại những chiếc màn che. Ở bên trong, cậu bảo cô nhắm mắt cho tới khi cậu quét xong, thắp một ngọn nến và sắp đặt bàn ăn. Cậu đã nghĩ đến mọi thứ: rượu, ga trải giường bằng vải lanh mới, và chiếc khăn ca rô từ cái rương đựng đồ của người mẹ quá cố, mùi hương trên quần áo em như mùi hương của vùng Lebanon. Cậu hát một bài hát ru bằng tiếng Xen-tơ và bật khóc, nếu như có thể, cậu sẽ nói yêu cô nhiều hơn bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình, khu vườn bị giam hãm trong cô gái nhỏ của anh, mùa xuân tắt lịm, suối nước ngừng phun. Cậu hôn cô thật dịu dàng, không muốn làm cô sợ, cậu đã đặt mua qua đường bưu điện quyển "Những điều các ông chồng cần biết" nhưng lại quyết định không chạm vào cô theo những cách đó, thà cậu chết còn hơn làm cô sợ hay bị đau. Cô trườn người lên và chạm vào phía sau đầu cậu, thì thầm "Habibi, BeHebak". Đôi tay này sẽ dang rộng cho người anh yêu.

Vào ngày thứ hai, cô nói "Mình hãy ở đây mãi nhé, đừng đi đâu hết, trừ thành phố New York."

Cậu trả lời "Em không muốn một ngôi nhà to đẹp, những đứa trẻ xinh xắn và bố mẹ em phải nói rằng "Con đã làm đúng tất cả!" sao,
bà Piper?"

"Không", cô lăn qua và nằm lên người cậu, chống hai khuỷu tay ở hai bên khuôn mặt cậu, "Em chỉ muốn ở đây, lâu thật lâu", bụng cô cong xuống áp sát vào người cậu, "...mãi mãi...", hãy hôn anh, những nụ hôn từ đôi môi em. "Và mãi mãi...", cậu thở dốc.

Ngày thứ ba, khi James trở về từ chuyến đi tìm đồ dự trữ trong rừng, cậu bị hai người đàn ông to lớn bắt lên xe ngựa và chở đến Sydney, tại căn phòng phía sau của cửa hàng thực phẩm khô của nhà Mahmoud trên đường Pitt. Ông Mahmoud ngồi trên một cái ghế dựa bằng gỗ, một người đàn ông cao, ốm, với đôi má nhợt nhạt và tóc quăn đen.

"Thưa ông...", James nói.

Ông Mahmoud có một đôi mắt rất sâu, James cố gắng tìm hình ảnh của Materia trong đó. "Thưa ông...", James nói.

Ông Mahmoud khẽ nhấc ngón tay trỏ, hai người đàn ông trẻ tuổi hơn đến lột giày và vớ của James ra, cậu để ý và cảm thấy khó chịu rằng cả hai người họ đều có thể dùng dao cạo.

"... vợ của tôi đâu?"

Ông Mahmoud lấy cây roi da và đánh lên bàn chân của James, nhiều ngày sau đó chúng sưng lên, bong da và chảy nước như giấy pơ luya sũng nước.

Họ nhốt James vào YMCA và cho cậu ăn. Đến khi James có thể đi đứng trở lại với sự giúp đỡ của một cây gậy, hai người đàn ông hộ tống cậu đến nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã Sacred Heart. "Bỏ tay ra," James nói, nhưng cậu không nghe thấy hai người đó nói một từ tiếng Anh nào, "những thằng khốn dơ bẩn", cậu thêm vào.

Materia đang đợi cậu một mình tại bệ thờ, trùm khăn che mặt màu đen. Cô không nhìn cậu, mái tóc đã bị cắt. Họ lại trao nhau lời thề nguyền một lần nữa, lần này là trước một Cha xứ La Mã. Đó là lần đầu tiên James bước vào một nhà thờ Thiên chúa giáo, nó có mùi như một nhà chứa, mặc dù James chưa từng đặt chân đến cả hai nơi đó.

Ở phía sau nhà thờ, trái tim của bà Mahmoud đang tan nát vì bà đang nghĩ, làm sao thằng bé da trắng vô gia cư, vô đạo đó có thể biết cách đối xử với một người vợ? Thật tồi tệ khi một người mẹ biết rằng con gái bà sẽ không có được sự hạnh phúc mà bà từng có. Nhưng hơn thế nữa, hơn cả nỗi đau, là một sự ớn lạnh, bởi bà đã từng nhìn thấy thứ gì đó trong ly nước của James.

Mahmoud không bao giờ đánh con gái mình, 10000 ông xem đó như một sự yếu đuối khi không thể giơ tay lên đánh bất kỳ cô con gái nào của mình, và đó chính là nguồn gốc của chuyện này. Một ngày sau lễ cưới đáng sợ đó, ông bảo bà Mahmoud dọn dẹp căn nhà của Materia. Ông đến cửa hàng và tự nhốt mình trong căn phòng phía sau trong khi bà Mahmoud đốt, cắt vụn và cuốn gói tất cả những kí ức về cô con gái của ông. Người em gái Materia yêu quý nhất, Camille xinh đẹp, đã khóc nhiều ngày liền. Cô và Materia vẫn luôn mơ rằng họ sẽ kết hôn với hai anh em bảnh bao, họ sẽ sống cạnh nhau trong những ngôi nhà lớn màu trắng, con cái của họ sẽ lớn lên cùng nhau; Materia sẽ chải mái tóc thẳng dài tuyệt đẹp của Camille mỗi tối và họ sẽ vẫn ngủ chung một phòng như bây giờ. Camille viết thư cho Materia, nét chữ to và gọn gàng cùng những kí tự "x" và "o" ở cuối thư, nhưng cha cô tìm thấy và đốt nó đi. Ông gọi Camille đến hầm rượu và đánh cô.

Cũng không phải là quá đáng khi người chỉnh đàn piano chỉ là một "tên khốn", hoặc cậu không phải đạo Thiên chúa, hoặc chỉ là một người thợ. Vấn đề ở chỗ cậu đã đến như một tên trộm trong đêm và cướp đi tài sản của một người đàn ông khác, "Con gái ta đã bỏ trốn." Ở Old Country có một từ thường được dùng là ‘ayb’, vì không có dịch nghĩa nên không ai ở đất nước này có thể hiểu hết được nỗi nhục mà ông Mahmoud đang cảm thấy. Sẽ không thể nào mang cô trở lại được nữa, cô đã bị hủy hoại.

Nhưng Chúa rất giàu lòng thương và ông Mahmoud cũng vậy. Ông cho phép James chuyển đạo sang đạo Thiên chúa để giữ lấy mạng của mình. Ông cũng sắp xếp cho người xây dựng một ngôi nhà khá lớn cho cặp vợ chồng mới cưới ở xa về phía bãi biển gần Low Point. Ông làm điều này để tránh việc một năm sau ông phải tống chúng ra khỏi cửa nhà khi chúng đã nghèo túng. Những chuyện như vậy sẽ giết chết người vợ tội nghiệp của ông mất.

Còn cái thằng tóc vàng đã cướp con gái của ta, mày hãy chết rục đi. Mong là mày sẽ thức dậy và tất cả răng và lưỡi của mày sẽ rơi vãi trên gối, mong là Chúa sẽ tàn phá chỗ ở của mày... à không, có thể sẽ không phải là chỗ ở.

Còn con gái của ta, mong Chúa hãy nguyền rủa tử cung của nó.

Đêm sau đám cưới của Materia, bà Mahmoud mở chiếc hộp nữ trang bằng gỗ hồng mộc của mình ra, ngay lập tức, cô vũ công nhỏ bé bật lên và bắt đầu xoay tròn theo giai điệu của bài "Điệu valse kỉ niệm". Bà Mahmoud lột lớp nhung màu đỏ ở đáy hộp và đặt bím tóc dài của con gái mình vào đó, cuộn nó lại thẳng thớm, bà lấy lớp nhung che nó lại đặt lại vào đó những thứ xinh đẹp mà chồng bà đã tặng bà trong những năm qua: hồng ngọc, đá mặt trăng, ngọc trai... Sau đó bà chui vào trong chiếc tủ gỗ sồi mà bà chắc chắn rằng ông sẽ không nghe thấy, và bắt đầu than khóc.

 

Materia không bao giờ gặp lại gia đình nữa, cha cô cấm tiệt điều đó. Những cô em gái của Materia bị bắt nghỉ học và giữ ở nhà cho tới khi chúng kết hôn. Những anh trai của Materia không được giết tên khốn người Anh đó, nhưng tương tự, cậu cũng không nên xuất hiện trước mắt họ. Kể từ ngày đó, Materia đối với họ coi như đã chết.

Một tháng sau James và Materia dọn đến căn nhà to hai tầng với khung gỗ màu trắng, có một tầng áp mái. Nhưng không phải vì nó mới mà nó không bị nguyền rủa.

 

Low Point

Điều làm James căm phẫn nhất là từ "enklese" vô nghĩa, cậu không phải người Anh, không có một giọt máu Anh nào trong người cậu, cậu là người Xcốt-len và Ai-len, như chín mươi phần trăm số người trên cái đảo bị Chúa bỏ rơi này, nếu không kể tới những người Canada. Những tên Xi-ri da đen bẩn thỉu.

"Người Li-băng", Materia nói.

"Có gì khác nhau đâu chứ, không có họ sẽ tốt hơn cho em."

Ở Low Point không có thị trấn hay làng mạc nào, chỉ có những cái mỏ nhỏ ở quanh đây, một số có từ những ngày đầu thời Pháp nhưng giờ chúng đều đã bị đóng cửa. Tuy vậy vẫn có những đống bừa bộn ở khắp nơi và bạn vẫn có thể tìm thấy than. Người hàng xóm gần nhất là một người Do Thái làm nghề chăn nuôi gia súc lấy thịt ăn kiêng, và James vẫn giữ khoảng cách với ông, có Chúa mới biết những thứ lễ nghi gì liên quan đến gà và cừu.

Ở phía sau nhà có một con lạch, nó đổ vào đại dương ở cách đây khoảng nửa dặm. Biển Đại Tây Dương luôn trong tầm mắt và cả James lẫn Materia đều sống dựa vào điều này.

Nếu đi dọc theo con lạch, bạn sẽ đi dọc theo một bãi cỏ màu xanh nhợt nhạt, mọc lộn xộn và ẩm ướt, hãy cẩn thận để không vấp phải những hòn đá nằm lặng im và trồi lên ở đây, ở kia. Ngang qua một hai cây trường xuân lớn, qua mùi hương từ hoa của chúng, qua những chuỗi hạt nhựa cây kẹt trong màn mưa. Bạn sẽ bị bất ngờ vì những cây nấm màu đỏ tươi và sẽ dừng lại ngắm nhìn, hoặc sẽ cúi xuống để cảm nhận sự trong lành của dòng nước, làm đôi mắt mình tỉnh táo bằng cách ngắm những hòn đá cuội lấp lánh ánh kim loại ở đáy dòng. Lúc này giày của bạn đã bị ướt, và tóc thì lấm tấm những hạt nước, bạn đã đến con đường bụi bặm kéo dài chín dặm đến Sydney nếu quẹo trái, và đi hết đường để đến vịnh Glace nếu quẹo phải. Một số người gọi đây là đường Old Lingan, một số khác gọi nó là đường Victoria hay Old Low Point, nhưng giờ nó chỉ đơn giản là đường Shore. Bạn sẽ băng qua đường và đi thêm vài bước nữa để đến rìa bờ đá, phía dưới là dòng nước hung tợn gào thét. Suốt ngày nó ùa vào rồi kéo ra ở bãi biển đầy sỏi đá, trừ những khi thời tiết xấu. Phía xa xa có màu hoa cà như một đôi môi lạnh, gần hơn là màu xanh của đồng và màu xám tro, những đám rong biển nhảy múa quyến rũ như những chiếc khăn che mặt bất kể thời tiết lạnh lẽo, thả những làn tóc của mình ra bám vào các tảng đá. Trên rìa đá, bạn có thể ngồi đong đưa chân trong một ngày đông lạnh giá, cảm thấy làn gió mang hơi muối vuốt ve mình. Và nếu bạn giống Materia thì bạn sẽ nhìn ra xa, xa mãi, xa mãi, đến nơi mặt trời lặn xuống. Bạn sẽ hát, dù bạn không hát bằng tiếng Ả Rập.

Vào lúc này, Materia đang đi theo con đường mòn từ ngôi nhà trắng hai tầng, dọc theo con sông, băng qua đường Shore và đến bờ đá.

Lúc đầu họ không có nhiều đồ đạc trong nhà, James mua được một cây piano kiểu tủ tại buổi đấu giá. Trong những ngày đầu, Materia chơi đàn và họ hát với nhau bài "Hãy nổi nhạc lên cho cây piano". Đôi khi cô tuột khỏi chiếc ghế và khăng khăng bắt anh chơi, anh sẽ khoái trá chơi vài khung nhạc của một bản nhạc trữ tình nào đó rồi nhanh chóng dừng lại, như anh vẫn thường làm lúc chỉnh đàn. Materia sẽ cười và năn nỉ anh chơi một bản nào đó trọn vẹn và anh sẽ trả lời "Anh không phải là nghệ sĩ, cưng à, anh nghe em chơi thì hơn".

Anh làm một cái rương đựng đồ cho cô từ gỗ tuyết tùng. Anh chờ đợi lúc cô bắt đầu đan và may vá như mẹ anh: bà đã tự kéo sợi, bện, dệt và may, làm tất tần tật mọi việc, cho đến khi James bé bỏng thấy có những tấm vải tuýt và vải caro như những khuôn nhạc. Nhưng cái rương vẫn trống không, thay vì làm Materia buồn vì điều này, James mang nó cất lên gác xép.

Anh không phải là đầu bếp giỏi nhưng anh có thể nấu cháo yến mạch và nướng thịt. Cô ấy còn trẻ, đến lúc thì cô ấy sẽ phải học. Vào những ngày cuối tuần, anh đi chỉnh đàn ở những nơi rất xa, tận Mainadieu. Trong tuần anh đạp xe đến Sydney, làm công việc quét dọn tại tòa soạn tờ The Sydney post newspaper vào buổi sáng và làm thư kí bán hàng tại cửa hàng McCurdy’s vào buổi tối. Sau đó anh mua đồ dùng, đạp xe về nhà, nấu bữa tối và dọn dẹp nhà cửa, sau đó chuẩn bị quần áo để hôm sau đi làm. Cuối cùng là lên gác và ôm người anh yêu thương vào lòng.

Một ngày mùa xuân anh hỏi cô "Em yêu, cả ngày em làm gì?"

"Em đi dạo."

"Còn gì nữa?"

"Em chơi đàn."

"Sao em không trồng một khu vườn nhỏ, hay anh mua cho em vài con gà nhé?"

"Mình đi New York đi."

"Giờ mình chưa đi được."

"Tại sao?"

"Chúng ta có nhà mà, anh không muốn bỏ trốn như vậy."

"Em muốn."

Anh không muốn trốn đi một lần nữa, anh muốn ở lại và chứng tỏ điều gì đó với cha vợ của mình, anh dự định sẽ trả lại tiền mua ngôi nhà này, anh bắt đầu đi học hàng đêm theo chương trình liên kết với đại học Saint Francis Xavier: nghệ thuật tự do. Anh biết điều này sẽ liên quan đến luật pháp và anh có thể đi bất cứ đâu. Anh có những quyển sách mà mẹ anh thích nhất, Kinh Thánh và Shakespeare, Quá trình hồi hương và Ngài Walter Scott, tất cả đều đã cũ sờn nhưng anh biết có những chỗ trống cần phải được lấp đầy nếu anh muốn trở thành một người đàn ông có học thức, một quý ông. Sách vở không phải là chi phí, chúng là một khoản đầu tư. Anh khoanh tròn một ô quảng cáo trên tờ Halifax Chronicle và gửi đến Anh để đặt mua một hòm sách kinh điển.

Anh làm việc cho tờ The Sydney post nhưng lại đọc báo Halifax Chronicle để có được một cái nhìn về thế giới bên ngoài hòn đảo này, một thế giới thật sự. Những người làm thuê ở tờ Post nghĩ rằng anh chỉ là một thằng quét dọn, còn những tên đối thủ dẻo miệng ở cửa hàng thì nghĩ rằng anh quá may mắn khi tìm được công việc bàn giấy mà không có gia đình hay ai đó giới thiệu. Anh sẽ cho họ thấy, không phải vì họ đáng được thấy.

Vào một đêm mùa xuân đó, anh gỡ nắp thùng hàng và lấy ra hàng loạt những kho báu không thể diễn tả được bằng lời: những cuốn sách xinh đẹp, hết cuốn này đến cuốn khác, Dickens, Plato, Thơ Anh của nhà xuất bản Oxford. Anh dừng lại ở quyển cuối cùng, nâng nó trên tay, xem từ bìa sách này đến bìa sách khác và nghĩ rằng anh có thể đi bất cứ đâu, có thể nói chuyện với Nữ hoàng. Đảo giấu vàng, Những bài luận hay nhất thế giới, Nguồn gốc các loài. Anh đếm, có mười hai quyển trong hòm, nghĩa là anh đang sở hữu mười sáu quyển sách. James nghĩ, hãy thử tưởng tượng xem, ngần ấy kiến thức đang ở đây, trên sàn nhà, trong căn phòng này, trong ngôi nhà của mình. Anh ngồi khoanh chân và ngắm nghía sự giàu có của mình. Nên mở cuốn nào trước nhỉ? Những trang giấy mạ vàng và bìa màu đỏ thẫm chạm khắc chữ vàng mời gọi anh.

Anh chạy vào bếp, lục lọi và quay trở lại với cây kéo. Anh chọn một quyển và mở bìa trước của nó ra, gáy sách kêu răng rắc làm rơi một lớp bụi đỏ vào lòng anh, không sao, những từ ngữ bên trọng mới quan trọng. Anh dùng lưỡi kéo nhẹ nhàng cắt những trang đầu tiên và gọi Materia, cô đang ở đâu đó trong nhà nhưng cả một hai tiếng đồng hồ rồi James không thấy cô đâu. "Materia", anh gọi lại trong lúc đang cắt trang cuối cùng. Khi cô đến anh hỏi "Em ở đâu vậy cưng?"

"Gác xép."

"Ồ, em làm gì trên đó vậy?"

"Không gì cả."

Anh không tin vào điều đó, có thể cô đang bí mật may thứ gì đó bỏ vào rương để làm anh bất ngờ. Anh nghĩ vậy và nở một nụ cười trìu mến, "Nhìn em xinh đẹp quá."

"Cám ơn, James."

Tóc cô vừa được tết và quấn quanh đầu, cô mặc một chiếc áo tay phồng in hoa, đi cùng với chiếc nơ và váy phồng.

"Nhìn này, em yêu", anh nói, "có thể em sẽ thích quyển sách này đấy!"

"Mình ra ngoài đi!"

"Đi đâu?"

"Vào thị trấn, đến buổi khiêu vũ."

"Cưng à, chúng ta có thể tự giải trí miễn phí ngay tại nhà mà, rồi em xem, sẽ vui lắm đấy."

Anh cười một cách ấm áp và kéo cô ngồi bên cạnh mình trên chiếc ghế sô pha lông ngựa. Anh vòng một tay quanh người cô và lật một cuốn sách xinh đẹp ra rồi đọc lớn "Phần một. Về những hình thái chuyển đổi thành cơ thể, tôi muốn gửi gắm....", thưởng thức từng từ và hơi ấm của vợ ngay bên cạnh, "thời kỳ Hoàng kim lần đầu xuất hiện..."

Anh cứ đọc và đêm dần buông xuống, "Con người không biết bất kì đất nước nào khác ngoài nơi họ đang sống nhưng không có thị trấn nào gói gọn trong những bức tường và kênh mương...", anh đọc cho tới khi những viên than đã nguội lạnh, xám xịt đến tận lõi. Với tay mở đèn và nâng ngọn bấc lên, anh hỏi vợ, "Giờ thì em thấy nó vui hơn là đi chơi giữa một đám người lạ chưa nào?" và quay sang chờ sự khẳng định của cô, nhưng anh phát hiện ra cô đã ngủ từ lúc nào, anh hôn lên tóc cô và tiếp tục đọc, "Về sắt, chúng không dễ xử lý..."

Anh tiếp tục đọc lớn vì đó là cách mà anh và mẹ vẫn thường cùng đọc với nhau và suy nghĩ đó làm James có được một niềm hạnh phúc trọn vẹn trong đêm, "Không chỉ có bắp và những loại cây trái tìm kiếm và tích trữ chất dinh dưỡng từ lòng đất, nay lũ yêu tinh cũng bắt đầu đào bới. Chúng tìm kiếm trong lòng trái đất với lòng tham vô đáy nhằm đạt được sự giàu có bẩn thỉu nằm sâu, che giấu ở những nơi gần với địa ngục...".

Đến giữa mùa hè thì cô đã có thai ba tháng và rên rỉ suốt ngày, James không thể hiểu được, lẽ ra phụ nữ phải vui mừng vì những chuyện như vậy chứ? Anh cố gắng tốt hết sức, mang kẹo từ thị trấn về cho cô, bắt cô đọc sách để họ có chuyện nói với nhau.

Lúc đầu anh rất ngạc nhiên và sau đó là nản lòng vì sự thờ ơ của cô đối với sách. Anh bắt cô đọc một chương của quyển "Những kỳ vọng vĩ đại" mỗi ngày nhẳm trau dồi tình yêu đối với sách và vào buổi tối anh sẽ có vài câu hỏi kiểm tra nho nhỏ, nhưng cô thực sự là một học sinh đáng chán và anh nhanh chóng từ bỏ mọi cố gắng. Anh nặn óc suy nghĩ những trò tiêu khiển khả quan cho cô, đồng thời dẹp bỏ ý tưởng rằng cô sẽ đảm đương việc nội trợ, nhưng cũng chẳng ích gì, anh chỉ cố gắng không rầy la cô quá nặng nề, cô còn quá trẻ, chỉ
vậy thôi.

Tuy nhiên anh vẫn cố gắng thử tính kiên nhẫn của mình. "Materia, em không thể dành tất cả thời gian đi dạo trên bãi biển và lẩn quẩn quanh cây đàn như vậy được", bởi vì gần đây cô bắt đầu chơi bất kỳ thứ gì xuất hiện trong đầu cho dù nó có ý nghĩa hay không, hòa trộn những mảnh của những bài hát khác nhau một cách kì cục, chơi một bài thánh ca ở tốc độ cao nhất, chơi một bản nhạc truy điệu ở cung Xi giáng xen kẽ với bài "Những con chồn nhảy nhót", và tất cả đều được chơi với bàn tay nện xuống như búa bổ. James cảm thấy việc này thật phiền phức, thậm chí ảnh hưởng tới sức khỏe, hơn nữa, anh không thể học được với những âm thanh ồn ào này.

"Em xin lỗi, James."

"Sao em không chơi thứ gì hay ho hơn?"

Vào cái lúc cô chơi bài "Mảnh lá phong" thì lần đầu tiên anh đã hét lên với cô, cô cười lớn và sẵn sàng đón nhận một cơn phẫn nộ. Sau đó anh bỏ mặc cô và điều này làm cô khóc, nhưng nói thẳng ra thì anh đã hiểu những trò của cô rồi, cô chỉ muốn được chú ý thôi.

Vào ngày lễ Lao động, anh từ chối lời mời đưa vợ đến buổi dã ngoại chèo thuyền cho nhân viên cửa hàng McCurdy, anh tự nhủ rằng mình chẳng ham muốn hòa nhập gì với những người vốn sinh ra đã là quý ông, làm việc bên cạnh họ là đủ lắm rồi, nếu một lần nào đó anh tự tạo cho mình cảm giác thoải mái giả tạo khi ở trong một xã hội như vậy thì có thể anh sẽ lạc lối. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, anh đau đớn khi nghĩ đến việc giới thiệu Materia với bất kì ai, anh cảm thấy rất biết ơn vì họ đang sống ở một nơi không ai biết, không phải vì anh không còn yêu cô nữa, anh rất yêu, chỉ là dạo gần đây, anh bị đả kích vì mọi người nghĩ rằng có điều gì đó lạ lùng, họ nghĩ rằng anh đã cưới một đứa trẻ.

Vào tháng chín thì cô đã to bè ra và trở nên vàng vọt, anh bắt đầu ngủ trên cái võng cạnh bếp lò. "Anh chỉ muốn tốt cho em thôi cưng à, anh không muốn lăn lộn trong lúc ngủ và làm em bé chui ra bằng khuỷu tay của mình đâu."

Những tiếng nện ầm ĩ vào cây đàn piano lúc nửa đêm. Không còn sự sáng suốt, thay vào đó là nông nổi, không còn những bài hát phiền phức, chỉ còn sự bất hòa. Những cơn thịnh nộ. Được thôi, cứ để cô ấy tự làm kiệt sức mình đi. Đập mạnh, đập mạnh hàng giờ liền. Buổi sáng anh vẫn thức dậy từ chiếc võng như thế anh đã ngủ rất ngon, gói phần cơm trưa, vỗ nhẹ lên đầu cô và đạp xe đi làm trên chiếc xe với những bánh xe bằng sắt.

Vào lễ Halloween thì cô đã to bằng cái nhà. Một đêm anh vào bếp và thấy cô đang ngồi bên bàn bếp với một tô bột làm bánh mật ong, những thứ nguyên liệu trên bàn cho thấy vậy. Anh cảm thấy hạnh phúc, đây là lần đầu tiên cô cố gắng nấu nướng, thậm chí anh còn hôn cô để thể hiện niềm vui của mình, nhưng khi anh định nhúng ngón tay vào tô bột thì nó đã bị liếm sạch nhẵn.

"Em đang làm cái quái gì vậy?"

Cô chỉ nhìn một cách khó chịu về phía trước.

"Trả lời đi."

Cô chỉ ngồi đó, phì nộn ra.

"Chuyện gì xảy ra với em vậy? Em có biết suy nghĩ không? Em không có gì để tự nói cho chính mình sao?"

Cái nhìn vô hồn, gương mặt nhũn ra. Anh chụp lấy cái tô.

"Hay em cũng chỉ là một đống bột thôi?"

Không trả lời.

"Trả lời đi!"

Anh ném mạnh cái tô xuống chân cô và nó vỡ ra, cô chạy ra ngoài và nôn thốc nôn tháo, anh nhìn vóc dáng khổng lồ của cô khom mình cạnh những bậc thang. Lúc này chắc bạn sẽ nghĩ cô đã biết là không nên gây chuyện nữa, đến cả một con vật ngu ngốc cũng tự biết cách kiềm chế bản thân. Cô ấy có thể ở ngoài đó cho đến khi anh dọn dẹp xong.

Anh quét và lau sàn, tối hôm đó anh đã làm xong rất nhiều việc, chưa kể việc suy nghĩ. Anh khóa cây đàn và cất chìa khóa vào túi, sau đó nói "Anh không nấu nướng, không dọn dẹp nữa, em phải lo làm những việc của mình đi, quý cô ạ, Chúa biết rằng anh đang làm tốt việc của mình."

Nhìn cô thật buồn bã và chán nản, anh cảm thấy một chút đau xót, tất cả phụ nữ đều sẽ trở nên xấu xí vậy sao?

"Em xin lỗi, James", cô nói và bắt đầu khóc, dù gì nó cũng vẫn tốt hơn những cái nhìn chằm chằm kì cục như cô vẫn hay làm. Anh để cho cô ôm mình vì biết rằng điều đó sẽ làm cô cảm thấy dễ chịu, anh không muốn mình tàn nhẫn, anh mong đứa bé sẽ được bình an.

Materia đi lên gác xép, cô quỳ xuống, mở nắp rương đựng đồ và hít thật sâu. James nghĩ rằng cô không đựng đồ vào hộp vì cô chẳng có gì để bỏ vào, nhưng thực ra cô cố ý bỏ trống nó, như vậy sẽ không có gì có thể xen vào giữa cô và mùi hương kì diệu dẫn lối cho cô về với kí ức của mình. Tuyết tùng. Cô gục đầu vào chiếc rương trống và để cho mùi hương nhẹ nhàng nâng mình lên không và ru cô đi xa, mùi đất nóng và những bụi cây ô liu ẩm ướt, những gợn sóng lăn tăn của vùng Địa Trung Hải, vườn tằm của ông cô, ngôn ngữ của cô, đôi tay của mẹ cô ngập trong rau mùi tây và quế, đôi tay mẹ gõ nhẹ vào trán và thắt bím tóc cho cô... Đôi tay của mẹ. Mùi hương của chiếc rương. Những cây tuyết tùng vùng Lebanon. Cô ngừng khóc và thiếp đi.

 

Người phụ nữ Do Thái

Bà Luvovitz đã nhìn thấy một người phụ nữ mang thai ngồi bên bờ đá, cứ như một vật gì đó đang cảnh báo, hoặc đang mê hoặc những con tàu. Mọi người quanh đây đều tin vào hà bá nên trí tưởng tượng của bà Luvovitz cũng bị ảnh hưởng. Bạn có thể trông đợi gì từ quá nhiều người theo Thiên Chúa giáo chứ? Họ nhìn thấy điềm báo ở khắp nơi, ở nơi quê nhà của bà Luvovitz họ gọi những điềm này là "golem".

Chắc là có chuyện gì với người phụ nữ đó, có thể cô ấy là người đơn giản, bà Luvovitz nghĩ, bởi vì ngày tiếp theo khi bà đi ngang con đường Shore để đến Sydney trên chiếc xe ngựa chở đầy trứng của mình, bà đã nghe thấy người phụ nữ đó hát những từ có vẻ như vô nghĩa. Có thể đó là một người phụ nữ tội nghiệp với đầu óc đơn giản đến từ những ngọn đồi phía Bắc, một thời anh chị em họ vẫn thường hay lấy nhau. Tuy vậy, bà Luvovitz vẫn chưa từng nhìn thấy mặt người phụ nữ vì lúc nào cô cũng mang một chiếc khăn tay kẻ sọc có tác dụng như khăn che mặt.

Bà Luvovitz hỏi chồng mình, Benny, xem ông có thấy người phụ nữ mang thai đó bao giờ không, nhưng ông nói chưa hề gặp.

"Ông Luvovitz à, ông phải thấy rồi chứ."

"Tôi chưa từng thấy, bà Luvovitz ạ."

"Ngày nào cô ấy cũng ở đó mà."

"Chắc cô ấy là ma."

"Ông đi đi, Ben."

Ông cười lớn, ông biết rõ điểm yếu của bà.

Bà Luvovitz quyết tâm lần tiếp theo bà sẽ nói chuyện với người phụ nữ đó bởi vì bà bắt đầu nghĩ rằng mình đã quá sùng đạo. Bà cần phải tự giải tỏa thắc mắc của mình, rằng người phụ nữ đó là con người và không phải là một điềm báo, mà nếu có là một điềm báo, việc quan trọng là phải xác định vài thứ sau "Mình thường thấy cô ấy vào lúc nào? Buổi sáng? Hay buổi tối?" Một người báo hiệu nếu được thấy vào buổi sáng nghĩa là cái chết còn ở rất xa, còn nếu thấy vào buổi tối, nghĩa là nên chuẩn bị sẵn sàng, một đứa trẻ nghĩa là cái chết của một người vô tội

Ngày hôm đó, bà Luvovitz đang đánh xe đi dọc đường Shore từ Sydney như thường lệ sau khi đã bán hết trứng. "Làm ơn bán cho tôi một tá trứng". Bà không thể chịu được nữa, và Benny cũng vậy, ông thường đi giao thịt trên chiếc xe ngựa có gắn cái thùng đá của mình.

"Xin chào", bà Luvovitz nói và hãm ngựa lại.

"Xin chào, xin chào!", Abe bé bỏng ngồi bên cạnh cũng nói theo.

Chiếc khăn che mặt được gỡ ra và bà Luvovitz tự nói với chính mình "Ôi Chúa ơi!", một đứa trẻ mang thai, một sinh vật bé bỏng da màu, chắc chắn là cô bé từ nơi khác đến, cũng có thể từ vùng Indian Brook. Bà Luvovitz quên hết những thứ ma quỷ và điềm báo, bà hỏi đúng giọng điệu của một người dân địa phương "Cháu từ đâu đến vậy cô bé, mẹ cháu là ai?"

"Tôi không có mẹ."

"Lên xe đi, cô bé."

Thật ngạc nhiên khi biết rằng cô bé sống trong ngôi nhà lớn màu trắng bên kia đường, bà Luvovitz chưa bao giờ thấy cô đi ra hay đi về, chỉ đột ngột xuất hiện, như thường lệ, trên bờ đá.

"Cháu bao nhiêu tuối?"

"Mười ba tuổi chín tháng!"

Ôi ôi, và đã kết hôn với chàng trai trẻ đó, điều này chắc chắn là bất hợp pháp, anh ta tìm cô bé ở đâu ta chứ. Một cô dâu trẻ con. Từ nước ngoài sao, cô bé là người Ý? Một cô gái Gíp-xi Ấn Độ? Giọng nói của vùng nào nhỉ? Bà Luvovitz pha trà và tự nghĩ về những câu hỏi này và vài câu hỏi khác. Mọi thứ sẽ được hé lộ, nhưng trước hết là trà. Ở quê bà và nơi bà đang sống hiện giờ, trà là cả một bữa tiệc. Bà đặt đĩa bánh trước mặt Materia, cô hỏi "Cái gì vậy?"

"Cái gì vậy là sao, đó là bánh ruggalech!"

Materia cầm chiếc bánh được phủ mật và cắn một miếng, nó có vị vừa quen vừa lạ, quế và nho khô.

"Ngon lắm", Materia nói.

"Dĩ nhiên là nó ngon rồi."

Materia chuyển sự chú ý của mình sang Abe bé bỏng đang chơi
ú òa.

"Gia đình của cô đâu, cô Piper?"

"Tôi không có, bà có thể gọi tôi là Materia."

"Tên lúc còn con gái của cô là gì?"

"Mahmoud."

Lạy Chúa, tất cả mọi người đều biết nhà Mahmouds.

"Ibrahim?"

"Đó là cha tôi."

"Và Giselle?"

Materia gật đầu.

Bà Luvovitz vẫn nhớ nhà Mahmouds thường bán hàng đựng trong hai cái giỏ mây treo đong đưa trên lưng con lừa. Những người chăm chỉ, họ làm được tất cả những gì mà chúng ta mong đợi, giờ thì họ đã có một cửa hàng thực phẩm khô lớn ở Sydney.

"Vậy cháu nói cháu không có gia đình là sao? Cháu có gia đình mà, họ chính là gia đình của cháu."

Materia lắc đầu "Tôi không thuộc về họ nữa."

"Tại sao không?"

"Tôi đã chết rồi."

"Chết rồi là sao? Cháu vẫn chưa chết, thật là điên khùng và vô lí khi nói "Tôi đã chết rồi"."

"Đó là truyền thống."

"Ta biết đó là do truyền thống."

Coi như là đã chết trong khi máu thịt vẫn còn tồn tại và người ta vẫn đang khỏe mạnh, những truyền thống như vậy lẽ ra phải bị bỏ lại ở Old Country. "Uống trà đi, cô Piper."

"Bà có thể gọi tôi là...."

"Ăn đi, cháu cần phải ăn cho cả hai người, ăn đi."

Bà Luvovitz dạy cho Piper nấu ăn.

"Cái gì đây?" James hỏi.

"Canh gà với thịt viên."

Anh nhìn vào miếng bánh xốp thơm ngọt trong tô nước súp, xắn một miếng cho vào miệng, nhìn chung thì không khác một miếng bánh quy nhúng nước súp là mấy. "Đây là một món ngon Ả Rập sao?"

"Do Thái."

Họ không phải là những người đầu tiên được anh chọn làm bạn cho vợ mình nhưng cũng không phải như họ đang hy sinh những đứa con của mình ở đó. Cuối cùng cô cũng bắt đầu cư xử như một người vợ, mặc dù sự đánh giá vẫn nằm ở phía kẻ ngoại đạo. James phát hiện ra rằng những người hàng xóm cũng là người nước ngoài, họ sẽ thấy không có gì lạ về việc anh kết hôn với một cô bé quá trẻ. Và tại sao anh lại phải quan tâm một người nông dân Do Thái nghĩ gì về mình? Dù bà Luvovitz có vẻ như là loại người lúc nào cũng đúng, James đã đến đó để chắc chắn.

"Gọi tôi là Benny."

"Benny."

"Nếm thử cái này đi!"

"Cái gì đây?", nhìn nó như một khúc bánh xoắn của MacDonald.

"Thử đi."

"...ừm."

"Thích chứ?"

"Không tồi, nó ngon lắm."

"Tôi tự xông khói đấy, nếu cậu muốn, tôi sẽ bán cho cậu cả con bò để dành cho mùa đông, tươi ngon đến tận móng, chọn một con đi, chúng đều rất ngon!"

Trừ giọng nói, râu hàm đen, tóc mai xoăn xoăn và cái mũ nhỏ thì không có gì lạ ở người đàn ông Do Thái này, James mua nửa con bò.

"Tôi không thích thịt ăn kiêng."

"Ý cậu là sao, nó là thịt ăn kiêng, tôi sẽ lọc mỡ đi, nó là thịt ăn kiêng đấy."

"Tôi không muốn ông làm trò gì buồn cười với nó."

"Đừng lo, cậu thấy con bò đó chứ?"

"Vâng."

"Đó là con tôi để dành cho cậu, đó là con bò Tin lành đấy."

"Tôi đạo Thiên Chúa."

Benny cười lớn, James mỉm cười, so với gia đình của Materia thì gia đình Luvovitz có vẻ trắng trẻo hơn.

 

1900

Vào giờ thứ mười một tháng thứ chín, Materia bắt đầu mong chờ đứa con của mình. Đó là do cô đã rất yêu quý Abe Luvovitz, hai tuổi, và Rudy, sáu tháng. Dĩ nhiên là cô mong một đứa con trai, cha cô sẽ phải rất kiềm chế để không thừa nhận đứa cháu trai đầu tiên của mình, dù nó đến thông qua con gái ông. Đó là những gì cô tự nói với chính mình, và vậy là cô sẽ được gặp lại mẹ và các em gái của cô, cuối cùng cô sẽ vẫn là một người phụ nữ tốt. Cô bắt đầu cầu nguyện với Đức mẹ Mary, xin hãy cho cô một đứa con trai.

James đặt tên đứa bé là Kathleen theo như tên mẹ anh. Kathleen không phải là đứa bé đầu tiên của thế kỉ, nhưng nó được sinh sát giờ đến mức James phải vắt chân lên cổ cưỡi con ngựa già chạy đến Sydney để lôi bác sĩ ra khỏi lúc tàn cuộc của bữa tiệc mừng năm mới. Họ về đến Low Point vừa kịp lúc để bác sĩ khen ngợi bà Luvovitz rằng bà đã làm rất tốt. Bà Luvovitz nghĩ, "Ông chỉ cần cho một củ cải qua cái chỗ giữa hai ống quần rồi chúng ta sẽ thấy ai đã làm tốt", nhưng bà cẩn thận nghĩ điều đó bằng tiếng Iđít.

Bà Luvovitz cho Materia biết cô đã được phù hộ như thế nào "Tôi yêu các con trai của mình, nhưng một người phụ nữ vẫn muốn có con gái."

Materia không nói gì.

James nói "Anh yêu em, Materia."

Cô trả lời "Baddi moot."

Anh vỗ nhẹ vào đầu cô và nhìn chăm chú vào đứa bé. "Kathleen", anh nói, "Nhìn này, nó biết tên của nó đấy!"

Anh cho một mục sư Tin lành rửa tội cho cô bé.

"Chúng ta phải có một Cha xứ", Materia nói.

"Cùng là một Chúa thôi mà", James nói, chỉ việc chuyển đạo đã đủ làm anh khó chịu lắm rồi, anh không cần mang con mình ra cho bất kì trò bịp bợm La Mã nào nữa.

Bà Luvovitz chăm sóc Materia và em bé trong hai tuần đầu tiên. Benny nói "Bà đã can thiệp quá nhiều rồi."

"Tôi đâu có can thiệp, cô bé không có mẹ."

"Bà đâu phải mẹ nó!"

"Nó cần một người mẹ!"

"Nó cần có thời gian cho con của mình, làm sao cho nó học được chứ?"

James cảm thấy không đủ xoay xở, anh đã đạt doanh số cao nhất trong vòng hai tuần làm việc. Anh bất ngờ đến phòng ông chủ và đề nghị tăng lương.

"Tôi e là chưa thể được, cậu Piper."

"Thưa ông, giờ tôi đã có con rồi."

"Những người khác cũng vậy thôi."

"Tôi đáng giá bằng ba người khác mà."

"Cậu đã có vài tuần làm việc rất tốt, ráng duy trì nhé, cậu sẽ là nhân viên của tháng!"

James quay gót và cảm thấy tốt hơn là đi ra, cứ để ông ta cố gắng thay thế mình đi, sẽ không thể được, ông ta sẽ không làm được.

James cưỡi con ngựa còi cọc về nhà, anh dự định sẽ cho cô bé tất cả mọi thứ, cô bé sẽ lớn lên thành một quý bà, sẽ đạt được nhiều thành tựu, rồi mọi người sẽ thấy. Anh cảm thấy như một vị vua, bỗng nhiên mọi thứ sụp đổ và anh đang đứng trên đường Shore, con ngựa chết ngay dưới chân. Không sao, miễn là bao tiền vẫn còn đây, nằm trong đống bùn tuyết, sức nặng làm nó như dính vào đất.

Anh đi bộ quãng đường còn lại và lên một kế hoạch. Đàn piano lâu lâu chỉ cần chỉnh một lần, nhưng chúng cần được chơi thường xuyên. Ai sẽ chơi đàn? Những người nhà quê học bằng tay và thích lao vào những trò vớ vẩn để tìm cảm giác giải trí đơn điệu. Và những đứa trẻ thành thị, bố mẹ chúng luôn mong chúng sẽ đạt được thành tựu. Sở thích của những kẻ thất bại tự cao tự đại làm chung với anh ở tiệm McCurdy, không kể người khá giả thực sự: JAMES H.PIPER ESQUIRE cung cấp lớp dạy học có thu phí cho trẻ em, môn lý thuyết và thực hành piano.

Anh không ngại bỏ việc ở tờ Post, chỉ là anh không thể xuất hiện.

James về nhà giữa ngày và thấy bà Luvovitz đang ở trong bếp cho em bé bú bình.

"Vợ tôi đâu?"

"Đang ngủ."

Anh đi lên cầu thang, bước hai bậc một lúc và lôi cô xuống bằng một tay, đẩy cô vào trong bếp, cô khóc lóc trên mỗi bước đi.

"Cám ơn bà, giờ vợ tôi sẽ tự lo!"

Bà Luvovitz đứng dậy, nghĩ điều gì đó bằng thứ tiếng không phải tiếng Anh, sau đó rời khỏi ngôi nhà.

James ném phịch vợ vào chiếc ghế và đặt đứa bé đang khóc ré lên vào tay cô. "Cho con bé bú đi". Nhưng người mẹ chỉ khóc lóc và lảm nhảm.

"Vì Chúa, nói tiếng Anh đi nào."

"Ma bi’der. Biwajeaal."

Anh tát cô, "Nếu nó không chịu bú, thì cô cũng không được ăn, hiểu không?"

Materia gật đầu, anh mở nút áo cô ra.

James cho phép bà Luvovitz ngủ lại đêm đó vì Materia không có sữa và đứa bé cần được cho bú. Bà đi lên lầu, trong lúc bà Luvovitz làm những việc cần làm thì người mẹ trẻ khóc lóc thảm thiết. Đi xuống lầu, ngồi ở nhà trước, James mở cây đàn và chơi vài đoạn nhạc từ nhiều bản nhạc khác nhau xuất hiện trong tâm trí nhằm xua đi tiếng ồn. Anh cần phải đầu tư vài bảng chép nhạc và sách bài tập, con gái của anh sẽ chơi đàn.

Trong vài ngày, việc cho bú là quan trọng nhất và em bé đang bú sữa, tuy nhiên lần nào cho bú người mẹ cũng khóc. Một buổi tối vào tuần thứ tư của Kathleen, James hoảng hốt giật đứa bé ra khỏi ngực Materia.

"Ôi Chúa ơi, cô đã làm nó đau, cô cắt mất môi nó rồi", nụ cười của cô bé lấp lánh màu máu.

Materia chỉ ngồi đó, im lặng như thường lệ, áo cô mở bung ra, đầu vú nứt nẻ và chảy máu, sữa vẫn đang rỉ ra. James nhìn khẽ một cái rồi nhận ra rằng đứa bé cần phải được cai sữa trước khi nó bị ngộ độc.

James có thể đã chuyển sang đạo Thiên chúa, nhưng anh không bao giờ quên lễ xưng tội kiểu Xcốtlen của mình. Những người đạo Thiên chúa yếu ớt tin vào sự cứu rỗi linh hồn bằng niềm tin, cũng tốt, cứ ngồi đấy và tin vào bất kì thứ gì bạn muốn, nhưng một số trong chúng ta vẫn biết rằng làm việc vẫn là một sự đặt cược chắc chắn hơn, vì đêm tối chắc chắn sẽ đến... hãy làm quen với việc đó đi, nếu không làm việc thì sẽ chẳng có được gì.

Trong vòng một tháng, James đã có đủ học sinh từ Sydney đến vịnh Glace và bắt đầu có thể xoay xở. Từ sáng tới tối, những cậu bé ngoan được thưởng kẹo, bò thì được ăn cỏ. Vào buổi tối, chỉ còn cái xác chết suốt ngày chỉ biết nhìn chằm chằm, sao anh lại cưới cô chứ? Ngay khi anh ngồi cạnh những cô bé cậu bé mười hai mười ba tuổi trên chiếc ghế đánh đàn và nhìn đôi mắt chúng dán vào việc xướng nốt Đô trung thì lòng anh chợt quặn thắt lại rằng vợ anh chẳng hề lớn hơn chúng.

Làm sao anh lại bị một đứa trẻ gài bẫy chứ? Có gì đó bất thường ở Materia, những đứa trẻ bình thường sẽ không bỏ trốn với đàn ông. Anh đọc trong sách nói rằng chứng bệnh ngớ ngẩn lâm sàng thường đi kèm với bề ngoài quá phát triển. Cô đã dụ dỗ anh, đó là lí do anh không để ý rằng cô chỉ là một đứa trẻ, bởi vì cô không phải, thực sự không phải, điều đó thật kì lạ, thậm chí là bệnh hoạn. Có thể đó là một vấn đề về chủng tộc, anh cần phải đọc thêm về nó.

Những gì Materia muốn là được mang thai một lần nữa và lần này Chúa có thể ban cho cô một đứa con trai, nhưng cô không có nhiều cơ hội cho việc đó vì chồng cô chẳng bao giờ chịu đến gần cô, thậm chí còn nổi giận nếu cô chạm vào anh. Materia nhận ra rằng Chúa sẽ không ban cho cô đứa con nào nữa nếu Người thấy cô không biết ơn vì đứa con mình đã có, do đó cô cầu nguyện đến Đức mẹ Đồng trinh, cô cầu nguyện trên gác xép vì hàng dặm quanh đây không có nhà thờ nào, và James cũng không muốn cô đi lang thang nữa. Quỳ trên hai gối, tay chống trên rương đựng đồ, cô cầu nguyện "Đức mẹ của Chúa, xin hãy làm cho con yêu thương con của mình."

Kathleen lớn rất nhanh, mái tóc màu đỏ ánh vàng, đôi mắt xanh lá và làn da khá trắng, Materia cứ tự hỏi không biết nó ở đâu ra, chắc chắn là nó đã thay đổi trong đêm, còn bà Luvovitz thì chẳng thèm suy đoán.

James ngắm nhìn Kathleen khôn lớn và khỏe mạnh mỗi ngày, đúng là những cái ống thổi, anh sẽ mang con bé đến cuộc thi la hét ở những bãi đá, họ sẽ la hét đến khi khản tiếng và vui vẻ. Anh rất thích nghe con bé cười, nó không thể làm gì sai cả.

Trong lúc cho con gái ăn bột ở bàn bếp, Materia nghiêng người và thủ thỉ "Ya Helwi. Ya albi, ya Amar. Te’berini". Đứa bé mỉm cười và Materia lẩm nhẩm tạ ơn, bởi vì ngay lúc đó cô đã có một cảm giác mờ nhạt, nhưng rất giống với cảm giác yêu thương.

"Đừng làm vậy, Materia."

"Gì cơ?"

"Anh không muốn con bé bị nhầm lẫn khi lớn lên, nói tiếng
Anh đi!"

"Được rồi."

 

Người thợ mỏ năm bốn chín

 Kathleen biết hát trước khi biết nói, giọng cao hoàn hảo, James là người chỉnh đàn piano, anh biết rằng con gái mười tám tháng tuổi của anh có thể hát lại đoạn nhạc "Hãy tin em, nếu những điều đó thu hút được anh..." không hề có sai sót, dĩ nhiên là không có lời, sau khi nghe anh chơi đúng một lần. Anh ngồi hoàn toàn bất động trên chiếc ghế chơi đàn và nhìn con bé, nó nhìn thẳng lại vào anh với sự nghiêm trang của một người lớn.

Chính vào cái khoảnh khắc mà sự hồi hộp và lo sợ chiếm những khoảng bằng nhau, như lúc tìm ra được khe nứt có chứa vàng, người đi thăm dò bị ngập đến đầu gối, ông chỉ định đi tìm mỏ than, ngay khi thấy dầu phun ra, ông đã hét lên, tự làm dấu rửa tội và mua ngay cho mình một món gì đó để uống. Nhưng đối với vàng thì hoàn toàn khác, ông đứng lặng im, quan sát trong giây lát, sau đó bật dậy, mắt ngân ngấn nước. Làm sao? Làm sao để lấy nó ra khỏi mặt đất? Làm sao để không bị ai đó cướp mất?

Cuối cùng thì vẫn phải cần có tiền, tiền thật. Vì ngay lúc này, anh đã bỏ sự nghiệp học hành của mình qua một bên và bắt đầu tự dạy học cho con gái. Anh đã đọc thêm về việc này, anh mua một cái máy hát, một cái máy đánh nhịp và bắt đầu sưu tầm đĩa nhạc. Anh đặt mua toàn bộ phôi nhạc và bản nhạc từ New York, Milan và Salzburg. Anh đã quyết định, không phải là quá sớm để bắt đầu từ cuốn "Phương pháp luyện tập của Vaccai đối với cách hát kiểu Ý". Môza sáng tác từ khi lên ba. Lên ba, Kathleen đã có thể hát "Manca sollecita Pìu dell’usato, Ancor che s’agiti Con lieve fiato, Face che palpita Presso al morir."

Materia được phép chơi đàn lại, nhưng lần này chỉ được theo đúng những gì đặt trước mặt cô:

- Các gam, quãng, nửa cung: "Bài này lúc đầu phải hát khoan thai, sau đó tăng dần lên thành nhịp nhanh tùy theo khả năng của học sinh";

- Cách nhấn lệch, trang trí, bản dịch nghĩa đen: "Ngọn lửa/ tắt/ nhanh hơn bình thường/ mặc dù/ nó sáng lung linh/ khi bị thổi nhẹ";

- Nốt đệm, giới thiệu về cách nắm bắt: "Nốt đệm khác với nốt dựa nhiều nhất là ở chỗ nó không ảnh hưởng nhiều đến giá trị hay chất giọng của bản nhạc mà nó đứng trước", quãng ba, quãng bốn, salti di quinta (quãng năm), salti di sesta (quãng sáu)...

"Con chim nhỏ trong cái lồng chật hẹp/ sao người ta không bao giờ nghe nó hót?"

Bài XI, Ngân, "Tôi sẽ giải thích về nỗi đau của mình"

Bài XII, Ngân dài, "Tôi không thể tin vào những suy nghĩ của chính mình"

Bài XIII, Cách hình thành âm thanh, "Tôi không thể cứ mãi im lặng đối với mọi thứ được."

Materia chơi đàn, thấm thoắt Kathleen đã bảy tuổi. Materia đứng nhìn từ xa, thời gian trôi nhanh, cô càng ngày càng nhớ cha của mình, quên hết tất cả mọi thứ, chỉ nhớ ông đã từng chăm sóc và mong mỏi cô có một tấm chồng tốt như thế nào. Tất cả những kí ức dịu đi theo năm tháng và những kí ức đẹp thì lại dễ tàn phai nhất, mẹ và các chị em gái của cô từ lâu đã dần bị tan đi như xà phòng, nhòa dần cho đến khi không còn gì cả. Cứ như những bức tranh vẽ trong các hang động, dưới ánh sáng nến, cô chỉ có thể nhìn thấy loáng thoáng chúng ở đâu đó trong bóng tối, trong khóe mắt cô. Nhưng những kí ức về cha cô lại rất bền vững. Bia đá mòn đi, sụp đổ thành một đống đá, cột mốc về sự mất mát của cô.

"Em mập quá rồi!"

Materia nhìn James từ xa và trả lời: "Ừ".

Anh lắc đầu, những người đàn ông khác đi dạo với vợ họ vào mỗi tối thứ bảy, đưa vợ đi nhà thờ vào Chủ nhật, ngồi bên cạnh nhau và bên cạnh những đứa con, nhưng James thì không. Chỉ vì một điều, anh không muốn mọi người nghĩ rằng anh cưới một người phụ nữ già như mẹ mình. Nhưng chủ yếu là vì đầu óc Materia trở nên quá đần độn, uể oải nên anh không muốn các con mình bị bêu xấu. Và quan trọng nhất, hơn tất cả mọi thứ, là vì Materia da đen. Anh cố gắng không nhìn vào việc đó, nhưng nó là một trong những thứ cứ hiển hiện trước mắt anh, những lớp vỏ đã bị bóc trần hết.

Anh đưa Kathleen đi khắp nơi, những chuyến đi dạo xa, ban đầu anh đặt Kathleen nằm trong chiếc xe đẩy xinh đẹp kiểu Anh, sau đó là dắt tay cô bé. Ngôn ngữ mà họ dùng trong khi đi dạo là tiếng Xen-tơ. Mái tóc tiên và cách đi đứng uyển chuyển của cô bé làm mọi người phải ngắm nhìn vì trông cô như một nàng công chúa. Quần áo của cô nhập từ Anh, không có gì quá phô trương, tất cả đều có chất lượng cao, cứ như một nàng công chúa giữa đời thường. Trừ bản thân mình ra, James không tin tưởng giao phó những chiếc áo trắng hoàn hảo của anh cho bất kì ai, cạo râu sạch sẽ mỗi buổi sáng. Cùng với nhau, họ sẽ trở thành những người đứng đầu.

Năm 1907, một thị trấn đã xuất hiện ở đây, nó nổi lên trong đêm và bắt đầu từ sự xuất hiện của mỏ than số 12. Mỏ than số 14, 15, 16 theo sau chỉ trong một thời gian ngắn. Đường sắt xuất hiện, sau đó là những người thợ mỏ. Lúc đầu họ đến từ các vùng Maritimes, Anh, Ailen, Xcốtlen và xứ Wales, giờ thì họ đến từ khắp mọi nơi. Công ty dầu mỏ Dominion đã mua hết đất đai và xây một rừng nhà cửa của công ty: những ngôi nhà tiện lợi dựng lên bằng ván ghép nằm san sát vào nhau. Có một trường học, một nhà thờ Thiên Chúa giáo, cửa hàng thịt ăn kiêng của nhà Luvovitz, tiệm bánh kẹo, tiệm thuốc MacIsaac và cửa hiệu của công ty với đủ các mặt hàng có thể quyến rũ vợ của bất kì người thợ mỏ nào.

Mỗi tối thứ sáu, những người thợ mỏ lại giao nộp phong bì tiền còn nguyên niêm phong cho vợ, các bà vợ sẽ mở nó ra để trả tiền thức uống. Vấn đề là ở chỗ, cho dù có uống một ít vào đêm thứ sáu hay không, thì đến khi đi mua sắm ngày thứ bảy, số tiền trong phong bì cũng chỉ vừa đủ để nuôi sống một gia đình sáu người. Nhưng công ty đã có giải pháp cho việc này: chứng khoán công ty. Đây là một dạng tín dụng, các quý bà có thể sử dụng tiền mặt tại các cửa hàng trong thị trấn để mua những thứ lặt vặt không có bán tại cửa hiệu của công ty. Sau đó họ có thể dùng chứng khoán để mua các mặt hàng như thực phẩm, giày dép, quần áo và dầu hỏa tại cửa hiệu của công ty. Phong bì tiền chồng họ đưa ngày càng mỏng dần đi, cho tới một ngày trong đó chỉ còn mảnh giấy ghi rõ số tiền thuê nhà họ đang nợ, số lãi họ phải trả cho món nợ với cửa hàng của công ty và họ còn bao nhiêu tiền trong chứng khoán. Dần dần cửa hiệu của công ty được gọi là "Cửa hàng bóc lột."

Người ta vẫn tiếp tục tràn về tấp nập trên khắp những con đường chạy từ Nam tới Bắc và những đại lộ từ Đông sang Tây, cứ mỗi giây trôi qua lại có một tên đường mới được đặt theo tên thánh trong Thiên Chúa giáo hoặc một trùm tư bản ngành dầu mỏ nào đó. Một thị trấn bùng nổ. Không thực sự tồn tại và không có tên, nhưng đột ngột nhà Pipers lại nằm trên một con đường, con đường mang tên Water.

Materia đã không còn đi nhà thờ từ khi kết hôn, bây giờ lại có một cái nhà thờ ngay bên cạnh nhà cô và chẳng có lí do gì mà cô lại không tản bộ đến đó, nhưng cô lại cảm thấy không có tư cách. Mẹ bề trên sẽ không đáp lại những lời cầu nguyện của cô, vì Materia vẫn không thương con của mình, cô tự nhận thấy tội lỗi trong con người mình.

"Kathleen, đến đây nào con."

Materia đặt đứa trẻ trong lòng mình và vòng tay quanh người cô bé. Cô hát, giọng trầm bổng:

"Kahn aa’ndi aa’sfoor

Zarif u ghandoor

Rasu aHmar, shaa’ru asfar

Bas aa’yunu sood

Sood metlel leyl..."

Materia đong đưa đứa bé và cảm thấy buồn, đã có tình thương ở đây chưa? Cô hy vọng, đứa bé cảm thấy lạnh trong vòng tay của cô, "Ta sẽ sưởi ấm cho con", cô nghĩ vậy và tiếp tục hát. Kathleen ngồi im thin thít, co rúm người lại trong đống thịt đang đong đưa. Materia vuốt mái tóc đỏ ánh kim, lướt bàn tay ấm áp ngăm đen ngang qua đôi mắt xanh đang nhìn chằm chằm. Kathleen cố gắng nín thở, cố gắng không hiểu bài hát, cố gắng nghĩ về cha và những thứ tươi sáng: không khí trong lành, cỏ xanh tươi, cô bé lo sợ rằng cha sẽ biết và cảm thấy đau khổ, cô cảm thấy có hơi hướm của việc đó.

Materia thả đứa trẻ ra, chẳng có gì tốt, Chúa có thể nhìn xuyên qua những hành động của cô, nhìn thẳng vào tim cô và thấy rằng tim cô vẫn đang trống trơn. Materia không còn đến chỗ hộp đựng đồ để khóc nữa, cô khóc ở bất kì đâu, cô cũng không để chuyện đó ảnh hưởng đến công việc của mình nữa, thậm chí nó không làm nhúc nhích một thớ thịt nào trên mặt cô.

"Cho tôi một cây kẹo cứng và vài viên kẹo mật ong", James nói.

Cửa tiệm bán thuốc và kẹo của MacIsaac có mùi gỗ thông mới, mùi đắng của thảo dược và mùi kẹo bơ pha mùi muối biển. Ông MacIsaac với tay lấy một cái lọ đậy kín đầy những viên kẹo cầu vồng, phía sau ông là hàng loạt những cái kệ chất đầy chai lọ và các gói bột, nước hoa, dầu và thuốc cao, bất kì thứ gì làm bạn khổ sở.

Ông MacIsaac đưa que kẹo thổ phục linh cho Kathleen như một món quà tặng thêm, cô bé ngần ngại nhìn James, tới khi anh nói "Không sao đâu con, ông MacIsaac không phải người lạ".

Ông MacIsaac nhìn Kathleen một cách nghiêm trang, sau đó cúi đầu xuống và nói "Coi nào, thử đụng vào đi."

Cô đụng vào cái đầu hói bóng lưỡng của ông và mỉm cười, ông MacIsaac nói "Ta nghe nói con có giọng hát rất tốt hả cô bé?"

Cô bé gật đầu một cách 10000 khôn ngoan, miệng vẫn mút kẹo. MacIsaac cười sảng khoái, khuôn mặt James rạng rỡ. Anh dắt Kathleen rời khỏi cửa tiệm. Bà MacIsaac vừa tuột xuống khỏi cái thang vừa nói "Con bé đẹp quá!"

"Ừ, một sinh vật bé bỏng xinh đẹp"

"Quá đẹp, họ sẽ không nuôi nổi nó đâu."

Bà MacIsaac coi cửa tiệm trong khi ông MacIsaac rề rà đi về phía nhà kính để tìm kiếm một chút "tâm hồn". Ông đã từng tham gia chiến tranh ở Bua.

Ở nhà, Materia đang đứng nhồi bột làm bánh ở bàn bếp - bánh bít tết và thận trọng như mẹ James vẫn thường làm - cuối cùng nhận ra cái thứ đã làm cô cảm thấy khó chịu bấy lâu nay. Chính là việc rửa tội của Kathleen chưa được đúng vì nó được một người theo đạo Tin Lành tiến hành. Đứa trẻ cần phải được rửa tội đúng cách, ở vùng Latinh và do một Đức cha đạo Thiên Chúa tiến hành, và sau đó mọi việc đều sẽ ổn. Cô nói với James về việc đó khi anh về nhà, nhưng James nói "Kathleen đã được rửa tội rồi, việc đó đã được một người đàn ông mặc áo thầy tu tiến hành, một người theo đạo Chúa, chừng đó là đủ rồi."

Má của Kathleen phồng lên vì ngậm kẹo cứng, đôi mắt xanh nhìn chằm chằm vào mẹ nó, Materia chẳng thấy có vẻ gì là con bé đã được rửa tội cả.

James dạy con gái đọc chữ ngay sau khi cô bé biết đọc nhạc. Ba tuổi rưỡi, cô bé đã có thể ngồi trong lòng cha mình và ôm một cuốn sách có hình minh họa ghê rợn to gần nửa người mình và đọc to "Giữa cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta, tôi tìm thấy tôi lạc lối giữa một khu rừng u ám...". Anh bắt đầu dạy tiếng Latinh khi con bé được năm tuổi, đồng thời cũng tự học, điều này sẽ tốt cho việc hát tiếng Ý của cô bé. Anh đặt mua một thùng sách khác, lần này là những cuốn sách kinh điển dành cho trẻ em, và họ thay phiên nhau đọc lớn chúng.

Anh không có nhiều thời gian cho việc đọc sách của mình, mặc dù bây giờ số lượng sách của anh đã là hai mươi ba cuốn, không kể quyển Bách khoa toàn thư nước Anh. "Đọc hết quyển này mới sang quyển khác", James nghĩ vậy khi nhìn vào cái tủ kính của mình, "và vậy là mình sẽ biết được tất cả mọi thứ, mình có thể đi bất cứ đâu."

Ở trường học địa phương, Kathleen được học cách ngồi theo hàng lối, cư xử mạnh dạn hơn với những đứa trẻ khác, những đứa bé "kém may mắn hơn" . Cô giáo rùng mình khi nhìn thấy cô bé mỏng manh với đôi mắt của một nàng tiên cá, đứa bé này có vẻ như đang ở trong một cái lốt ngụy trang. Cứ nhìn chằm chằm vào góc tường hoặc nhìn ra cửa sổ như chờ đợi gì đó - một dấu hiệu sao? - nhưng lại luôn sẵn sàng có câu trả lời "Chó sói chết ở vùng đồng bằng Abraham, thưa cô". Tay khoanh lại trên bàn, lưng thẳng, "Bình phương cạnh huyền bằng tổng chiều dài hai cạnh góc vuông, thưa cô". Tất cả tạo nên một sự hoàn hảo phi thường. "I sẽ đứng trước E trừ khi nó đứng sau C, thưa cô". Những điều này không phù hợp với một đứa trẻ, mà cũng có thể nó thực sự không phải là một đứa trẻ.

Ở sân chơi thì Kathleen có vẻ sống động hơn, nhưng lại theo một cách kì cục, cô bé thể hiện một xu hướng đáng ngại là chỉ chơi với các bạn trai. Ném banh, lấy cặp làm khiên đỡ, la hét hào hứng trong chiếc váy thủy thủ bằng satanh, mái tóc quăn bay bay, tự trục xuất mình khỏi thế giới của con gái.

Đầu gối bầm tím và quần áo rách tơi tả là hậu quả của việc quá năng động, James không bao giờ quở mắng cô bé vì làm rách quần áo, nhưng khi cô bé về nhà và nói "Pius MacGillicuddy cho một ngón tay vào cái hũ mà cha ông ta tìm thấy dưới hầm mỏ, ông tìm được một cái mầm cây nhỏ xíu" thì anh biết rằng đã tới lúc cho cô bé vào học trường Holy Angels ở Sydney.

Các sơ của giáo hội Notre Dame có trách nhiệm đào tạo giáo dục các cô gái trên tất cả các phương diện: từ Ngữ pháp đến Thực vật học, từ Vật lý đến tiếng Pháp. Nhưng trên hết, trường Holy Angels có các chương trình dạy nhạc tuyệt vời. James định chờ vài năm, cho đến khi Kathleen mười hai tuổi và anh để dành đủ học phí, nhưng như vậy thì không ổn, lúc đó con bé sẽ bị lu mờ đi mất, anh sẽ kiếm được tiền.

Anh làm một khu vườn ở sân sau, ở khá xa phía bên kia con lạch. Anh mua một con ngựa già và một cái xe nhỏ, anh đi khắp cả hòn đảo, đến tận Margaree để kiếm được lớp đất phủ không có bụi than. Quý cô ở nhà sẽ phải tự học cách làm xà bông, bơ và quần áo. Từ bây giờ trở đi họ sẽ chỉ phải trả tiền mua thịt, và Benny thì luôn đưa ra cho họ một cái giá đặc biệt, Benny cũng cho họ giá ưu đãi khi mua phân bón.

"Cho cậu, miễn phí đấy. Đó là phân bò ăn kiêng, sướng nhé, cậu sẽ có cà rốt và khoai tây ăn kiêng, rồi cậu sẽ sớm thành người Do Thái. Nếu cậu muốn, tôi sẽ cắt bao quy đầu cho, không tính tiền đâu."

James quay trở vào rừng và chặt về một cây táo còn non, chặt bỏ hết cành nhánh, vót nhọn hai đầu và cắm nó ngay giữa khu vườn. Đóng một tấm ván ngang qua nó và tròng vào đó một bộ đồ cũ của Materia, bộ mà cô không thể mặc vừa nữa và đội cho nó một cái mũ phớt mà anh nhặt được ngoài đồng. Vẫn chưa có hiệu quả cho tới khi anh làm cái đầu và thân trên từ hai bao bột nhét đầy rơm khô để cho vừa với bộ đồ và cắm chúng vào cây cọc. Anh thường xuyên thay đổi quần áo cho nó, lúc thì cái áo, lúc thì cái quần nhưng mũ thì không thay đổi, để đuổi lũ chim đi.

"Kathleen, đến đây". Materia không còn nói tiếng Ả Rập với cô bé nữa. Để làm gì? Kathleen theo mẹ vào bếp. Ngày mai là ngày đầu tiên Kathleen đến trường Holy Angels và James muốn cô bé phải thật gọn gàng sạch sẽ, có nghĩa là nói về mái tóc. Materia đã từng rất sợ gội đầu cho con bé bởi vì nó rất ồn ào và James sẽ hét lên từ ngoài cửa bếp "Em định giết nó luôn đấy à?", nhưng bây giờ cô đã quen với sự nổi loạn của Kathleen và làm việc đó rất nhanh lẹ, xối nước, kì cọ da đầu, nhúng đầu vào nước, vặn khô các bím tóc và chải lại gọn gàng mà vẫn giữ nó im lặng. James có thể hét lên, nhưng anh không muốn xâm phạm việc tắm rửa của cô con gái. Đêm đó vẫn có sự chống cự như thường lệ "Đừng có kéo, mắt con cay quá! Á á á, ngừng lại!" nhưng khi Materia đã giữ được mái tóc của Kathleen và kéo ra sau để chuẩn bị giội nước, cô giữ lại lâu một chút để có thể nói với đôi mắt xanh đang ngập trong nước "Con sẽ từ bỏ Satan chứ?" "Vâng." "Cả những điều tội lỗi của hắn nữa?" "Vâng". "Nhân danh Cha, Con và các thánh thần. Amen." Đấy, ngay trong những lúc khẩn cấp thì bất kì người theo đạo Thiên Chúa nào cũng có thể rửa tội cho một đứa trẻ. Và sau chín năm thì Kathleen có thể coi đây là một trường hợp khẩn cấp, giờ con bé sẽ được an toàn, giờ Chúa sẽ yêu thương nó cho dù Kathleen không thể và những nữ tu sẽ không nghĩ xấu về nó. Materia thả tay ra và khuôn mặt Kathleen bật ra khỏi mặt nước, thở hổn hển. Kathleen không hề khóc hay cằn nhằn, con bé đứng ngoan ngoãn một cách bất thường cho mẹ lau khô, cẩn thận không chạm quá mạnh vào những chỗ đau trên người.

Đêm đó, Kathleen thức dậy và la hét, đến khi cha đã bế cô bé lên nó vẫn còn đang hét, cô bé bám cứng vào James khi anh bế nó đi lên đi xuống và cố gắng đoán xem cô bé đang nói gì.

"Ai đến bắt con?", James hỏi

Cho đến khi anh đoán được một chút thì "Ai là Pete?" và cô bé vừa thút thít vừa nói cho anh biết. Anh ẵm con bé xuống cầu thang, ra khỏi cửa bếp, băng qua cái lò gạch nung ở sân sau, qua khỏi cái cầu nhỏ đến khu vườn và đứng ngay trước mặt con bù nhìn.

"Giờ con đánh cho rớt cái hộp xuống đi", James ra lệnh.

Kathleen run rẩy một cách không kiểm soát được, gần như bị nghẹn lại vì sợ. Cái mũ in bóng trên khuôn mặt không có mắt mũi của con bù nhìn, cô bé không thể nhìn thấy nó đang cười hay đang
nhíu mày.

"Coi nào, nắm tay lại", James nói.

Cô bé làm theo, vẫn khóc.

"Giờ đánh cho nỗi sợ của con biến mất khỏi nó đi!"

Cô bé đánh mạnh, rơi cái đầu của con bù nhìn xuống đất, cả cái mũ, tất cả.

"Đúng rồi, phải vậy chứ!", James nói rồi tung cô bé lên trời và đón lấy trong một tiếng reo. Kathleen cười vang, lúc nãy vừa khóc sao thì giờ cô bé cười cũng giống vậy. Nó đã xuất hiện trong một cuộc thi la hét, chỉ có những người hàng xóm của họ bây giờ và trước đây tham dự, rất lâu trước khi ánh đèn nhà máy đổ đến khu vực này và các ngôi nhà mọc lên. James lấy hết sức và hét lên "Im đi, các người im hết đi và lắng nghe đây này". Sau đó anh bảo Kathleen hát:

"Quanto affetto! Quali Cure!

Che temete, padre mio?

Lassù in cielo presso Dio,

Veglia un angiol protettor.

Da noi toglie le sventure

Di mia madre il priego santo;

Non fia mai divelto o franto

Questo a voi diletto fior"

Đó là cách mà James lấy được danh hiệu kẻ nghiện rượu mặc dù vào lúc đó anh không hề đụng tới một giọt rượu nào. Ngày hôm sau anh gắn lại cái đầu bù nhìn vào cây cọc và đội lại cái mũ lên cho nó. Không còn những cơn ác mộng nữa.

"Một tình yêu vĩ đại! Một sự chăm sóc!

Cha sợ gì, cha của con?

Trên thiêng đường, bên cạnh Chúa,

Con có một thiên thần hộ mạng

Chúng ta được bảo vệ khỏi những điềm xấu

Bởi những lời nguyện cầu của mẹ con

Bông hoa mà cha vô cùng yêu quý

Sẽ không bao giờ bật gốc, không bao giờ bị phá hủy."

 

Hầm mỏ

Dù đó chỉ là một cái xe ngựa cũ nhưng anh vẫn sơn cho nó màu đỏ và vàng xen kẽ, gọn gàng, như vậy con bé sẽ có một thứ xinh đẹp để đi đến trường mỗi ngày. Anh sơn chữ cái đầu tên cô bé bằng kiểu chữ mạ vàng lạ mắt ở phía bên sườn xe và họ vẫn thường đùa giỡn "Xe của cô đang chờ đây, thưa quý cô". Điều này có nghĩa là phải bỏ bớt vài học sinh, nhưng anh vẫn đánh xe đưa cô bé đi học ở trường Holy Angels mỗi buổi sáng và chờ sẵn vào mỗi buổi chiều khi những cánh cửa lớn mở ra và cô bé chạy nhanh xuống các bậc thang để gặp anh. Vào những buổi chiều thứ sáu họ sẽ la cà ở Sydney, đi dạo xuống những cầu tàu để ngắm nhìn những con tàu ở cảng.

"Một ngày nào đó con sẽ lên một trong những chiếc tàu này và ra đi, con yêu à."

Cô bé muốn anh đi cùng, dĩ nhiên là vậy, nhưng anh không thể bảo hộ cô. "Con sẽ phải hát cho mọi người trên khắp thế giới, ta không thể lúc nào cũng ở bên cạnh con được, nhưng ta sẽ luôn là cha của con."

Vào lúc đó cô bé sẽ khóc và anh sẽ đưa cô đi mua kem tại tiệm Crown Bakery, đôi mi cô bé vẫn còn ướt nhưng cặp mắt đã lại mỉm cười, cô không bao giờ buồn quá lâu. Họ đi đến bất kì đâu mọi người cũng nhìn chằm chằm vì cô quá xinh đẹp và hai người họ cứ y như những người bạn tốt nhất của nhau.

James biết rằng một ngày nào đó anh sẽ phải giao cô bé cho các chuyên gia, đưa cô bé đi thật xa, nhưng bây giờ... có Chúa. James đã dành trọn cả đời mình để bảo vệ món quà của Chúa, nhờ vậy mà anh chịu đựng được việc dạy dỗ con cái của những người tư sản nhỏ nhen cách phá hoại một bản "Fur Elise". Mình sẽ làm mọi thứ, anh thề với Chúa và tự nói với chính mình. Mình sẽ cắt bỏ đi một cánh tay, mình sẽ bán răng, mình sẽ đi vào hầm mỏ, mình sẽ để cho vợ đi tìm một công việc.

"Được thôi", Materia nói.

Anh đã tự chuẩn bị tâm lý cho mình rằng cô có thể tìm được việc lau dọn hoặc nấu ăn ở nhà ai đó hoặc ở một khách sạn, anh bảo cô sử dụng tên thời con gái của mình. "Nếu người ta nghĩ em đã có gia đình, người ta sẽ trả em ít hơn", anh giải thích. Không nên để người ta biết được rằng mẹ của Kathleen Piper lại là một người hầu gái.

Hãy thử tưởng tượng anh ngạc nhiên như thế nào khi thấy sau đó vài ngày, Materia mặc một cái váy đẹp và rời khỏi nhà, mái tóc được chải bới cẩn thận, che dưới mũ.

"Em đi đâu vậy?"

"Làm việc."

Ở đại lộ Plummer - con phố chính của thị trấn, bên trong nhà hát Empire Theatre, màn hình xanh đang sáng lung linh, bên dưới chỗ dàn nhạc, cây đàn piano cũng đang tỏa sáng tương tự. Những nốt rung, những quãng ba cứ như là đang hòa một cách tự nhiên với điệu nhảy điên cuồng của ánh sáng và bóng tối phía trên.

Khán giả nghiêng chầm chậm về phía sau khi đầu tàu xuất hiện ở phía chân trời, đầu tiên là những tiếng kêu leng keng hướng về phía họ, rồi tiếng chim hót - vào một ngày khác ở đất nước này - và sau đó là dấu hiệu đầu tiên của cái chết khi con tàu lù lù hiện ra ngày càng to hơn; một màn chuyển cảnh từ cái lớn đến cái nhỏ, xình xịch xình xịch, nó đã đến, ầm ầm lăn bánh, tiếng còi tàu rít lên, kết thúc bằng tiếng "hú hú" và lao qua những cảnh vật tuyệt đẹp trong giai điệu điên cuồng, phóng đi trên đường ray đến khi tất cả sụp đổ trong sự hoảng loạn, giấy tờ, chim chóc bay tán loạn đi khắp nơi và con ngựa sắt lao ngay trên đầu rồi vượt qua chúng ta.

Khán giả nín thở chờ xem cảnh kinh hoàng tiếp theo, tất cả những gì bạn có thể có được với một đồng năm xu. Materia cũng không thể tin nổi là cô lại được trả tiền cho việc này.

Cảnh tiếp theo còn đáng sợ hơn. Một người đàn ông trong bộ đồ ngủ săn đuổi một người phụ nữ mặc bộ đồ ngủ quyến rũ ở lưng chừng một ngọn tháp đồng hồ. Không cần phải có lời thuyết minh, mọi thứ đều rõ ràng, những cái bóng lẩn trốn, ngọn tháp nghiêng ngả, âm nhạc trườn theo các bậc thang, kẻ côn đồ rượt đuổi theo tà áo lụa duyên dáng trong đoạn nhạc sáu tám đến nơi mà nữ anh hùng của chúng ta đang bám vào một giai điệu nữ tính, bập bềnh trên nốt Rê cao và nhìn xuống những con đường của các quãng tám phía dưới. Tên khốn vật lộn với cô gái trẻ trong một điệu van rùng rợn, từ Strauss chuyển sang Faust, cho đến khi cô gái có vẻ lảo đảo, lao vào nốt trầm khóa và chết, mắc kẹt trên lưới của khuôn nhạc thấp hơn, khung cảnh được đệm bởi một điệu tenor mạnh dần và phần còn lại của ngày chìm trong các bản hòa âm.

Trước đó rất lâu, Materia đã chơi cho các buổi họp mặt khiêu vũ của địa phương và các gánh hát rong.

Tháng 12 năm 1909, James cho Kathleen học nội trú tại trường vì trẻ em ở thị trấn bùng nổ giờ đang chết dần chết mòn. Sốt phát ban, bạch hầu, dịch tả, thương hàn, đậu mùa, lao. Bỏ lại sau lưng những chiếc quan tài trắng bé bỏng. Sự bùng phát bệnh thực sự còn hơn cả mức bất thường nhưng vấn đề ở chỗ, đây là bệnh dịch do cuộc biểu tình của những người thợ mỏ gây ra. Hàng loạt các ngôi nhà của thợ mỏ bị bỏ trống, những người thuê nhà nổi dậy đình công, họ bị đuổi khỏi các ngôi nhà, bỏ chúng hoang tàn, giật sập nhà xí và các giàn giáo, tín dụng ở cửa hiệu của công ty bị cắt giảm. Lực lượng bảo vệ cuả Pinkerton và cảnh sát đặc biệt của công ty đi từ nhà này đến nhà khác cho tới khi đồ nội thất nằm ngoài đường còn nhiều hơn là trong nhà. Thậm chí những người thợ mỏ đã mua được nhà riêng cũng bị đuổi đi, công ty than đã đặt một nỗi sợ của Chúa vào công ty trả góp. Các gia đình ngồi xổm trong các khu lều rách nát trên đồng, không có nước sạch, thức ăn ít ỏi, chỗ ở hiếm hoi trong những cơn gió mùa đông của biển Đại Tây Dương. Nhọt đỏ bắt đầu nổi lên dưới cằm của các em bé, rồi chúng sẽ chết ngộp vì mủ hoặc là sẽ chết dần mòn đi vì ho.

Không gì có thể thuyết phục những người thợ mỏ quay trở lại với công việc, thậm chí cả những khẩu súng máy của Hoàng gia Canada trang bị trên bậc thang nhà thờ Đức bà Mary phía bên kia con suối Cadegan hay mặc dù cha Charlie MacDonald đã tuyên bố rằng tạm thời ông sẽ vắng mặt, nhà thờ Thiên Chúa giáo vẫn giữ sự kiên nhẫn như mọi khi nhằm kết thúc sự đau khổ không cần thiết của cuộc đình công, giám mục gởi một đặc phái viên đến thị trấn để đuổi hết người trong các tu viện, trường học, nhà mục sư và nhà thờ của các gia đình thợ mỏ, nơi mà Cha xứ của xứ đạo - cha Jim Frazer - đang sống. Sau đó giám mục đã đưa cha Frazer rời khỏi đảo.

James đã hành động nhanh chóng, không đủ tiền cho Kathleen vào học nội trú tại trường Holy Angels nhưng tiền thì có thể kiếm được. Cô bé không thể ở lại trong cái thị trấn này để rồi lây bệnh từ những đứa trẻ con nhà thợ mỏ và chết, hoặc là bị què, bị sẹo trên mặt, xin Chúa, không thể như vậy được. Chính họ - những tên khốn cứng đầu, gây ra những chuyện đó, và đó là lí do mình phải gửi con gái mình vào ngôi trường mà thực sự mình không lo liệu nổi, ai sẽ giúp mình làm việc đó bây giờ? Hội đồng giáo viên piano? Hội những người chỉnh đàn piano toàn thế giới? Chúa Giêsu trên thập tự giá? Không, mình phải tự lo lấy.

"Con cưng, con sẽ ở tạm trong trường một thời gian nhé?"

Cô bé không muốn vậy.

"Không, ta không có ở đó, và phải một thời gian sau ta mới đến thăm con được". Anh sẽ thực hiện việc cách ly nghiêm ngặt. "Sẽ vui lắm, rồi con xem, con sẽ có nhiều bạn nữa".

Cô bé khóc. Anh nói, giọng bỗng trở nên nghiêm khắc "Giuditta Pasta bị tật, nhưng khi được hỏi làm sao cô có thể hát hay như vậy, cư xử lịch thiệp như vậy hằng đêm mà không hề thể hiện chút đau đớn nào, cô ấy nói sao?"

"Đau lắm."

Anh vỗ nhẹ lên đầu cô bé, "Phải vậy chứ!"

Phải nhiều tháng nữa anh mới gặp lại cô bé, anh tự nghĩ, đó sẽ là một thời gian huấn luyện tốt cho cả hai.

Anh chuyển cái vận rủi mà cuộc đình công mang lại thành những mục đích riêng của mình. Một buổi sáng mùa đông, trước khi bình minh lên, anh vác theo ba cái cuốc chim mới và sáng bóng, một cái xẻng mới toanh không sứt mẻ và một cuộn dây thừng. Anh đổ đầy mỡ cá voi vào cái đèn kiểu ấm trà, gắn nó lên cái nón chóp nhọn, móc hộp đựng bữa trưa vào thắt lưng và đi cùng ba người bảo vệ nhà Perkinton đến cổng mỏ số 12, nơi mà Tommies mặc bộ áo ka ki đứng canh mỏ than với những cái lưỡi lê trên tay.

Những người lính dắt anh vào cũng không thân thiện hơn những cái bao tay sắt của những người thợ mỏ đang biểu tình bên ngoài, dù những người lính này không nhổ nước bọt hay nổi giận và gọi anh là "đồ phá hoại", hoặc kết tội anh vì đã giết chết con cái của họ. Nhưng họ cũng không hứa là họ sẽ không ném anh cho lũ heo.

Anh đi vào cửa hầm, theo ánh sáng chập choạng của ánh đèn trước trán và cái bóng của những người phía trước, theo dốc xuống hầm dọc theo đường ray, với tay lên để nắm lấy những cuộn dây thép. Mùi ngột ngạt như mùi của ngựa, gỗ ẩm và đất, băng qua những cánh cửa sập có vẻ như tự động bật lên một cách bí ẩn cho đến khi nghe thấy giọng con nít cất lên "Này anh bạn, mấy giờ rồi?", Quẹo trái, quẹo phải, lại phải, rồi lại trái, đi xuống, đi xuống, xuyên qua một mê cung các ngả đường vắng dẫn vào một căn phòng tối tăm. Anh nghe thấy tiếng chim hót líu lo.

Mỏ số 12 cực kì ẩm ướt và hôi hám nhưng James không biết phải so nó với cái gì. Anh xúc than vào xe trong một căn phòng nước nhỏ giọt và anh cũng không biết mình đang ở bên dưới đáy biển. May sao anh làm việc chung với một người đàn ông có rất nhiều kinh nghiệm, công việc của ông là đục các vách tường, khoan lỗ và lắp đặt thuốc nổ mà không làm nổ tung cả cái hầm mỏ. James không thể xác định được giọng nói của người đàn ông và cũng không biết ông là người da đen, đến từ Barbados, anh chỉ biết là Albert chưa bao giờ có sai sót ảnh hưởng đến mạng sống của họ. Barbados, Ý, Bỉ, Tây Âu, Quebec...Công ty than Dominion đã vươn xa và rộng khắp để dẹp bỏ cuộc đình công. Có rất ít giọng Anh trong bóng tối và hầu hết đó đều là các giọng nặng. James uống trà lạnh và nhai thuốc lá để cản bụi, và lúc đầu thì anh còn giấu giếm, nhưng sau đó cũng đã chia sẻ những cái bánh mì kẹp thịt của mình. Cái xe chỉ chở được khoảng một tấn, khi nó đầy, anh và Albert sẽ đẩy nó từ trong lò than lên lối đi chính và đẩy mạnh để nó được chuyển đi. Sau khi kết thúc mười tiếng thì họ đến một nơi còn tối tăm hơn.

Những người đàn ông nước ngoài được hộ tống đến khu trại công nhân có đóng cọc xung quanh ở gần đó, được gọi là Sân 14, để hát hò, ngủ hoặc cờ bạc trong khi Trung đoàn Hoàng gia Canada đứng gác. James đi bộ về nhà với những thằng khốn nhà Pinkerton, len lỏi giữa những hàng người bẩn thỉu sẵn sàng chặt tay chặt chân của mình chỉ mong có được một nửa cơ hội - cho là họ nhìn thấy thì James cũng không cần bào chữa, anh không chết đói và anh không phải người nước ngoài - và băng ngang qua những người phụ nữ đang đứng trước cổng nhà và ném cho anh cái nhìn đáng sợ cùng những lời lẩm bẩm "Mong Chúa tha tội cho mày". Một người sau khi nói lời cầu nguyện cho anh đã ném một cây chặn cửa bằng sắt vào anh, nó sượt ngang qua, chỉ cách anh có một sợi tóc.

James đã làm được những gì mà anh từng làm được khi dạy piano. Trong vài tuần đầu anh đã lặng lẽ khóc mỗi lúc bắt đầu một ca làm việc cho tới khi cơ thể anh hòa vào công việc. Mỗi đêm ở nhà, sau khi anh đã trắng trẻo trở lại, anh quỳ gối, tay khoanh lại và cầu xin sự tha thứ của mẹ mình vì đã đi làm cái công việc dưới lòng đất đó.

 

Cái giá của một bài hát

"Em ốm đi một chút rồi, điều đó tốt đấy", James nói với Materia trong bữa ăn tối.

Cô nhún vai.

"Em đang mơ gì giữa ban ngày vậy?", anh diễn đạt một cách dài dòng, cô lúc nào cũng nhìn trân trối vào một cái gì đó và cũng có thể là không gì cả.

"Houdini", cô nói.

"Ai?"

"Houdini."

Anh chẳng buồn theo đuổi câu chuyện nữa, chỉ là một câu hỏi ngu ngốc. Từ lâu anh đã chẳng còn tha thiết gì với việc nói chuyện với cô và giờ anh chỉ thầm cảm ơn Chúa vì sự ngu ngốc và đen đúa đã không bị truyền sang con gái anh, và vì vợ anh đã học nấu ăn.

"Cái gì đây?"

"Kibbeh nayeh."

"Đây là một món Do Thái sao?"

"Li Băng."

Benny đã lén dạy cho cô các công thức nấu ăn.

Ai cũng có thể nấu kibbeh nayeh, ai cũng có thể làm bất cứ thứ gì nếu theo đúng hướng dẫn, nhưng để làm cho đúng thì cần phải có một chút năng khiếu. Một số người nói nó nằm ở chiều dài ngón tay của người đầu bếp, một số khác lại nói nó nằm ở mùi hương, độc nhất như dấu vân tay của mỗi người. Đó rõ ràng là một tài năng.

Kibbeh là một món ăn truyền thống của vùng Siri và Lebanon, nó phải được nấu từ loại thịt ngon nhất, do đó nhà Mahmoud chỉ mua từ cửa hiệu thịt ăn kiêng của nhà Luvovitz. Trong khi bà Luvovitz và mấy cậu con trai trông coi cửa tiệm, Benny đi giao hàng ở Sydney và lần nào điểm đến cuối cùng cũng là nhà Mahmoud trên đồi. Ở đó có một người phụ nữ tròn trịa da đen, vóc dáng nhỏ nhắn, mái tóc điểm bạc sẽ mở cửa cho ông. Benny không nói được tiếng Xen-tơ còn tiếng Anh của bà Mahmoud thì vẫn chưa trôi chảy, nhưng họ vẫn cố gắng nói chuyện với nhau. Benny vẫn thường giả vờ xem như sự quan tâm của bà Mahmoud đối với gia đình Piper hoàn toàn là một sự tình cờ.

"Dĩ nhiên là tôi biết nhà Piper chứ, cô Piper là một quý cô tốt bụng, người Li Băng luôn như vậy, tôi nghĩ là bà biết cô ấy chứ - không à? - À đúng rồi, họ có một cô con gái dễ thương lắm, Kathleen đấy, đang học ở trường Holy Angels, cô bé hát hay như một chú chim vậy."

 

Sáng hôm đó khi Benny hỏi xin bà Mahmoud công thức nấu món kibbeh "cho vợ tôi", bà không hể nhướn lông mày mà ngay lập tức đi đến bên tủ búp phê và chỉ ra các nguyên liệu. Benny ghi lại tất cả trong một tờ giấy gói hàng màu nâu trong lúc bà Mahmoud làm những điệu bộ để mô tả cách nấu, kể cả việc đóng một cái dấu chữ thập lên miếng thịt đã hoàn tất. Benny cười lớn và lắc đầu, sau đó ông thay nó bằng cách vẽ một ngôi sao David.

Bà Mahmoud nhún vai và nói "Ông thích gì cũng được", và cho ông thử hương vị tuyệt vời của món kibbeh tưởng tượng mà bà mới làm.

"Ngon lắm", ông nói.

Đêm hôm đó, bà Mahmoud nhìn chồng mình ăn và nghĩ tới cô con gái lưu lạc của mình, có lẽ lúc này nó cũng đang dọn chính món này cho chồng của nó. Chồng nó có biết trân trọng không? Chồng nó có còn thương yêu nó không?

Ở cách đó chín dặm, James găm một nĩa đầy thịt và cho vào miệng.

"Ngon lắm!"

"Ăn với bánh mì ấy!"

Anh làm theo Materia, rắc một ít dầu lên miếng thịt đã ướp hương vị và lúa mì mềm, xé một miếng bánh mì và cuộn tất cả lại cho vào miệng.

"Em học nấu món này ở đâu vậy?"

"Đó là thịt sống, không có nấu."

Anh ngừng lại.

"Thịt kiêng hả?"

Cô gật đầu, anh tiếp tục ăn. Materia cảm thấy đau nhói một cái, cô nghĩ "Chúng ta thật hạnh phúc khi không có con bé."

Cô nhẹ nhàng chạm vào phía sau cổ anh.

"Em làm gì vậy?", anh nói

"Không có gì", sau đó cô quay trở lại chỗ bồn rửa

Cho tới giờ thì những diễn viên kịch vẫn da trắng và trong các buổi diễn của họ cũng có những đứa bé da đen trong lốt hóa trang, nhưng bây giờ nhờ có cuộc di cư của người da màu đến các vùng khai thác than ở Sydney nên các nghệ sĩ da màu thực thụ đã bắt đầu từ các vùng Liên bang đến đây. Materia không thể hiểu nổi tại sao họ lại cứ biểu diễn với những cái mặt nạ đen tô vẽ cái miệng khổng lồ, nhưng cô biết là cô thích như vậy. Cô đã có được một bộ sưu tập lớn nhạc ractim, nhạc 2 bước, nhạc cho điệu nhảy thảy bánh, nhạc trong đám rước, nhạc trữ tình, những bài hát ru ở đồn điền và nhạc phúc âm.

Cô phải chơi cho quán của nhóm nhảy Tap Blackville khi người chơi đàn của họ bị bắt ở vịnh Glace. Họ là một bộ ba anh em trực thuộc sự quản lý của chính mẹ họ. Người lớn tuổi nhất còn đặt tên cho hai chân của anh ta, anh ta gọi chân trái là Alpha và chân phải là Omega.

Những đôi giày đế gõ, những đôi chân sáng loáng đi lại ồn ào náo nhiệt, bay nhảy và lượn lờ khắp thế giới và chưa bao giờ bỏ sót một sân khấu trung tâm như Nhà hát Empire. Materia chỉ nhìn vào đôi chân của họ và để bàn tay mình dạo lên các bản nhạc Rigoletto hòa với "Coal Black Rose", bản "Una Voce Poco Fa" bập bênh với "Jimmy Crack Corn", tất cả hòa trộn vào nhau trong sự sáng tác ngẫu hứng của cô - về phần những bộ phim, sự trao đổi hai chiều chỉ dành cho các vũ công. Họ săn đuổi, nói chuyện, tâng bốc và xoay vòng - những người thợ da đen, ngà ngà hay màu kền cố tóm lấy cho tới khi không còn không còn giai điệu nào nữa, chỉ còn lại nhịp điệu và
điệu bộ.

Materia trở thành người hơi nổi tiếng, đặc biệt là đối với các chàng trai nông thôn.

"Này Materia, khỏe không, cô gái?"

"Đối với cậu thì đó là bà Piper đấy, anh bạn", James đáp trả.

Vào một ngày chủ nhật trong tháng ba, họ ra ngoài để làm vệ sinh tường nhà, anh quay sang Materia khi một tên đồ tể đi ngang qua. "Làm sao em quen hắn?"

"Buổi diễn."

Nhóm nhảy Tap Twizzlers mời cô tham gia lưu diễn với họ với tự cách là người hợp tác lâu dài. Họ sẽ đi đến châu Âu, Materia từ chối. Cô đã khóc suốt đoạn đường về nhà khi nghĩ đến cảnh cô và James sẽ vui vẻ như thế nào lúc cùng nhau ngắm nhìn thế giới trong một chuyến lưu diễn. Nhưng cô biết tốt nhất là không nên hỏi anh.

Những người nghệ sĩ da màu sau đó không còn đến nữa bởi vì có tin đồn lan truyền rằng những người mới đến vùng mỏ than Sydney đến từ vùng Tây Ấn và họ không mấy thích thú đối với những trò giải trí của những người Mỹ da màu. Nhưng Materia vẫn còn những người nghệ sĩ, các buổi chiếu phim, và cô cảm thấy vui miễn là cô được chơi đàn. Dưới khu vực của dàn nhạc, cô tự giải khuây bằng cách thỉnh thoảng trang điểm một chút. Từ giờ trở đi đầu máy xe lửa sẽ lao vào khán giả trong bản "Anh thật lòng yêu em", cán qua họ trong bản "Bản sonat ánh trăng". Những kẻ côn đồ tấn công các cô gái trong bản "Khúc nhạc cưới" và giọng nam cao sẽ giúp ngày trôi qua trong bản "Chú gà trong đống rơm". Các diễn viên than phiền nhưng khán giả vẫn nhìn say sưa vào các chú thỏ chui ra từ trong cái mũ chóp cao hay từ những tấm ván gập ghềnh , những người phụ nữ thì đong đưa theo bản "Chúa của anh đến gần bên em". Materia luôn mỉm cười khi cô chơi đàn nhưng giờ cô bắt đầu cười khúc khích thành tiếng mặc dù cô không nhận ra điều đó. Điều này làm khán giả yêu mến cô hơn, họ thích cô một phần là do sự điên rồ đó.

Những ngày này James đi suốt đoạn đường dài đến Sydney để mua lương thực. Ngoại trừ Benny và MacIsaac, anh không làm phiền bất kì nhà nào có kinh doanh tại thị trấn. Tại sao lại phải vào đó để bị họ sỉ nhục trong khi anh trả một số tiền lớn? Cả thị trấn đang khổ sở do hậu quả của cuộc đình công, không chỉ riêng những người thợ mỏ, do đó mọi người đều ghét một kẻ phá hoại. Anh không bao giờ đi bộ, anh đánh chiếc xe của mình để không cho mọi người cái cơ hội thỏa mãn khi vội vàng băng qua đường vì nhìn thấy anh. "Và tất cả là vì mình có trách nhiệm chăm sóc gia đình". Điều bực bội là vào một dịp tình cờ nào đó Materia đi chung với anh, thì anh lại nghe thấy hết lần này đến lần khác "Chào Materia, việc biểu diễn sao rồi cưng?". Những người không dành tí thời gian nào cho anh lại sẵn sàng ngừng lại nói chuyện với cô vợ dốt nát của anh về sự nghiệp đánh đàn của cô. Những người này tự nhiên lại sùng bái một thể loại nhạc bình dân, và tại sao họ lại ra ngoài xài số tiền mà lẽ ra họ không có đủ để mua một cái vé vào cổng ở nhà hát Empire? Bây giờ thì đã có quá nhiều người Ailen ở trong thị trấn so với những gì mà James thích. Mỗi căn nhà là một quán rượu, người Công giáo nghiện rượu đầy rẫy. Nếu họ làm việc chăm chỉ hơn và bớt lãng phí đi thì giờ họ sẽ không gặp rắc rối như vậy. James nghĩ đến câu chuyện châu chấu và kiến của Aesop và tự làm một cái ghi chú trong đầu để nhắc mình nhớ gửi kèm câu chuyện cho Kathleen trong bức thư
tiếp theo.

Chọn một gói bột ở cửa hàng MacIsaac, James lại phải chịu đựng " Cậu có một người vợ rất tài năng đấy cậu Piper."

James trả tiền, ông MacIsaac tiếp tục " Thế còn cô gái nhỏ thì sao rồi?"

"Nó vẫn ổn."

"Ừ, nó có tài lắm đấy, con bé đấy!"

James gật đầu, ông MacIsaac lại mỉm cười và nói thêm "Chắc chắn là giống mẹ nó rồi."

James quay lưng và rời khỏi cửa tiệm, anh sẽ không bao giờ đưa Kathleen đến đó lần nữa, anh quyết định sẽ không tin những người đàn ông bị hói. Anh không thích cái cách ông ta nhìn bọn trẻ với đôi mắt màu xanh nước biển và khuôn mặt đỏ to bè. Nếu MacIsaac thích trẻ con như vậy tại sao ông ta lại không có con?

Khi James đi rồi, bà MacIsaac quay sang nói với chồng "Đừng để nó bước chân vào đây nữa". Ông MacIsaac mỉm cười dịu dàng với vợ rồi quay trở lại nhà kính của ông. "Đến khi nào cần thiết rồi hãy làm những việc mình không thích."

Mọi người đều thích MacIsaac nhưng không ai hiểu nổi làm sao ông có thể chịu được một người như Piper, nhưng MacIsaac lại thấy không có lí do gì để hành hạ gia đình của một người vì những lỗi lầm của người đó và đó chính là những gì bạn làm khi bạn ruồng bỏ một người. Mọi người chỉ nhún vai và đoán rằng do ông MacIsaac quá sùng đạo. Và theo một cách nào đó thì đúng là vậy, ông dùng hầu hết thời gian để tìm ra các phương thuốc trong các cánh đồng, nơi mà người khác chỉ nhìn thấy cát sỏi và bụi rậm. Ông chăm chút cho cây cối trong nhà kính của mình, không bao giờ gây ra nợ nần, chỉ tiếc nuối về những thức uống.

Cuối tuần đó, James ngồi xuống bên những chiếc bánh cà chua mật và nói "Anh muốn em nghỉ làm, quý cô à, công việc của anh ở mỏ kiếm đủ tiền rồi."

Không trả lời. Anh nhìn lên, đôi khi thật khó để biết cô ấy có nghe thấy anh nói gì hay không.

"Em có nghe anh nói không?"

"Được thôi..."

"Cũng đừng có đi vòng vòng một mình trong thị trấn nữa."

Thật là buồn cho họ khi có một tài năng nhưng lại bị bỏ lu mờ đi trong bóng tối, những cái cây héo hon sẽ đâm ra những cái rễ vô hình và sống ngày càng nhợt nhạt đi, chẳng còn sinh khí.

Tuần đầu tiên nghỉ làm ở nhà hát Empire là lúc khó khăn nhất. Ngôi nhà trống vắng, James thì chỉ tối mới về nhà và chỉ cần được cho ăn chứ không đòi hỏi gì khác. Cô tìm kiếm chìa khóa của cây đàn và cuối cùng thì cạy nó ra bằng một con dao. Nhưng chỉ sau một vài nốt nhạc thì cô lại cảm thấy tĩnh lặng, cô cần một sân khấu chứ không phải một cái gác xép. Không có khán giả, không có buổi biểu diễn, Materia lấy âm nhạc của mình và cất vào cái rương chứa đồ.

Cô dọn dẹp nhà cửa và nấu rất nhiều, rồi lại ăn, cô không có tâm trí để dành thời gian bên cạnh bà Luvovitz vì những cậu con trai của bà, Abe và Rudy là một sự sỉ nhục trong lòng cô. Làm sao cô có thể yêu thương con cái của người khác hơn là con ruột của mình? Những khúc nhạc ở Empirea xa dần và trở nên không còn thực nữa, giờ Materia lại chỉ có một mình, với quá nhiều thời gian để suy nghĩ, tất cả những điều tội lỗi của cô quay trở lại và vây lấy cô: rời bỏ ngôi nhà của cha mình, phản bội và làm tổn thương cha mẹ mình, tất cả đều trái với những điều răn của Chúa.

Mình phải đi xưng tội, cô nghĩ, nhưng sau đó... để được tha tội thì mình phải thành tâm hối lỗi, nhưng hối lỗi vì đã trốn chạy theo một người khác nghĩa là hối lỗi cho tất cả mọi thứ bắt nguồn từ đó, và cô không thể. Cô vẫn muốn chồng của mình và đó chính là tội lớn nhất: ham muốn một người đàn ông, nhưng lại không muốn đứa trẻ sinh ra từ cuộc hôn nhân đó, và cô quay trở lại với tội lỗi ban đầu của mình.

Cô lại cầu nguyện với Đức mẹ Đồng trinh, nó làm tim cô đau buốt, và cứ như có một làn sương mờ ảo bay lên từ vết thương khi cô chợt nhớ ra mình không hề có một ý nghĩ nào về con gái mình trong suốt khoảng thời gian này. Cô không hề gửi đi một lá thư hay những món đồ từ nhà, cô thậm chí không bao giờ hỏi James "Con bé thế nào rồi?", cuối cùng Materia thấy mình trong một tấm gương trong vắt, và hình ảnh đó thật tàn ác.

Cô có thể nói với ai bây giờ? Không ai cả, nhưng cô phải nói ra, nếu không cô sẽ chết mất.

Vào tuần thứ hai, cô ra khỏi nhà và đi đến bờ đá nhưng không nán lại ở đó như thường lệ, cô trèo xuống bãi biển đầy đá và đi bộ ở đó. Cô không hát, cô cứ nói chuyện với những hòn đá bằng chính thứ tiếng mẹ đẻ của mình cho tới khi cô cảm thấy chóng mặt, ngày đã chuyển sang màu xám và cô bị lạc, không biết mình đang ở đâu. Và cuối cùng, như đôi khi vẫn xảy ra ở đâu đó trên thế giới, những đám mây tan đi, bầu trời sáng rực thắp sáng cả bãi biển trong những gợn lăn tăn màu đỏ và vàng. Materia cảm thấy tĩnh lặng, cô đối mặt với chân trời và lắng nghe cho tới khi cô nghe thấy biển đang nói gì với cô "Con gái của ta, hãy đưa nó cho ta. Rồi ta sẽ lấy, sẽ rửa sạch nó và sẽ mang nó đi đến một nơi xa xôi cho tới khi nó không còn là tội lỗi của con nữa, nhưng chỉ có sự tò mò bị cuốn đi, nhấn chìm xuống biển và được rửa tội."

Và cứ như vậy, ngày lại ngày, Materia để cho đầu óc của mình từ từ được cuốn đi cho tới khi cô có thể chia tay với nó một lần và
mãi mãi.

 

Quanto Dolor

"Tôi rất thích chia nhỏ, phân loại và đánh giá, anh thấy đấy, tôi rất cô đơn, tôi có quá nhiều thời gian để ngẫm nghĩ, và cha thì đang dạy tôi cách suy nghĩ."

Claudia, A.L.O.E.

Cuộc đình công kết thúc vào tháng tư năm 1910, và James đã tìm được một công việc kiểm tra khối lượng trên mặt đất như một phần thưởng cho sự trung thành của anh. Anh đã mong được gặp lại người bạn Albert dưới hầm mỏ của mình, mong là có cơ hội được nhìn thấy anh ta dưới ánh sáng ban ngày nhưng Albert đã ra đi. Anh ấy đã đi đến Sydney cùng với vài người khác ở Sân 14, và định cư ở Whitney Pier trong một khu dân cư có cái tên là Coke Ovens. Có rất nhiều người ở đó đến từ vùng Tây Ấn, công ty sắt thép Dominion biết được giá trị của những người đàn ông khỏe mạnh và có thể chịu được nóng. Coke Ovens là một cộng đồng ấm cúng, những căn nhà ở đó được sơn đủ màu trừ màu trắng, san sát vào nhau và ở ngay cạnh xưởng thép. Chính nhà máy đã giúp có được bánh mì trên các bàn ăn và phủ thêm một lớp bột cam lên trên bánh mì.

Ở thị trấn, các ngôi nhà của công ty được thuê lại một lần nữa, cửa hiệu của công ty lại chấp nhận chứng khoán của những người thợ mỏ, những đứa trẻ cuối cùng được chôn cất và Kathleen đã trở về nhà. James có một sự ngạc nhiên đang chờ: đèn điện, phòng vệ sinh có bồn cầu hiện đại, bồn rửa tráng men và vòi nước mạ kền, có thể chỉnh nóng lạnh.

Với công việc chiếm nhiều thời gian ở mỏ, James không thể đưa đón Kathleen đi học ở trường Holy Angels nữa. Anh thuê một chàng trai từ khu Coke Ovens để đánh chiếc xe của anh. James thấy như tuổi trẻ của mình quay lại khi nhìn vào chàng trai trẻ - Leo Taylor chỉ mới có mười sáu tuổi - nhưng James chắc chắn là cậu ta rất vững vàng.

"Không quanh co, đi thẳng đến đó và đi thẳng về nhà."

"Vâng thưa ông!"

"Tôi không muốn cậu nói chuyện với con bé!"

"Tôi sẽ không nói, thưa ông."

" Đừng chạm vào nó!"

"Vâng, tôi sẽ không."

"Tôi sẽ giết cậu."

" Xin ông đừng lo."

James nghĩ rằng thà thuê một chàng trai trẻ rụt rè đánh xe cho con gái mình còn hơn là thuê một thằng đểu. Thêm vào đó, việc Taylor là một người da màu càng làm James cảm thấy an tâm hơn về khoảng cách cần có giữa hành khách và người đánh xe.

Dù cô bé không còn người bạn nào ở thị trấn, Kathleen vẫn yên tâm hơn khi lại được sống ở nhà, ở nội trú tại trường Holy Angels thực sự rất cô đơn. Lúc đầu cô bé vẫn khóc cho tới khi ngủ thiếp đi, chỉ cảm thấy dễ chịu hơn nhờ những bức thư và quà cáp mà cha gửi. Nhưng cô biết rằng đã có vài sự hy sinh, cô biết những gì được kì vọng ở mình, không được lưỡng lự. Cô học chăm chỉ, nghe lời các nữ tu và không bao giờ than phiền, dù cô vẫn cầu nguyện với bà tiên đỡ đầu để gửi cho cô một người bạn vì ở trường Holy Angels không ai chơi với cô cả. Không có con trai, không có bụi bẩn bám trên đầu gối, những đứa con gái khác không thích thú gì với việc chiến đấu với đao kiếm và những cuộc phiêu lưu hay thi xem ai đóng giả cảnh chết hay nhất. Những đứa con gái khác từ lâu chỉ quan tâm đến những thứ tỉ mỉ của con gái mà Kathleen chẳng biết tí gì, hơn nữa, chẳng có đứa nào trong bọn chúng có sự nghiệp. Trước hết, các bạn cùng trường của cô ganh tị với tình bạn mà Kathleen có, cô bé quá xinh đẹp, quá thông minh, nhưng cô lại thất bại trong việc tuân theo những tôn ti trật tự xã hội, từ chối những đề nghị lịch sự của những cô bé khác nhờ cô thắt tóc giùm và dùng dây nhảy làm thòng lọng. Chúng cho là cô kì cục, và cuối cùng, tất cả đều xa lánh cô.

Kathleen lao mình vào công việc và trau dồi sự bất cần tuân theo lề lối, khăn quàng cổ của cô thắt lại và trễ xuống ở đằng trước, mũ kéo ra sau, tay nhét vào hai túi áo mà cô nhờ mẹ may thêm vào đồng
phục, mái tóc dài tung bay. Những nữ tu cho phép, vì cô thực sự có
tài năng.

Vào mùa thu năm 1911, thuyền của họ đến lục địa - James, Kathleen và thầy dạy nhạc của cô, xơ Saint Cecilia - đến một buổi diễn độc tấu ở nhạc viện hoàng gia ở Halifax, khách mời đặc biệt của những  nghệ sĩ chuyên nghiệp.

"Nhìn vào mắt cha này!"

Cô bé làm theo, anh cầu nguyện đến các linh hồn.

"Stendhal đã nói gì về Elisabetta Gafforini?"

"Dù bạn thấy, hay chỉ nghe thấy cô ấy, thì sự nguy hiểm là như nhau."

"Đúng vậy đấy", làm một cử chỉ âu yếm quen thuộc của anh trên đầu cô bé, "Giờ đi ra đó và cho họ biết ai là trùm đi nào!"

Kathleen hát một bài thơ tình của Cherubino gửi cho Susanna từ tác phẩm "Đám cưới của Figaro". Những giáo viên ở New York đưa cho James danh thiếp của họ, họ đang tìm kiếm một Emma Albani tiếp theo, nói với James những điều mà anh đã biết từ trước.

Henriette Sontag ra đĩa nhạc đầu tay lúc sáu tuổi, Maria Malibran lúc năm tuổi, Adelina Patti mỗi năm lại trẻ ra một chút, huyền thoại của cô thậm chí còn nổi tiếng hơn cả sự trẻ mãi của cô, nhưng James thực sự nghiêm túc về sự nghiệp của Kathleen nên anh không thể ngồi chờ nó bắt đầu. Kiên nhẫn là một dấu hiệu của nghệ sĩ thực thụ, giọng hát của cô sẽ vang mãi chứ không chỉ cháy bùng trong ngọn lửa vinh quang thời tuổi trẻ. Anh sẽ gửi cô đến học ở Halifax trong một năm để cô làm quen, sau đó sẽ đến Milano khi cô được mười tám tuổi.

Kathleen mười hai tuổi.

"Khi cha của Malibran nói với cô rằng cô cần phải tiếp tục vì Giuditta Pasta, cũng như Desdemona đối với Otello, anh đã nhìn thẳng vào mắt cô và thề rằng nếu cô hát không hay thì khi đến cảnh Otello giết Desdemona, anh cũng sẽ thực sự giết chết cô."

Kathleen cười lớn và nói "Cha là một ông già mê nhạc kịch,
đúng không?"

Materia rất ngạc nhiên, con bé thật hỗn xược, lẽ ra nó phải nhận một cái tát vì ăn nói kiểu đó, nhưng chẳng bao giờ anh làm vậy, thay vào đó lại còn cười và nháy mắt với nó.

Kathleen có một vẻ gì đó rất huênh hoang cho dù cô bé đang đứng yên, đặc biệt khi cô nghiêng mình bên cây đàn piano. Cô bé vẫn chưa biết mình xinh đẹp đến mức nào, nhưng cô đang bắt đầu nghi ngờ điều đó, cô chú ý đến cách đi đứng, đo lường ảnh hưởng của mình đối với người khác. Cô luyện tập những câu nói chán đời trước gương, cô tra nghĩa của từ "languid", cô tập một giọng nói khinh bỉ vui vẻ và rất thích trêu chọc cha mình vì sự ám ảnh lãng mạn của ông đối với bài hát LaVoce, đòi ông tìm và lột nho cho cô. "Nếu con sẽ trở thành người nổi tiếng thì cha phải tập đối xử với con cho giống người nổi tiếng chứ."

Anh thích phong cách của cô bé: cư xử tự nhiên, làm việc như một chiến sĩ, hát như một thiên thần thực sự, chứ không phải "giống như thiên thần", giọng hát của một thiên thần, giọng hát được chắp cánh, giọng hát chết người, một giọng hát ở gần mặt trời.

Khi Malibran chết một cách đột ngột lúc còn quá trẻ.

"Chắc chắn là giọng hát của cô ấy đã truyền vào cây violin của chồng cô ấy. Và những con heo có thể bay."

Cô bé có cả thế giới theo sau mình, một cô gái hiện đại. James đã đọc về "Người phụ nữ mới". Đó là hình ảnh mà sau này con gái anh sẽ trở thành.

Một buổi chiều thứ sáu trong tháng ba năm 1912, trong khi Materia đang ở trong bếp nấu bữa tối còn James thì đang khồ sở với cây đàn piano cũ, Kathleen xuất hiện ở cổng vòm của nhà trước.

Cô đang mặc bộ đồng phục của trường Holy Angels, cô bé đã cao lên nhiều, đứng dựa vào ô cửa, tựa hết cả người lên một bên hông, cảm nhận tuổi thiếu niên của mình mặc dù nó đã trôi qua từ lâu. Một nụ cười hiện lên trên môi khi cô thấy cha mình đang kéo những cái dây của con ngựa chiến cũ kĩ, cô liếc nhìn xuống, cắn nhẹ môi, sau đó lẻn vào ngồi bên cây đàn và đánh một hợp âm.

James nhảy dựng lên dù những cái búa đánh đàn chẳng thể làm cho anh bay lên được và đánh cô bé bằng một bàn tay, sau đó là một nắm đấm trước khi anh kịp nhận ra đó là ai và anh đã làm gì và tại sao lại vậy, thậm chí cả Materia cũng không, nhưng Chúa biết.

Con gái anh đang khóc, cô bé bị sốc, cha đánh cô sao, làm sao có thể thế được? Bằng chính bàn tay của mình, ôi Chúa ơi.

Anh đến gần, sượt qua vai, khuỷu tay, ôm chặt eo cô bé, anh sẽ không bao giờ, không bao giờ làm cô đau, thà chết đi hay chặt tay đi còn hơn. Siết chặt cô bé, anh cảm thấy rõ ràng cô đang cảm thấy như thế nào "Đừng khóc", một sự đồng cảm chết người, "Im nào con", cổ họng anh như khô lại và bị thiêu đốt "Suỵt", anh phải bảo vệ cô khỏi - anh phải che chắn cho cô - khỏi cái gì chứ? Khỏi tất cả, tránh khỏi tất cả.

Một sự sống và cảm giác ấm áp len vào người anh, cái cảm giác anh đã không có từ khi..., cảm giác mà anh rất hiếm khi có được. Cô bé sẽ an toàn bên cạnh anh, ta sẽ giữ cho con được bình an, cục cưng, ôi ta yêu đứa con gái này lắm. Anh giữ chặt cô, không gây hại, sẽ không bao giờ làm gì có hại. Mái tóc cô có mùi như mùa xuân đang đến, làn da cô như loại tơ lụa được dệt nên từ hàng ngàn bánh xe quay sợi, hơi thở của cô nhẹ nhàng và thơm tho, sữa và mật ong nằm ngay trong miệng em... Sau đó anh tự cảm thấy hoảng hốt. Anh thả cô ra và rút tay lại một cách đột ngột để cô bé không chú ý những gì đang xảy ra với anh. Bệnh. Mình bị bệnh rồi. Anh rời khỏi căn phòng và lao ra cửa sau, băng qua sân và con lạch, đến chỗ khu vườn, nơi anh lấy lại bình tĩnh sau khi nôn.

Materia đã lấy lại thăng bằng ngay chỗ cổng vòm mà cô mới vấp ngã do James hất cô ra trong lúc bỏ chạy. Cô đến khi nghe thấy tiếng ồn ào và dừng lại ở cửa vào, quan sát. Cô vẫn đang nhìn, cô đi đến bên con gái mình.

Một cái răng của Kathleen bị rung rinh, nhưng cô bé còn nhỏ, nó sẽ mau chóng lành lại. Có một ít máu trên thảm, nhìn tồi tệ hơn thực tế. Materia nắm tay Kathleen đi vào bếp, đến chỗ máy bơm và rửa cho cô bé, sau đó dắt nó vào giường và mang cho nó ít đồ ăn mềm, hát cho đến khi đôi mắt xanh nhắm lại, lấy một cái gối và nhẹ nhàng đặt lên trên khuôn mặt đang ngủ. Nhưng lại lấy nó ra ngay lập tức. Nếu trái tim của Materia không trống rỗng, cô sẽ biết mình phải làm gì, phải bảo vệ ai, và như thế nào. Yêu thương con bé bây giờ có vẻ như là một yêu cầu dễ dàng hơn so với việc bảo vệ nó, bởi vì mình đã thất bại trong thử thách đầu tiên nên bây giờ mình phải đối diện với cái thứ hai.

Materia cố nghĩ xem phải làm gì, nhưng trong những tình huống như thế này thì suy nghĩ cũng chẳng giúp ích được gì. Cô hít một hơi thật sâu, cảm giác ớn lạnh tràn lên má, cô cảm thấy những chuyển động dưới chân mình, chiếc giường hất tung lên, cô thấy mình đang đứng trên một con tàu hướng về New York, cô gái có mái tóc màu đỏ rực lửa bên cạnh đang bám tay vào lan can. Nhưng khoảnh khắc đó trôi qua trước khi Materia có thể giữ lấy nó, một thông diệp yếu ớt được chuyển đi qua những khoảng cách không gian và thời gian, mỗi giây phút đều đáng nhớ.

Giờ thì Materia biết đã ai gửi Kathleen đến, và tại sao lại vậy. chính vì tội lỗi của cô mà Chúa buộc phải làm vậy, chính tội lỗi của cô, tội của cô, tội lỗi đáng ghê tởm của cô.

Kathleen biết rằng cha không cố ý đánh cô, rằng ông thật sự rất hối lỗi, cô biết ông đã làm việc rất vất vả và tất cả cũng vì lợi ích của cô. Không gây hại gì, cái răng rồi sẽ chắc lại, cô bé làm một cái thiệp cho cha để nói với ông rằng cô thương ông đến mức nào, cô viết một bài thơ vui về "hợp âm bị mất" và họ bỏ qua mọi chuyện.

 

Giải pháp đầu tiên

 Đêm hôm sau, Materia thụ thai Mercedes.

Tự cô cũng cảm thấy ngạc nhiên vì lần này cô rất mong chờ đứa trẻ, thậm chí không quan tâm nó có phải con trai hay không. Cô lại có thai và lần này cô rất thích điều đó, nó làm cô cảm thấy gần gũi hơn với mẹ của mình, cơ thể phát triển, bộ ngực nở nang, bắp đùi phì ra, những vấn đề của cô cũng dịu bớt.

James vẫn không đưa cô đi đây đi đó, nhưng vào ban đêm thì anh đã sống thực sự - cô ấy là vợ mình, dù sao đi nữa thì cũng là vợ mình. Cơ thể sậm màu và đầu óc đơn giản của cô làm cho anh có thể "hưởng thụ" cô một cách đơn giản. Tại sao anh lại trông mong những cuộc nói chuyện hay những sự an ủi tinh thần từ cô? Như vậy thật là bất công cho anh, một người đàn ông sẽ tìm kiếm những thứ đó ở nơi khác, cuối cùng thì James cũng cảm thấy bình thường

Anh đã lên cân một chút, cô chăm sóc bữa ăn cho anh, chăm cho anh tắm hằng đêm, lau lưng cho anh, hôn vào tai anh và trèo vào bồn tắm. Anh để yên cho cô làm vậy, anh cảm thấy dễ chịu vì anh đã vượt qua được con quỷ nhen nhóm trong anh vào cái ngày anh đánh Kathleen.

Materia cố gắng có thai trong đau khổ, tự nhủ với mình rằng để ngăn chặn một tội lỗi lớn hơn của chồng cô nên cô phải cố gắng khiêu gợi, cám dỗ anh ngay cả khi cô đã thực sự có thai. Ham muốn trong hôn nhân cũng đồng nghĩa với ngoại tình, ngoại tình là một tội lỗi ghê gớm, nó nằm trong những điều răn. Materia mong Chúa sẽ nhìn thấy những sự ô uế trong lòng cô, vì xét cho cùng, những chuyện cô làm là đúng.

Mercedes được sinh vào cuối năm 1912, Materia rất thương con bé, cô không cần phải cố gắng, chỉ tự cảm thấy vậy, đó là một sự kì diệu đáng mừng. Tạ ơn Jesus, mẹ Mary, Joseph và các vị thánh, và cả Chúa nữa.

Materia không còn ganh tị với đứa con trai thứ ba của bà Luvovitz nữa, Ralph, nhỏ hơn Mercedes hai tháng tuổi, có thể lớn lên chúng sẽ lấy nhau.

James không phản đối cũng không có ý kiến gì về việc Materia để một Cha xứ rửa tội cho Mercedes ở một nhà thờ Công giáo gần Lingan. Cô bắt đầu đi đến những buổi gặp mặt, không chỉ vào chủ nhật mà là mỗi ngày. Cứ như nước thánh trong sa mạc, cô đã không nhận ra cô khát tới mức nào. Materia thắp nến và quỳ gối cầu nguyện dưới chân bức tượng Mary cao hơn 2 mét, cô đang ẵm Mercedes trong tay, nhưng cô không nhìn lên, cô nhìn thẳng vào đôi mắt hồng ngọc của con rắn đang mỉm cười ngay dưới chân tượng Đức mẹ
Đồng trinh.

Materia xem đó như là một sự hy sinh, cô chỉ chơi đàn ở nhà thờ, và chỉ chơi các bài thánh ca. Sự nhượng bộ duy nhất của cô là quyển sách nhạc IDit cho bà Luvovitz, đó là thứ duy nhất mà cô có thể làm cho một người bạn đã dành cho cô quá nhiều. Sau cùng thì cũng chỉ có một vị Chúa mà thôi.

Mười một tháng sau, bà Luvovitz lại tất bật với công việc quen thuộc của mình khi Materia sinh France. Điềm may là Frances đưa chân ra trước, bà Luvovitz cho tay vào và xoay cô bé lại, một con bê và một em bé cũng không khác nhau là mấy. Frances được sinh ra trong một lớp màng bọc, đó là một điềm rất tốt cho một đứa bé sinh ra trên đảo, nó có nghĩa là cô sẽ không bao giờ bị chết đuối.

Frances có vẻ gầy gò và không có tóc, Materia biết rằng điều này là do cô thụ thai quá sớm sau khi sinh Mercedes, những dưỡng chất trong dạ con của cô vẫn chưa được bổ sung đầy đủ, sữa cô cũng không nhiều, tất cả cứ như những lí do để cô cũng yêu đứa con này.

Frances được rửa tội ở nhà hát Empire ở đại lộ Plummer, những vết đào vĩnh viễn của nhà thờ Đức mẹ núi Carmel.

Mercedes là một đưa trẻ ngoan, làm theo tất cả mọi thứ với đôi mắt nâu, đi ngủ khi tới lúc, giữ cái cốc và không làm đổ một giọt nào. Frances thì biết cười lớn khi được bảy tuần tuổi.

Cùng với Frances, thị trấn được chính thức khai sinh vào năm 1913, thị trấn mới phát triển giờ đã có tên: New Waterford.

James cảm thấy niềm tự hào bình thường của một người đàn ông có một gia đình đang phát triển, anh làm tăng ca gấp đôi nhưng chỉ phải trả rất ít chi phí. Hai đứa bé là bằng chứng. Con quỷ trong anh giờ đã bị bỏ lại rất xa, anh có thể chỉ ra lí do của nó là do anh đã làm việc quá nhiều. Anh lỡ tay đánh con gái mình và cảm thấy đau khổ cùng cực, những sự hoảng loạn tiếp đó chỉ là một chút vấn đề về thể chất, vô nghĩa, những người đàn ông bị treo cổ cũng là do ham muốn, những điều ở thiên đường.

Materia lại có thai.

James cảm thấy vui vì vợ anh đã phục hồi lại cảm xúc, không còn lang thang ở bãi biển và lảm nhảm nữa. Không còn những cảnh ảm đảm ủ rũ như lúc cô ngồi gục đầu trên cái rương đựng đồ như đang ngủ hay đang hôn mê nữa. Anh cũng không còn nghe thấy tiếng cô nện vào cây đàn piano khi anh đi làm về nữa. Sùng đạo một cách điên cuồng, đúng vậy, nhưng phụ nữ là vậy. Cô sẽ sớm lấy lại vóc dáng sau khi sinh em bé.

Hai đứa bé trông có vẻ rất ổn, Mercedes đang giả bộ cho một con búp bê bú và rù rì với Frances, giờ Frances đã có tóc, những lọn tóc xoăn vàng óng, đôi mắt màu nâu nhạt lấp lánh ánh xanh khi cô cười, từ đầu tiên mà cô bé nói là "Ê!"

Mưa suốt mùa đông, đại lộ Plummer được khéo đặt tên và giờ thì nó ngập bùn nhưng nhà Piper vẫn có rất nhiều than để sưởi ấm trong không khí ẩm ướt. Ngọn lửa được thắp lên, lò sưởi lách tách thắp sáng khoảnh khắc Kathleen trở về nhà sau giờ học.

Materia nhìn Kathleen đi lên cầu thang về phòng cô bé, sau đó quay trở vào bếp trộn bột với nước để chuẩn bị làm bánh hấp trong lúc James rửa bát đĩa ở vòi nước dưới bếp. Cô nhìn anh đi lên phòng trước và chìm đắm trong tờ HALIFAX HERALD: tin tức từ nước Anh già vui vẻ: Quốc kì Anh đã giải phóng hơn hai mẫu lãnh thổ mới vào mỗi lần đồng hồ điểm một tiếng từ năm 1880...

Năm phút sau, Materia chùi tay vào tạp dề và đứng ngắm James từ trong bóng tối của phòng trước. Ừ, anh ấy đang yên vị trong chiếc ghế dựa dưới chiếc đèn đọc sách - Sozodont: tốt cho răng hư, không tốt cho răng khỏe...

Materia quay vào bếp nơi bữa tối đang sôi sục còn Mercedes thì đang đong đưa Frances trong nôi. Cô chuẩn bị bàn ăn. Mười hai phút sau, cô lên gác và nhìn qua khe cửa mà Kathleen để mở - con bé có thói quen xấu là hay đi thơ thẩn trong bộ quần áo lót, cuộn mình bên cạnh giường nằm đọc sách, để dấu chân lại trên tường mỗi khi chải tóc, luyện tập nhiều giọng khác nhau - phải, cô bé đang ở một mình. Materia nhẹ nhàng kéo cửa lại, quay lưng đi xuống hầm rượu và chụm lại lò sưởi, căn nhà không bao giờ có thể đủ ấm cho cành hoa lan ở tầng hai.

Quay lại bếp, Materia chỉnh lại chai rượu chanh mật ong và lại đi ra nhà trước - James đang lơ mơ ngủ trên ghế, tờ báo đã tuột xuống sàn, Nước Séc đang căm phẫn...- lại đi lên gác, mở cửa phòng Kathleen - "Mẹ! Mẹ không biết gõ cửa sao?" - để đưa cho cô bé thuốc bổ uống trước khi ăn và đứng nhìn cô bé nhấp từng ngụm nước còn bốc khói. Một mạch máu xanh mờ ảo hiện ra dưới làn da cổ trắng ngần của Kathleen do hơi nước gây ra. Một mạch máu khác lượn lờ từ chỗ nhăn da dưới nách và biến mất sau lớp vải lụa của chiếc áo ngực. Làn da trắng hồng trải từ má xuống cổ họng và điểm qua ngực cô.

Materia đi vào lại trong bếp, khuấy nồi canh và hét to "Ăn tối!"

James giật mình tỉnh giấc và đi đến bên bàn ăn, hai tay xoa xoa vào nhau - "Món gì có mùi thơm vậy nhỉ?"

Materia lại hét lên gọi Kathleen, cô bé đang thơ thẩn đi tới trong chiếc áo quấn hờ kiểu kimono, "Mẹ có cần rống lên vậy không? Con ở ngay đây này" và ngồi thượt xuống ghế, "Chúng ta ăn gì vậy?"

Materia trả lời, "Món luộc."

"Ôi trời", James nói.

Kathleen lầm bầm, anh cười lớn. "Nó tốt cho cha đấy, ông già, nó sẽ giúp cha mọc lông ngực."

Kathleen rúm người lại, ông ấy thật là ủy mị.

Những công thức chính thống của vùng Cape Breton, khoai tây, củ cải, cải bắp, cà rốt, và nếu bạn khá giả, hãy cho thêm vào đó thật nhiều sụn heo. Nếu bạn nấu đúng cách thì chỉ cần nghĩ đến thôi miệng bạn sẽ đầy nước rồi. Materia ngày càng giỏi hơn trong việc bếp núc, mọi thứ cô chạm vào đều trở thành nước ép. Cô kéo mạnh cái nồi đặt lên bàn và múc ra những phần lớn. Kathleen bỗng nhiên trở thành người Anh trong một lúc "Đừng cho con củ cải nhé mẹ yêu, cảm ơn, con không thích món đó!"

James cảm thấy thích thú, anh nhìn Kathleen trộn thức ăn trong đĩa, sau một lúc anh đứng dậy và làm cho cô bé món phô mai nướng.

Materia ăn hết phần của mình, sau đó ăn phần của Kathleen, chấm hết bánh mì với nước súp. James cố không nhìn vào cô - cúi mình vào cái đĩa, nhai chậm chạp - anh cố không nghĩ nhưng nó cứ tự hiện ra trong đầu anh hình ảnh của một con bò. Kathleen nhấm nháp hết phần phô mai của mình và chừa lại cái cùi bánh mì. Nàng công chúa và hạt đậu.

Nếu James đã quên mất con quỷ thì Materia không quên được, cô đã nhìn thấy nó, nó cũng nhìn lại cô, cô biết là nó sẽ quay trở lại. Materia đã có hai cô con gái thật sự, cô yêu chúng, mọi thứ đã quá rõ ràng. Hết buổi cầu nguyện này đến buổi cầu nguyện khác, cô đi khắp hàng dặm dọc theo những trạm xe tại các ngã tư để cầu nguyện với các điều kì diệu của tràng hạt: vui vẻ, đau thương, và vinh quang. Xá tội từ từ, không trông mong được xóa hết tội một lúc, không thể thoát khỏi sự đeo bám của tội lỗi mãi mãi nếu không đi xưng tội thường xuyên.

Bức tượng Đức mẹ Mary xinh đẹp với chiếc áo choàng xanh và khuôn mặt đau khổ ngọt ngào được chuyển từ Lingan đến nhà thờ Đức mẹ núi Carmel mới xây ở New Waterford, ở đây, trong chính hang động của mình, người nắm quyền lực tối cao đối với đứa con của thánh thần và con rắn.

Trong bóng tối lạnh lùng, mùi trầm hương xoa tay nhẹ nhàng lan tỏa vào trong không khí, Materia quỳ gối dưới chân Đức mẹ và cầu nguyện rằng James sẽ tránh xa được con quỷ trong người anh càng lâu càng tốt. Cô cầu nguyện đến con quỷ và thắp một ngọn nến cho nó.

Đó là một mùa xuân khác thường, nóng đến mức Materia không thể cử động nổi nữa. Cô ấy quá khổng lồ, James tự hỏi không biết có gì ở bên trong, nhìn cô cứ như đang chứa cả một viên đạn đại bác to nửa mét trong người. Tuy vậy, cô vẫn đi bộ đến nhà thờ mỗi buổi sáng cùng với hai đứa nhỏ trong chiếc xe đẩy cũ của Kathleen. Bà MacIsaac nhìn cô thoáng qua ô cửa sổ hiệu thuốc và cảm thấy lo lắng cho cô: không ai nên ở quá gần Chúa như vậy. Ông MacIsaac vẫy cô vào và cho một ít sô-đa dâu nhưng cô từ chối, mọi thứ đều làm cô bị đầy hơi, nhưng bọn trẻ thì uống nhiều đến mức nhìn như chúng có một hàm râu màu đỏ quanh miệng.

Cô càng mập thì lại càng khó cầu nguyện, vì James lại không đến gần cô nữa, còn Kathleen thì ngày càng dễ thương và vô tâm hơn mỗi ngày. Materia nhìn họ chụm đầu vào nhau giải bài toán trên chiếc bảng học sinh, nhìn thấy Kathleen nhảy cẫng lên người anh trong bộ áo mới của con bé, nhìn khuôn mặt anh khi con bé hát riêng cho mình anh.

Ngập trong một đống thịt, Materia dường như không thể hít thở sâu được, đến tháng sáu thì cô ngủ trên cái võng trong bếp, không còn leo thang nữa. Đứa bé này đang vắt kiệt sức lực của cô, không còn quan sát chồng và con gái nữa, không phải là lúc này.

Cô không còn mặc vừa bộ đồ nào nữa cho nên cô lấy ba chiếc áo cũ và cắt may chúng lại thành một cái váy: vải in hoa ở phía trước, vải mỏng ở hai bên và vải sọc ở đằng sau. Cô đã có một ngày thật dễ chịu nhưng khi James về thì nó trở thành "Lạy Chúa, em mặc cái gì vậy?"

Cô hỏi xin tiền anh và mua một súc vải ế có in hoa văn loạn xạ và cùng với sự giúp đỡ của bà Luvovitz, cô may được ba cái áo mặc nhà. Bà Luvovitz ngỏ ý cho cô vài mét vải màu xanh nhưng
cô từ chối, cô thích hoa, James lắc đầu nhưng không có ý kiến gì.

Những ngày gần đây Materia lúc nào cũng lẩm bẩm, đôi môi cô liên tục mấp máy ngay cả lúc cô đang sửa chiếc vớ hay đang thay tã. Tệ hơn nữa là cô lẩm bẩm khi đi trên con đường phủ băng tuyết xuyên qua thị trấn để đến nhà thờ.

"Đừng có vừa đi trên đại lộ Plummer vừa tự nói chuyện với chính mình nữa."

"Tôi không có nói chuyện một mình."

"Chứ em nói với ai?"

"Mary."

Ôi lạy Chúa.

Materia lại thấy con quỷ mỉm cười với cô từ trong lò sưởi. Cô ngày đêm dệt may một tấm vải mỏng mà cô dùng để bọc Kathleen, cô thấy con gái mình trong một cái kén treo lơ lửng với đôi mắt xanh mở to. Nhưng không ai có thể dệt mãi và cái kén cũng sẽ nở ra dù là để thả ra một con bướm hay một bữa ăn. Cô còn gì để hy sinh nữa? Cô đã từ bỏ âm nhạc của mình từ lâu, cô sẽ tự hành xác mình, nhưng điều đó sẽ gây hại đến đứa con chưa ra đời của cô. Cô chẳng còn lòng tự trọng để hy sinh nữa, cho nên cô hy sinh sự mập mạp của mình, những bộ quần áo mảnh mai của mình, mái tóc quăn của cô mỏng dần đi. Nhưng con quỷ vẫn không thỏa mãn.

Trong bóng tối lạnh lùng của nhà thờ núi Carmel, Materia nhìn vào khuôn mặt nhỏ màu xanh của con rắn và làm dấu chữ thập. Bên cạnh cô, Mercedes bé bỏng đang quỳ, đôi tay nhỏ xíu đeo găng trắng vòng quanh chuỗi hạt của riêng cô bé. Sau lưng họ, Frances đang bò dưới các hàng ghế, lết phết chiếc váy trong đám bụi và tìm kiếm những thứ tỏa sáng. Materia nhìn chằm chằm vào đôi mắt con rắn và ngã giá: nếu con quỷ chịu giới hạn lại trong một cô con gái thì Materia sẽ để nó bắt Kathleen đi khi thời điểm đến, con quỷ mỉm cười, đồng ý.

Sau đó Materia nhìn lên khuôn mặt thạch cao sáng sủa của Đức mẹ và cầu xin người hãy kiềm hãm con quỷ lại. Cô khấn một đoạn Kinh hãy nhớ "Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức mẹ xin cứu giúp mà Đức mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy, con hết lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức mẹ là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy mẹ là mẹ Chúa Cứu thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhậm lời con cùng. Amen."

Đức mẹ sẽ nghĩ đến một việc gì đó, bởi vì người luôn độ lượng nhân từ.

 

Bí mật thứ ba của Đức mẹ

"Tôi tự hỏi", Emma đã quan sát, "Liệu những nhà La mã học được học hành tử tế có thực sự tin vào những điều kì diệu lạ lùng mà mọi người cho là do những vị thánh tạo ra không?"

CLAUDIA, A.L.O.E

 

Tháng bảy oi ả. Họ có đủ rau cho cả một đội quân. Tên bù nhìn như sôi lên trong đôi giày cũ của James và chiếc áo sặc sỡ từ vải hoa, vải mỏng và vải sọc của Materia, cái mũ vẫn vẽ lên khuôn mặt trống trơn của nó những đường góc cạnh như thường lệ. Nếu bạn đã từng thử nhét tay vào một đống rơm rồi rút tay ra như vừa rút ra từ một cái lò thì bạn sẽ biết rơm có thể làm được gì. Pete cứ lặng lẽ nóng dần lên. James lấy nước từ con lạch để tưới cho khu vườn, Materia thì cứ chất đầy các hũ thức ăn, dán nhãn cho chúng là "Mùa hè 1914."

James không đi xem trận bóng chày vào ngày 3 tháng 8 nên anh đã bỏ lỡ sự hào hứng trong chiến thắng của New Waterford đối với Sydney, nhưng anh sẽ đọc trên trang nhất của tờ Post ngày hôm sau. James đã có đủ thứ để làm mình bận rộn: công việc, khu vườn và cô con gái của anh. Đó là lí do anh không đi xem trận bóng hoặc ngồi bàn chuyện chính trị trước cửa tiệm MacIsaac hoặc ngồi chơi bài ở phía sau. Cứ như vậy anh lại củng cố thêm cho những người xung quanh trong việc cố gắng không cho anh quên rằng anh đã từng là một tên phá hoại và sẽ luôn là một tên phá hoại.

James đi dọc đại lộ Plummer trên đường đi mua báo. Anh không còn đi xe ngựa nữa, tại sao anh lại không nên đi bộ trong thị trấn của mình chứ? Anh đã sống ở đây từ khi chưa có thị trấn, từ trước khi có bất kì công ty than hay một hầm mỏ nào.

Nếu đứng cách xa khoảng một tòa nhà thì bạn có thể nghĩ là James đang đi trên mặt nước, nhưng đó chỉ là sự lấp lánh của mặt đường trải than. Không gì có thể khuấy động một buổi chiều như thế này, dĩ nhiên là trừ một cơn gió nhẹ. Những người không tìm được nơi trú ẩn ở bờ biển ngồi vô hồn trước cổng nhà, nhét chân trong những xô nước đá, một lần nữa, đó là một ngày đẹp để đi xuống dưới lòng đất.

Như thường lệ, James ăn mặc như một quý ông. Chỉ có một con quái vật hoặc một người không bình thường thì mới vô cảm trước sự tuần hoàn của tự nhiên. Hãy cứ để những đám tri thức nửa mùa cởi sạch tới cái áo trong cùng và ngắm nghía mấu chốt cho những vấn đề của họ. Do đó anh cứ điềm tĩnh rảo bước vào thị trấn. Một quả dưa chuột trong bộ đồ len.

Anh mua một tờ Post ở cửa hiệu MacIsaac, có vài người kì cựu đang ngồi và lâu lâu mới thấy họ chớp mắt. Ông MacIsaac gà gật sau quầy tính tiền, James đặt tiền lên quầy và liếc qua hàng tít khi anh rời cửa hiệu, không thể kìm hãm được một chút tự hào công dân đối với chiến thắng của thị trấn trong trận bóng chày. Mấy ông già nhìn anh đi, sau đó phá vỡ sự im lặng chán chường của họ bằng cách quan sát cứ như để tìm xem những thứ gì có thể tạo ra một người đàn ông vô cảm với cái nóng thiêu đốt như vậy.

Ở ngã tư đường Seven có một người phụ nữ Ấn đang rung chuông để bán cam chất trên xe ngựa. Trên đỉnh đống cam là một trái cam hàng mẫu đã được cắt sẵn, nước cam màu đỏ tươi như máu, James mua một quả.

Mặt trời bắt đầu lặn, hương thơm mát lạnh của đêm tràn về. Những bông hoa tử đinh hương tươi tắn trở lại và không gian tràn ngập mùi hương thơm mát. Một chú chó cất tiếng sủa sau khi đã thoát khỏi cái nóng, có ai đó mở một điệu violon, nhưng trời vẫn còn khá nóng cho một điệu vũ. James rẽ sang đường Water ngay đúng lúc Leo Taylor đỗ cỗ xe độc mã lại trước cửa nhà. Kathleen vừa trở về nhà sau buổi diễn thử. Cô đợi Taylor nhảy xuống khỏi xe và bỏ bậc thang ra cho cô đi xuống. Cô bước xuống khỏi cỗ xe nhẹ nhàng như một người quý tộc bẩm sinh. Taylor không nói tiếng nào và Kathleen cũng vậy, cô cũng không nhìn cậu ta. James cảm thấy thực sự dễ chịu chính vào những lúc như thế này. Mặt trời hâm nóng phía tây, ban cho cả hòn đảo này những bông hồng hiếm hoi và gam màu hổ phách - cả cuộc sống đọng lại trong những khoảnh khắc như thế này. Chúa ở trên thiên đường của người, còn ta ở thiên đường của chính mình.

Kathleen thấy James và chạy đến bên anh cứ như bỗng nhiên cô trở lại thành một cô bé bảy tuổi, hết lần này đến lần khác. Cô cảm thấy quá phấn khởi, quá hồi hộp, "Con muốn nôn luôn đấy!"

"Một số các ca sĩ nổi tiếng vẫn nôn trước mỗi buổi diễn", James nói với cô bé.

Cô bé cười, vừa thỏa mãn vừa căm phẫn, nhảy cỡn đến bên anh để tìm một món quà mà cô biết chắc là anh có. Thấy rồi! - một quả cam giấu trong tờ báo.

Cô bé đã tập luyện nhiều tuần liền, tối nay sẽ là lần đầu tiên cô hát trước công chúng, trước một đám đông đã bỏ tiền ra mua vé. Chỉ tại nhà hát Lyceum ở Sydney. Chỉ với những người nghiệp dư và khán giả địa phương. Nhưng cũng vậy thôi, một buổi diễn vẫn là một buổi diễn.

"Luôn phải hát như khi con ở nhà hát Metropolitan", James dặn. "Luôn hát như con đang ở La Scala và không bao giờ được quên khán giả của mình."

Họ không gọi đây là lần ra mắt, nhưng theo một cách riêng nào đó thì nó vẫn là lần đầu tiên, và cả hai đứng cạnh nhau trong sự hồi hộp.

Đêm hôm đó:

 

HỘI ĐỒNG ORPHEUS SYDNEY GIỚI THIỆU

TRANG THIẾT BỊ HIỆN ĐẠI

HIỆU ỨNG HUYỀN ẢO

TRONG MỘT SUẤT PHẨM TUYỆT VỜI

NHỮNG KHOẢNH KHẮC TUYỆT VỜI
TẠI NHÀ HÁT LỚN

 

Một tia sáng lóe lên và Don Juan biến mất, cứ như bị pho tượng lôi đâu đó xuống địa ngục. Im lặng. Tiếng vỗ tay. "Hoan hô!", "Nữa đi!", "Làm nổ tung cả bầu trời đi nào các chàng trai!". Nhà hát Lyceum chỉ là một căn phòng chật chội, ít ghế, chỉ có chỗ đứng. Họ đã được xem Tosca đâm xuyên qua Scarpia, sau đó nhanh chóng nhảy vọt vào khoảng không phía trên sân khấu. Seville đã nhường chỗ cho Nagasaki, những người phụ nữ mộng du bị chôn ở Ai Cập với làn da nâu được tô vẽ, tự đâm vào người mình ngay ngày cưới và phát điên. Ngay đến đoạn cao trào thì tạm nghỉ. Khán giả xoay vòng trong khán phòng mái vòm được trang trí với hình lá cây và hình vẽ những người trẻ tuổi đang phủ phục bên hồ nước đầy các nữ thần. Bên dưới, khán giả nói chuyện ồn ào vui vẻ khi được gỡ mình ra khỏi những chiếc ghế gỗ và hướng về hành lang nơi có phục vụ trà, bánh chà là vuông và bánh hình những lá cờ Anh thu nhỏ.

James ngồi yên, khuôn mặt toát ra sự hồi hộp và thiếu kiên nhẫn, ruột gan anh quặn lên vì cả tiếng đồng hồ ngồi xem những trò căng thẳng nạt nộ lố bịch trên cái sân khấu nhỏ xíu. Xơ Saint Cecilia đặt một tay lên cổ tay anh nhưng anh không hề để ý. Bà đứng dậy và hối hả ra ngoài lấy một tách trà, bà nghĩ việc mẹ cô bé không thể có mặt ở đây đêm nay thật tệ, thậm chí là hơi kì quặc - bà đã mong đợi để cuối cùng cũng được gặp bà Piper và chúc mừng bà ấy vì có một cô con gái tài năng như vậy. James cảm thấy khó chịu và ngột ngạt nhưng anh ấy vẫn ngồi như bị đóng băng trên ghế. Anh không hề muốn chen chúc và nghe những cảm xúc dạt dào của đám đông dốt nát kia. Sau giờ nghỉ sẽ đến màn biểu diễn của Kathleen.

James không nhìn thấy một người phụ nữ da màu nhỏ con, tròn trịa với mái tóc điểm bạc đứng khuất sau hành lang cùng một người phụ nữ da đen khác cao ráo hơn. Bà Mahmoud ở đây vì sáng nay Benny đến giao hàng. Suốt những năm qua, bà đã có thể cưỡng lại việc ngồi đợi trước trường Holy Angels để nhìn thấy Kathleen, bà đã cố gắng để không gửi một bức thư hay nhờ Benny gửi bất kỳ lời nào đến con gái mình. Nhưng bà Mahmoud đã đến đây đêm nay vì bà cần phải nghe thấy cháu gái mình hát, và Teresa, người hầu gái của bà, rất sẵn lòng đi cùng bà để thưởng thức cách giải trí tinh tế này.

"Kính thưa quý ông quý bà, xin hãy ổn định chỗ ngồi để chuẩn bị cho phần hai của buổi diễn". Khán giả đổ xô vào lại bên trong - tầng lớp thượng lưu của Sydney cộng thêm vài người yêu nhạc. Dàn nhạc Sydney nổi nhạc lên, ánh sáng bên trong nhà hát tắt dần. Người quản lí sân khấu đặt một cây nến nhỏ làm đèn dẫn đường trên sân khấu, màn được kéo lên: một khoảnh sân nhỏ, trăng nửa đêm, một đài phun nước, những dây thường xuân và hoa hồng leo, một con mèo được làm từ bìa cứng với đôi mắt có thể nhắm và mở và bàn tay có thể cử động - James cảm thấy bực mình, chúng ta đến đây để thưởng thức âm nhạc chứ không phải những trò nghệ thuật sân khấu rẻ tiền này. Một người đàn ông có cái bướu và chiếc nón hề gắn đầy chuông rề rà trịnh trọng tiến lên sân khấu. Máu đã rút hết khỏi tay James trong lúc anh chờ đợi, các thớ gân trong người anh tê đi và căng cứng như dây của một cây đàn viôlin còn mới.

Dàn nhạc được thấy cô bé trước tiên, sau đó cô xuất hiện từ sau những tia nước đầy màu sắc. Tỏa sáng rực rỡ. Kathleen. Trong chiếc váy trắng dài bay rập rờn, mái tóc thả tự nhiên của cô bé trông như một vầng hào quang của lửa. James hơi chồm về phía trước - ngừng lại, ngừng lại, mọi người hãy ngừng lại hết và ngắm nhìn đi. Trước khi lắng nghe. Cả cái ông đội nón leng keng trên kia, yên nào.

Rigoletto hét lên "Figlia!", cô lao vào vòng tay ông "Mio padre!". Cha và con gái ôm chầm lấy nhau, họ khóc, thể hiện tình cảm của mình, cô hỏi tên thật của ông là gì - "Ta là cha của con, con biết chừng đó là đủ."

Cô hỏi ông ai là mẹ cô và cô đến từ đâu.

(Con effusione) "Bà ấy mất rồi."

"Ôi cha ơi, nỗi đau lớn lao nào - quanto dolor - có thể mang đến những giọt nước mắt cay đắng thế này?" Nhưng ông không thể nói gì hơn với cô, ông quá yêu thương cô, nhiều đến mức ông nhốt cô mãi
ở đây...

"Con không bao giờ nên ra ngoài."

"Con chỉ đi đến nhà thờ thôi."

"Tốt."

... nhiều đến mức ông sẽ nhét cô vào một cái túi và tình cờ đâm cô (Orror!) - nhưng việc đó sẽ xảy ra sau. Còn bây giờ là:

"Quanto affetto! Quali cure!

che temete, padre mio?

Lassù in cielo presso Dio,

veglia un angiol protettor..."

Sau đoạn đầu tiên, một sự rùng rợn lan tỏa khắp trong nhà hát, tóc gáy của mọi người dựng đứng lên, các tế bào căng cứng xáo động một cách không kiềm chế được dưới những chiếc áo đính ngọc trai và những vạt áo đoan trang, và trong những cái khoanh tay chặt nhất theo thói quen của các nữ tu. Hai thứ có thể gây ra cảm giác rùng mình đó là: một giọng hát quá hay hoặc có ai đó đang đi trên nấm mồ của bạn. Nhưng chỉ có điều đầu tiên là có thể giúp bạn chia sẻ với cả một đám đông trong khán phòng.

Khi bài hát cất lên, khán phòng Lyceum biến mất và cái nóng tan biến. James không thể kìm được nước mắt. Lúc đầu anh còn tỉnh táo và nhận ra rằng mọi người trong khán phòng đang gạt nước mắt. Vấn đề không nằm ở lời bài hát, vì nó là tiếng nước ngoài, không phải là ở cốt truyện, vì hầu hết mọi người không biết đến nó. Đó là do một giọng hát quá chân thực và quá tuyệt vời, nhẹ nhàng xé nát lòng người, khai thông những tâm hồn và giữ cho những trái tim vẫn cố gắng đập và chống cự lại mũi nhọn đang đâm qua cho tới khi bạn hoàn toàn bị xuyên thủng. Bởi vì giọng hát là tất cả những gì bạn không thể nhớ được. Tất cả những thứ bạn không thể sống thiếu được nhưng đau buồn thay, bạn vẫn phải làm.

"...Da noi toglie le sventure

di mia madre il priego santo;

non fia mai divelto o franto

questo a voi diletto fior."

Khúc cavatin tiến dần đến phần kết thúc, một bài hát đơn giản. Sự im lặng ngập tràn trong khán phòng, bình yên dõi theo âm nhạc và cho phép bạn trong một khoảnh khắc quên đi sự sợ hãi về cái chết, về xác thịt và quên đi cả thời gian.

 Màn thả xuống, tiếng vỗ tay hoan hô vang rền. James thả tay của xơ Cecilia ra "Tôi xin lỗi xơ". Bà mỉm cười, kín đáo kiểm tra lại sự liền lạc của hai mươi bảy chiếc xương trên người mình.

Nhạc công thổi kèn ba-ri-tôn trong bộ đồ lưng gù lạch bạch tiến ra và cúi chào một cách trịnh trọng với tất cả sự nhún nhường của một đống thịt thượng lưu nhưng James không hề quan tâm, cô bé xuất hiện rồi đây! Tiếng vỗ tay vang lên. Đám đông la hét "Hoan hô! Hoan hô!", "Cô gái tuyệt vời!". Khán giả đứng hết lên. Cô bé nhún chào, đĩnh đạc và trang nghiêm. Chưa bao giờ James tự hào đến vậy. Trong tất cả những tham vọng tuổi trẻ của mình, James chưa bao giờ dám mơ đến điều này, về cô bé, về một tài năng rực rỡ đến vậy. Cô thuộc về thế giới, gần như là cô đã đạt được rồi, anh biết điều đó nhưng không hề thấy ganh tị, anh cùng vỗ tay với những khán giả khác. Người thổi kèn nắm lấy bàn tay cô và hôn lên đó - tên ngốc vô dụng, tránh ra ngay - cứ mỗi giây sẽ có một người phụ việc sân khấu mang ra những đóa hồng mà James đã sắp đặt trước, anh không thể chờ tới lúc thấy mặt cô bé nữa - cô bé đang bị hoa cúc ném loạn xạ - James nhấp nhổm trên ghế với ý định tìm kiếm thủ phạm, nhưng thay vào đó lại nhìn thẳng vào mắt bà mẹ vợ ghẻ lạnh của mình. Teresa, người hầu gái nhìn vào khuôn mặt trắng trẻo với đôi mắt xanh trẻ trung và cơ thể cường tráng như một con thú săn mồi rồi tự hỏi, hắn ta là ai mà dám nhìn chằm chằm bà Mahmoud như vậy?

Cùng lúc đó, chàng trai ném hoa cúc đang chạy về phía sân khấu, một tên vô lại mất gốc NewYork với mái tóc đen. Cả khán phòng vẫn đang vỗ tay, James quay người lại và nhìn thấy thằng bé nhảy lên sân khấu và hôn lên má con gái anh. Tiếng ồn ào vang lên, tiếng cười lớn, nhiều tràng vỗ tay hơn; chàng trai trẻ tuổi đỏ mặt, quỳ xuống, cười lớn và thể hiện sự sùng bái. Cô bé phong tước cho hắn bằng một cành hoa cúc, James len lỏi trong các lối đi giữa các hàng ghế nhằm chạy đến ngăn cản những chuyện đang xảy ra, ngay lúc đó "Kính Thưa Quý Ông và Quý Bà, xin mọi người hãy chú ý!"

Tiếng chuông vang rền phía cuối sảnh, đó là ông Foss, người đứng đầu hội đồng Orpheus. James ngừng lại lúc đến phần biểu diễn của dàn kèn, tiếng la hét của đám đông đã tắt. Mọi con mắt đổ dồn vào ông Foss, ông tằng hắng một tiếng với phong thái chững chạc thích hợp với một nghĩa vụ thiêng liêng và tuyên bố: "Tòa soạn tờ Sydney Post vừa nhận được điện tín từ tỉnh viện Halifax. Hôm nay nước Anh đã tuyên bố chiến tranh với Đức, Canada sẽ sẵn lòng đáp lại những lời kêu gọi của Nước Mẹ. Kính thưa quý vị, chúng ta đang ở trong chiến tranh."

Hai phút yên lặng thì phải bốn năm sau mới xuất hiện, bây giờ chỉ là sự yên tĩnh của một nốt lặng và đã nhanh chóng bị phá hủy bởi chàng trai đang nhảy nhót trên sân khấu, hét lên ba tiếng hoan hô và tung lên những nắm hoa. Dàn nhạc Sydney Symphonette bắt đầu chơi bản "Chúa cứu lấy đức vua" , khán giả hát theo, James tiến đến rìa sân khấu và chỉnh lại nó một chút vì bỗng nhiên nó trở nên có một chút không liên quan.

Khuya hôm đó, mười hai tiếng sau khi chiến tranh bắt đầu, Kathleen ngồi ở bàn trang điểm của mình, chải tóc trước tấm gương soi lớn hình ô-van. Cô bé không hề buồn ngủ, sao lại vậy được? Vì đêm nay cô đã hát và thế giới sẽ không còn như cũ nữa.

Ở trong gương là ai vậy? Lần đầu tiên cô tự nhìn mình. Cô không cần ánh sáng dịu, không cần ở độ tuổi của cô, không cần với bề ngoài của cô, do đó ánh sáng từ ba ngọn nến làm cô hoàn toàn mê mẩn. Mái tóc cô ánh lên mỗi khi lược chải qua. Ánh sáng của nến khắc lên một không gian riêng của cô giữa bóng tối âm u xung quanh. Cái gương là một hồ nước kì diệu, cô nhìn thấy tương lai của mình trong đó: đôi môi sưng lên vì hôn nhiều, ánh mắt âu yếm, hãy đến với ta, ở ngôi nhà dưới đáy biển và ta sẽ yêu thương con.

Cô cởi nút áo. Cái cổ họng xinh đẹp của ta. Ôi đôi vai trắng ngần. Mở thêm một phần áo để lộ ra ngực của cô, những chàng thủy thủ đến lúc phải chú ý rồi đây. Hình ảnh của cô nổi lên trong ánh nắng chiều, cám dỗ những người trên tàu.

Cô lướt bàn tay qua đầu vú căng tròn và xếp nếp lại ở một điểm đang tìm kiếm hơi ấm, tự hôn vào lòng bày tay mình trong khi một mắt nhìn vào gương. Lặp lại một lần nữa, lần này thì dùng lưỡi. Những thử nghiệm với sự ra đời của việc tách lớp. Tự làm tóc thành nhiều kiểu: cô gái Gibson, cô gái vắt sữa, một bà điên, nữ thần rừng, sau đó lại thả nó xõa tự nhiên trên vai.

Đó là một bức tranh tự họa và người họa sĩ đang yêu.

Mẹ cô đã từng báo cảnh cáo cô về việc nhìn quá lâu vào gương. Nếu con quá say đắm những gì con nhìn thấy trong đó, ác quỷ sẽ xuất hiện sau lưng con. Điều này luôn làm Kathleen lo lắng mặc dù cô biết rằng nó rất vớ vẩn, do đó cô không bao giờ dám nấn ná. Nhưng đêm nay cô cảm thấy gan dạ hơn hẳn và sẵn sàng kiểm nghiệm điều đó.

Cô tự mỉm cười với chính mình, và bị mắc kẹt, không thể cử động được, không thể nhìn đi chỗ khác hay dẹp cái nụ cười đang vẽ ra ngay trên mặt cô cho tới khi cô cảm giác như mình đang tự chọc ghẹo chính mình. Đó là lúc cô thấy hắn. Pete. Ngay trong cái bóng đằng sau cô. Cái đầu nhẵn thín nhét đầy rơm. Cái nón. Không có tai. Không có khuôn mặt. Cô rên lên, Pete chăm chú nhìn, "Chào đằng ấy!". Cô không thể cất giọng lên được, đây là một giấc mơ sao? Giọng đầy thèm khát, "Chào cô gái nhỏ!". Không có miệng, "Xin chào".

Cô bật ra khỏi chiếc ghế bọc sa tanh và khóc nấc lên, lao ra khỏi căn phòng, lao qua Pete mà cô biết, tông khỏi cánh cửa, vừa băng qua sảnh vừa hét lên như một viên đạn đang lao đi, đến căn phòng nơi cha cô đang ngủ một mình. Cô nằm vật ra giường và thổn thức "Tối nay con muốn ngủ với cha!"

Anh ngồi bật dậy, chuẩn bị để giết một kẻ xâm nhập, nhưng nắm đấm của anh xòe ra thành bàn tay rộng mở vừa kịp lúc đón lấy đôi vai cô bé. Cô đang run rẩy.

"Im nào", anh nói.

Một cách cẩn thận, trong bóng tối, anh vuốt ve khuôn mặt cô, ngón cái lướt qua đôi môi. "Im nào". Bàn tay anh trượt ra phía sau chiếc cổ ấm áp, "Im nào con yêu". Anh hôn lên má cô, mùi hương của cô thật ấm áp ­- anh bước xuống khỏi giường. Nắm lấy tay cô một cách mạnh mẽ, "Đi nào, con yêu", họ nhanh chóng rảo xuống bếp, đèn vẫn sáng. Materia nằm trên võng nhưng cô đã thức dậy. "Chỉ là ác mộng thôi, con gái, quay trở về giường đi nào". Sữa mật ong nóng. "Nó sẽ giúp con bình tâm lại, cô bé".

Kathleen nhấp từng ngụm và bình tĩnh lại dần trong lúc anh ngồi đọc báo còn Materia thì nhìn chằm chằm vào miếng lót sàn nhà màu vàng, ngày mai cô sẽ cạo lớp sáp đó đi.

Quay lại trên gác, anh kéo cái nệm của cô bé vào phòng dành cho trẻ em, nơi mà Frances và Mercedes đang cuộn mình ngủ trong cũi. Kathleen cúi nhìn các em của mình và lần đầu tiên cảm nhận tình yêu dạt dào cô dành cho chúng, những cảm giác ngọt ngào của hơi thở em bé và những giấc mơ thơm mùi sữa. Cô cúi xuống hôn chúng, khi ngẩng đầu lên, một lọn tóc của cô bị quấn lại trong bàn tay của Frances. Cô nhẹ nhàng mở bàn tay bé bỏng ra và đặt nó vào trong chăn.

Kathleen rúc vào tấm đệm của mình đang được trải trên sàn và nói với cha cô "Cha đừng đi"

James nói, "Ta sẽ ở ngay đây", và kéo ghế đến bên cạnh cửa rồi ngồi nhìn cho đến khi cô bé ngủ, sau đó anh quay trở về phòng mình và khóa cửa lại.

Ngày hôm sau James lại thông minh hơn con quỷ lần thứ hai, anh nhập ngũ.

Khi James nói với Materia rằng anh đã nhập ngũ, cô làm dấu chữ thập. Ôi không, anh nghĩ, và nói với cô một cách kiên quyết, "Có nói anh đừng đi cũng chẳng có lợi gì đâu, anh đã ghi danh rồi". Cô đi thẳng đến nhà thờ. James lắc đầu. Có thể cô lại sẽ cầu nguyện mọi điều tốt đẹp đến Đấng tối cao. Anh ấy sắp ra đi, mọi chuyện thế là xong.

Materia đến nhà thờ núi Carmel và nhanh chóng đến bên tượng Đức mẹ Mary. Sau đó cô phủ phục hết mức có thể dưới chân người trong khi đang mang thai một đứa trẻ và tạ ơn Đức mẹ vì đã mang chiến tranh đến.

 

Tranh động

James đã quyết định rằng việc mang theo một bức hình của Materia vào quân ngũ sẽ không gây hại gì, do đó anh đã gọi một người nhà Wheeler ra khỏi thị trấn và đến New Waterford. Anh muốn nhớ đến cô trong khung cảnh tự nhiên nhất ở nhà chứ không phải trong cảnh xác chết trước một bức màn sân khấu vẽ cảnh di tích cổ giả tạo. Chân thực. Như cô vậy.

Sau giờ học ngày 7 tháng 8, người trợ lí của Wheeler được hộ tống đến bằng chiếc xe của Leo Taylor cùng với cái máy kì cục đặt giữa anh và Kathleen.

"Lắp nó ở đây này", James nói, "ngay trước nhà, hôm nay thật là một ngày đẹp trời!"

Qua vòng tròn làm từ ngón cái và ngón trỏ của mình, người thợ chụp hình nhìn chăm chú vào Kathleen, cô đang đứng một cách vô hồn ở bên hiên nhà, tay khoanh lại và chân bắt chéo.

"Như vậy rất đẹp đấy cô Piper, rất đẹp."

Khi Taylor dỡ đồ đạc trên xe xuống, James đến bên cậu và nói nhỏ "Taylor, từ giờ về sau, những người khách nam sẽ ngồi ở phía trước với cậu nhé!"

"Vâng, thưa ông!"

Taylor mang cái ống kính hình hộp băng qua sân, cái nắp dài của nó kéo một vệt "như cái đầu nghiêm khắc của một nữ tu", Kathleen nghĩ và cảm thấy dễ chịu với sự ghê gớm của chính mình. Người thợ chụp hình lượn lờ quanh cô, tìm một góc chụp đẹp trong khi Taylor mang vác các thiết bị đi theo. Kathleen vẫn đang mặc bộ đồng phục của trường Holy Angels, James đã nói cô bé không cần phải thay đồ.

"Đẹp lắm, giữ nguyên tư thế đó nhé cô Piper!"

Người thợ cắm cái giá ba chân xuống đất và biến mất sau tấm vải trùm chụp hình, Taylor nghiêng tấm bảng lớn màu đen phía trên ống kính. Mọi người đều chờ đợi. Kathleen không hề cử động cho đến
khi "Tách!"

"Cô Piper, tôi e là tôi phải yêu cầu cô đứng yên."

"Xin lỗi, tôi không biết là ông chuẩn bị bấm máy!"

"Cô có cần co duỗi tay nữa không?"

"Không."

Kathleen lại khoanh tay lại và mỉm cười. Người thợ xoay chỉnh những cái ống kính cứ như một công việc kéo dài bất tận. Kathleen lẩm bẩm bằng khóe miệng, "Chụp đi", ngay vào lúc "Tách!"

"Cô Piper, xin cô!"

"Xin lỗi, xin lỗi, lần này tôi sẽ không cử động nữa!"

Nụ cười e lệ, đôi mắt lại trở nên vô hồn, một sự bất diệt thoáng qua, đầu óc cô bắt đầu đi lang thang, cô tưởng tượng ra hình ảnh giáo viên dạy địa lý của mình, xơ Saint Monica, nếu không có mạng che mặt thì bà ấy có bị hói không nhỉ? Các nữ tu có đi vệ sinh không nhỉ? Kathleen đưa tay gãi mũi đúng ngay lúc "Tách!"

Người thợ chụp hình thò đầu ra khỏi tấm vải trùm và nói "Đây không phải là một máy quay cảnh động đâu cô Piper ạ!"

James bắt gặp cái nhìn của Kathleen và nháy mắt, cô bé mỉm cười, người thợ lại chui vào tấm vải sau ống kính một lần nữa, "Đẹp lắm, cô Piper, rất dễ thương, một... hai... ba..."

James núp sau ống kính và giả vờ làm mắt lác nhìn Kathleen. Cô ngồi sụp xuống, tay đặt lên đầu gối, cười vào ống kính, "Cha này!" - ngay chính khoảnh khắc đó Materia xuất hiện ở khung cửa sổ phía sau cô bé và vẫy tay - "Tách!". Qua ống kính, bàn tay của Materia bị biến mất trong ánh sáng, làm nhòa đi cả một phần tóc của Kathleen. Chắc chắn là Materia đang cầm thứ gì đó phát sáng.

"Tôi chịu thua!". Người thợ chụp hình xếp chiếc giá ba chân lại. "Ông không cần trả tiền cho tôi đâu, ông Piper, chỉ trả tiền cuộn phim thôi, vì chính xác là tôi không làm được gì cả!"

"Rửa tấm cuối cùng cho tôi đi, tôi sẽ trả tiền!"

Leo Taylor sắp xếp lại đồ đạc lên xe, anh cảm thấy hơi ngạc nhiên. Chưa bao giờ anh thấy ông Piper với vẻ mặt nào khác ngoài sự nghiêm khắc. Leo luôn cảm thấy có một điều gì đó ở ông Piper - cái cảm giác mà bạn có khi nghĩ đến những con chó canh. Tốt nhất là tránh khỏi cặp mắt của chúng, đừng làm chúng lo lắng bằng cách đột ngột di chuyển. Vậy mà đây lại là một ông Piper đùa giỡn với con gái mình cứ như ông là anh trai cô hay thậm chí là một chàng trai đang tán tỉnh cô bé.

James và Kathleen vẫn đang cười đùa khi chiếc xe đã lăn bánh và khuất sau một đám bụi mù, Materia dùng cái kéo gõ vào cửa sổ.

"Ăn tối nào", James nói.

"Chúng ta sẽ ăn gì vậy?", Kathleen hỏi.

"Bít tết và bánh bầu dục"

"Ôi ghê!"

Anh xoa đầu cô bé và họ cùng đi vào nhà.

 

Sự quên lãng.

Đứa bé có vẻ không ổn ngay từ đầu. Trước tiên là nó rất ít khóc, chỉ tạo ra những âm thanh như một con mèo con bị ướt, có thể điều đó cũng không sao. Cái khó là cả Materia lẫn James, thậm chí cả bà Luvovitz đều không nhớ để rửa tội cho con bé đúng lúc, làm sao họ có thể quên được chứ? Không có sai sót gì, thậm chí nó còn là một em bé khá lớn. Đủ tháng, sinh ra vào đúng ngày Kathleen chụp hình. Hay là Materia đã làm cho em bé bị yếu đi khi cô phủ phục dưới chân bức tượng thạch cao của Đức mẹ Mary vài ngày trước khi sinh? Nếu nghĩ vậy có lẽ hơi kì cục, và cũng có phần báng bổ đối với đứa bé. Không, đó là một đứa trẻ khỏe mạnh với trái tim mạnh khỏe và nó chỉ sống có ba ngày, sau đó chết mà không ai biết lí do tại sao. Chết trong cũi. Nó cứ thế xảy ra, những đứa bé chết đi, tại sao? Đó là một điều bí ẩn. Cứ như chúng đến, nhìn quanh với đôi mắt bé bỏng mù mờ của chúng rồi quyết định không ở lại.

Materia đã gọi con bé là Lily nhưng không thể nói con bé đã thực sự được đặt tên, nó chưa được rửa tội, do đó coi như là chưa thực sự tồn tại, và nó được hỏa táng. James bế nó lên, quấn trong tấm vải và đặt vào trong một cái giỏ đựng cam - anh hơi sững sờ - và đưa đến công ty đôi ở đường King hiện đang hoạt động như một bệnh viện.

Chôn cất không phải là một sự lựa chọn, khóc than không phải là một sự lựa chọn. Đây sẽ là một Lily khác, trước khi Lily thực sự ra đời và được rửa tội tới hai lần, cứ như để đền bù cho đứa trước. Một
Lily khác.

Những gì bạn phải làm với một đứa bé như thế này là cố gắng vượt qua. Đừng buồn khổ, nó không cố tình như vậy. Đừng cầu nguyện, vì những lời cầu nguyện sẽ không thể đến được trong sự quên lãng. Hãy có niềm tin, Chúa có lí do riêng của mình, hầu hết là để thử thách bạn. Chúa sẽ không bao giờ gửi đến những gì vượt quá sức chịu đựng của chúng ta. Hãy biết hy sinh, coi như đó là một đứa bé khác. Materia đã chịu đựng điều đó. Lau chùi nhà cửa vào buổi tối, lau chùi cọ rửa dưói ánh đèn dầu cho đến khi bình mình bốc lên toàn mùi thuốc tẩy, cô bắt đầu nướng bánh, nướng bánh và nướng bánh. Ai sẽ ăn hết tất cả những chỗ này? Cô giao tất cho nhà Luvovitz, Abe và Rudy bây giờ đã là những thiếu niên, những chàng trai to khỏe với những cái bao tử không đáy. Materia rất thích nhìn chúng ăn - những đứa bé khỏe mạnh xinh đẹp, nháy mắt với mẹ chúng, cao vượt hơn hẳn mẹ chúng và dành hết tất cả cho bà. Những cậu con trai tốt. 

Mercedes và Frances rất buồn, trông vẻ mặt chúng rất bất ngờ, em gái mới của chúng mới vừa ở đây và bây giờ thì không còn nữa. Kathleen thì rất giận dữ, lẽ ra em bé không nên chết.

"Có chuyện gì không ổn vậy?"

"Chúng ta không biết", James nói.

"Đó là một câu trả lời ngu ngốc vớ vẩn."

"Đời đôi khi vẫn ngu ngốc và vớ vẩn", James cảm thấy tự hào khi luôn nói với con bé sự thật.

"Đời con sẽ không vậy đâu."

"Ừ, với con thì không!"

Điều làm Kathleen bực bội nhất là khuôn mặt vô hồn của mẹ cô, một cái máy đẻ vô tri vô giác. Cuộc đời mình sẽ không giống vậy.

James không chìm đắm lâu với việc này. Anh buồn vì chuyện đã xảy ra, nhưng nó cũng đồng nghĩa với việc bớt đi một miệng ăn. Materia thì phục hồi nhanh một cách bất ngờ, cứ như một con bò cái, anh cố để không nghĩ vậy. Vấn đề là nhìn cô vẫn giống như đang mang thai. Cô ấy sẽ lấy lại vóc dáng cũ khi mình trở về sau trận chiến. 

Nhưng từ giờ trở đi thì nhìn Materia vẫn như đang mang thai, mọi người sẽ cho rằng cô đang có thai sáu hoặc bảy tháng, nhìn vào là thấy ngay.

James tham gia trung đoàn cao nguyên Victoria Argyll. Trung đội trưởng của anh nói tiếng Xen-tơ, cũng như tám mươi phần trăm những người khác trong đơn vị: James xung phong ngay cho vị trí làm nhiệm vụ ở nước ngoài và cảm thấy vui mừng khi có đợt huấn luyện nào đó có thể mang anh đi xa nhà. Tập trận với lưỡi lê ở trại Wellington tại Halifax, lao vào những túi cát, "dưới, trên, coi nào các cô gái, dưới và trên! Đâm vào lồng ngực của chúng ấy!" Một trung sĩ người Anh dạy họ cách đào hầm sao cho chuẩn xác, sắp đặt các túi cát một cách gọn gàng: "Đừng sâu quá, các cô gái, chúng ta không dừng lại quá lâu đâu!" - chỉ đủ để ngủ một chút và sau đó lại trên đường hành quân cùng những tên Đức man rợ đang lẩn trốn. James nằm trong số những người lớn tuổi ở đây, anh không thân thiện, anh cũng không quan tâm đến vua George, anh cũng không chống đối Kaiser. Anh đếm từng ngày cho tới lúc được xuất ngoại. "Dưới và trên, các cô gái, dưới và trên!"

Năm mươi năm hòa bình ở châu Âu đã tạo ra sự sung túc ở mọi phương diện, có rất nhiều ngựa sẵn sàng phi xuyên qua châu Âu theo hai hướng. Cùng lúc đó Cape Breton cũng tham gia, mặc kệ một sự thật là hơn hai mươi lăm năm qua quân đội Canada đã dành nhiều thời gian cho việc bảo vệ tài sản của công ty than Dominion hơn là chiến đấu. Tuy vậy những người tuyển quân vẫn rất hùng hồn rằng "tội nghiệp cho nước Bỉ bé nhỏ, những tên lính Đức khát máu - hoạt động của các hầm mỏ đã chậm lại, tại sao những chàng trai lại không muốn trở thành chiến sĩ? Cái lí do bạn bè sẽ cận kề chiến đấu bên cạnh nhau cũng có vẻ thuyết phục - cả thị trấn ở trong cùng một đoạn chiến hào. Mọi người đều lo sợ rằng "tất cả sẽ kết thúc vào Giáng sinh", nhưng James hi vọng chiến tranh sẽ kéo dài khoảng hai năm. Lúc đó thì Kathleen đã đủ lớn để có thể rời khỏi gia đình lúc anh trở về. Nếu anh có thể trở về.

James hoàn tất những đợt huấn luyện cơ bản và nhận nhiệm vụ bảo vệ cơ sở. Trong suốt mùa thu, anh và những người còn lại của đội 94 tuần tra bãi biển trong tâm trạng hồi hộp khó chịu, cực kì lo lắng rằng chiến tranh sẽ kết thúc trước khi họ có thể ra đi. Họ được biết đến như là những "chiến sĩ việt quất", bởi vì họ không có việc gì khác để làm ngoài việc hái việt quất và dán mắt vào những con tàu ma quái của bọn Đức. James ăn uống tại nhà, nhưng anh ngủ với hai chiến sĩ khác trong một cái lán ở bãi biển Lingan. Sẵn sàng, trong mọi trường hợp, sẵn sàng.

Cuối cùng James cũng được chuyển đến tiểu đoàn cao nguyên Cape Breton số 85 ở nước ngoài của lực lượng viễn chinh Cabada. Anh được cấp một khẩu súng trường hiệu Ross. Thật tốt là có một con dao gắn vào nòng súng - không ai biết được ở vùng đất săn thỏ Bắc Mỹ thì một khẩu Ross sẽ có hiệu quả hơn bao nhiêu so với vùng bùn lầy châu Âu. Cùng với ba mươi kí hành lí, James còn được cấp một cái áo chẽn kaki, một cái váy chiến đấu may bằng da, một cái túi lông ngựa màu đen vàng, một cái váy ca rô Macdonald màu sáng và một cái mũ bê rê với chùm tua rua đỏ. Bọn Đức chắc chắn sẽ thấy anh đến, và tiếng kèn của trung đoàn dẫn đường như thế này thì chắc chắn bọn Đức sẽ nghe thấy các anh đang tiến đến. Kèn túi có tác dụng nấu chảy lòng trắc ẩn của quân thù, đầu gối trần trong trận chiến sẽ dấy lên một nỗi sợ trong lòng những kẻ cuồng tín. Bọn người Đức sẽ phải gọi những chiến sĩ của trung đoàn cao nguyên là "những chiến sĩ đến từ địa ngục."

Cuối cùng thì vào một ngày tháng mười hai năm 1914, James đứng cầm cương trong lúc Taylor nhấc túi đồ của anh lên xe và chuẩn bị đưa anh đến bến tàu Sydney. Tuyết đang rơi và James cảm thấy những vết cắn bất thường của mùa đông trên đầu gối của anh. Anh biết anh đang mặc trên người chiếc váy đầy tự hào của tổ tiên nhưng anh cũng hơi nhớ cái quần dài của mình. Materia thì không thể ngừng nghĩ rằng anh thật đẹp trai. James vỗ đầu bọn trẻ. Frances cù vào đầu gối anh, Mercedes thì cho anh cái bánh quy ướt sũng của nó, Kathleen thì vòng tay ôm quanh người anh, không thể ngừng khóc, cô bé không bao giờ khóc, nó không phải một đứa yếu đuối. Cô bé ôm chặt lấy anh, còn anh thì cố gỡ cô bé ra.

"Hãy là một chiến sĩ tốt nào, chăm sóc mẹ con nhé!"

"Không!"

"Đủ rồi, im nào con..."

 

Nhưng cô bé vùng chạy vào nhà, tông mạnh vào cánh cửa - Cha, cha của mình đang đi xa, ông có thể bị giết, hoặc thậm chí là chết đuối trước khi đến được đó - chạy lên cầu thang, hai bậc một lúc - và ông đang bỏ mình lại đây với người đàn bà kinh khủng này! Chạy thẳng vào phòng, tránh nhìn vào gương, tông thẳng vào cửa, khóa nó lại.

"Tạm biệt các con, hãy cầu nguyện cho người cha già của các
con nhé!"

Anh biết rằng Materia sẽ cầu nguyện, cô sẽ cầu nguyện tới rụng cả cái đầu ngu ngốc của cô xuống.

Anh đã đúng, cô làm y như vậy. Cô cầu nguyện nhiều đến mức cái đầu của cô có vẻ hơi lung lay. Cô cầu nguyện rằng anh sẽ bị giết không đau đớn ở Flanders.

 

Ở đây

James đi rồi thì Materia mới thực sự trở lại cuộc sống. Cô tìm thấy sự dễ chịu với những đứa con của mình - Mercedes là một bé gái ngoan và Frances thì là một "cô hề" vui vẻ. Kathleen tiếp tục cuộc sống riêng của mình, ở lại muộn sau giờ học để tập luyện với xơ Saint Cecilia hoặc tập luyện với đội hợp xướng, dĩ nhiên là hát đơn ca. Cô không thể làm vậy khi cô ở nhà nhưng ít ra cô cũng không gây hại gì, nếu thánh Ala muốn vậy.

Cho cô ăn gì là một câu hỏi hóc búa, không gì làm cô vừa lòng. Cô đảo mắt, thở dài một cách lộ liễu, hối hả ra khỏi phòng. Materia quay lại với miếng phô mai nướng dự trữ của James, cắt ra thành bốn miếng xinh xắn và đặt trước mặt cô bé "SaHteyn!"

"Mẹ à! Nói tiếng Anh chứ!"

Kathleen, Mercedes và Frances cùng có ấn tượng rằng mẹ chúng không sử dụng tiếng Anh nhiều. Điều này trước đây không đúng, nhưng bây giờ nó rất dễ nhận ra bởi vì Materia không mấy khi dùng tiếng Anh, bởi vì cô biết chuyện trò bằng tiếng Anh với ai bây giờ? Không phải chồng cô. Bà Luvovitz thì luôn rộng lượng và không đòi hỏi cô trong chuyện này, tình bạn của họ chỉ xoay quanh những chuyện thức ăn, con cái và những quyển sách nhạc I-đit cổ. Materia cảm thấy thoải mái khi ngồi tại chiếc bàn bếp nhà Luvovitz và nghe người phụ nữ đứng tuổi này huyên thuyên về chuyện này chuyện nọ.

Giới từ là những thứ đầu tiên bị bỏ đi, sau đó tới trạng từ bị vỡ nát cùng cả mệnh đề, cho tới khi Materia chỉ còn lại những danh từ và động từ lạnh lùng.

Sự khác nhau giữa Kathleen và bọn trẻ là Materia nói chuyện rất nhiều với Mercedes và Frances - dù cô đã quên phần lớn tiếng mẹ đẻ của mình vì không sử dụng đến nó, hầu như là tất cả, trừ những thứ không thể tẩy xóa được trong kí ức thơ bé nhất của cô. Do vậy, Materia và hai cô con gái nhỏ nói tiếng Ả Rập cho trẻ em - về thức ăn, tình thương mến và kể chuyện. Ya aa'yni, te'berini.

Mercedes và Frances hiểu rằng tiếng Ả Rập là một thứ gì đó chỉ có giữa chúng và mẹ. Bây giờ có rất nhiều người nói tiếng Ả Rập trong thị trấn Cape Town, nhưng bọn trẻ vẫn nghĩ chúng và mẹ chúng là những người duy nhất ngoài những người bí ẩn ở vùng đất xa xôi mang tên Old Country. Một nơi tốt đẹp hơn bất kì nơi nào khác trên Trái Đất này, nhưng bạn lại bỏ đi khỏi nơi đó.

"Tại sao vậy mẹ?"

"Vì bọn Thổ Nhĩ Kỳ."

"À!"

Một nơi mà mọi người đều dùng thứ ngôn ngữ độc quyền ở nhà của các cô gái nhỏ nhà Piper một cách phổ biến và mọi người đều trông giống mẹ chúng.

"Kể cho chúng con nghe về Old Country nữa đi mẹ!"

Trên chiếc võng treo trong bếp, trước khi Kathleen đi học về, chúng rúc vào cơ thể mềm mại của Materia như là cái gối êm cho hai cái đầu bé bỏng. Cô có mùi hương êm dịu của bánh mì ướt và dầu, một hũ bezzella và roz cùng miếng thịt cừu trên bếp đang sôi rù rì một cách chán nản. Ngoài trời, những cơn mưa phùn mùa đông đang làm cửa sổ mờ đi.

"Lebanon là nơi đẹp nhất trên thế giới này, nơi có những cơn gió nhẹ và lúc nào cũng ấm áp. Những tòa nhà đều màu trắng, chúng tỏa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời như những viên kim cương và mặt biển có màu xanh trong như pha lê. Lebanon là hòn ngọc của phía Đông, còn Beirut - nơi mẹ sinh ra - là Paris của vùng Trung Đông."

"Chúng ta có thể đến đó sống không?"

"Không". Các con may mắn là được sinh ra ở hòn đảo u ám ẩm ướt vùng Đại Tây Dương này, nó có vẻ đẹp ảm đạm riêng của nó.

"Tại bọn Thổ Nhĩ Kỳ hả?"

"Ừ."

Hòn đảo này quen thuộc với những người Ailen chết đói và những người Xcốtlen cáu bẳn được thay bằng hình ảnh những con cừu ở Old Country.

"Mẹ ơi, bọn Thổ Nhĩ Kỳ thích cái gì?"

"Điều đó ghê tởm lắm."

"Vâng."

Đảo Cape Breton không phải là một hòn ngọc - cứ đào xới ở bất cứ đâu và bạn sẽ tìm thấy dầu mỏ - nhưng một ngày nào đó, có thể là hàng triệu năm sau, nó sẽ trở thành một viên kim cương. Viên kim cương Cape Breton.

"Mẹ ơi, kể cho chúng con về Jitdy và Sitdy nữa đi."

"Jitdy của các con là cha của ta. Ông và mẹ ta - Sitdy của các con - đến đây với hai bàn tay trắng và đã làm việc rất chăm chỉ. Họ có nhiều con và họ rất giàu có."

"Sao họ không ở lại đây?"

"Họ nhớ Old Country."

"Một ngày nào đó chúng ta sẽ đến gặp họ chứ?"

"Khi các con là những người phụ nữ trưởng thành cùng những đứa con của riêng mình, các con có thể
đến đó."

"Mẹ kể về bà Hùi giáo nữa đi."

"Hồi giáo."

"Vâng, Hồi giáo."

"Bà ấy là một người tốt. Tên bà ấy là Mahmoud. Nhiều năm về trước, khi Jitdy của các con còn là một đứa bé, bọn Thổ Nhĩ Kỳ đã đến làng của ông ở Old Country, chúng tìm giết những đứa trẻ Thiên Chúa giáo. Bà Mahmoud đã mang Jitdy của các con đi và đặt ông lẫn vào những đứa con của bà. Khi bọn Thổ Nhĩ Kỳ đến gọi cửa và nói rằng "Có đứa trẻ Thiên Chúa giáo nào ở đây không?", bà đã nói "Không. Tất cả chúng đều là con của tôi" và để thuyết phục họ, bà đã cho Jitdy của các con bú bằng sữa từ chính ngực của mình. Bọn Thổ Nhĩ Kỳ bỏ đi. Khi ông lớn lên, Jitdy của các con đã lấy tên của bà Hồi giáo để thể hiện lòng biết ơn. Mặc dù ông thực sự theo Thiên Chúa giáo.

"Ôi, mẹ..., chúng con xem hình được không?"

Materia lấy tấm hình chụp của cô và James dưới cánh cổng hình mái vòm kiểu La Mã lúc trước chụp ở tiệm ảnh Wheeler. Mercedes và Frances mân mê tấm ảnh khi cha và mẹ còn trẻ. Trong đầu óc của Frances, cánh cổng mái vòm dẫn đi đâu đó đến vùng Old Country, cũng có thể là đến chiến tranh.

"Khi nào thì cha về?"

"Sớm thôi. Chúng ta phải cầu nguyện."

Materia nhận được tin tức từ em gái cô, Camille. Camille đã đợi bên ngoài cửa bếp nhà Mahmoud cho tới khi người Do Thái bán thịt uống xong tách trà với mẹ cô như thường lệ hàng tuần. Khi ông đi ra, Camille đưa cho ông một cái hộp vuông nhỏ. Cô nhờ ông đưa cho Materia và vội vàng bỏ đi mà không cần chờ câu trả lời. Benny chuyển nó cho bà Luvovitz và bà đưa cho Materia. Materia đã khóc khi cô mở hộp quà. Một đĩa nhạc tiếng Ả Rập. Cái bìa giấy của nó có vẽ hình Beirut vào ban đêm. Cô háo hức nhìn vào trong và tìm kiếm một bức thư - mong đợi kiểu chữ in của thời con nít ngày xưa và mỉm cười với những kỉ niệm mặc dù nó làm tim cô đau đớn, Camille bé bỏng của chị, "em là người xinh đẹp nhất trong tất cả chúng ta, người đẹp ạ!". Nhưng cô chỉ tìm thấy một mảnh giấy màu nâu với dòng chữ "Em kết hôn rồi".

Ít nhất là một lần một tuần, Materia lấy cái đĩa nhạc ra khỏi rương đựng đồ, mang cái máy quay đĩa của Kathleen xuống bếp và mở nó lên. Cô nhấc thanh sắt lên và đặt kim lên chiếc đĩa hát đang quay tròn.

Đầu tiên là một tiền sảnh phủ tuyết tĩnh lặng dẫn lối đến một thế giới khác, sau đó là... Vừng ơi mở ra: điệu deerbeki vang lên, những chiếc chuông rung lên ở cổ chân, chũm chọe leng keng trên tay, cây đàn oud xuất hiện và tỏa sáng, cây đàn hơi bằng gỗ mở ra - tổ tiên không chân của kèn túi vùng cao nguyên, tiếng the thé vang lên trên từng sợi dây đàn đang búng nhè nhẹ theo các hợp âm. Tất cả đan kết và hòa nhịp với nhau tạo thành một bản hợp âm loang lổ cho đến khi một giọng nữ xen vào, vẫn chưa có từ nào cất lên, chỉ có tiếng rên rỉ đan xen giữa sự hân hoan và xót thương nhưng dàn nhạc phải hoãn lại, run sợ trước giọng hát ngọt ngào, mềm mại và đầy cám dỗ "hãy nhảy với em trước khi chúng ta yêu nhau, sẽ sớm thôi!"

Materia đứng dậy và nhảy điệu dabke. Mẹ cô đã dạy cô điệu nhảy này, và Materia đã dạy lại cho Mercedes và Frances. Điệu dabke là một chuỗi những bước ngắn nhịp nhàng liên tục, hông xoay tròn và đong đưa, vai lắc đều đến trước và ra sau, cánh tay lướt nhẹ như những ngọn cây phía trên đầu bạn. Hai bàn tay bạn sẽ mềm mại như rong biển, đong đưa trên hai cổ tay và uyển chuyển xoay vòng, lượn lờ, tán tỉnh lẫn nhau.

Điệu nhảy này sẽ đẹp nhất nếu bạn hơi đẫy đà một chút, nhưng bất cứ ai cũng có thể nhảy được, nó là một điệu nhảy phổ biến. Và mặc dù theo truyển thống thì một người đàn ông sẽ dẫn đầu một hàng các cô gái đẹp thì điệu nhảy này vẫn dành cho tất cả mọi người. Ở lễ cưới, ở lễ rửa tội, người già, trẻ con, bất kì ai. Đó là lí do tại sao đôi mắt lại quan trọng như vậy, bởi vì điểm mấu chốt của điệu dabke là đứng dậy và hòa mình vào trung tâm của đám đông, nơi bạn sẽ nhìn vòng quanh tất cả mọi người cho tới khi chọn được một người để mời nhảy. Sau đó bạn sẽ hạ thấp tay mình dần về phía người đó, bàn tay vẫn vẫy theo điệu nhạc, bạn sẽ lôi kéo cho đến khi người đó đứng dậy và nhảy cùng với bạn vì họ không thể cưỡng lại được nữa. Sau đó thì họ cũng sẽ trở thành trung tâm của đám đông.

Điệu dabke là sự hòa quyện của hông và uyển chuyển của đôi tay khi bạn thấy mình đang ở giữa một đám đông ceilidh, những điệu nhảy bước của vùng Xen-tơ lại toàn dùng chân và đầu gối. Cả hai điệu này ai cũng có thể nhảy được, thậm chí ở trong bếp.

Điệu dabke được Mercedes và Frances đặc biệt yêu thích, chúng có thể nhảy mải miết miễn Materia còn chịu được, mà trong những ngày đầu này thì khoảng thời gian này là rất dài. Cô dạy chúng rất nhiều bài hát Ả Rập cũng như cách hát khẽ chúng trong lúc nhảy. Mánh khóe của nó là điệu nhảy và việc hát không được lặp lại. Một khi biết được điều này thì bạn đã sẵn sàng để học.

Khi cái đĩa nhạc quý giá bị mòn đi, Frances đã phát minh ra cái khác bằng cách dùng một chiếc lược và giấy sáp để làm giả lưỡi gà và dây đàn. Thay vì nghĩ đó là một sự xúc phạm, Materia lại nghĩ đó là một phát minh khéo léo, và nó đúng là vậy.

Áp vỏ sò vào tai, bạn có thể nghe thấy tiếng của Địa Trung Hải. Mở rương đựng đồ ra, bạn sẽ ngửi được mùi của Old Country.

 

Holy Angels

Có thể những yêu cầu của cô quá cao, hoặc là những đặc ân cô dành cho sự yếu đuối của con người là quá ít, bởi vì những cố gắng kết bạn của cô đều kết thúc trong sự thất vọng.

CLAUDIA, A.L.O.E

 

Lớp học của xơ Saint Monica được trang trí bằng một tấm bản đồ thế giới, một biểu đồ mặt cắt núi lửa, một bộ sưu tập hóa thạch và một bản in màu tên của chính xơ. Nó được treo ngay phía trên bảng đen. Ngồi trong lớp, xơ Saint Monica đặt một cuốn sách đang mở trong lòng nhưng bà không đọc, bà đang nhìn xa xăm đi đâu đó và dường như không nhận ra một đôi mắt khác đang nhìn ra từ trong những trang sách.

Mỗi khi cảm thấy quá chán, đôi mắt của Kathleen sẽ lạc đến bức tranh này, nó là tâm điểm che đậy những giấc mơ ban ngày không được phép xuất hiện trong lớp của xơ Saint Monica - người luôn ứng khẩu kể về giai thoại của các vị thánh giữa các bài học về vỏ trái đất và các thủ đô trên nó. Các cô gái của chúng ta đều biết rằng những đồng cỏ là dạ dày của Canada và thánh Monica là mẹ của thánh Augustine - Cha xứ tuyệt vời nhất trong tất cả Cha xứ của các nhà thờ. Khi ông còn trẻ, Augustine đã sống trong tội lỗi với một người phụ nữ châu Phi ngoại đạo. Mẹ ông đã cầu nguyện cho ông chuộc hết được lỗi lầm và đến một ngày nọ, trong khi Augustine đang tản bộ trong vườn thì ông nghe thấy tiếng trẻ con vang lên "Hãy cầm lấy nó, hãy đọc nó!" . Đó chính là tiếng nói của Kinh Thánh. Augustine đã bỏ rơi người vợ bé châu Phi của mình, chuyển đạo sang Thiên Chúa giáo và trở thành người trừng phạt đối với những kẻ gian dâm. Và Rangoon là thủ đô của Burma.

Tuy nhiên, buổi chiều hôm đó, đôi mắt của Kathleen lại không dán vào bức tranh của xơ Saint Monica. Kathleen đang ở vùng quê xa xôi của nước Anh, nơi cô và người cha của mình sống trong một trang viên...

"Kathleen!"

Kathleen giật nảy lên khỏi bàn và nhìn vào chiếc khăn che mặt dữ tợn của xơ Saint Monica.

"Vâng, thưa xơ!"

"Cái gì có thể thu hút em hơn là sự hình thành băng tích vậy?". Xơ Saint Monica không cần đợi câu trả lời, bà tóm lấy quyển tiểu thuyết của Kathleen đang được che giấu dưới lớp vỏ ngụy trang là cuốn sách "Địa lý nước Anh".

"Claudia, A.L.O.E. Ai là A.L.O.E?" Giọng bà gay gắt.

Kathleen cảm thấy mặt mình đang đỏ dần lên, cô nhìn xuống "...Một quý bà ở nước Anh."

"Sao cơ? Cô không có hơi à? Dùng nó đi chứ." Có tiếng khúc khích vang lên từ dưới lớp.

Kathleen ngẩng lên.

"Một quý bà ở nước Anh."

"Một quý bà ở nước Anh, cái gì?"

"Một quý bà ở nước Anh, thưa xơ!"

Kathleen đứng chịu trận khi xơ Saint Monica lướt qua các trang sách. Những đứa con gái khác bắt đầu thì thầm. "Im lặng!". Im lặng. Xơ đong đưa quyển sách trước mặt Kathleen và ra lệnh "Chia sẻ thứ quý báu này với lớp đi nào!"

Kathleen cầm lấy quyển sách và cắn môi.

"To và rõ ràng. Ta không muốn bỏ lỡ một từ ngữ hấp dẫn nào đâu."

Kathleen bắt đầu từ một đoạn nào đó và đọc "Tôi thường thấy một cái nhìn thoáng qua..."

Một giọng nói ê a vang lên "Tôi không nghe gì cả, Kathleen."

"...của một bóng áo choàng đen..."

"To hơn nữa!"

"...đang băng qua khoảng không đằng xa...."

"Tốt, tiếp tục!"

"....với một cái gì đó như là sự thèm muốn đối với trái cấm."

Tiếng rúc rích vang lên khắp nơi. Kathleen hít một hơi, chớp mắt và tiếp tục "Những người không mang sự nghi ngờ theo bên mình sẽ hiểu rõ thế nào là tốt và xấu bằng cách làm quen với cuộc sống của một nữ tu. Nhưng ta nghi ngờ điều đó mang nghĩa xấu nhiều hơn là tốt..." Những đứa con gái khác há hốc miệng. Kathleen chờ đợi, dán mắt vào quyển sách, làm ơn đừng bắt tôi đọc nữa.

"...Tiếp tục!"

"...nhưng Papa cấm tôi không được có bất kì sự giao du nào với những quý cô La Mã."

Im lặng, kinh ngạc và hoảng sợ. Xơ cảm thấy đau buồn. "Các cô gái, lợi ích và cân nhắc. Đây là một thứ rác rưởi không hơn không kém, một sự phỉ báng được viết ra bởi lớp phụ nữ thấp kém không dám xuất bản dưới tên thật của mình vì nó sẽ thể hiện những ý định tội lỗi của ả. Không ai trừ những đứa ngu hoặc những người tâm địa ma quỷ mới tìm thấy sự thoải mái trong những trang sách này. Kathleen, em có vậy không?"

Kathleen không thể ngước lên, quanh cô là một cảm giác chiến thắng đê tiện.

Cô tự bắt mình phải trả lời theo cái cách mà tự nó đã là một sự thách thức. "Thưa không!"

Xơ Saint Monica tịch thu cuốn sách và lướt nhanh về lại
bàn mình.

Xơ Saint Monica là một trong những người không thể chịu được sự bất khả xâm phạm của Kathleen Piper, bà luôn tìm kiếm cơ hội để cho con bé một món quà của sự sỉ nhục, nhưng điều đó hoàn toàn không dễ chút nào, Kathleen là một học sinh mẫu mực và gần như không thể chạm được một ngón tay vào niềm kiêu hãnh xấc xược đã tạo nên kiểu cách không tì vết của cô - đó là chưa kể đến sự trơ tráo vô căn cứ nhưng lại không thể bắt lỗi được của nó. "Ta sẽ dạy nó một bài học", xơ Saint Monica nghĩ và nhét cuốn sách vào ngăn bàn của mình rồi khóa lại.

"Rồi bà ấy sẽ biết," Kathleen nghĩ và nhìn chằm chằm vào lọ mực, cảm thấy nóng lên vì bị sỉ nhục. "Bà ấy sẽ phải hối tiếc, ta sẽ giết bằng cách đóng cọc vào tim bà ấy, ta sẽ nổi tiếng còn bà ấy thì sẽ xấu xí và chết đi. Ta sẽ sẵn lòng moi mắt bà ấy ra và cho bà ấy thấy. Thậm chí bà ấy còn không đáng được vậy." Cô cảm thấy mắt mình ngân ngấn nước. Đừng khóc. Không được khóc. Cứ nhìn chằm chằm đi, cố lên.

Kathleen nhìn ra những cụm khói của nhà máy sắt thép Dominion ngoài cửa sổ, tưởng tượng như mình đang bốc cháy trong ngọn lửa ống khói và đang bay vút về phía nhà hát La Scala. Hoặc là bất kì nơi nào khác miễn là ở xa cái thị trấn tồi tàn, khốn khổ và những đứa con gái này.

"Ta đã nói rồi! Đi lên bảng!"

Kathleen bắt đầu nhìn lên. Xơ đang chờ ở cái bục cao phía trước bảng đen - Kỉ băng hà, kỉ phấn trắng, tuyệt chủng hàng loạt - bây giờ là gì chứ? Kathleen lướt ra khỏi bàn của mình, để lại dấu bàn tay trên mặt bàn, đủng đỉnh đôi vớ len dính vài mảnh gỗ và tiến lên phía trước để chịu hình phạt trước đôi mắt của bọn con gái.

"Quay mặt xuống lớp!"

Kathleen làm theo. Thứ tiếp theo mà cô biết là cô đang bị hàng đống giấy vụn và vỏ bút chì ụp lên đầu, ánh sáng vụt tắt.

"Bởi vì cô quá háo hức muốn nhét đầy đầu mình những thứ rác rưởi", xơ Saitn Monica nói, "có lẽ cô cần thêm một cái giỏ rác trên vai như thế này đấy!"

Tiếng cười vang lên.

"Đủ rồi đấy các cô gái. Bây giờ, Kathleen, hãy hát cho chúng ta nghe nào!"

Kathleen đứng đờ ra, chớp mắt trong bóng tối của cái giỏ rác bằng kim loại, cô cảm thấy mồ hôi đang rỉ ra dưới cánh tay và giữa hai chân mình.

"Cô là một nữ ca sĩ mà, không phải sao?" - Chát! - Cây thước quất vào cái thùng rác.

Kathleen bị dính chặt vào hình ảnh từng hàng con gái đang ngồi bắt chéo chân, bụm miệng và mũi lại để không cười quá phấn khích. "Ta bảo hát!"

Chỉ có một bài hát có thể tự thể hiện, cô ngoan cố nghĩ vậy trong đầu và bắt đầu hát, giọng vang vang và nghẹn lại: "Ta sẽ đưa em về nhà, Kathleen..." - những tiếng cười kích động vang lên, xơ để chúng thoải mái - "Băng qua đại dương bao la rộng lớn..."

"Lớn nữa lên!"

"Đến nơi trái tim em từng trú ngụ, vì em đã từng là cô dâu xinh đẹp của ta" - một giọng hát chân thực là tất cả những gì Kathleen có, và giờ thì nó bùng nổ ra.

 

"Tiếp tục!"

"Những đóa hồng tô thắm má em. Anh đã thấy chúng phai nhạt màu và chết đi. Giọng em nói lúc nào cũng buồn. Và nước mắt làm nhòa đi đôi mắt..."

Cuối cùng Kathleen cũng khóc, cô giận điên lên và không thể kiềm được. Tệ hơn nữa là cô ghét bài hát này - lỗi thời, ngọt ngào một cách bệnh hoạn, không có gì khác ngoài cái tên của cô "Ta sẽ đưa em về, Kathleen, về nơi trái tim em sẽ không bao giờ chịu đau đớn. Khi những cánh đồng ngát xanh và tươi mát, ta sẽ lại đưa em về nhà em."

Bài hát kết thúc, Kathleen đau khổ chờ đợi đến khi được tha - làm sao cô có thể bỏ cái giỏ rác ra khỏi đầu mình trước mặt mọi người? Cô biết rằng cô vẫn phải làm. Một lúc nào đó. Cô cần phải vào nhà vệ sinh. Cô có cảm giác cứ như mình đã làm ướt quần mình vì sự xấu hổ. Dĩ nhiên là điều đó không thể xảy ra, vì nếu có chắc chắn cô sẽ biết. Kathleen nhận ra rằng mình đã đứng đây khá lâu, và xơ Saint Monica đã quay trở lại bài học.

"Vào lúc nào thì người vợ bé châu Phi của Augustine bị bỏ rơi?"

"Con biết, con biết, thưa xơ..."

"Từng người một thôi, các cô gái."

Kathleen đứng như người vô hồn cho tới khi chuông điểm báo giờ ăn trưa và cô nghe thấy tiếng xơ Saint Monica bước ra khỏi lớp sau đứa học trò cuối cùng.

Kathleen không có người bạn nào. Cô có việc của mình và cô cảm thấy biết ơn vì bạn bè là thứ không nên có ở Holy Angels. Không phải vì Kathleen đang rời khỏi kiểu cách của mình - một kẻ hợm hĩnh. Nhìn cô đứng trên bục, vô danh, với một cái giỏ rác kim loại trùm trên đầu, che giấu khuôn mặt kiêu ngạo - tại sao mọi người lại nghĩ là cô xinh đẹp, mái tóc của cô thật tồi tệ, nó màu đỏ. Chỉ vậy thôi. Không phải "ánh nâu vàng", không phải "những lọn tóc màu trái dâu", là màu đỏ. Như một con quỷ, như gái điếm. Sự trừng phạt trên tay Kathleen của xơ Saint Monica đã để lại nhiều vết rất tệ.

Sự thật là Kathleen không biết làm thế nào để kết bạn, cô chỉ được huấn luyện để sống trong cái môi trường lộng lẫy đó, cái tương lai của cô. Bạn bè là những thứ dư thừa. Điều này càng được củng cố bằng sự ngầm hiểu rằng cô không được đưa bất kì ai về nhà. Có gì đó liên quan tới mẹ. Cô và cha không bao giờ nói ra, nhưng cả hai đều tự hiểu như vậy.

Những đứa khác ngủ lại nhà bạn, rúc vào với nhau và nói chuyện đến tận sáng. Kathleen tình cờ nghe thấy chúng thì thầm với nhau ở phòng rửa mặt. Cô không thể nào hiểu được tại sao cha không cho cô ngủ lại nhà bạn, vì cô không bao giờ được mời. James đã lên kế hoạch cho cô đến Ý một mình, nhưng đó là một chuyện hoàn toàn khác. Đó là Cuộc đời. Và một thứ khác là Sự vô nghĩa. Ai mà biết được cha của những đứa con gái khác nghĩ gì trong đầu? Kathleen luôn được hộ tống nhưng cô không nhìn sự việc như vậy. Tự do nghĩa là được cách li khỏi sự ganh tị và lơ là của những người không quan trọng lúc nào cũng ở quanh cô.

Ngay lúc này, sau năm năm học ở Holy Angels, Kathleen vẫn không biết một người bạn nào trừ người dám cắn vào cổ tay cô - không ít thì nhiều, cô vẫn mong những đứa khác làm giống vậy. Cô đi theo chúng một cách cẩn trọng, cứ như chúng là những con thú hoang nguy hiểm đang lảng vảng quanh một hồ nước và sẵn sàng vồ lấy con mồi, bạn sẽ chẳng bao giờ biết được tại sao và cái gì đã tấn công mình. Cô sợ chúng, những thứ bén nhọn sáng lấp lánh và cô không bao giờ hiểu nổi chúng đang nói chuyện gì hay làm sao chúng có thể làm được vậy. Làm sao chúng có thể túm tụm lại thành từng nhóm như vậy. Thực sự thì Kathleen rất xấu hổ, nhưng sẽ chẳng ai để ý thấy điều đó vì dù gì thì cô cũng đã đứng dậy và hát trước khán phòng đầy người.

Tuy nhiên, những thứ có thể cứu vớt cho số phận của Kathleen lại là sự có mặt của vài người anh chị em họ của cô ở trường Holy Angels. Một người trong số họ đã ở trong lớp của cô trong sáu năm qua. Mặc dù Materia không muốn những cô con gái của mình biết tí gì về sự nhục nhã khi trốn khỏi gia đình và đã bịa ra một câu chuyện khác về "Old Country", James đã nói cho Kathleen nghe sự thật: họ đã ở một nơi mà cả trăm năm không có được một khoảnh khắc bình yên, một nơi nhỏ bé. Con có anh chị em họ ở Holy Angels. Cứ lờ chúng đi. Đừng cho chúng cơ hội làm con mất mặt. Cứ hành động như con đang ở một chốn riêng
của mình.

Nhà Mahmoud giàu có và rất có tư tưởng công dân. Những cô gái nhà Mahmoud rất nổi tiếng, mỗi người đều có ánh mắt tỏa sáng trong những chiếc khăn choàng len và thứ tiếng Anh hoàn hảo. Họ được kể rằng Kathleen là con gái của quỷ dữ và họ luôn cố chừa cho cô một khoảng không gian riêng. Kết bạn với Kathleen có nghĩa là chống lại những cô gái nhà Mahmoud. Bạn không thể theo cả hai cách được.

Vậy mà không hề có lấy một đứa bạn tiềm năng nào giữa nguyên đám đó, một cô gái thích đọc sách, đơn giản như một ngày Thứ ba trời mưa, hoặc có thể xinh đẹp đến mức không phải lo sợ? Một người không đi du lịch với một túi đồ, một người có thể xuất hiện với tư cách một người bạn của Kathleen. Không. Pháo đài của Kathleen, ngọn tháp màu trắng kem, dốc đứng và kinh khủng. Không ai có thể đi vào hoặc đi ra. Trừ cha cô, xơ Saint Cecilia và một vài tên nô lệ được chọn lọc để phục vụ đời sống. Ví dụ như mẹ cô. Ví dụ như người đánh xe.

Những đứa con gái khác cố làm dịu đi lòng ganh tị đang nhen nhóm và giảm đi sự sợ hãi của chúng đối với Kathleen, một sự chống đối xã hội, bằng một liều thuốc phân biệt chủng tộc hăng hái:

"Có thể nó trắng hồng vậy đấy, nhưng mà các bạn nên gặp mẹ của nó, đen như một con pích trong bộ bài vậy."

"Các bạn biết không, có những thứ ăn sâu trong máu rồi. Người bà con của mẹ Evangeline Campbell biết một người phụ nữ có đứa con ở Louisburg. Đen như than vậy, trong khi cả hai gia đình đều trắng như tuyết và có mái tóc vàng."

"Lẽ ra lúc đầu chúng ta không nên để những bọn da màu đó vào đất nước này!"

"Chú tôi thấy một người phụ nữ da màu đánh xe chở than, ngày hôm sau ông ấy qua đời!"

"Họ bốc mùi nữa đấy!"

"Kathleen Piper đến từ vùng Coke Ovens!"

Và chúng cười phá lên.

Thực ra, cách chữa trị này không bao giờ được áp dụng khi có bóng dáng những cô gái nhà Mahmoud. Nó không có kết quả vì họ là những cô gái xinh đẹp và giàu có, cực giàu. Những cậu trai trường Holy Angels đã bắt đầu xếp hàng.

Không có người bạn gái nào dám động đến cánh cửa của ngọn tháp.

 

Ba chị em gái

Frances đã nghĩ ra một trò chơi mới: khám phá những điều bí ẩn của cô nàng thiếu nữ Kathleen. Không may là nó còn quá nhỏ nên không biết cách điều tra mà không để lại dấu vết.

"Đến đây xem nào, nhóc quậy!"

Frances len lén nhìn ra từ sau lưng Mercedes với một ánh nhìn biết lỗi trong đôi mắt, tay chắp lại ngoan ngoãn vô tội sau lưng và bước vào phòng Kathleen.

"Nếu em còn vào đây một lần nữa chị sẽ nói Pete bắt em đi đấy", Kathleen nói, tôn thêm vẻ tự cao của mình ở nơi mà cô vừa tìm thấy cây lược và lẽ ra đó là chỗ của cái bàn chải. Cô còn tìm thấy cục kẹo dính trong một cái khăn tay ren của cô.

"Ai là Pete?", Frances hỏi.

"Hắn là ông Kẹ và hắn sẽ bắt em xuống địa ngục!"

Frances cười phá lên. Đôi mắt Mercedes tròn xoe cà cô bé nói "Như vậy không hay đâu."

"Không phải em đâu cưng." Kathleen dang tay ra và Mercedes chạy đến, Kathleen nhấc cô bé lên ngồi trên đùi mình. "Hắn sẽ không bắt những cô bé ngoan đâu. Giờ chúng ta đọc gì nào?"

"Những em bé nước." Mercedes chọn quyển sách yêu thích của Frances vì tình yêu cô dành cho em gái, cô bé không cố tình không ngoan.

Kathleen liếc nhìn nụ cười méo xẹo của Frances. "Đến đây nhóc con, em cũng có thể nghe đấy!"

Frances trèo lên đùi bên kia, hai cô bé nhìn nhau và loi nhoi, tay thì che miệng và má phồng lên vì kìm nén sự thích thú.

"Thôi ngoe nguẩy đi nào, nếu không chị sẽ gắn hai đứa vào cái ghim và làm mồi câu cá ở ngoài lạch đấy!"

Mercedes sửa tư thế lại ngay ngắn, Frances cười lớn và hỏi "Em nghịch tóc chị nhé?"

"Em phải nói sao?"

"Có thể không?"

"Gì nữa?"

"Với một đống kem và một quả sơ-ri và trái cây và kẹo!"

"Gì nữa?"

"Và một thanh kiếm và một con bọ và một con sâu. Và một cái mông nữa!"

Mercedes thay Frances nói với chính mình "Xin Chúa tha tội", Kathleen cười còn Frances thì khúc khích đầy khoái trá, ngồi đàng hoàng lại và thọc cả hai tay vào biển tóc màu đỏ, nhưng Kathleen lại ngăn lại.

"Chị đang nghĩ đến từ gì nào?"

"Lồng đèn."

"Không."

"Gậy."

"Không."

"Hộp diêm."

"Không."

"Bình trà."

"Đúng rồi!"

"Hoan hô!"

"Không được kéo nhé, nếu không chị sẽ lột da em đấy. Ngày xửa ngày xưa có một người quét dọn ống khói..."

Kathleen phải dành thời gian cho các cô em gái của mình. Lúc đầu cô làm vậy là vì cha, vì cô biết nếu cô không làm vậy thì bọn trẻ sẽ chẳng nhận được gì ngoài những lời rên rỉ man rợ của mẹ cô trong suốt thời gian cô ở trường - cô có thể cảm nhận được điều đó trong không khí ngay khi cô về tới nhà. Nhưng khi ngày học ở trường và chiến tranh kéo dài, Kathleen trở nên cô đơn hơn và cô trân trọng hơn những khoảng thời gian dành cho bọn trẻ. Những buổi sáng Chúa nhật, cô cho phép chúng ngồi trên hai chiếc ghế đẩu kê cạnh cửa phòng và ngắm cô trang điểm "Chị đang có tâm trạng tốt". Chúng ngồi im hết mức có thể trong khi Kathleen hát những bài hát bất hủ của thế giới bằng giọng opera của mình và tròng vào mình chiếc áo trắng phủ ngoài áo lót thêu ren. Cô chỉnh cổ áo, thắt một cái nơ Windsor trên chiếc cà vạt kẻ sọc và kéo lại chiếc váy vải lanh, xòe ra ở gần mắt cá - "Bộ quần áo đạp xe của chị", cô gọi nó vậy, mặc dù cô chẳng có chiếc xe đạp nào. Những buổi tối sau giờ học, cô đứng chống nạnh trước cửa căn phòng cấm và rên lên "Thôi được rồi, các em có thể vào. Nhưng không được làm ồn đấy, chị đang học."

Các cô bé lúc nào cũng bước qua cửa với sự sợ sệt vì căn phòng của Kathleen là một đền thờ uy nghiêm và tinh tế. Những cái kệ được xếp đầy những cuốn sách dành cho con gái mà bạn có thể nghĩ đến, từ Cô gái nhỏ đến Anne và những giá đỡ màu xanh. Trên tường dán đầy hình của những nghệ sĩ lớn và những thứ xinh đẹp được cắt ra từ báo.

Có một bức hình của một người đàn ông với mái tóc xù và chiếc cà vạt bay bay đang say sưa bên cây đàn piano. Đó là Liszt. Kathleen đang yêu Liszt. Kathleen nói rằng chỉ cái tên của ông cũng như một tiếng thở dài đầy lãng mạn. Mercedes và Frances "thở" cái tên vào nhau như một tính từ để mô tả tất cả những thứ tuyệt diệu quanh chúng: kẹo dẻo, ga trải giường mới, bánh cam thảo mẹ làm, tất cả thật tuyệt vời, "Liszt!"

Có một bức tranh vẽ một người phụ nữ da đen xinh đẹp đội chiếc nón rộng vành và một chiếc váy cổ điển đang cầm một bông hoa trong lòng. Đó là Maria Malibran. "Ôi Malibran," Kathleen thốt lên đầy cảm xúc, "ca sĩ tuyệt vời nhất trên đời". Kathleen đã kể cho Frances và Mercedes về câu chuyện bi kịch của Malibran khi cô đi dạo trên con ngựa hoang dã nhất trong chuồng. Cô bị ngã, chân mắc kẹt vào bàn đạp và bị kéo lê trên đường đá suốt hàng dặm. Cô ngồi dậy, đánh phấn vào những chỗ trầy và thâm tím, sau đó cất tiếng hát vào đêm đó - vẫn hay như thường lệ. Sau đó cô ấy chết vì bị viêm não và "cô ấy chỉ mới hai mươi tám tuổi". Mercedes vẫn luôn tự cầu nguyện cho Malibran trong khi Frances cố gắng liên kết hình ảnh người phụ nữ xinh đẹp trong bức tranh với hình ảnh cô ấy bị kéo lê và đầu đập xuống đất. Thật là kinh khủng.

Có một bức áp phích lớn của "Người phụ nữ muôn mặt" - mặc dù trong bức tranh cô ấy chỉ có một khuôn mặt. Tên cô là Eleonora Duse. Cô có một đôi mắt đen bừng sáng và tóc đen dày. Cha đã gởi nó đến cho Kathleen từ nước Anh trước khi anh ra chiến tuyến. Duse là "Diễn viên tuyệt vời nhất trên đời". Trong bức áp phích, cô đứng trong sảnh của một ngôi nhà rất đẹp, cô mặc một chiếc áo khoác và tay đặt trên nắm cửa. Bức áp phích được làm cho một vở kịch tai tiếng mang tên "Ngôi nhà của búp bê". Cha đã gởi nó kèm theo một bức thư, "để nhắc nhở chị không được kết hôn và phá hỏng sự nghiệp của mình", Kathleen giải thích. Mercedes không thể hiểu nổi tại sao Kathleen lại không muốn kết hôn và có con cái như mẹ, nhưng Kathleen chỉ khịt mũi, "Hôn nhân là một cái bẫy, nhóc à. Một cái bẫy khổng lồ."

Mỗi tối khi Kathleen mở cửa và miễn cưỡng chấp nhận chúng, Mercedes và Frances sẽ chờ một cách ngoan ngoãn và im lặng trong năm phút dài đằng đẵng, cho đến khi Kathleen tuyên bố rằng cô đã làm xong bài. Sau đó thì có vô số trò vui để chúng chọn.

Thường thì cả ba chị em sẽ nhảy lên nằm sấp trên giường của Kathleen, chống cằm và lướt qua một tờ Harper’s Bazaar quý giá và chọn ra những mẫu quần áo, phụ kiện "dành cho những người
nổi tiếng"

"Đó là em đấy", Mercedes nói, và Kathleen đọc lời chú thích "Mẫu quần áo hoạt bát làm từ lụa Trung Quốc màu xanh nhạt đính kèm với nơ hoa hồng làm từ lụa tinh tế."

"Sang trọng", Mercedes nói một cách khôn ngoan.

"Rất sang trọng", Kathleen nói.

"Em là người đó", Frances chỉ và Kathleen đóng góp", Cô ấy say đắm mẫu áo ngực xinh đẹp và thoải mái của La Resista. Chiếc áo ngực ren có cái nhãn hiệu Paris không lẫn đi đâu được."

Frances cười khúc khích và nhại lại "Áo ngực!"

Mặc dù chiến tranh đang xảy ra, vẫn có hàng tá quần áo thời trang đổ ra khỏi Paris - mặc dù theo báo chí thì những nhà thiết kế chỉ làm đủ để đáp ứng như cầu cho những người thợ may nghèo, nếu không thì họ sẽ mất việc.

Kathleen dạy các em cô bắt chước hiệu ứng của phấn hồng bằng cách tự véo má và của son môi bằng cách tự cắn môi mình không thương tiếc. "Sắc đẹp là một vũ khí đầy quyền lực", cô đọc, vừa châm biếm vừa say sưa. "Để đến được ngôi vua của thời trang thì một cô gái phải tự nguyện làm vật hy sinh."

Mấy chị em vẫn thường ăn tối ở cửa hàng Sherry ở đại lộ Fifth, nơi Kathleen chào đón chúng bằng giọng Pháp "Chào buổi tối, các quý cô, các cô muốn dùng gì? Chúng tôi có trứng cá Caviar nướng, bánh mì ngọt Vol au Vent, bánh nhân đào Brandied và súp rùa xanh. Hay các cô thích lưỡi rau câu?"

Tuy nhiên nó lại không tầm phào chút nào. Kathleen rất tôn sùng việc đọc loạt bài của bà Randolph Churchill trong chiến tranh: Bên ấm trà sôi sục. Mấy chị em nín thở trước bức tranh một sòng bài ở Pháp đã được chuyển thành một bệnh viện. Không... Cha không có ở đó.

Kathleen vẫn luôn đọc lớn những trích đoạn cuối cùng của câu chuyện hấp dẫn khi bọn trẻ đang lắng nghe một cách hoang mang và rướn qua vai cô để nhìn chằm chằm vào hình minh họa "Đi đi! Chúng mày là một lũ súc sinh không hơn không kém!"

Kathleen rất háo hức chờ đợi từng ấn phẩm của Haper’s Bazaar mà bà Foss của Hội đồng Orpheus đưa cho cô, và cô thưởng thức nó với sự thích thú và ghê tởm. Ví dụ như, có một bức tranh mà Kathleen cắt ra để tự nhắc nhở mình rằng những kẻ tầm thường ít học không phải chỉ có ở thị trấn của cô - họ cũng xuất hiện ở những tầng lớp cao hơn của xã hội: bức tranh được cho là của Geraldine Farrar vĩ đại đang hát bản "Người đánh xe" ở nhà hát Metropolitan Opera ở New York. Tuy nhiên ở phía trước lại là một nhóm người đang ngồi xúm xít khen ngợi nữ trang của nhau. Chưa bao giờ Kathleen nghĩ rằng người ta có thể đến nhà hát Opera vì một lí do khác ngoài đam mê nghe nhạc opera. "Cứ coi như đó là một bài học", cô nghĩ và tự thề "khi mình hát, không ai được phép nhìn đi đâu khác trừ sân khấu!"

Lúc nào cũng đến cái cảnh Kathleen ném tờ Harper’s Bazaar ra góc phòng và tự nói rằng "mình đã chán những thứ sáo rỗng chưng diện và những đứa nhãi ranh nhét đầy đầu chúng bằng những thứ mục nát đó!"

"Rác rưởi!", Mercedes hưởng ứng.

"Những tên ngốc bị đốt mông!", Frances cũng hùa theo.

"Frances!"

Mercedes luôn bị kinh ngạc và Kathleen lúc nào cũng cười
phá lên.

Sau đó họ lại háo hức quay trở lại với câu chuyện cổ tích "Anh em sinh đôi Bobbseys".

 

 

 

 

Phụ nữ Canada nói "Đi đi!"

Tôi vẫn thường đi bộ trên vỉa hè ở thị trấn Nova Scotia.

Có một người đàn ông xuất hiện, khuôn mặt ông ấy màu nâu đồng.

Ông ấy kể về việc vua George kêu gọi chúng ta làm nhiệm vụ
của mình.

Ông cho chúng ta áo khoác kaki để mặc.

Ông nói cho chúng ta biết lời kêu gọi đã vươn xa qua các vùng đất và biển rộng lớn.

Và khi tôi nghe những lời nói đó,

Tôi đã nói "Tại sao? Đó là tôi đúng không?"

Bài hát diễu hành của tiểu đoàn số 85, lực lượng viễn chinh Canada.

 

Thư của anh gởi về khá đều đặn, trong những phong bì quân đội. 

Quý cô thân mến,

Tất cả đều ổn, đừng lo lắng, yêu tất cả các con.

James.

Không có thứ gì cần che đậy vì James không bao giờ viết nhiều đến mức làm lộ ra chuyện gì. Trái tim Materia nhảy nhót khi nhìn thấy thư vì lá thư cảm ơn và chia buồn của Đức vua cũng được in trên một cái phong bì giống vậy. Cô xé phong bì và mở ra, tìm kiếm một cái viền đen nhưng chưa bao giờ tìm thấy. 

Mùa xuân năm 16, bà Luvovitz xuất hiện ở cửa nhà bếp của Materia với Ralph bé bỏng trong tay. Bàn ghế được xoay lại, bà Luvovitz đang khóc. Đây đây, vào đây, ngồi xuống và uống tách trà nào. Bà ngồi sụp xuống bên chiếc bàn bếp, Materia đuổi Ralph đi chỗ khác chơi - cậu bé đang lảng vảng trong bếp với Mercedes và Frances, chúng đang thắc mắc không biết có chuyện gì với bà Luvovitz. Bà Luvovitz chồm tới mà vẫn không nhìn lên và siết chặt tay Materia. Những đứa con trai của bà sắp lên đường, Abe và Rudy. Chúng nghĩ rằng bà sẽ tự hào vì chúng là những người Canada thực thụ.

"Đừng lo lắng quá, chúng sẽ trở về mà", Materia nói.

Tất cả sách vở đều nói rằng đến ngày nào đó sẽ có một sự đột phá, bế tắc sẽ không thể kéo dài mãi.

Bà Luvovitz xì mũi và dùng khăn tay lau mặt. "Tôi biết, tôi biết, nhưng cô không hiểu đâu, chúng tôi có gia đình ở đó" - và bà lại gục xuống, giọng bắt đầu sụt sịt. "Mẹ tôi đang ở đó..."

"Nhà bà ở Ba Lan mà, chúng đâu có chiến đấu ở Ba Lan."

"Gia đình Benny ở Ba Lan, nhà tôi ở Đức."

Materia ôm lấy bà trong khi bà khóc như một đứa trẻ. Những đứa con trai của bà sẽ chiến đấu chống lại chính máu thịt của mình. Nhà Luvovitz là những người Canada thực sự, còn nhà Feingolds là người Đức.

Mùa hè năm 1916, gần sông Somme đã có vài sự cải tiến: những người Canada đã có mũ bảo hiểm và súng ngắn nổ suốt ngày. Người Đức thì có súng máy. Kế hoạch ngày 1 tháng 7 của nước Anh là: một triệu viên đạn trái phá sẽ làm nổ tung hàng rào thép gai Boche. Vẫn vác trên vai ba mươi lăm kí hành lý như thường lệ. Đi trên mặt đất. Tiến về phía chiến tuyến của Đức, chắc chắn là chúng đã chết hết rồi, hãy cứ hành quân cho tới khi đến Berlin.

Trong vòng bốn tiếng rưỡi, năm mươi ngàn người Anh và Canada bị bắn. Chiều hôm đó, kế hoạch của nước Anh được sửa lại: làm y như lần trước, nhưng lần này phải chạy.

Abe bị bắn chết trong lúc hành quân. Rudy bị bắn chết trong
lúc chạy.

Cả hai đều không giết một người Đức nào. Các con sẽ được
yên nghỉ. 

02/07/1916

Quý cô thân mến.

Tất cả đều ổn...

Bà Luvovitz không thể bình phục lại được. Bà vẫn làm việc, bà phải làm, vì bà vẫn còn con trai út và Benny. Và còn Materia nữa, cô vẫn thực sự là một đứa trẻ, ta vẫn nhớ lúc ta thấy cô ấy lần đầu bên bờ đá, cô bé sẽ làm được gì nếu không có mình chứ? Bà rất khó khăn khi chấp nhận sự thật về hai đứa con trai. Chồng của Materia cũng có thể đã chết, may mắn thay, xin Chúa tha tội, không biết tại sao nhưng anh ta vẫn luôn làm mình sợ. Benny nói đó là định kiến, nhưng không phải, đó là dị đoan. Có gì đó không đúng, mình có thể chứng minh được, mình cảm nhận được. Có thể khá điên khùng, nhưng có một điều mình biết chắc, mình sẽ làm cho Ralph bị tàn tật trước khi để nó tham gia vào chiến tranh, mình sẽ đóng chân nó xuống sàn nhà. 

Chiến tranh lan rộng ở hai lục địa, những chàng trai trẻ tuổi hơn bắt đầu bị lôi đến trại tuyển quân trước khi chúng kịp nói "Tôi thực sự mười sáu tuổi, thưa ông". Ở khắp nơi, đứa bé nhất bỗng nhiên trở thành đứa lớn nhất.

Những điều này không phải là những thứ Materia muốn.

Ở Y'pres: hơi ga - ít nhất chúng cũng giết chết lũ chuột. Ở Passchendaele: nếu bạn biết bơi thì sẽ không sao.

Quý cô thân mến.

Ta vẫn khỏe...

Mùa hè 1917, hầm mỏ số 12 nơi James từng làm vệc phát nổ. Sáu mươi lăm người chết. Chiến tranh đã tạo ra sự bùng nổ các mỏ than ở Sydney. Đầy công nhân, lương thấp, biểu tình bị cấm, than trở thành yếu tố sống còn để hỗ trợ cho trận chiến. Năng suất được đẩy mạnh, hàng không bị bỏ hoang, xăng dầu phát triển. Mỏ số 12 lúc nào cũng tệ như vậy. Materia chơi nhạc ở nhiều đám tang và thắc mắc về vận may của James cũng như tội lỗi u mê của mình.

Cô có thể thú nhận với ai bây giờ? Không phải là bà Luvovitz, người bạn thân nhất của cô. Cô cố nói với Cha xứ "Xin Cha tha tội cho con vì con đã mang tội lỗi của niềm kiêu hãnh", "Hãy đọc bài kinh 3 lần và hỏi xin Chúa sự khiêm nhường". Vậy là Materia vẫn không được xá tội. Mỗi ngày cô vẫn đến bên bờ đá trong trí tưởng tượng của mình và mỗi ngày cô vẫn lặn ngụp dưới đó, thấy người mình nhẹ hẫng đi trong một khoảnh khắc, cảm nhận được sự thanh mảnh mình đã từng có và những cú đập mạnh đầy thỏa mãn của những tảng đá. Đó là nơi cô thuộc về, cô khẩn cầu sự vuốt ve âu yếm của bãi biển dậy sóng, để cô có thể sống lại một lần nữa trong sự xô đập của đá và sau đó chết đi. Bình yên. Nhưng cô còn những cô con gái của mình, và tự vẫn là một tội không bao giờ được tha thứ.

Vào mùa thu năm 1917, Đức mẹ xuất hiện trước ba đứa trẻ ở Fátima, Tây Ban Nha, và nói với chúng ba bí mật, điều thứ ba cho tới nay vẫn là một bí mật của Vatican. Tuy nhiên, Materia biết điều bí mật thứ ba là gì, đó là "Các con thương mến, ta gởi chiến tranh đến để làm một cái khiên, để che chở cơ thể và tâm hồn của Kathleen Piper thêm một thời gian nữa."

 

Chết vì Tổ Quốc

Chúng ta đang mặc đồ da, đồ da của đội 85,

Chúng ta mặc với niềm tự hào và vui sướng.

Tên quảng cáo giả mạo, Billy Kaiser già,

Cần phải nghe ngóng từ những cậu bé Bluenose.

Nơi rắc rối tụ họp, chúng ta sẽ làm việc của mình

Để đánh gục kẻ thù của nước Anh

Kèn hơi rền vang, đội 85 đang đến.

Từ vùng đất của những cây phong.

 

Đội viễn chinh số 85, CEF.

 

Chắc chắn phải có mục đích gì đó, chúng ta quá đông - chưa bao giờ có nhiều sự hy sinh cho một điều bé nhỏ như vậy. Chắc chắn phải có mục đích gì đó, nếu không thì đã không có cuộc diễu hành này, sẽ không có cuộc duyệt binh hoàng gia, những nút áo bịt đồng, những vết thương mỏng manh trên mặt đất châu Âu, những be sườn mạnh mẽ chống lại từng đợt bùn trộn lẫn da thịt con người, những mạng lưới tỉ mỉ các hầm mỏ cỡ nhỏ, những con rận, chuột, những đôi giày rã thành cát bụi, những ngón chân rải rác quanh chân tôi như lá, như răng rụng.

James đã trải qua ba năm ở những con đường băng ở Pháp và Flanders, lẩn tránh những người bắn tỉa để thu nhặt các xác chết và an ủi những người đang hấp hối. Anh không phải người cứu thương, anh chỉ hay xung phong. Nhóm lắp ráp, nhóm đào bới, nhóm do thám, một đội lớn. Những biểu ngữ, pháo hoa và giấy điện báo tiễn đưa họ đi không là gì nếu so với những người sáng sủa đã chèo qua không khí và kết những cái cây lại thành hàng trên mảnh đất mãi mãi Tháng mười một. Những thứ trang trí này sẽ tồn tại tới nhiều năm sau.

Vôi dùng để khử mùi hôi thối, khói thuốc nổ để chống rận, dầu cá voi để giữ cho chân không bị mỏi. Năm mươi bốn ngày kéo dài trong nghĩa trang rộng lớn của người sống nhưng anh không hề kêu ca. James đã kéo dài mạng sống của nhiều người đến mức anh được nhắc đến trong nhiều bản thông báo. Lúc đầu anh được cử vào đội Victoria Cross nhưng khi trận Great Adventure xảy ra thì cái mác "Lòng can đảm" của anh trong chiến tranh lại mờ nhạt đi.

Có lần, một chàng trai tàn phế đã gọi anh là mẹ và tóm lấy nút áo trên ngực James. Không có gì đáng ngạc nhiên. Anh để yên cho chàng trai vùng Saskatchewan mút cái nút áo của mình trước khi chết.
Ôi Đất Mẹ.

Khoảng bùn lầy giữa hai chiến tuyến được biết đến với cái tên "Vùng đất không người". Cái tên này có lí do bởi vì vùng đất đang được tranh chấp này vẫn không thuộc về bên nào. Tuy nhiên James và một số người khác dọc chiến tuyến lại quên mất nguồn gốc của cái tên này. Nó có nghĩa là một dải đất nhớp nháp mờ sương bị nguyền rủa. Một chốn u minh - xám, vàng, xanh, hơi xám và không có gì ngoài sự chết chóc. Chuột có thể chạy ngang qua khu vực này và vẫn là chuột. Chim có thể bay trên khu vực này và vẫn là chim, chúng có thể đậu xuống, bay lên, nghểnh đầu và giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn chằm chằm trong một chốc rồi lại tiếp tục mổ thức ăn, và vẫn là chim. Nhưng không người nào có thể lảng vảng trong khu vực giữa hai chiến tuyến này mà vẫn còn là người. Đó chính là sự khác biệt. Không một người nào có thể xâm nhập, dù là lén lút bò vào hay hiên ngang chạy trong đống bùn nhớp nháp với đủ kiểu lăn lộn, bắn, ngã khắp các phía trong tầm mắt mà vẫn là một con người. Cũng có thể trở lại thành người nếu bạn quay về lại được sau chiến tuyến của mình, nhưng bạn đang treo lơ lửng mạng sống nếu quyết định ở lại giữa các chiến tuyến. Đó là lí do chỗ này được gọi là "Vùng đất không người".

Cho đến năm 1926 thì James đã xung phong nhiều đến mức những người khác cho là anh mong muốn được chết. Có thể là vậy, hoặc có thể là anh đã được che chở bởi một thiên thần Mons hoặc Old Nick. Họ không chắc rằng sẽ may mắn hơn khi ở cạnh anh hay không, hay là cầu nguyện cho viên đạn tiếp theo cách anh chỉ vài xentimet. Trước mỗi trận tập kích đêm hay sáng sớm, trong khi những người khác nhét Kinh Thánh vào túi áo bên ngực trái, hôn vào những lá thư tình hoặc một cái móng may mắn thì James lại thoải mái dựa vào cái túi đầy bùn và vài mảnh xương thịt của những người - đã từng là người - và đọc sách.

Hành động đầu tiên của James thể hiện sự "hoàn toàn hy sinh lợi ích cá nhân" xảy ra vào mùa thu năm 1915. Năm chiến sĩ đi ra ngoài lúc trời tối mang theo nhiều bó dây thép gai và chỉ có bốn người trở về, nhưng không ai nghe thấy tiếng súng nổ hay tiếng la hét. Nghĩa là chiến sĩ thứ năm đang đi lạc đâu đó ngoài kia, lang thang không xác định được phương hướng. Pháo sáng của Đức bắn lên trời từ ba hướng càng làm không khí nguy hiểm và hỗn loạn thêm. Ánh sáng trong chốc lát, cây gãy đổ, mặt đất lỗ chỗ, xác chết liên tục đổi màu, lúc hồng, lúc vàng, lúc xanh. Ở mặt trận phía Tây không có gì có nhiều màu hơn là ban đêm. James ra ngoài tìm người chiến sĩ thứ năm. Anh ta không phải một người bạn, chỉ là một đồng chí.

Sau hai giờ tìm kiếm, anh tìm thấy chiến sĩ đó đang đi về phía chiến tuyến của Đức. James đưa anh ta về nhưng không kết bạn với anh ta hay với bất kì ai.

Vào Giáng sinh năm 1914, quân Anh và Đức đã hạ vũ khí, trèo ra khỏi các chiến hào và đi vào "Vùng đất không người". Họ gặp nhau ngay giữa các chiến tuyến và trao đổi quà. Cũng không quá kỳ lạ, cứ xem như trước đây chưa bao giờ có nhiều chàng trai mạnh khỏe có gia đình và việc làm ổn định lại xung phong đến đứng đối diện nhau với vũ khí trong tay và ở trong một khoảng không chỉ rộng khoảng mười tám mét. Nào là sôcôla. Nào là thịt bò. Việc ngừng bắn là hoàn toàn tự phát và sẽ không lặp lại một lần nữa - đôi khi người ta vẫn có thể thể hiện một chút tinh thần Thiên Chúa giáo trong khi đang tàn sát lẫn nhau với súng đạn, nhưng sự hân hoan của lễ hội sẽ nhanh chóng mất đi khi họ xả khí ga vào phía đối diện. Dù sao thì James cũng nhận được một món quà vào Giáng sinh năm 1916.

Buổi tối bạn sẽ phải tự nói với chính mình rằng những tiếng tru tréo rên rỉ ngoài kia là của chó hoang. Chuyện này sẽ trở nên khó khăn hơn nếu một trong những con chó đó bắt đầu cầu nguyện. Đêm trước Giáng sinh, James đã đưa về hai người bị thương và anh đã ra ngoài để tìm kiếm người khác. Khi ánh sáng của pháo hiệu lóe lên, anh nhìn thấy hai người khiêng cáng nằm chết ở hai đầu chiếc cáng, trên đó có một người bị thương - một cảnh tượng bất thường thể hiện cái chết bao trùm. Khi pháo sáng tắt đi, James thấy người trên cáng cử động, anh đến gần nhưng anh ta thực sự đã chết và trở thành một bữa đại tiệc cho lũ chuột, chính chúng đã làm cái xác động đậy trong lúc thưởng thức bữa ăn của mình. James lại tiếp tục chơi trò bịt mắt bắt dê, lắng nghe những âm thanh không phải tiếng sột soạt gặm nhấm. Anh dừng lại và cúi xuống khi nghe thấy tiếng thút thít. Anh cúi xuống nhặt những khúc chân tay và ruột (nếu ruột chỉ phơi ra ngoài thì còn đáng nhặt chúng lên, còn nếu không thì cứ lặng lẽ để chúng yên ở đó). Chàng trai này còn khá là nguyên vẹn dù cậu ta không thể đi được, và khi cậu ta trả lời câu hỏi "Sao rồi anh bạn?" của James bằng câu nói "Ich will nicht sterben, bitte" thì James khiêng anh ta lên và đi về phía Đông. Khi họ đến gần chiến hào của Đức, chàng trai cất tiếng gọi đồng đội của mình "Nicht schiessen, nicht schiessen!". James đặt anh ta xuống cách khoảng một cánh tay so với hào công sự, quay lưng lại và đi về phía chiến tuyến của mình.

James có thể làm tất cả những điều đó là vì anh đã có một sự thỏa thuận với chính mình: anh sẽ cố không bị bắn chết, nhưng cũng sẽ không cố sống sót. Anh có thể làm tất cả những chuyện này vì anh cảm thấy thương xót cho những người mà anh đã cứu được. Họ đã nung nấu cái khát vọng ngu ngốc và đau buồn nhất, đó là khát vọng được sống.

 

Bobbseys ở nhà

Một buổi tối nọ, Kathleen chỉ cho Mercedes và Frances tự chơi trong lúc cô viết nốt lá thư cho Cha - "...Trường học rất tuyệt vời... có nhiều thứ vui lắm...". Đến lúc này thì cô thấy những cuộc chuyện trò của họ đỡ bị phân tán hơn là sự im lặng đầy hiếu kì của họ.

Frances đang nắm dây cương cỗ xe ngựa mà chúng làm từ ga trải giường của Kathleen. "Khi em lớn lên em sẽ có thật nhiều tóc, em sẽ là trùm, em sẽ hát và sẽ ăn kẹo."

Mercedes thì đang giả vờ làm một bà mẹ với các con của mình. "Chị cũng vậy, khi nào lớn chị sẽ đến Old Country để thăm Sitdy và Jitdy."

"Em nữa!"

Kathleen dừng bút và ngẩng lên. "Họ đâu có ở Old Country, các em đang nói gì vậy?"

Frances tặc lưỡi cho con ngựa dừng lại, Mercedes dỗ dành em bé khỉ và trả lời, "Đúng rồi, bởi vì họ quá giàu có...".

"Nhưng họ nhớ những trái cây và kim cương...".

"Họ đang sống mạnh khỏe ở Sydney đấy", Kathleen nói.

Frances chớp mắt và con ngựa biến mất, các em bé đông cứng
lại như tượng sứ và nghểnh cổ tò mò trong vòng tay Mercedes
"...Mẹ nói là..."

"Chị không quan tâm bà ấy nói gì, họ sống ở Sydney và họ ghét chúng ta, họ là những tên ngốc thối nát và chúng ta sẽ sống tốt hơn nếu không có họ". Kathleen ném cây bút chì lên bàn và đứng dậy. "Giờ chúng ta đọc gì nào?"

Frances nhìn Mercedes, Mercedes nói "Tạp chí!"

"Không", Kathleen ra lệnh.

"Đôi giày đỏ!"

Frances hăng hái, "Đúng rồi, sau đó thì cô ta bị chặt chân."

Mercedes bật khóc, sau đó Frances cũng khóc theo.

"Cô ấy không có bị chặt chân", Kathleen nói.

Frances thổn thức "Có mà, có mà!"

Mercedes rên rỉ "Cô ấy bị mà!"

"Nếu chị nói không thì là không!"

Nhưng chúng không chịu nổi, ôm lấy nhau và khóc đòi mẹ.

"Ôi hai cái đứa mít ướt này, đến đây nào, chúng ta sẽ đọc cái khác!"

Cô chùi mũi cho chúng, đưa cho Frances cái lược và đặt Mercedes ngồi vào lòng mình.

"Tối nay tụi em ngủ với chị được không?"

"Được thôi, trèo lên đi."

"Hura!"

Sau đó chúng rúc vào nhau, "Giờ im lặng và nghe nhé. Anh em sinh đôi nhà Bobbsey ở bãi biển..."

Thật tuyệt vời khi nghe Kathleen đọc bởi vì cô có thể làm rất nhiều giọng. ""Đi tiếp đi nào!", Dinah hét lên khi cô leo vào trong chiếc xe chuyển hàng. Dinah, người hầu gái da màu, đã ở với gia đình lâu đến mức bọn trẻ gọi cô là Dinah Bobbsey, mặc dù tên thật của cô là Sam Johnston".

Dưới nhà, Materia đang vất vả với hàng đống công việc rửa dọn và nướng bánh. Hôm nay cô nhận được một bức điện, James sắp trở về nhà.

 

Giày

Vào một buổi chiều tháng tư lạnh lẽo năm 1917, James tìm thấy cảm hứng cho sự nghiệp kinh doanh giày của mình từ một chiến sĩ người Pháp ở gần Vimy.

Người Pháp kéo lê bộ xương của mình trong màn sương, đôi chân trần lội trong đống bùn vàng nhớp nháp nơi James đang tìm kiếm người bị thương. Người Pháp đó lao vào bóp cổ James, ném mạnh anh xuống đống bùn và đè đầu anh xuống. Sau này anh ta làm cho xưởng giày của James, làm việc cắt dây buộc giày. James dằn mạnh ra và đỡ lấy anh ta. Cũng may là không ai nhìn thấy gì qua màn sương - Pháp là đồng minh của chúng ta.

Từ lúc đó, giày là tất cả những James có thể nghĩ đến. Đó là thứ duy nhất có thể nhấn chìm âm thanh cót két khi lưỡi lê đâm vào lồng ngực của những người Pháp và hình ảnh anh lăn xả cho tới cuối trận chiến khi anh quyết định bắn tự do - dưới và trên, dưới và trên. Giày mới chính là thứ đáng quan tâm. Còn hơn cả vũ khí, thực phẩm hay chiến lược. Chúng ta sẽ thắng vì chúng ta có nhiều giày tốt hơn, giày sẽ quyết định lịch sử. Chân khô và ấm sẽ giúp chúng ta kéo dài khoảng thời gian tới lúc bị giết lâu hơn kẻ thù. Khi giày của kẻ thù mòn đi, chúng sẽ không thể tạo thành từng đợt sóng chạy vào nòng súng của chúng ta, và chúng sẽ phải đầu hàng. Mình sẽ chuẩn bị cho chiến tranh tới bằng cách làm giày. Ta sẽ đủ giàu để cho con gái đi học ở nhạc viện Halifax trong một năm, sau đó là ở bất kì nơi nào trên thế giới. Nhưng sẽ không phải là Milan hay Salzburg hay thậm chí là Luân Đôn. Old World là một cái nghĩa trang. "Hát hò nhảy nhót là không tốt, khi nào thì những hồi chuông của địa ngục sẽ vang lên?". Không, không phải nó. Âm nhạc vĩ đại sẽ tồn tại ở Thế giới mới. New York. James có thể ngửi thấy mùi của nó. Anh có một người chị họ xa ở đó - một người hầu gái già với cái tên cổ điển... Giles - vậy đấy - cô ấy làm việc với các nữ tu. Mọi thứ hiện ra thật xinh đẹp, mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp. Nhổ một ít nước bọt và đánh bóng, xinh đẹp và sáng bóng.

James bắt đầu đánh giày mỗi ngày, có khi là cả ngày bởi vì cả ngày là tất cả những gì anh có. Giữa những vết rách và mục nát quanh ngón chân đang lộ ra của anh thì phần còn lại của đôi giày vẫn luôn tỏa sáng trong màn sương mù quanh năm suốt tháng. Những người khác gọi anh là Rudolph.

Cũng chính vì cái thói quen liên quan tới giày này đã làm trì trệ những nhiệm vụ khác của James, mặc dù anh vẫn xung phong. Cấp trên của anh quyết định rằng anh không còn phù hợp với tình hình chiến sự nữa, dính lấy một ai đó hiển nhiên là một điều bình thường trong nền văn hóa bùn sình như thế này. Nhưng dính vào một đôi giày đã hư thì không phải vậy. Đó là hiện tượng sốc vì đạn đại bác: cấp trên của James không thích gọi anh là Rudolph, họ gọi anh là Cô Macbeth.

Cùng với cái vấn đề vô hình này thì James còn mất một ngón chân. Nó tự rụng ra, không hề đau đớn và nó bị một con chuột tóm lấy rồi chạy đi mất ngay trước mắt anh. Nếu "sốc vì đạn đại bac" không có tác dụng thì cái thứ ghê tởm với ngón chân này có thể có. Do vậy, không còn tôn trọng niềm kiêu hãnh của một người đàn ông, "sốc vì đạn đại bác" không phải là những chữ mà cấp trên của James viết trong giấy giải ngũ của anh, cũng không phải "kiệt sức" mà anh chính thức được giải ngũ vì bị thương ở chân.

James được ra khỏi những vùng ẩm thấp ở Passchendaele và vượt qua kênh đào đến điện Buckingham, nơi anh được trao giấy chứng nhận công tác đặc biệt "cho những đóng góp xuất sắc trong nhiệm vụ chống lại kẻ thù". Trong suốt buổi lễ anh cứ nhìn giày của người ta rồi nhìn lên mặt họ và suy nghĩ xem chúng có hợp với nhau hay không.

Anh được đưa lên tàu về nhà và giải ngũ một cách vinh quang. Không ai có thể biết được anh đã mệt mỏi như thế nào. Anh sẽ còn mệt mỏi cho tới cuối cuộc đời.

Khi James nhìn thấy cảng Halifax từ trên boong tàu lính vào tháng 12 năm 1917, anh xem lại kế hoạch dành cho Kathleen. Anh sẽ phải gửi con bé thẳng đến thành phố New York. Halifax đã bị giội bom, anh không thắc mắc tại sao hay như thế nào. Chiến tranh đã lướt đến rìa Canada, chỉ vậy thôi.

 

Cục kẹo của người lạ

Chiến tranh làm con người ta thay đổi theo nhiều cách, nó vừa mở đường cho bạn đến gần hơn với con người thật của chính mình, hoặc nó cũng có thể khơi gợi ra những biến dị trong đó bạn là một con ấu trùng được gói chặt trong một cái kén đang hóa thành nhộng trong môi trường ẩm ướt, tăm tối. Cứ coi như bạn không phá nứt vỏ bay ra thì bạn cũng sẽ chui ra từ một cái kén, sau đó thì bạn thay đổi nhiều so với bạn của trước kia đến mức bạn lo sợ rằng mình bị điên, và bởi vì mọi người ở nhà đối xử với bạn cứ như bạn là một người hoàn toàn khác. Một người nào đó mà do trùng hợp đến mức kì lạ, lại có cùng tên, cùng địa chỉ và cùng cả quan hệ huyết thống với bạn - người lẽ ra phải chết trong chiến tranh. Và bạn chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách sống như một kẻ mạo danh vì bạn không thể nhớ ra mình là người như thế nào trước chiến tranh. Chỉ có một cách giải thích đơn giản nhưng kinh khủng cho việc này, đó là bạn được sinh ra trong chiến tranh. Bạn lăn lê bò toài một cách khát máu và được huấn luyện đầy đủ mà không cần đến cả chiến hào.

Chiến tranh là người thay đổi vĩ đại nhất.

James chỉ có một thứ duy nhất chung với người đàn ông bỏ đi để tham gia chiến tranh ba năm về trước: Kathleen, con gái họ. Ngày 10 tháng 12 năm 1917, anh bước xuống khỏi tàu ở ga Sydney, một nơi vẫn còn nguyên vẹn.

Anh đã có vài năm tập luyện có mặt và biến mất cùng một lúc do đó không khó để anh tìm đường đi từ Sydney đến New Waterford. Anh đi bộ khoảng chín dặm trên con đường đóng băng trong cuộc sống thường dân của mình, chiếc túi vải vắt trên vai, cứ mỗi bước đi trong đầu anh lại vang lên "Sydney, New Waterford, Sydney, New Waterford". Phía bên trái của anh là châu Âu.

Vài người nhìn thấy anh đi vào thị trấn và đi trên đại lộ Plummer, họ không biết anh là một anh hùng, họ chỉ biết là anh đã sống sót trở về trong khi những người khác đã chết, và vẫn đang chết. Anh bước lên thềm nhà mình và đã có thể chào vợ mình cứ như một người nào đó anh đã từng quen, vỗ đầu hai đứa bé đang nhảy cẫng lên vì mừng rỡ và gọi anh là cha, và tránh né ánh mắt của một người quá thực.

Anh đi vào nhà và đi lên trên gác xép. Anh bỏ lưỡi lê của mình vào trong hộp đựng đồ, anh lờ đi lời dặn của bác sĩ quân y và lao ngay vào việc. Anh cần phải đẩy cô bé đi xa trước khi anh lại quen với cảm giác mình đang sống một lần nữa.

Kathleen rất lo lắng nhưng cô cố trưởng thành hơn bằng suy nghĩ: không phải là cha không thương mình nữa, chỉ là bởi vì chiến tranh quá kinh khủng. 

James dựng một cái lán nhỏ bên hông nhà và một cái bàn máy trong đó. Giáng sinh đến rồi đi nhưng anh không hề để ý, mặc kệ sự phấn khởi của mấy đứa nhỏ và mùi bánh nướng bay ra từ trong bếp. Trơ tráo như gáo múc dầu, và không bàn bạc với vợ một lời nào, anh đưa ra một lời đề nghị với ông Mahmoud. Ông Mahmoud cung cấp cho công ty than và dầu Dominion, còn James thì cung cấp cho nhà Mahmoud. Chỉ giày thôi, nhưng đó là một sản phẩm quan trọng mà những hầm mỏ rất quan tâm. Ông Mahmoud sẽ cho James mượn số tiền khởi nghiệp và sau đó mua lại giày với mức giá dưới giá sỉ mà ông đang phải chi để chuyển giày từ Halifax về cửa hiệu của ông ở Sydney. James bắt đầu làm giày.

"Cha ơi!"

"Sao, Kathleen?"

"Cha vẫn ổn chứ?"

"Ừ, cha vẫn bình thường như trời vẫn mưa vậy."

"Hôm nay là sinh nhật con!"

"Ừ, chúc mừng sinh nhật con gái!"

"Cám ơn. Cha ơi!"

"Sao?"

"Cha có muốn con hát cho cha nghe không?"

"Ta thích lắm, con yêu, nhưng ta còn phải làm việc."

Ông Mahmoud đã bắt đầu có một sự nể mặt bất đắc dĩ đối với thằng con rể chẳng có gì tốt đẹp của mình nhưng ông vẫn tiếp tục giữ liên lạc với James hoặc gia đình. Đối với James thì vậy cũng tốt. Họ trao đổi thư từ thông qua Leo Taylor. James bắt đầu làm ra tiền. 

Anh lục lọi lại những cái danh thiếp mà anh thu được trong buổi diễn độc tấu của Kathleen ở Halifax nhiều năm về trước và làm bảng vấn tin. Anh viết một bức thư cho quản lý nhà hát Metropolitan ở New York, "Thưa ông, theo ý kiến của ông thì ai là người đào tạo chuyên nghiệp trong lĩnh vực luyện thanh?". Anh nhận được hồi âm và gửi một bức điện dài đến một người có cái tên nghe như tiếng Đức ở thành phố New York. Sau đó là hồi âm: "Vâng, - ông ấy sẽ gặp Kathleen ở phòng thu của mình tại đường 64 và Central Park West, lúc 10 giờ ngày một tháng ba năm 1918". James viết thư cho cô chị họ của mình, Giles ở New York. "Mẹ tôi luôn đánh giá chị rất cao..., ...và dĩ nhiên tôi sẽ hoàn trả lại cho chị đầy đủ...."

Thời điểm đã đến, Kathleen mới gần mười tám nhưng giọng hát của cô đã hoàn toàn sẵn sàng, và cô Giles cũng đã đồng ý làm người bảo hộ. Hơn nữa, James đã thôi tự lừa dối mình về nơi an toàn nhất dành cho cô bé.

Mặc dù có tiệm giày thì rõ ràng là việc này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tài chính gia đình, nhưng James không hề do dự. Anh viết thư cho ông Mahmoud và hỏi thẳng ông về việc mượn tiền cho cô bé đi học ở New York.

Đã từng tròn trịa phốp pháp là vậy nên rất dễ nhận ra ông Mahmoud đã ốm đi nhiều sau mấy năm qua. Công việc làm ăn đã ăn mòn đi da thịt và bộ xương chắc khỏe của ông, tuy nhiên sự tỉnh táo vẫn ánh lên trong đôi mắt luôn luôn tinh tường. Mái tóc mỏng đi nhiều và chuyển sang màu xám bạch kim, hai nếp nhăn hằn sâu hai bên khuôn mặt ông, kéo dài từ xương gò má xuống đến hàm. Càng ngày ông càng giống cái ghế gỗ ở căn phòng phía sau của cửa tiệm. Chỉ có mình bà Mahmoud có thể nhìn vào ông bây giờ mà vẫn thấy được hình ảnh chàng trai cao to đẹp trai của ông ngày xưa. Ông Mahmoud ngước mắt lên khỏi lá thư của James và nhìn sang cây đàn piano đáng nguyền rủa. Giọng hát di truyền từ nhà Mahmoud, chắc chắn là vậy. Tất cả đàn ông và phụ nữ trong nhà ông đều có thể hát. Khả năng hát bẩm sinh. Đó là một món quà của Chúa và hiển nhiên là Chúa cùng ông Mahmoud đã chuyển món quà này qua Materia - chết rồi, đối với ta nó đã chết rồi - tới đứa con gái lớn nhất của thằng khốn đó. Thật tồi tệ. Nó không phải là cháu ngoại của ta.

Ông Mahmoud nhẹ nhấc ngón tay trỏ bên tay trái lên và vợ ông đến rót đầy tách trà cho ông.

Trong bếp, Teresa Taylor đang xắt rau mùi tây để chuẩn bị cho món tabooleh và thắc mắc tại sao đến giờ ông Mahmoud lại vẫn đối xử với vợ mình như một người hầu trong khi ông dư sức thuê vài người hầu khác. Cách giữ một người hầu dự phòng kì lạ của người da trắng có thể không thực sự được áp dụng ở đây bởi vì dù bạn có nói là bạn nắm giữ cuộc sống trong tay mình thì nhà Mahmoud cũng không hẳn là da trắng. Họ là một kiểu khác, có vẻ hơi da màu. Ở Nova Scotia lúc đó, điều này có nghĩa là đối với nhà Mahmoud thì những rào cản màu da đối với các vấn đề xã hội đều có thể thương lượng được. Họ giàu có, điều đó giúp ích rất nhiều.

Teresa là một người đẹp, mặc dù hầu hết mọi người ở khu này không nghĩ vậy trừ khi họ thấy hình của cô trong một quyển sách về châu Phi. Mọi thứ thuộc về Teresa đều cao ráo và thanh thoát - khuôn mặt, đặc biệt là đôi mắt. Mọi thứ thuộc về cô đều tốt đẹp - đôi tay đang cắt khoai tây, cổ chân lúc đứng và lúc sải những bước dài giữa quầy tính tiền, bàn bếp và bồn rửa chín tiếng mỗi ngày. Giọng cô hơi trầm. Dưới lớp áo, cây thánh giá bằng bạc cô đang đeo là do Hector cho cô.

Teresa sẽ không làm hầu gái mãi, cô đã đính hôn và chuẩn bị kết hôn. Cô vắt nước từ ba quả chanh và cầu nguyện một chút để tạ ơn Chúa Jesus đã cho Hector được bình an. Vào năm 1914 anh đã xung phong đi chiến đấu viễn chinh nhưng quân đội không thể có anh trong hàng ngũ: đây là một cuộc chiến của người da trắng và họ không muốn có một đội quân "bàn cờ". Thay vì nhập ngũ, Hector vào làm việc tại một nhà máy thép và thề sẽ từ bỏ chiến tranh. Giờ thì họ không thể bắt anh đi lính vì anh đang làm trong ngành công nghiệp nòng cốt. Teresa và Hector đều đang để dành tiền để có thể đến Mỹ và học thêm để trở thành công sứ Giáo phái Anh.

Teresa đã quen biết Hector gần như cả cuộc đời. Khi cô mười tuổi, gia đình họ cùng đến đây, chuyển từ một hòn đảo tươi tốt sang một nơi hoang vu, cha của họ có thể làm việc, lúc đầu là ở mỏ, sau đó là ở nhà máy. Teresa đã lớn lên ở khu Coke Oven của vùng White Pier - Sydney, mặc kệ chiến tranh đang diễn ra và khói bốc lên từ những con tàu và ống khói nhà máy, cô vẫn không muốn sống ở một nơi nào khác, trừ thành phố New York, đó là nơi mà cô và Hector sẽ chuyển đến sau khi họ kết hôn.

Vì vậy Teresa không có cảm giác miễn cưỡng khi làm việc ở nhà Mahmoud và nó cũng không phải là một việc tệ. Cô thích những món ăn mà cô được học để nấu cho họ, ví dụ như món tabooleh này. Đó là một sự thay đổi tốt so với gia đình Ănglô và Xcốtlen mà cô đã từng làm việc trước đây với những món thịt và khoai tây bất tận, và không có một tí gia vị nào. Người nhà Mahmoud đều rất thân thiện và biết cách khuấy động một bữa tiệc - luôn hát hò mà không cần phải có rượu để lấy tinh thần, hoàn toàn khác với một bữa ăn với thịt và khoai tây. Và ông Mahmoud trả rất hậu hĩnh, Teresa đã bắt đầu mua được đồ cô dâu cho mình. Ông luôn đòi hỏi những thứ tốt nhất, nhưng không như hầu hết những người khác, ông sẵn sàng trả cho những thứ đó - ông không bao giờ quên nơi mình đã từng ở. Ông cũng chưa bao giờ có một sự thay đổi không phù hợp nào, mặc dù đôi khi ông cũng nổi giận. Cứ hỏi những cô con gái của ông mà xem. Trong khi đó Teresa vẫn cố gắng làm việc chăm chỉ, không làm phiền ông và cảm thấy thương xót cho bà ấy. Bà Mahmoud có tất cả mọi thứ mà tiền có thể mua được - không kể đến một gia đình tận tụy và rất nhiều cháu chắt. Nhưng bà ấy cũng có một nỗi đau riêng, Teresa biết chắc như vậy. Teresa chắt nước khỏi món lúa mì nứt mà người Li-băng gọi là burghul và nhồi chúng vào miếng thịt đã ướp - tối nay họ sẽ ăn món kibbeh.

Ở nhà trước, ông Mahmoud đang ngủ gà gật trong khi vợ ông, bà Giselle, đứng nhìn. Trừ mái tóc đã điểm bạc thì bà dường như không thay đổi qua từng ấy năm, vẫn khuôn mặt đầy đặn láng mịn, cánh tay tròn trịa, ánh mắt mềm mại. Bà đang đeo chiếc nhẫn đá mặt trăng và chuỗi ngọc trai thật để làm chồng bà vui lòng. Bà cẩn thận lấy bức thư ra khỏi tay ông Mahmoud và cầm nó xuống bếp.

"Teresa, đọc giùm ta!"

Bà Mahmoud chưa bao giờ học đọc tiếng Anh. Teresa đọc lớn, sau đó nói "Kathleen Piper. Đó là cô gái mà chúng ta đã đi nghe cô hát ở nhà hát Lyceum trước khi chiến tranh xảy ra."

Bà Mahmoud gật đầu "Nó là cháu ngoại của ta."

Teresa nhướn mày. Cô bé mà em trai mình ngày ngày vẫn đưa đón đi học. Nàng công chúa chưa bao giờ nói tiếng nào với nó. Một cô bé có giọng hát tuyệt vời. Ồ. "Đó là cháu ngoại của bà sao, bà Mahmoud?"

Giselle gật đầu.

Đêm hôm đó lúc đi ngủ, bà đã thuyết phục chồng mình một cách điệu nghệ để làm chúng trở thành những ý kiến của chính ông. Sáng hôm sau ông viết một tấm chi phiếu và tự nói với mình rằng ông làm việc này chỉ vì Giselle. Nhưng khi ông viết đến số 0 thứ ba thì trong đầu ông lại thoáng qua cái suy nghĩ về tương lai cái giọng hát di truyền của gia đình, được toàn thế giới công nhận. Sự thành công của ông ở Thế giới mới huy hoàng lên ngôi.

Chỉ có Teresa mới có thể làm nhiệm vụ đưa bức thư quan trọng như vậy, ông Mahmoud đặt bức thư vào tay cô và dặn "Lấy hóa đơn nhé!". Teresa khởi hành đi đến New Waterford, nơi cô có cơ hội hiếm hoi để tận mắt thấy một nhánh giản dị của gia đình Mahmoud.

Materia mở cửa, cô đang mặc một chiếc váy lót và đang cầm một cây kéo gỉ sét trong tay. Cô đang cắt bầu dục để chuẩn bị làm bánh. Frances bé bỏng lấp ló nhìn ra từ sau vạt của chiếc áo màu mè điên loạn của mẹ. Cái nhìn chằm chằm của Materia ngày càng mở rộng, cứ như là cô có thể thấy nhiều thứ của thế giới cùng một lúc hơn là những người khác. Nhưng mặc dù có vẻ cô nhìn thấy nhiều hơn, cô cũng không thể hiện được cái vẻ của một người đang hiểu những thứ mà mình nhìn thấy. Cô không phải là quan sát, mà là nhìn chằm chằm. Giờ thì cô đang nhìn chằm chằm vào Teresa.

Teresa nhận ra dáng vẻ của một người chưa bao giờ thực sự ở đó. Teresa có thể đã nghĩ người phụ nữ to béo buồn bã ở cánh cửa kia là một người giúp việc thuê nếu cô không chuẩn bị trước là mình sẽ gặp những nét quen thuộc của người nhà Mahmoud có thể thấy rõ trong vóc dáng, làn da láng mịn và đôi mắt của bà Mahmoud mờ ảo trên khuôn mặt.

"Cô Piper?"

Materia gật đầu. Teresa hỏi một cách lịch sự "Có ông Piper ở nhà không thưa cô?"

Bé Frances chưa bao giờ thấy một người da đen trước đây. Mọi người xung quanh cô bé đều có làn da trắng như tuyết trừ mẹ da ngăm đen. Cô bé chồm tới phía Teresa và chạm vào tay cô, tay đang cầm cái phong bì. Teresa nhìn xuống và cười với cô bé. Frances giữ lấy khoảnh khắc đó và cất nó vào một nơi an toàn chung với hai, ba cái khác.

Trong khi đó, Materia đang lẩm bẩm gì đó và vẫy cái kéo một cách mơ hồ về hướng cái lán bên hông nhà. Teresa tiến về phía cái lán và Frances đi theo. Materia quay trở vào bếp và lại tiếp tục cắt bầu dục, cắt, cắt.

Qua kẽ nứt trên cửa, Frances nhìn thấy Teresa đưa cái phong bì cho cha, cha mở phong bì ra và nhìn vào bên trong một lúc. Sau đó Teresa đưa cho cha em một mảnh giấy để viết gì đó và cô cất nó vào lại trong ví. Khi Teresa ra khỏi cái lán thì Frances lang thang gần đó.

"Con muốn gì nào, bé cưng? Từ đâu mà con có mái tóc vàng xinh đẹp thế này?"

Frances nhìn lên như một cách trả lời. Những gì cô bé muốn là tất cả mọi thứ của người phụ nữ tuyệt vời này, chắc chắn bà là một nữ hoàng từ một nơi xa xôi nào đó. Teresa sẽ cười nếu cô biết được: Nữ hoàng của Whitney Pier, cưng à.

"Cho con này, bé cưng." Teresa cho Frances một cục kẹo cứng, ngay lúc đó...

"Frances!"

Đứa bé và người phụ nữ nhìn lên và thấy cô gái vàng đang bước xuống khỏi chiếc xe vừa đỗ lại ngay trước nhà. Leo Taylor đã có một chiếc xe có động cơ, một chiếc Ford đời T với cái tên cậu được tô vẽ bên hông xe, Vận tải Leo Taylor. Anh giữ cửa mở và Kathleen bước xuống mà không buồn liếc nhìn cậu lấy một cái. Chính cô là người đã hét lên và chen vào cuộc đối thoại ngọt ngào của hai người, giờ thì cô đang tiến về phía họ một cách nghiêm trang và hỏi bằng giọng trí thức "Tôi giúp gì được cho bà không?"

Giúp cái đầu cô ấy, Teresa nghĩ "Không thưa cô Piper, tôi chỉ mang vài thứ đến cho cha cô thôi!"

"Trese, đến đây nào!"

Leo Taylor không muốn lảng vảng gần đó. Teresa lắc đầu khi trèo lên xe của em trai mình. Nhà Piper - sống như những kẻ chiếm hữu cả ngọn đồi và cư xử như kiểu hoàng gia. Họ lái xe đi.

"Đưa tay cho chị coi nào Frances!"

Frances mở bàn tay nhỏ xíu và khoe cục kẹo bạc hà cam thảo màu trắng đen. Một phần thưởng. Kathleen lấy viên kẹo và ném nó vòng lên cao qua sân và rơi tõm xuống con lạch.

"Em biết là em không được nhận kẹo từ người lạ mà Frances, đặc biệt là những người da màu!."

 

Nữ thần tự do

Là một cô gái, nhưng Claudia lại ngước mắt lên nhìn bầu trời cứ như một kỵ sĩ chưa qua thử thách.

CLAUDIA, A.L.O.E

 

Ở New York thì Kathleen mới thật sự và hoàn toàn là Kathleen, đó là những gì thành phố có thể làm và thật sự dành cho bạn. Cô có rất nhiều phẩm chất và không có lịch sử, chưa bao giờ cô hít thở nhiều không khí như vậy trong đời. Cô đến từ hòn đảo ở Đại Tây Dương bao quanh bởi không khí mang mùi biển, tuy nhiên khi đứng trên những hành lang của thành phố tuyệt vời này thì cô cuối cùng đã có thể hít thở. Đây mới chính là bầu không khí mà các vị thánh đang sống. Những vị thánh đã sắp xếp mọi việc ổn thỏa chứ không phải những vị thánh suốt ngày ngồi ủ rũ trên những mũi đất cổ hay những tảng hóa thạch tỏa hơi nước và chờ đợi ai đó đến lấp đầy những mảnh vỡ hoặc những thiên truyện bị quên lãng đang dần hé lộ theo thời gian. Những vị thánh đã bám quá lâu trên những tảng đá đến mức tự họ có thể đang hóa đá.

Chính là những vị thánh mới. Một bản hợp ca sáng sủa. Họ ở trong các nhà máy thép, những cây cầu treo, những con tàu màu bạc lấp lánh, tất cả mọi thứ ngang dọc, trong cửa kính, đá sỏi, trong cát. Họ hít thở sâu và tạo ra những âm thanh lớn và cứ mỗi hơi thở và âm thanh thì họ lại mở rộng bầu trời ra thêm một chút.

Khi Kathleen bước đến đường Pier 54, cô bắt đầu viết cuốn sách cuộc đời mình trong tư tưởng: Và cô ấy đã đến Thế giới mới, cô nghe thấy tiếng gót giày nhạy cảm của mình vang lên trên ván lót cầu và quyết tâm sẽ không bao giờ là một người nhạy cảm. 

Có một số lượng đáng ngạc nhiên những người gác cổng mặc đồng phục và những thằng đểu không có đồng phục sẵn sàng vồ lấy vali của cô và chuồn mất, nhưng Kathleen đang kéo mạnh nó về trung tâm của ga cuối và ngồi lên nó dưới chiếc đồng hồ lớn, hướng mắt tìm kiếm người họ hàng xa của mình, không màng đến việc chờ đợi mà lắng nghe khúc nhạc chiều đang được đám đông ngân lên. Rõ ràng là cả thế giới đang đổ về New York.

Kathleen đang định trở thành Eleonora Duse của sân khấu opera, nếu bất kỳ ai có thể làm việc này thì cô cũng có thể: một cô gái được huấn luyện đúng kiểu cổ điển với những ý tưởng mới mẻ về việc phô bày tài năng nghệ thuật của mình. Lòng nhiệt tình của một nghệ sĩ bẩm sinh sẽ không để cho trái tim nào được nguyên vẹn. Một cỗ máy trong cô đang đốt cháy quá mạnh mẽ đến mức nó làm cho mái tóc cô trở thành màu đỏ. Dòng máu lai Xentơ - Ả Rập và xuất xứ từ một hòn đảo hoang sơ ngoài bờ biển đông của một đất nước được cho là toàn những mũi băng là quá đủ, theo tiêu chuẩn Mỹ thì cả hai thứ đó đã đủ để che phủ cô trong một điều bí ẩn của siêu sao và che đậy sự ngoại lai bằng một sự tô điểm cho nét quyến rũ Bắc Mỹ. Cô sẽ chọn những món như nai sừng tấm ngâm hay lưỡi cá tuyết xông khói và lâu lâu sẽ chửi bậy bằng tiếng Ả Rập chỉ để duy trì cái huyền thoại về mình, nhưng cô đã thuộc về Thế giới mới, phía Tây ánh vàng. Cô không giống những người Sicilian hay Castilian lao qua biên giới để mong có được một phút huy hoàng rồi nhanh chóng tàn lụi. Cô chỉ giống họ ở chỗ cô sẽ trở nên nổi tiếng, nhưng không giống họ, vì cô sẽ tồn tại lâu. Cô đã quyết định rằng mình sẽ không bao giờ ngừng hát, cho tới khi cô bảy mươi lăm tuổi cô cũng vẫn sẽ còn hát.

Cô ăn một cái bánh kẹp xúc xích mua từ một người đàn ông mập mạp có hàm râu đen, ông ấy đã kể cho cô nghe chuyện đời mình bằng thứ tiếng Anh đứt gãy của ông. Cuộc đời cô cuối cùng cũng đã bắt đầu. 

"Kathleen!" Kathleen quay lại và thấy bà cô họ nhỏ nhắn của mình.

"Ta là Giles. Chào mừng con đến với thành phố New York!"

Giles, người mà Kathleen được gửi gắm, có một đôi mắt xanh không thể quên được và một căn hộ nhỏ xinh xắn ở Greenwich Village. Kathleen nhắm chừng tuổi của bà Giles chắc phải là một trăm lẻ hai. Nhưng thực ra bà ấy chỉ mới bước vào những năm sáu mươi của cuộc đời. Có thể là, Kathleen quan sát, Giles đã từng là một giáo viên hoặc - khá hơn - có thể Giles là người thừa hưởng của một loại hình hỗ trợ mơ hồ nhưng đáng kính trọng được các nữ thi hào Anh gọi là "trợ cấp xã hội hàng năm".

Sau khi về hưu, Giles tình nguyện làm việc tại bệnh xá của nữ tu viện nơi bà giúp các nữ tu sắp chết. Tiêu chuẩn cao nhất của bà cho công việc này không phải là lòng trắc ẩn hay dạ dày mạnh bất thường, thậm chí không phải lòng mộ đạo của bà. Nó là sự khó bị kích động của bà. Giles đã cúi sát tai mình xuống nhiều đôi môi tiều tụy và lắng nghe nhiều lời thú tội mà các Cha xứ chưa chắc đã từng nghe, bởi vì đến lúc cuối đời thì lúc nào người ta cũng có cái cảm giác đột ngột bất an, một mối lo sợ và người ta sẽ thú nhận tất cả và ăn năn vì những điều sai trái mà họ đã làm trong đời. Những tội lỗi ngày xưa một lần nữa lại bùng nở và tỏa hương với sự tinh khiết chúng có được trong một khoảnh khắc trước khi được đặt tên và gắn vào một cái nụ. Sau khi lắng nghe, Giles luôn đáp trả "Tôi biết rồi". Đôi khi những lời hấp hối lại có dạng một câu hỏi mà Giles có thể trả lời, đại loại như "Tôi vẫn luôn tự hỏi câu đó suốt, thật đấy", nhưng Giles chưa bao giờ tự đặt ra câu hỏi nào.

Tất cả những thứ đó tạo ra Giles là một bà hộ tống xinh đẹp tội nghiệp cho một nhà vô địch tương lai như Kathleen.

Đêm đầu tiên ở phòng dành cho khách ở nhà bà Giles, căn phòng nhìn xuống mái các ngôi nhà trong khu Village và có tầm nhìn đẹp đến tòa nhà cao nhất trên trái đất, Kathleen mở một cuốn vở mới tinh của Holy Angels và viết lên trang giấy trắng:

8:00, ngày 29 tháng 2 năm 1918, thành phố New York

Nhật kí dấu yêu...

Ngày hôm sau cô theo đúng lịch hẹn, đến một phòng thu ở tầng năm tại góc đường số 64 và Central Park West, đó là một căn phòng có vị thế đẹp. Có một cái ghế sôpha kiểu Pháp rõ ràng là không phải để ngồi. Bên phải cánh cửa là một bức tượng nửa người của Verdi đặt trên một cái bục đá hoa cương. Bên trái là Môda. Trên sàn lát gỗ lấp lánh một cái thảm Ba Tư. Trần nhà cao lát gỗ hồng, khung cửa sổ khổng lồ nhìn xuống công viên, một cây đàn piano lớn. Một người đàn ông với làn da trắng muốt với chòm râu dê, khoác chiếc áo khoác nhẹ, quần thon gọn và cà vạt kẻ sọc. Một nhạc trưởng đại tài đến từ đâu đó ở châu Âu. Giới thiệu ngắn gọn, cô ấy không được mời đến đây chỉ để ngồi, cô được hướng dẫn hát gì đó. 

Cô làm theo.

Trong một căn phòng nhỏ, đó là một giọng hát lớn.

Đôi mắt nhạc trưởng nhìn xa xăm ở góc thảm, khó chịu như thấy một con côn trùng và nán ánh mắt lại đó trong suốt chiều dài bài hát. Kathleen kết thúc bài hát, nhạc trưởng ngước lên và thấy sự hồng hào trên khuôn mặt cô, đôi mắt ánh lên, nhịp đập ở cổ cô, đôi môi vẫn mở. Ông nói nhẹ nhàng "Chúng ta có nhiều việc phải làm đấy".

Sự hư hỏng đang treo đâu đó trong bầu không khí quanh một tài năng tuyệt vời. Một tài năng như vậy rất bất ổn, nó có thể bị ảnh hưởng bởi tự nhiên và có thể làm cho người sở hữu nó bị bối rối. Quanh cô tỏa ra mùi của một nghệ sĩ, cứ như những vở kịch vui đang làm tàn lụi đi gót chân của opera cổ. Người nhạc trưởng ngửi thấy tất cả những mùi này ở Kathleen và làm máu mình lạnh tới một nhiệt độ mà ngay cả những con thú hoang cũng không cảm nhận được. Trước khi đặt ra một nhiệm vụ khó khăn, việc hình thành năng lực sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tuy nhiên đâu đó dưới phần cứng nhất của hộp sọ, ông vẫn cảm thấy xúc động vì phấn khởi. Không phải ngày nào bạn cũng có thể gặp được một học sinh như thế này, có thể chỉ có hai lần trong đời. Ông chuẩn bị không cho cô chút nương tay nào.

Vì Kathleen tập luyện ngày càng chăm chỉ, cô tiến ngày một xa hơn. Khoảng thời gian giữa những bài tập hát tàn nhẫn với nhạc trưởng và những bữa ăn chậm chạp ngột ngạt với bà Giles, Kathleen đi bộ khắp nơi trên đảo Manhattan, từ Sông Tây đến Hudson, từ công viên Battery đến Sông Haarlem.

Một ngày nọ có một cô gái đang ngồi bên cây piano lớn khi Kathleen đến phòng thu, cô ấy là Rose. Cô mặc một chiếc váy màu hồng nhạt, hoàn hảo cho một sinh vật bé bỏng xinh xắn với khuôn mặt cởi mở và bề ngoài đáng tin, nhưng tất cả lại hoàn toàn không đúng đối với Rose.

Rose là một người chơi đàn piano cực tốt, nhưng lúc đầu Kathleen không chú ý đến điều đó vì hai lí do. Thứ nhất, bởi vì bạn đang được huấn luyện bởi một tên tuổi có tiếng nhất nhì New York với một mắt hướng về Met và một mắt ẩn chứa sự tối tăm khó hiểu, bạn sẽ không chú ý đến chất lượng của nhạc đệm từ cây piano trong suốt bài học trừ khi nó không tốt. Nhưng người chơi đàn này thì hiển nhiên là không thể nghe được vì cô ấy da đen và vì thế cô ấy không thể tham gia bất kỳ lớp đào tạo và huấn luyện với người có trình độ cao được. Kathleen không nghĩ Rose là một nghệ sĩ piano mà chỉ nghĩ cô là một người đệm nhạc.

Khi Rose nhìn Kathleen lần đầu tiên, cô thấy một người con gái của vận may và quay lại với các phím đàn. Lần thứ hai cô nhìn là để khẳng định lại rằng cái giọng hát đang tràn ngập căn phòng đó đúng là phát ra từ cái sinh vật được nuôi lớn từ sữa đang đứng trên thảm. Giọng hát rất đáng quan tâm. Còn người ca sĩ thì cứ đi xuống địa ngục đi.

"Nhạc lệch tông rồi", Kathleen nói.

Thường thì Kathleen không nói gì trong suốt các buổi tập, cô chỉ phát ra những âm thanh mà nhạc trưởng yêu cầu và trong suy nghĩ riêng của mình, nghĩ đến hàng tá những cách trả đũa phá hoại hoặc giết ông ta. Nhưng hôm nay thì cô buộc phải nói, người đệm nhạc tốt kiểu gì mà lại không phát hiện ra rằng nhạc đang bị lệch tông? Kathleen nói cho nhạc trưởng nghe về ý kiến của mình, nhưng Rose lại chỉ trích ngược lại Kathleen "Nhạc hoàn toàn đúng tông, cô đang bị lạc giọng."

Kathleen nhìn người đệm đàn với ánh mắt vừa tức giận vừa thiếu tin tưởng. Và người đệm đàn nhìn lại - bình thản nhìn chằm chằm. Có vẻ xấc xược nữa, sao cô ấy dám? Những góc cạnh trên khuôn mặt xinh đẹp như tượng của cô ta trông có vẻ khá kì cục khi đi kèm với áo tay phồng và tóc thắt bím kiểu học sinh. Kathleen nhìn đi chỗ khác một cách tức tối, không nhìn vào cây cọc đậu leo trong chiếc váy cũ xì đó nữa. Cô chờ đợi người nhạc trưởng la mắng người đệm đàn, hoặc cũng có thể là đuổi cô ấy. Nhưng thay vì vậy, ông quay sang Kathleen và nói "Nếu cô bớt chú ý vào việc làm ồn ào và chú ý lắng nghe nhiều hơn thì cô sẽ học được cách phân biệt sự khác nhau giữa cái đó" - ông nhấn mạnh vào một phím đàn - "và cái này" - ông làm một âm thanh quàng quạc bằng giọng mũi, cố tình bắt chước Kathleen.

Kathleen tức tối đến đỏ mặt. Nhạc trưởng hướng dẫn cô một cách lạnh lùng "Bài một: gam". Bài một! Kathleen hít một hơi và điềm tĩnh bước lui một bước dài. Cô tưởng tượng ra một thanh kiếm sắc bén cả hai mặt và hát theo thang âm, suy nghĩ mãi xem ai tồi tệ hơn: xơ Saint Monica hay người thầy dạy nhạc mà cô coi là một Kaiser này. Và sau khi đã hát được theo một nửa gam, cô quyết định: chính người đệm nhạc mới là tồi tệ nhất.

Cứ thay phiên đánh một gam, rồi nhìn người ca sĩ và rút ra kết luận rằng cô ấy không trắng, cũng không phải đỏ, mà là xanh lá. Có vẻ khó thấy, nó xuất hiện như một sự sỉ nhục, là những gân máu ở cổ tay, cổ và thái dương cô ta. Đây là những yếu tố vật lý củng cố cho giọng hát mà Rose biết là không có nguồn gốc từ con người. Màu xanh đó chắc chắn là của rong biển. Rose để cho đầu óc mình lang thang theo kiểu này mỗi khi cô được yêu cầu chơi lặp đi lặp lại. Nó giúp rút nọc độc ra khỏi vết cắn. Rose không cần phải có niềm đam mê khi chơi nhạc của chính cô, bởi vì không có sự khác biệt giữa âm nhạc của cô và tư tưởng của cô. Ngồi một mình sau nhiều tiếng đồng hồ ở một nhà thờ trên tầng hai ở Haarlem, khá xa về phía Bắc của phòng thu này. Tự do kiểm soát.

Nhưng lúc này thì: Bài một: gam. Kathleen nhìn trừng trừng vào người đệm nhạc. Rose chớp mắt với cô ca sĩ và và gởi vào một ít tò mò pha lẫn với sự khinh bỉ.

Năm 1918. Thành phố New York tiến gần đến trung tâm của thế giới. Các đường phố của nó đầy những cô công nhân, những anh lính bộ binh và hàng đoàn những người di dân từ khắp mọi ngóc ngách trên thế giới. Kathleen vô cùng thèm khát một ngày được bỏ học, được cắt tóc và bỏ bớt những diềm áo. Cô đã hoàn toàn quên mất một "New York thời trang" trong tờ Harper’s Bazaar. Cô đang chết dần mòn vì một New York mới, đa dạng và tuyệt vời hơn vào lúc hai giờ chiều ở đường Mullberry so với lúc nửa đêm ở Ziegfield Follies. Ở cuối phía Bắc Manhattan, Rose đang chơi âm nhạc của chính mình trong khi bên ngoài khung cửa sổ nhà thờ của cô thì Haarlem đang chuyển thành Harlem. Mẹ Rose đã nuôi cô lớn thành một ví dụ của "Chạy đua" và mỗi ngày thì danh sách những nơi Rose phải đến lại càng dài thêm. Nhưng Kathleen lại không bị gán vào những hạn chế như vậy. Cha cô đang ở rất xa, còn Giles thì không hỏi gì chỉ trừ một câu "Con có thích New York không con yêu?"

Lúc đầu thì Kathleen yêu New York, sau đó thì cô yêu một người New York. Việc này xảy ra rất nhanh chóng, và rõ ràng là nó phải như vậy khi bạn chuyển từ New Waterford đến New York vào lúc mười tám tuổi.

 

 

 

 

Thời gian cho bọn trẻ

Ở nhà, James đã chậm lại một chút. Khi Kathleen đi rồi thì việc lại ngồi ở chiếc ghế dựa sau giờ ăn đã trở nên an toàn với anh. Ở góc phòng vẫn còn hai thùng sách chưa mở nhưng còn quá nhiều sách chưa đọc trong tủ nên James vẫn chưa đụng đến hai thùng đó. Sau này sẽ có đủ thời gian, khi Kathleen đã thành đạt với sự nghiệp của cô và anh không còn phải làm việc vất vả nữa. Năm mươi hai cuốn sách, không tính quyển Bách khoa toàn thư nước Anh. Một ngày nào đó ta sẽ có thể ngồi giữa tất cả những cuốn sách của mình và bắt đầu đọc.

Tuy nhiên ngay lúc này vẫn còn nhiều việc phải làm. Thêm nữa là James đã quyết định dành thời gian buổi tối quý giá của mình cho hai đứa con gái nhỏ mà lần đầu tiên anh mới để ý đến chúng. Anh rất hài lòng khi thấy chúng rất sáng láng, cả hai đứa, và cũng tự mắng mình vì đã hoàn toàn giao chúng cho Materia cho tới tận bây giờ. Anh dự định sẽ đền bù cho chúng, vì điều này nên vào một buổi tối không lâu sau khi Kathleen đi, James gọi hai đứa nhỏ đến bên chiếc ghế dựa, để mỗi đứa rúc vào ngồi một bên, mở một quyển sách to và bắt đầu đọc "Vào thế kỉ thứ hai của Công giáo, đế chế La Mã đã nhận thức được những vùng tươi tốt nhất trên Trái đất và những khu vực đông đúc nhất của loài người." Hai đứa nhỏ ngồi nghe và cảm thấy bối rối vì những cái tên mới và những từ quá dài nhưng vẫn bị thu hút bởi giọng đọc kĩ lưỡng của cha, vì những hình ảnh lờ mờ của một thế giới tuyệt vời trải ra khi ông ra lệnh, và hơn hết là vì sự quan tâm đặc biệt
của ông.

Cảm giác rất khác với cảm giác hồi hộp mà chúng cảm thấy khi ở bên Kathleen. Bên cạnh cha chúng cảm thấy thứ gì đó hiếm có và uy nghiêm. Chúng hiểu rằng ông đang dạy chúng học và chúng đáp trả bằng tất cả sự tôn trọng mà chúng có.

Mercedes đã gần sáu tuổi. Cô bé không bao giờ quên mang cho cha một tách trà, bưng nó một cách cẩn thận cùng với một quyển sách cho buổi tối. Nó là một đứa trẻ ngoan và thể hiện vai trò người giúp đỡ cho mẹ và chị gái của Frances một cách nghiêm túc - mặc dù cô bé có vẻ khá giản dị, mái tóc của cô bé lại có màu xám xịt. Tuy nhiên cô bé vẫn có một đôi mắt nâu xinh đẹp và tính tình tốt. Nhưng James không thể cưỡng lại một sự quan tâm đặc biệt dành cho Frances. Cô bé là một sinh vật sống động, sắp năm tuổi, mái tóc quăn vàng óng và nụ cười tinh quái, ánh sáng xanh nhảy nhót trong đôi mắt màu lục của cô. Lúc nào cũng sẵn sàng một trò gì đó để chọc phá cha "Tóm được mũi cha rồi!" và đầy ý tưởng cho những trò chơi mà nó có thể chơi cùng Mercedes. "Mercedes, cạo đi!", "Mercedes, biết sao không, mấy cái nút này nhét vừa vào mũi mình đấy!". Mercedes đã học được nhiều qua những lần bị lỗi và biết được khi nào thì nên nói "Ừ", còn khi nào thì nên nói "Hãy giả bộ là...".

James không thích nghe Materia và tụi nhỏ nói chuyện bằng tiếng Ả Rập nhưng anh không phản đối. Anh chỉ phản ứng vào những lần đặc biệt khi họ cùng ngồi với nhau sau bữa ăn. Anh làm tăng sự cổ điển bằng những câu chuyện cổ tích và thơ ca. Mấy cô bé rất thích thơ và học chúng một cách nhanh chóng. Đứng cạnh chân ghế của anh, tay nắm lấy nhau, ngay ngắn như hai cái khuy trên áo Kathleen - màu xanh là Mercedes, màu đỏ là Frances - những cái khuy trên giày chúng tỏa sáng đẹp đẽ, chúng lặp lại bằng giọng ê a trầm bổng "Tôi có một cái bóng luôn đi theo mình. Nó có nhiều lợi ích hơn tôi biết. Nó rất giống tôi, từ đầu tới chân. Tôi thấy nó nhảy lên trước mình, khi tôi nhảy lên giường."

Sau đó Frances sẽ ré lên vui sướng còn Mercedes sẽ nhún gối cúi chào. James cười và vỗ tay. Frances bò lên đầu gối anh, Mercedes áp má vào tay anh và anh cảm thấy tảng băng trong ngực mình đang vỡ ra. Chiến tranh đã kết thúc. Anh đã về lại nhà mình và cuối cùng thì mọi thứ cũng đang tốt đẹp trở lại.

 Tôi đang giữ chặt em trong pháo đài của mình

Và sẽ không bao giờ để em ra đi

Mà sẽ nhốt em vào ngục tối

Của lâu đài trong trái tim tôi.

Ở đó tôi sẽ giữ được em mãi

Mỗi ngày và mãi mãi

Tới khi những bức tường đổ nát

Và tan hết thành cát bụi.

Có ít thư gửi từ Kathleen hơn là James mong đợi, nhưng lâu lâu Giles sẽ gửi một tấm bưu thiếp để cho anh biết là mọi thứ vẫn ổn. Vào tháng Sáu có một hộp quà do Kathleen gởi về bao gồm hai con búp bê thủy thủ, một cho Mercedes và một cho Frances. Chúng rất phấn khích và ngay lập tức mang đồ chơi mới đến gặp gia đình búp bê của chúng, "Nhìn này các con, đây là các anh họ mới người Mỹ của các con đấy". Có một bức thư đi kèm, James gọi các con đến bên chiếc ghế dựa và đọc lớn.

"Cha mẹ và các em thương,

Con đang tập luyện rất tốt dưới sự giám sát của thầy dạy nhạc. Ông ấy không thể hài lòng hơn nữa và con cũng vậy. Bà Giles là một người bạn tuyệt vời và đã giới thiệu cho con nhiều thứ về văn hóa rất thú vị. Cho tới nay thì con đã được đến tham quan Bảo tàng Lịch sử tự nhiên cũng như các nhà hát nhạc hiện đại. Cũng có nhiều dòng nhạc mới được biểu diễn ra mắt tại Manhattan và đó thực sự là một đặc quyền khi được là một trong những người đầu tiên thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời như vậy. Cũng có rất nhiều các chiến sĩ đi ngang qua trên đường ra chiến tuyến và con đang lên kế hoạch đi theo bà Giles làm nhiệm vụ chăm sóc y tế, mặc dù con không có tí kĩ năng đan lát may vá nào và thực sự tội nghiệp cho chiến sĩ nào nhận được đôi vớ con đan. Bên cạnh thời gian giải trí, thời gian của con hoàn toàn dành cho việc học và tập luyện, tập luyện, tập luyện. Làm ơn chuyển lời chào của con đến xơ Saint Cecilia nếu tình cờ gặp bà trong thị trấn. Con sẽ viết thư lại sớm.

Thương, Kathleen.

Đọc xong, James gấp lá thư lại và nhét vào túi áo ngực. Sau đó anh lại kể cho Frances và Mercedes nghe về việc học của Kathleen, khi nào cô học xong, họ sẽ bắt tàu đến New York và nghe cô hát ở nhà hát Metropolitan. Mercedes chụp hình tòa nhà trắng, Kathleen sẽ ngồi trên một ngai vàng bên cạnh một hoàng tử đẹp trai. Frances thấy một lâu đài với các nàng tiên cá đang bơi trong một cái hồ đầy bia, còn Kathleen thì đang cầm một thanh kiếm và hát trên ban công.

Mùa hè trôi qua nhanh, Materia vẫn nấu ăn, James vẫn làm việc, còn các cô bé thì lớn nhanh. Vào mùa thu chúng đã có thể biết đọc. Việc này xảy ra như một sự thẩm thấu, theo đúng cách mà nó phải xảy ra: sau nhiều tháng ngồi trong lòng cha và đọc theo những từ mà ông đang đọc, miệng cũng giả vờ đọc, đến một ngày chúng sẽ không phải giả vờ nữa. Tấm gương đã vỡ ra và bây giờ chúng có thể tự chọn những thế giới mà chúng thích, cùng với nhau hoặc một mình. Cảm ơn cha.

Vào ngày 7 tháng 11, James dắt các con đến bưu điện để nhận bức thư Kathleen gởi từ New York. Mỗi khi nhìn thấy biểu tượng thùng thư anh cảm thấy rất dễ chịu, nhưng hôm nay lại có một chút bất ngờ bởi vì trên phong bì không có địa chỉ người gửi và tên và địa chỉ anh được viết bằng nét chữ con gái nhưng rất xa lạ. Trong khi Mercedes và Frances đang đắn đo chia nhau số kẹo cam thảo thì James mở bức thư ra đọc...

Nội dung bên trong hoàn toàn trái ngược với văn phong tao nhã của nó. Nó được kí tên là "Người ẩn danh luôn mong muốn điều tốt", James gấp bức thư liên tục cho tới khi nó còn nhỏ xíu và đắn đo: cho dù nó là một trò đùa hiểm độc hay là sự thật thì đêm nay anh cũng phải lên đường.

Ba ngày rưỡi sau đó, vào lúc 6:05 sáng ngày 11 tháng 11 năm 1918, James bước ra khỏi ga Grand Central.

Anh phải tìm Kathleen và đưa cô về nhà.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86297


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận