Không Lối Thoát Chương 2


Chương 2
VÙNG ĐẤT KHÔNG NGƯỜI

Đêm Thánh Vô Cùng

Đêm đầu tiên của mùa hè năm 1919, trên gác mái của căn nhà trên đường Water, khi Kathleen đang trong cơn hấp hối - và ý thức về điều đó đã bị lấn át bởi những cơn đau quặn thắt vượt quá sức chịu đựng cứ liên hồi kéo đến, cùng với việc mất máu quá nhiều bởi quả bom đang kẹt cứng trong ổ bụng đang đe dọa phát nổ trước khi chạm đất - cô trải qua một khoảnh khắc nhẹ nhàng: sự yên bình dần lan đến, cơn đau đột nhiên giảm đi nhiều rồi biến mất, và có cả tiếng mẹ cô đang cầu nguyện rền rĩ liên hồi, báo trước một điềm xấu sắp ập xuống từ trên cao, Lạy Chúa đang giáng xuống trần, bà nài nỉ cầu xin, Xin Người hãy đến, xin Đức Chúa trời hãy ghé xuống đây ban phước lành nhưng đừng xáo trộn căn nhà chúng con. Xin Chúa hãy nghe lời chúng con cầu nguyện, xin Người hãy giữ khoảng cách an toàn với chúng con ngay lúc này đây, và trong giờ lâm tử...

Đây là một ca sinh ngược và đứa trẻ còn kẹt lại khi chân nó đã ra ngoài. Sẽ phải có ai đó không thể sống sót ra khỏi căn phòng này. Cần phải lựa chọn, và họ đã chọn, hoặc ít nhất lựa chọn đó đã được phép xảy ra. Mọi thứ dần biến mất đối với Kathleen, bắt đầu từ âm thanh: tiếng của mẹ cô - lúc này có lẽ đang nói nhiều thứ tiếng hoặc ít nhất là nói tiếng mẹ đẻ của bà - rồi tiếng đấm cửa bình bịch của cha cô - ông sẽ làm sập cánh cửa ấy ngay thôi. Cô như bay lên từ sự thanh thản và yên bình tuyệt đối từ trong sâu thẳm tâm hồn, cùng với sự biến mất tạm thời của nỗi đau. Mọi thứ đang kết thúc với cô và ai cũng thấy được điều đó.

Materia cũng thấy điều đó. Cô đã biết trước điều đó, và đã chấp nhận nó, chứ không như James phía bên kia cánh cửa. Cô nhẹ nhàng khép mắt con gái mình lại, cầm lấy cây kéo - một cây kéo bếp cũ kỹ, sắc nhọn đã khử trùng chuyên cắt dây thừng - cô đặt lưỡi kéo bén hoắc trên bụng Kathleen, ngay chỗ nhô lên có hình dáng giống như cái đầu của một đứa trẻ. Cô rạch một đường ngang và cắt theo đường ngang đó; thời gian đang cạn dần, đứa trẻ sơ sinh sắp chết ngạt, và James thì có thể ập vào bất cứ lúc nào, chỉ một nhát cắt chẳng làm được gì cả. Materia giấu nỗi sợ vào trong động thái chậm rãi của mình, cố nén chặt nó trong lòng, bây giờ và trong thời khắc của chúng ta - cô cắt thêm một đường nữa, lần này là một đường cắt dọc xẻ đôi vết cắt đầu tiên. Qua khoảng trống được mở ra bởi hai đường cắt, cô thọc hai bàn tay đang chắp lại kiểu cầu nguyện của mình vào cái bụng trơn tuột, nhầy nhụa và nóng hổi đang chứa một sinh linh của con gái mình. Tay cô lần qua những cây dương xỉ thần bí và những sợi mảnh đong đưa, cố tìm cái gì đó để nắm trong cái kho báu bị chìm sâu, rồi cô mò được cái mắt cá chân, rồi một cánh tay, và rồi kho báu đã nằm gọn trong tấm lưới đan từ những ngón tay. Với một chuỗi những cú giật dứt khoát và mạnh bạo, kho báu đã bị tách ra khỏi nơi nó đang kẹt cứng ở lưng chừng kênh đào chật hẹp, mặc kệ những đợt thủy triều ập đến ào ạt từ những khao khát hấp dẫn đầu tiên đó. Một nhúm những cánh tay bé xíu và những sợi thớ bị đứt còn sót lại và những dấu vân tay chỉ có một trên đời bị lôi về phía mặt biển nhầy nhụa căng phồng của nó. Bốn con mắt của nó bị cháy sém bởi ánh mặt trời đột ngột chiếu vào qua cửa ngõ rách nát dẫn ra thế giới bên ngoài, và trong phút chốc nó bị kéo ra khỏi bụng Kathleen từ miệng vết thương.

Không khí bắn tung tóe và nổi bọt quanh nó, đe dọa sẽ nhấn chìm nó - chúng - vì thực ra chúng có đến hai nhưng chúng nhưng chưa được cắt rời, nên vẫn được coi là một sinh vật thống nhất gồm một phần nam một phần nữ buộc dính với nhau trong bụng mẹ bằng một sợi dây rốn duy nhất. Nó - chúng là một sinh vật biết thở dính đầy máu, và có thể chết đuối trong luồng khí oxy chí tử này, sẽ chết chìm nếu chúng tiếp tục im lặng, và trở thành những con cá xanh trong chốc lát. Nhưng những sợi dây đã bị cắt rời, lép nhép, và buộc lại vừa kịp lúc, và ngay lập tức chúng hít thở thật sâu thật mạnh để không khí tràn vào phổi. Chúng trở thành những em bé vừa kịp lúc; bóng loáng, đẫm máu, mới tinh, khóc lóc, mắt nheo nheo, hung dữ, hai em bé.

Một trong hai đứa, đứa bé trai, bị chảy máu một chút ở mắt cá chân vì bị cắt trúng. Khi lưỡi kéo hạ xuống, bàn chân nó đang áp sát đầu em gái mình. Nó đã được sắp đặt để cái đầu ra trước như một động vật hữu nhũ tốt. Do đó, về căn bản, chính bé gái là đứa gây ra cái chết của mẹ chúng, bởi nó nằm ngược đầu. Tuy nhiên đó là một ván bài lật ngửa. Cặp song sinh đã quay ngược chiều kim đồng hồ trong bụng mẹ nhiều tuần trước khi ra đời.

Kathleen là một cái mỏ bị bỏ hoang. Một cái mỏ đựng rượu lậu đã bị cướp và ngập nước; một căn hầm đã hỏng đầy nguy hiểm, tất cả mọi thứ từ nhiên liệu và than đến hóa thạch của xương, hải quỳ, dương xỉ, của những sinh vật nửa thực vật nửa động vật, và cả mọi cơ hội có thể biến mọi thứ trong này thành kim cương đều đã bị


đánh cắp.

James tưởng anh đã chứng kiến những điều tồi tệ nhất rồi vì xét cho cùng anh đã chiến đấu khi chiến tranh ập đến mà. Nhưng điều thực sự tệ nhất chính là chuyện đang xảy ra với anh lúc này đây, một chuyện lấy đi sự yên bình trong cuộc sống của anh mãi mãi. Nó còn ghê gớm hơn cả chứng bệnh thần kinh sau chiến tranh. Hơn cả Vùng Đất Không Người.

Tại một hang lớn trong một hẻm núi,

chăm chỉ đào một mỏ than,

người thợ mỏ ở đó, người đào vàng năm-bốn-chín,

cùng con gái của mình, cô bé Clementine

thật dịu dàng và xinh xắn như tiên,

và cô bé mang giày số chín,

những chiếc hộp chật ních không có nắp,

chất đầy những đôi giày dành cho Clementine,

ôi con gái cưng của ta, con gái cưng, con gái cưng Clementine,

con đã đi, sẽ mãi không còn nữa,

thương nhớ khôn cùng, con gái Clementine thương yêu.

Đây là điều Kathleen đã thấy trước thời khắc bình yên. Khoảnh khắc giữa nỗi đau và sự thanh thản, cô đã thấy - đứng yên cạnh cánh cửa đang đập liên hồi như đang lên cơn đau tim - Pete. Hắn đứng đó, Chào cô bé, nhưng chẳng thể thấy được phần đầu của hắn. Lần này hắn không xuất hiện phía sau cô trong chiếc gương như trước nữa, mà đứng ngay ở cửa vì giờ cũng đâu có gì đe dọa được hắn nữa. Và xét cho cùng thì hắn cũng chỉ muốn nhìn cô, nhìn một lần cho tử tế kiểu Chào đằng ấy. Gương mặt không thể thấy của hắn rúc bên dưới cánh tay Xin chào.

Và khi đã ngắm đủ, hắn lịch sự gục gặc cái cổ không đầu của mình để chào và rời đi. Cô rên rỉ trong chốc lát. Rồi cô bỗng được giải thoát khỏi đau đớn. Không gì hạnh phúc hơn, dễ chịu hơn khoảnh khắc này. Vậy là đủ rồi. Và sau đó tất cả những gì ta có thể làm là nhìn thấy hình ảnh còn lại của cô qua đôi mắt của mẹ cô, bởi cô đã không còn nữa.

Vấn đề nan giải của Materia chính là: Mình có cứu được người mẹ bằng cách cắt bỏ từng phần một của hai đứa trẻ sơ sinh, cuối cùng nghiền nát đầu chúng để lấy hết chúng ra khỏi cơ thể mẹ chúng không? Thật khó có thể nghĩ ra được tội ác nào xấu xa hơn tội này trong Công giáo. Tội ác không nằm ở những chi tiết đẫm máu của ca phẫu thuật, vì những chi tiết khi làm điều đúng đắn cũng đẫm máu như vậy, mà tội ác nằm ở việc lựa chọn mạng sống của người mẹ thay vì mạng sống của những đứa trẻ. Một khi phạm tội này, bạn sẽ bị nguyền rủa suốt đời. Materia đã làm đúng khi để người mẹ chết đi và hai đứa trẻ được sống.

Vậy thì tại sao cô lại qua đời vài ngày sau đó vì lương tâm bị cắn rứt bởi tội lỗi? Đó là vì dù cô đã làm đúng, nhưng lý do thì hoàn toàn sai. Với một lý do mà bản thân nó đã là một trọng tội. Trong hai ngày liên tiếp, cô luôn bị dằn vặt, cắn rứt lương tâm. Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi. Người đã cho Materia bốn mươi tám tiếng đồng hồ để đối mặt với sự thật rằng điều cô đã làm, dù đúng đắn theo cách nhìn của giáo hội nhưng là tội sát nhân dưới con mắt nhìn thấu mọi việc của Người: Lý do thực sự tôi để con gái mình chết là vì tôi biết con bé nên chết đi như thế. Tôi không hiểu con bé lắm, nhưng tôi biết nó không còn muốn sống nữa. Nó thích được chết hơn, nên tôi đã cho phép nó ra đi.

Nhìn từ góc độ này, Materia đã không hề cứu hai đứa trẻ, cô chỉ ban một cái chết không đau đớn đối với một phụ nữ trẻ, và trọng tội chính là ở đó. Bởi nếu lúc đó con gái cô kêu khóc xin được sống, Materia không dám thề rằng cô sẽ không dùng kéo cắt hai đứa trẻ ra từng khúc hơn là để chúng được sống như đã làm. Và từ trong sâu thẳm trái tim mình, cô nghi ngờ điều này có nhiều khả năng xảy ra. Và trong sự ngờ vực đó, cô phát hiện ra một niềm an ủi khiến cô rùng mình, cuối cùng thì, cô đã có thể yêu thương được con gái mình.

Chúa tìm thấy một khe hở và Người nhanh chóng xuất hiện. Người yên vị trong tâm hồn Materia vài ngày và trong những ngày đó cô lau dọn nhà cửa điên cuồng không nghỉ.

Đến ngày thứ ba, cô lau dọn lò nướng, đầu tiên cô mở lò lên để những vết dơ đã khô cứng trong lò mềm ra, việc này sẽ nhanh thôi. Cô quá mệt mỏi rồi, cô đã không ngủ suốt ba đêm qua, thậm chí còn không chợp mắt được một giây, và chưa bao giờ cô làm việc nhiều như thế. Cô quỳ xuống trước lò nướng, tay khoanh lại trên giá đỡ và nhìn vào bên trong, đợi khí nóng thực hiện nhiệm vụ của mình.
Việc này sẽ không lâu đâu - cô tựa đầu mình trên hai cánh tay. Cô đã mệt lắm rồi. Cô sẽ bắt đầu việc chà rửa lò nướng ngay thôi, một giây nữa thôi...

Không biết là lần thứ bao nhiêu trong tuần này, James phải ứng biến ra một tâm hồn tội lỗi, bởi cơ bản anh chẳng có bao giờ. Anh tắt gas, lôi người vợ quá cố của mình lên lầu, đặt cô lên giường, nhét chuỗi hạt cầu nguyện vào tay cô, sau đó gọi bác sĩ và linh mục. Điều này cho phép Materia được chôn cạnh mộ Kathleen trong nghĩa trang nhà thờ thay vì trong một mảnh đất nào đó không được Chúa ban phước - một nơi giống như nơi những người lính và những người tự vẫn và những đứa trẻ không được rửa tội phải nằm lại vĩnh viễn, Vùng Đất Không Người đầy tội lỗi nào đó.

Tấm Bài Vị

 

 

Xin Chúa thương xót Linh hồn

***

Bà James (Materia) Piper (Nhũ danh Mahmoud)

Từ trần ngày 23 tháng 6 năm 1919

Hưởng dương 33 tuổi

"Chúng ta đã yêu quý bà ấy trong đời.

Hãy đừng bỏ rơi bà ấy cho đến khi những lời cầu nguyện của ta đã đưa bà về đến căn nhà của Chúa."
THÁNH AMBROSE

Solace Art. Co. - 202 E. 44th St. N.Y.

 

Frances giờ đã gần sáu tuổi rồi. Con bé có khá nhiều câu hỏi liên quan đến tấm bài vị, nhưng rõ ràng đây không phải lúc hay nơi thích hợp để hỏi. Mercedes đang quỳ gối cạnh cô bé, giấu mặt vào tay khóc mãi, khóc đến thấm đẫm cả chiếc khăn tay. Mặt cha lạnh như tiền. Nếu gió có đổi hướng đi nữa thì gương mặt ấy cũng vẫn mãi như thế. Bà Luvovitz ngồi trên ghế dài bắc ngang lối đi chính giữa cũng đang khóc sau lớp mạng che mặt màu đen của bà. Đây là lần đầu tiên bà Luvovitz bước vào một nhà thờ. Bà MacIsaac cũng ở đó, bà đội một cái mũ gắn trên đó là những quả nho bám đầy bụi. Frances quả quyết rằng chắc chắn gió đã thổi sang hướng khác đối với bà ấy từ lâu rồi. Ngồi vào chỗ Materia tại tang lễ là xơ Cecilia. Hoặc ít nhất là chính bà ấy trong cái áo choàng đen mềm rũ bên dưới chiếc khăn trùm đầu trắng bằng vải hồ có đầu nhọn kiểu Gotic. Frances nghĩ việc các nữ tu đội thánh đường trên đầu mới thật hợp lý làm sao.

Phía cuối thánh đường có một nhóm người lạ mặt. Tóc họ đen và quăn, họ có dáng người đầy đặn và những gương mặt màu ô-liu láng mịn. Họ là họ hàng không quen biết của Frances. Ông ngoại không biết Mahmoud của Frances không có mặt. Với ông, đám tang là một điều thừa thãi. Lúc này ông đang nhốt mình phía sau cửa hàng, ngồi khom người trên một cái ghế gỗ đơn sơ, hiển nhiên là đang miệt mài với sổ sách kế toán.

Ông hàng thịt Benny Luvovitz, cha và ông MacIsaac là những người phụ trách việc khiêng quan tài. Mọi thứ đều rất giống với đám tang của Kathleen vài ngày trước ngoại trừ ba việc: ngày hôm đó mẹ ngồi dự lễ tại nhà thờ chứ không nằm trong một cái hộp như hôm nay, ông già đáng sợ đã ngó vào quan tài của Kathleen miệng lẩm bẩm những lời bậy bạ bằng ngôn ngữ của mẹ hôm nay không xuất hiện, và quan trọng hơn cả là Frances đã nhận thấy ở phía cuối nhà thờ, đứng kế một phụ nữ da đen tròn trịa, bé nhỏ, có búi tóc màu xám tro là một người dáng cao cao ốm ốm: chính là người phụ nữ da màu đã đến nhà đưa cho cha một cái phong bì và cho Frances một cây kẹo cách đây hơn một năm. Teresa ở đây vì lí do nào đó. Cô hầu gái Teresa. Nữ hoàng Teresa. Frances không nghe thấy tiếng nhắc nhở bảo cô bé nhìn về phía trước, rồi cô bị cha kéo lại thật mạnh, về đến nhà cô sẽ lãnh đủ cho xem. Nếu nhanh chân, có lẽ tí nữa cô sẽ kịp chạy theo người phụ nữ đó ra khỏi nhà thờ, nhảy lên taxi cùng bà ấy và không bao giờ quay lại nơi đây nữa. Họ sẽ cùng nhau đi đến vùng đất của những cây kẹo cứng bạc hà cam thảo có màu trắng và đen.

"Nhìn phía trước ngay!"

Frances chắc chắn sẽ làm được điều đó sau tang lễ. Cô bé không dám đưa mắt nhìn người phụ nữ trong mơ của mình thêm một lần nào nữa. Nên thay vào đó cô đành tập trung vào tấm vị bài: THÁNH AMBROSE. Cái tên tự tách ra khỏi tấm thiếp, để lại tên thánh phía sau như cái đuôi, và đi vào tâm trí con bé. Cái tên cứ lượn lờ trong đầu cô theo một lộ trình kết hợp đầy bí ẩn cho đến khi ngừng lại ở hình ảnh đứa bé trai mới sinh đã chết trên tay nó vài ngày trước. Ambrose. Đúng. Đó sẽ là tên của thằng bé. Ambrose.

Trong vòng một tuần qua đã có ba cái chết xảy đến với căn nhà số 191 đường Water. Và hai đám tang. Và ba lễ rửa tội. Và ba lần chôn cất. Và cả hai tấm bài vị, giống hệt nhau, chỉ những thông tin được điền vào chỗ trống là khác thôi. Một tuần thật dài. Đủ để làm bạn cảm thấy như đã hít trúng khí cười. Và lúc này Frances muốn cười vô cùng, cô không giải thích được nguyên do, nhưng cô biết chắc rằng đó là điều tệ hại nhất người ta có thể làm lúc này. Ôi không. Trong đầu nó đã xuất hiện những ý nghĩ về việc cười rồi, nên giờ không thể không nghĩ đến chuyện đó được nữa. Con bé lấy tay che mặt mình lại và cười sằng sặc. Đã cố kiềm chế, cố gắng cười thật nhẹ thật khẽ, nhưng rồi cô bé bắt đầu cười ngặt nghẽo, người cô run lên. Cô áp tay mạnh hơn vào mặt và cố ngừng lại nhưng không tài nào cưỡng lại được. Giống như cơn buồn tiểu bạn gặp phải khi đang chơi ngoài sân và không chịu vào nhà đi vệ sinh vậy - nước sẽ ồ ạt tuôn ra tuôn ra và điều này tuy hoàn toàn giải tỏa những bức bách trong bạn nhưng nó cũng khiến bạn mất mặt vô cùng.

Frances thì có thừa nước. Nhưng còn có gì tệ hơn khi cái chuyện nực cười kỳ quặc này lại xảy đến ngay tại đám tang của mẹ cô, chỉ cách hai ngày sau đám tang của chị cô, chỉ hai ngày sau những lễ rửa tội và cái chết của - ôi không, cô chảy cả nước mắt vì cười quá nhiều và giờ nước mắt đang dần thấm đẫm đôi bao tay cotton của cô. Frances chờ đợi bàn tay cha túm lấy gáy cô và sau đó lôi xềnh xệch ra khỏi nhà thờ khiến cho cô xấu hổ không để đâu cho hết. Nhưng những gì cô bé nhận được lại là một cái vỗ nhẹ vào đầu - bởi bàn tay cảm thông đầy thấu hiểu của cha, và chiếc khăn tay đẫm nước mắt từ chị cô. Frances kinh ngạc. Họ nghĩ mình đang khóc.

Trong khoảnh khắc này Frances rút ra được một điều có thể giúp cô sống sót và sống yên đến cuối đời, đó là điều này có thể giống điều nọ, thực tế của một sự việc không cần thiết phải liên quan gì đến bản chất của sự việc đó. Trong khoảnh khắc này, thực tế và bản chất sự việc hoàn toàn tách biệt nhau và bắt đầu lang thang như trong truyện cổ tích, chờ đến khi được gắn kết lại bởi người sở hữu bí mật đã làm chúng tách rời nhau ra.

Nói đơn giản là Frances đã học được cách nói dối.

Trong tất cả các bí mật của Frances, chuyện về Ambrose là lớn nhất. Nó cũng là món quà to nhất dành cho Lily.

 

Bức Họa Trong Hang

Khi cánh cửa căn gác xép cuối cùng cũng hé ra, James nhìn thấy một bức họa tĩnh lặng: Cái Chết và Người Mẹ Trẻ. Một bức vẽ cường điệu, thiếu mỹ thuật. Một bức họa dân dã xuất phát từ một nền văn hóa nóng. Mộc mạc. Mơ hồ. Chân thực.

Đây không phải cái chết nhẹ tựa lông hồng thời nữ hoàng Victoria. Không có nét xanh xao yểu điệu đáng kính, không những tia sáng chiếu xuống từ thiên đường, và cũng không có người chồng quẫn trí lịch thiệp. Bức tranh này sống động hơn nhiều. Treo phía trên thanh sắt đầu giường là tượng Đức Chúa bị đóng đinh trên thập giá. Mỗi bên thập giá treo một bức ảnh nhỏ: một bức là Đức mẹ Đồng trinh với trái tim linh thiêng đang cháy rực trên ngực trái, còn bức kia là của Đức chúa Giê-su con trai Người với trái tim cũng lộ ra ngoài và rỉ máu vì bị dây gai chọc vào. Trông họ dễ chịu vô cùng, mẹ và con trai. Họ đã cùng tìm đến được một chốn bình yên khi đang phải gánh chịu sự đau đớn vô cùng.

Người Mẹ Trẻ đang nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền. Mái tóc đỏ hoe đẫm mồ hôi và bết dính vào gối. Máu thấm ướt cả tấm trải giường. Phần giữa cơ thể cô đã rách nát. Một phụ nữ da màu mập mạp khoảng hơn ba mươi tuổi đang đứng cạnh cô. Người đó là Bà Ngoại. Bà bồng trên hai tay hai đứa trẻ sơ sinh dính đầy máu bị buộc dính vào nhau ở mắt cá chân, hệt như một bà nội trợ đảm đang ước tính cân nặng một cặp gà. Bà ngoại đứng trong tranh, mặt hướng thẳng vào người xem.

Nếu thật sự đây là một bức họa, thì sẽ có một con quỷ núp dưới nắp rương phía chân giường, đang lén nhìn ra chờ bắt linh hồn của Người Mẹ Trẻ. Thế nhưng Vị thần Bảo hộ của người mẹ trẻ ấy đã không để hắn thực hiện được điều đó, Người dang đôi cánh chờ đợi để dẫn linh hồn đã lìa khỏi xác của cô về với Chúa. Linh hồn Người Mẹ Trẻ, lúc này đang nửa dính nửa rời với xác của cô, đang rất thoải mái với mái tóc được chải gọn gàng, chiếc đầm ngủ trắng tinh khôi, và gương mặt không gợn cảm xúc - cuộc hóa thân thần thánh đầu tiên đã diễn ra, cô đã rũ bỏ tính cách cũ của cô như lột bỏ lớp da cũ. Cô sẽ không cần dùng đến nó ở nơi mà cô sắp đến. Bức tường phía trên trên cây thánh giá đã không còn mang tính vật chất tầm thường nữa. Trên đó, những áng mây lững lờ trôi. Và đâu đó trong những đám mây ấy, Chúa đang chờ đợi.

Tuy nhiên, vì đây không phải là một bức tranh mà chỉ là một khoảnh khắc bất động trước mắt James, nên dẫu có có đi chăng nữa thì mắt thường của ta cũng không tài nào thấy được những yếu tố siêu nhiên đó. Mà chỉ thấy một Người Mẹ Trẻ đã chết, Bà Ngoại, hai Đứa Trẻ sinh đôi, những Biểu Tượng, và chiếc rương. Bạn có thể làm gì với một bức tranh như thế? Bạn không bao giờ muốn thấy nó lần nữa, nhưng lại không thể tự tay đốt hoặc xé nó thành từng mảnh. Bạn phải giữ nó mãi mãi.

Cất nó trong rương đi James. Đúng rồi. Đó là nơi thích hợp để cất nó. Chẳng có ai lục lọi trong đó cả. Điều này hẳn là rất điên rồ. Bạn không thể nhét hình ảnh của một khoảnh khắc vào một cái rương hiện hữu như đem cất một món đồ gia truyền được. Nhưng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, James thấy như anh đang thực sự nhìn vào nó, một bức vẽ mà anh đã giấu trong rương nhiều năm về trước và nay bỗng tình cờ thấy lại. Sự bối rối tạm thời này là một điềm báo; nó báo trước cho anh biết là không bao giờ anh thoát khỏi cảnh này. Rằng cảnh này sẽ mãi sống động, cho đến tận mười bốn năm sau những sắc màu của nó cũng vẫn mãi tươi mới như ngày hôm nay.

James bước ra khỏi căn phòng, nhưng không đi được xa. Chân anh dẫn lối và anh ngã xuống ngay bên ngoài cánh cửa đã bị đấm sập, bất tỉnh. Anh không nghe tiếng khóc chào đời của hai đứa trẻ vọng ra từ bên trong. Nhưng tiềm thức của anh đã nghe thấy. Tiềm thức đó không chỉ chuyển tải thông điệp mà còn lưu lại thông điệp ấy vào một mảnh giấy vụn dính trên tường hang. Nó đang tạm ngưng hoạt động để chiêm ngưỡng bức họa trong hang dưới ánh sáng của bóng đêm.

Vài giây sau, ngay khi Materia vừa bước ra khỏi phòng, James giơ tay ra nắm chặt lấy mắt cá chân cô lại, suýt nữa làm cô ngã nhào xuống cầu thang chật hẹp. Anh hé miệng hỏi "Cô đang đi đâu đó?".

"Tôi đi gọi linh mục."

"Không, cô không được đi đâu hết." Giờ James đã thực sự tỉnh táo.

"Chúng sẽ được rửa tội."

"Không."

"Chúng phải được rửa tội."

"Không." James gầm lên

"Anh sẽ giết chúng mất, anh sẽ hủy hoại linh hồn bọn trẻ mất, anh là tên ác quỷ..."

Rồi cô tặng anh thật nhiều cú thụi mạnh vào mặt. Giả như có kéo trong tay thì chắc cô cũng sẽ chẳng ngần ngại chọc thủng mắt anh ngay tức khắc - "Ebn sharmoota, kes emmak! Ya khereb bEytak, ya Hara’ deenak!" Cô sẽ làm điều đó ngay lập tức nếu có một cái lưỡi lê trong tầm với. Và Chúa sẽ hiểu cho cô. Tại sao trước đây cô không nghĩ đến điều này chứ? Giờ Materia cũng đã thức tỉnh, sau mười chín năm ngủ vùi. Và cô sẽ giết anh ấy nếu có thể.

Một tay James giữ chặt cổ tay Materia, tay kia anh bịt chặt miệng cô. Mắt cô trợn ngược. Anh nói, "Ai là kẻ giết người hả? Ai giết người? Chúa nguyền rủa cô, Chúa sẽ nguyền rủa cô, đồ khốn kiếp -" Anh nhấn mạnh những lời nguyền rủa của mình bằng cách chầm chậm đập đầu cô vào tường. Mắt cô láo liên, cố tranh luận với anh, nhưng không có cách nào thốt ra lời nên mắt cô trông như mắt một con ngựa, câm lặng, đầy hãi hùng. Nước mắt anh bỗng tuôn trào. Môi anh mấp máy bên dưới làn nước mắt và nước mũi, máu chảy ra từ mũi anh, anh đang òa vỡ những tiếng nức nở thương tâm, với nỗi đau đớn vô cùng, và bức tường lúc này đã trở nên dễ chịu hơn với cái đầu của Materia. Lần này anh đã nghe được tiếng khóc từ bên trong. Như tiếng mèo kêu. Anh xốc Materia lên và bồng cô đi qua ba dãy cầu thang xuống hầm than rồi nhốt cô lại. Sau đó anh bỏ ra ngoài đi dạo, và đương nhiên là nốc thật nhiều rượu nữa. Vài người trong chúng ta không được trang bị cho việc tự tử. Và khi chúng ta ở tận dưới đáy thì tự tử lại càng là một điều vượt quá khả năng sáng tạo.

Chỉ còn lại một mình Frances bé nhỏ, đứng dưới chân cầu thang dẫn lên căn gác xép. Dựa vào những điều đã được dạy cùng với những điều Frances đã nghe và thấy tối nay, c 10000 ô bé có thể chắc chắn một chuyện: những đứa trẻ trên gác cần phải được rửa tội. Nhưng cô phải hành động thật cẩn thận và nhanh chóng. Không thể để bị bắt quả tang được. Cô đứng dưới chân cầu thang nhìn lên.

Căn phòng trên gác xép nhiều tháng nay vẫn là một nơi bình yên và tĩnh lặng tuyệt đối. Cho đến đêm nay. Chị lớn của cô đang nằm trên đó tuyệt đối yên lặng. Frances và Mercedes được cho phép vào phòng để đọc sách và mang thức ăn cho chị lớn. Chúng đã đọc Vẻ đẹp đen, Đảo giấu vàng, Căn nhà hoang, Jane Eyre, Katy đã làm gì, Những phụ nữ nhỏ bé và những mẩu truyện nhỏ trong cuốn Kho tàng truyện về những vị Thánh và những người anh hùng dành cho trẻ em. Cả hai quyết định sẽ để dành những từ khó lại để lần sau tra để khỏi cắt ngang mạch đọc truyện. Chúng còn nhờ mẹ tìm giùm công thức nấu những món ăn kì lạ chúng tìm thấy trong Katy đã làm gìNhững phụ nữ nhỏ bé. "Bánh Pút-đinh" có vẻ là món khoái khẩu của những cô gái gầy nhom. Chúng chẳng bao giờ hiểu được nó là gì. "Ăn trắng". Món ấy có vị thế nào nhỉ?

Frances biết là chị Kathleen của cô rất mệt mỏi với khối u trong bụng. Mercedes bảo với cô đó là u ác tính. "Bọn mình phải cầu nguyện cho chị ấy". Và chúng cùng nhau cầu nguyện cho Kathleen. Chúng thôi không ăn kẹo nữa mà làm một cái hòm nhỏ và bỏ những viên kẹo vào đó và chờ đến khi chị gái khỏe lại sẽ ăn.

Và đây là Frances, sáu tuổi, đang đứng ở chân cầu thang chật hẹp dẫn lên gác mái. Cô bé không sợ bóng đêm, hơn nữa, vẫn có chút ánh sáng leo lắt hắt xuống từ căn phòng bên trên. Cô bé đâu có một mình, còn có chị lớn và hai đứa trẻ đang o oe như mèo đang nằm trong phòng ấy nữa. Mà Frances thì rất yêu mèo. Frances đi chân không, cô đang mặc chiếc đầm ngủ trắng và tóc thì được thắt thành hai bím dài. Cô bước đến chân cầu thang. Con bé quá thấp nên không đứng được ngang tầm mắt với chỗ lõm mới xuất hiện trên tường; cũng phải thôi. Nhưng vậy thì có vấn đề gì đâu chứ, cô đã thấy cách vết lõm đó xuất hiện ở đó, và giờ cô đang đi vào phòng và sắp sửa thấy tất cả mọi thứ. Đôi chân trần bé nhỏ đưa cô bé đi qua những mảnh vỡ của cánh cửa đã bị đập nát.

Điều khác biệt giữa Frances và James là, dù cô thấy một phiên bản của cùng một bức ảnh ghê rợn mà James đã thấy, nhưng cô còn khá non nớt nên không chịu ảnh hưởng quá mạnh từ ký ức hang động. Dù não con bé sẽ không bao giờ quên, nhưng hình ảnh đó sẽ bị đánh cắp ra khỏi tiềm thức của cô - một nghệ thuật trộm cắp vĩ đại - và xếp gọn vào với mặt sơn dầu quay vào tường hang. Cô đã quyết định rồi, "Để chúng ta có thể tiếp tục hoạt động thì bức tranh này không để ở đâu đó quanh đây." Thế nên, khi Frances nhìn thấy chị cô, khác với cha mình, cô sẽ quên điều vừa thấy gần như ngay lập tức, nhưng cũng y như cha mình, cô sẽ không thể vượt qua được điều này.

 

Điều Frances nhìn thấy là máu. Là những bức ảnh treo trên tường. Là cây kéo. Và là những đứa trẻ đang cọ quậy nhè nhẹ giữa hai chân Kathleen, nơi chúng vừa được xếp vào để tránh bị rơi khỏi giường trong khi chờ linh mục đến. Vậy là bí mật liên quan đến khối u ác tính của Kathleen giờ đã bật mí; và nó được xếp vào loại "Bình thường" trong đầu Frances.

Frances nghĩ ra một cách để mang cả hai đứa trẻ đi cùng lúc: cô trải thân trước chiếc váy ngủ trắng của mình lên giường rồi đặt hai đứa trẻ trơn nhẵn vào đó. Cô xếp chúng lại ngay ngắn, cái váy biến thành một cái bọc thật thoải mái. Con bé ôm cái bọc đựng em bé của mình lên, hành động này khiến cho chiếc quần nhỏ của cô lộ ra, cô bước thật cẩn thận xuống hai dãy cầu thang, đi qua nhà bếp, ra cửa sau, băng qua những ụ than đen ngòm trong sân sau cho đến khi ra đến bờ lạch. Có một thứ rất đáng sợ: tên bù nhìn đứng ở giữa khu vườn phía bên kia sông. Nếu đồ chơi sống dậy vào buổi tối, thì điều gì xảy ra với bù nhìn nhỉ? Frances tránh không nhìn vào hắn. "Hắn chỉ là đồ vật mà thôi." Nhưng cô cũng không muốn làm hắn bực mình đâu. Con bé âu yếm đặt hai đứa trẻ xuống bãi cỏ. Trời đêm nay thật ấm áp và dễ chịu.

Frances tiếc vì đã không nhớ lục cái rương để tìm cái đầm trắng có dây buộc và cái mũ em bé - bộ đồ mà cô, Mercedes và Kathleen đều mặc khi được rửa tội. Quá muộn rồi, không có thời gian đâu, mình phải làm xong trước khi cha về mới được.

Frances đã yêu thương cháu trai và cháu gái mình rồi. Cô sẽ làm bất cứ điều gì có thể để bảo vệ cho linh hồn chúng. Con bé biết rằng nếu không làm thế thì những đứa cháu bé bỏng của cô sẽ phải mang Tội Nguyên Thủy khi lìa đời, và phải đi đến vùng-đất-không-tồn-tại, Vùng quên lãng, và mãi mãi không được biết đến.

Frances chưa bao giờ nhìn cận cảnh một buổi lễ rửa tội, nhưng cô đã nghe tiếng linh mục lầm rầm nói với hai môi gần như dính chặt, và cũng đã thấy linh mục nhúng đầu đứa trẻ vào nước. Linh mục đang cầu nguyện, hẳn rồi, nên Frances cũng phải cầu nguyện. Nhanh lên nào Frances. Con bé làm dấu thánh giá, In nomine padre... Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Cô đưa mắt nhìn hai đứa trẻ nhỏ bé đang nằm đó dưới ánh trăng mờ nhạt; "Ưu tiên phụ nữ." Cô bồng bé gái lên và trượt theo triền sông xuống nước. Cô lội ra giữa dòng, nước sâu ngang hông. Đối với Frances bé nhỏ thì đúng là như vậy. Chiếc đầm ngủ của con bé phồng lên và nổi lềnh bềnh trên mặt nước trước khi thấm nước và chìm xuống quanh chân nó. Con bé dùng ngón tay cái làm dấu thánh giá trên trán cháu gái mình.

Bây giờ đến phần cầu nguyện. Frances thử nói: "Chúa ơi, xin hãy rửa tội cho đứa bé này." Tiếp đó cô đọc bài kinh cầu nguyện trước khi đi ngủ yêu thích của mình, "Hỡi vị Thiên thần của Thiên Chúa, vị thần hộ mệnh đáng kính của con, qua Ngài mà tình yêu của Chúa đến với con nơi đây, xin ở lại bên con hôm nay, để soi sáng và bảo vệ con, để cai quản và dẫn dắt con. Amen." Và giờ là phần nhúng đầu đứa trẻ xuống nước. Frances cẩn trọng đưa đứa bé về phía mặt nước. Đứa trẻ vẫn còn rất trơn, nó tuột khỏi tay Frances và chìm xuống nước. Ôi không. Nhanh lên! Gà mái, gà trống, con gà, con vịt! Frances thụp xuống nước, chộp ngay đứa bé trước khi nó rơi xuống đáy, rồi trồi khỏi mặt nước và ôm chặt nó vào lòng. Không sao rồi. Trái tim bé nhỏ của Frances đập mạnh như một con chim nhỏ đang nằm gọn trong miệng mèo đói, nó thở dốc, đứa bé oe lên khe khẽ và ho nhẹ vài tiếng, tiếng ho nghe mới ngọt ngào làm sao. Không vấn đề gì cả, con bé chỉ uống một ít nước thôi, không sao. Ổn rồi. Frances đung đưa nó nhẹ nhàng và hát một bài cô vừa sáng tác tức thì, "Bé yêu, bé yêu... bé yêu, bé yêu... bé yêu, bé yêu". Xong. Ít nhất thì bây giờ đứa bé đã sạch sẽ và tươm tất.

Frances bò trở lên bờ, đặt bé gái xuống cỏ, hôn đôi tay bé tí của nó rồi quay sang ẵm đứa bé trai. Con bé biết mình phải đặc biệt cẩn thận với trẻ sơ sinh bởi đầu của chúng chưa "khép chặt". Như có một cái rãnh hay gì đó chạy dọc trên đỉnh đầu của chúng. Nó được gọi là "điểm mềm", dù nó giống một đường thẳng hơn. Có thể thấy rõ nó trải dài bên dưới lớp da xanh xao đang bao bọc nó. Frances không nhìn thấy nó trên đầu đứa bé gái bởi tóc nó dày đến kì lạ, nhưng trên cái đầu lưa thưa tóc của bé trai thì nó hiện ra rất rõ: là một đường rãnh không sâu lắm chia đôi đầu đứa bé. Frances xuống nước thêm lần nữa, con bé nhè nhẹ lần tìm đường rãnh màu xanh nhạt trên đầu đứa trẻ sơ sinh. Lỡ có ai đó đến và thọc ngón tay của họ vào đó thì sao đây? Thằng bé sẽ chết mất. Frances rùng mình trước ý nghĩ sẽ có ai đó xuất hiện và làm điều đó. Nếu chính tay cô lần ra phía trước và làm vậy thì chuyện gì xảy ra chứ? Ôi không, nhanh nào, mày phải rửa tội cho em bé trước khi quá trễ. Trước khi cha về, hay trước khi ai đó nhấn tay vào đầu đứa bé.

Frances đã lại đánh rơi đứa trẻ thứ hai. Ôi không. Nhanh lên! Gà mái, gà trống, con gà...

"Con đang làm cái quái gì vậy?"

 Frances ngóc đầu lên, thôi lặn ngụp. Là cha. Ông đang đứng đó, trên con đê, chân dang rộng tạo thành chữ V ngược thật to. Một tay ông đang ẵm đứa bé gái.

"Biến ra khỏi đó ngay, mau lên!"

Cha say rồi, nếu không thì ông đã chẳng chửi rủa trước mặt một đứa trẻ. Ông lần xuống và túm lấy Frances bằng một tay, nhấc bổng cô bé ra khỏi mặt nước với chiếc váy ngủ ướt nhẹp rủ xuống phủ cả ngón chân. Cô giống hệt nàng tiên cá bé nhỏ cuối cùng cũng được mời lên con tàu xinh đẹp Homo Sapiens, đã sẵn sàng mang thử đôi chân mới. Giống hệt, chỉ có những vết máu là khác.

Mặt nước tối đen như mực. James không hề thấy đứa trẻ dưới sông. "Không!" Frances hét lên khi ông đặt cô xuống cỏ. Cô không thể tìm được lời nào để nói. Cô không thể kể với ông, lúc này kể chuyện không phải là một lựa chọn, chuyện này giống như trong mơ vậy, cô quên cả cách nói bằng thứ tiếng Anh phù hợp, "Đứa kia còn ở dưới đó, nó chết đuối mất thôi. Chúng ta phải vớt nó lên!" James tung cô bé về phía trước, rồi giật nó lùi ra sau, cứ theo cách đó mà đi về phía căn nhà. Frances vùng ra rồi quay đầu chạy. Ông lảo đảo rượt theo sau. Cô chạy đến bên sông rồi nhảy lên. Qua đỉnh đê. Nhào xuống nước và ngụp lặn. Cô quờ quạng dưới đáy nước để tìm đứa trẻ, phổi cô đau nhức, ở dưới này cô cũng mù tịt như đứa trẻ mà cô không thể tìm thấy, rồi cô tìm thấy thằng bé. Cô trồi lên, phá vỡ mặt nước lần thứ hai, ngay lúc James lảo đảo chạy đến bờ sông. Cô ôm đứa bé vào ngực; thằng bé ngọ nguậy một cái rồi im hẳn. Cô ngước lên nhìn cha, rồi nhìn đứa bé gái. Cô bắt đầu run
lẩy bẩy.

James thốt lên, hoặc chỉ nghĩ trong đầu, "Lạy Chúa Giê-su, Lạy Chúa Giê-su, Lạy Chúa Giê-su." Ông trượt xuống triền sông, ôm lấy đứa bé và làm hô hấp nhân tạo cho nó. Nhưng vô ích thôi. Thằng bé đã ở dưới nước quá lâu, ít nhất là hai mươi giây. Răng Frances bắt đầu va vào nhau lách cách, và cô bé tự hỏi liệu cây kẹo trắng đen của nó có còn nằm yên dưới đáy nước hay đã bị cuốn trôi ra biển.

 

Bánh Pút-đinh

Cả ngày hôm sau, Frances nằm dài trên giường, run rẩy. Răng đập lạch cạch. Cô không ấm lên được. Hiện đang là tháng sáu, và môi cô bé tái xanh.

Mercedes đắp mấy tấm chăn cho cô và cho cô ăn bánh Pút-đinh giả vờ. Chỉ là "giả vờ" thôi bởi ngoài phạm vi tiểu thuyết thì món bánh ấy không tồn tại, và bởi vì tất cả những gì Frances có thể ăn được trong vài ngày tới là thức ăn giả vờ.

Mẹ đâu rồi? Khi trong nhà đang có một đứa trẻ đang rét run trên một cái giường và một đứa trẻ sơ sinh đang nóng như thiêu đốt trên cái giường khác? Mẹ đang lau dọn dưới lầu. Căn nhà sạch bong không một hạt bụi.

 

Xin Chúa trương xót linh hồn

 

***

Kathleen Cecilia Piper

Từ trần ngày 20 tháng 6 năm 1919

Hưởng dương 19 tuổi

"Chúng ta đã yêu quý cô ấy trong đời.
Hãy đừng bỏ rơi cô ấy cho đến khi những lời cầu nguyện của ta đã đưa cô về đến căn nhà của Chúa."
ST. AMBROSE

Solace Art. Co. - 202 E. 44th St. N.Y.

 

 

Frances ngừng run rẩy vừa kịp để tham dự lễ tang của Kathleen nhưng con bé vẫn chưa ăn nổi bất cứ món ăn thực sự nào. Giờ thì cô đã mất hết ký ức về những việc đã xảy ra cách đây hai đêm. Chúng đã trôi đi theo những cơn run rẩy của cô. Ký ức hang động đã kết hợp đầy sáng tạo với tiềm thức của cô, cả hai sẽ nhanh chóng bao bọc ký ức vào chuỗi xoay vòng của những giấc mơ, những câu chuyện mơ hồ và những bức tranh vẽ bằng ngón tay. Thực tế và sự thật, sự thật và thực tế... "Cái đầm ngủ của em đâu rồi, cái mà có - Em đã làm đổ cái gì đó, em phải giặt nó mới được, có nhớ con cá lần đó em bắt được dưới sông không? - Em đã bắt được, thật đó, ở đó nhiều cá lắm - nó có một đường sọc mỏng màu xanh nhưng em đã thả nó đi, nó chỉ là cá con thôi, nhỏ lắm không ăn được, em thả nó xuống nước, nó bơi đi ngay, nó bơi ra biển lớn...".

Nhưng cái đầm ngủ thì mất lâu rồi - nó đã được dùng để làm vải liệm cho đứa bé trai và được chôn vào lòng đất.

Còn về con cá, mọi người đều biết rằng chưa bao giờ có con cá nào để mà bắt ở dưới sông cả. Thứ duy nhất sẽ được bắt được từ con sông đó là bệnh bại liệt.

Một ngày sau đám tang Kathleen, tức là ngày thứ ba sau khi Kathleen mất, trong cơn chán ăn của mình, Frances bỗng thấy bụng đói đến cồn cào. Cô đi xuống bếp, nơi mẹ cô đang chuẩn bị lau lò nướng, mở cái tủ búp-phê dài và mở nắp lọ bột. Cô chụm hai bàn tay lại để bốc một nắm bột trắng lên, rồi cẩn thận đi qua bếp và lên phòng. Materia quét sạch vết bột trắng mỏng rơi phía sau Frances mà không buồn nói, chẳng muốn nhìn lên, cũng không màng lau tiếp khi vết bột ra khỏi rìa tấm vải lót sàn nhà bếp.

Về đến cái giường quen thuộc của mình và Mercedes, Frances bỏ bột trên tay vào một cái chậu rửa bằng sành trống không được cất trong tủ, rồi cô chế nước trong bình vào chậu và lấy tay trộn đến khi bột trở nên dính và mềm. Bốc bột lên bằng hai tay, cô nằm cuộn tròn trên giường và bắt đầu mút. Ban đầu cô bé mút thật nhanh, tạo ra những âm thanh nho nhỏ, rồi nó mút chậm lại khi cơn thèm ăn đã giảm xuống. Mí mắt cô trĩu nặng và rồi thiếp đi, bột dính đầy trên miệng.

Mercedes vào phòng, mang theo một cái khay chất đầy những món ngon vô hình. Môi Frances thỉnh thoảng vẫn mút nhè nhẹ trong giấc ngủ. Mercedes đặt cái khay xuống, cẩn thận để không làm đổ bình rượu vang đỏ và chế rượu vào cái bánh pút-đinh. Cô cúi xuống gần Frances và rờ trán em, sau đó nhẹ nhàng chùi những vết bột đang dính chặt trên miệng con bé. Cô mang cái khay xuống lầu, lần theo vết bột trắng đến tận cùng của nó ở rìa tấm vải lót sàn bếp, cô ngừng lại. Không phải vì vết bột đó kết thúc mà cô ngừng lại, mà chính bởi điều cô nhìn thấy. Là mẹ. Mercedes đứng như trời trồng, cục bột sống nằm yên trong tay cô như một món lễ vật. Cô đang định nướng bánh cho Frances. Ăn bột sống là điều không tốt, nó làm cho bạn bị nhiễm giun. Mercedes đang định nướng bánh bằng lò nướng. Nhưng mẹ cô đang sử dụng lò rồi. Mercedes đứng đó một lúc lâu, hai tay đầy bột ướt.

 

Không Thấy Ác Quỷ

Vào cái đêm Lily và Ambrose ra đời, Mercedes cũng bị đánh thức bởi những tiếng ồn đã làm Frances thức giấc. Nhưng Mercedes đã ở yên trên giường trong khi Frances leo lên gác xép. Mercedes trùm chăn lên đến cằm và cầu nguyện, dù cô đã quá sợ hãi để quay sang với lấy tràng hạt ở dưới gối. Từ sau đêm đó, Mercedes đã thực sự bắt đầu đeo chuỗi tràng hạt vào người, bởi đôi khi ở ngay dưới gối cũng trở nên quá xa khi bạn cần cầu nguyện. Thế là Mercedes đành cầu nguyện với những hạt nổi đính trên tấm trải giường có viền.

Mercedes chăm chú nhìn vào một hàng hạt trắng nhưng cô gặp khó khăn trong việc cầu nguyện, không phải vì cô đang cầu nguyện với một tấm ga trải giường, mà là vì tên Ác quỷ. Chỉ hắn mới có thể chặn được suy nghĩ của cô bằng hình ảnh một cây gãi lưng bằng gỗ đang đứng tựa vào chiếc gương trên bàn. Bây giờ bạn chẳng thấy gì đâu vì trời quá tối, nhưng đúng là có một cây gãi lưng ở đó đấy. Nó dài, làm bằng gỗ và khắc hình ba con khỉ đang ra hiệu "không thấy ác quỷ, không nghe ác quỷ, không nói với ác quỷ", và ở đầu nó là ba cái chĩa hình móng vuốt dùng để gãi. Nó là món quà vui mà một người bạn của mẹ đã tặng. Nhưng cô bé đã vừa nhận ra đó là một món đồ ma quái, và khi trời sáng cô bé sẽ vứt nó vào sọt rác. À không, vào lò sưởi chứ. Nhưng phải đợi đến sáng mai, khi mặt trời đã lên và những tiếng ồn trên gác mái không còn nữa. Ai đó vừa bắt đầu đập vào bức tường trên lầu. Chắc họ đang treo ảnh.

Mercedes chiến đấu với tên Ác quỷ và giành phần thắng. Cô cố gạt hình ảnh cây gãi lưng ra khỏi đầu mình, xua nó đi với lời cầu nguyện đầu tiên có sức công phá hiệu quả - "Hỡi vị Thiên thần của Thiên Chúa, vị thần hộ mệnh đáng kính của con, qua Ngài mà tình yêu của Chúa đến với con nơi đây, xin ở lại bên con hôm nay, để soi sáng và bảo vệ con, để cai quản và dẫn dắt con. Amen." Nhanh lên, trước khi hình ảnh ma quái đó trở lại, nhanh nào, "Kính mừng Maria đầy ơn phúc đức Chúa trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giê-su con, lòng bà gồm phúc lạ...," và bài kinh cầu nguyện đã được bắt đầu một cách an toàn, bạn có thể đọc đi đọc lại nhiều lần tùy theo ý thích cũng như nhu cầu của bạn, trong khi tay lần theo những hàng hạt trên tấm ga trải giường. Đúng vậy, trong trường hợp khẩn cấp thì có thể cầu nguyện ở bất cứ đâu, miễn là bạn có lòng tin.

Cuối cùng căn nhà cũng trở nên yên tĩnh. Frances đâu rồi nhỉ? Mercedes rón rén bước vào phòng khách. Cô nhìn lên căn gác xép. Một chút ánh sáng hắt ra từ đó, nhưng không có tiếng động nào. Mercedes không có ý định sẽ trèo lên đó. Có lẽ thứ nằm trong đầu cô bảo vệ nó kỹ hơn thứ trong đầu Frances. Có lẽ vậy. Mercedes quay lại và đi về phía giường ngủ của cha mẹ. Trên đường đi cô giẫm phải thứ gì đó dính dính. Cô thầm trách mình đã không mang dép, và thực tế thì cô đã mò đường quay trở về phòng mình, tìm lấy đôi dép cùng cái áo khoác sọc ca-rô xanh để mang vào, buộc sợi dây áo bằng fla-nen lại gọn gàng và vuốt lại tóc trước khi liều mình ra phòng trước lần nữa. Cô bước đến cửa phòng cha mẹ, cửa mở lưng chừng. Cô đứng thật yên và lắng tai nghe. Không có gì cả. Không tiếng thở. Tim nó nhói lên trong chốc lát, không có tiếng thở! Cô ngây ngô sợ rằng cả cha mẹ mình có thể chết ngay trong lúc ngủ. Cô đi nhè nhẹ về phía chiếc giường, tay giơ ra hệt như người mộng du, tai tiếp tục nghe ngóng. Họ có ở đó không nhỉ? Hay chỉ còn xác họ nằm đó? Liệu họ có thức dậy và bực bội với nó không? Nghi ngờ quá nhiều là một cái tội. Nếu bạn có lòng tin ở Chúa, bạn sẽ chẳng đi quanh nhà và hy vọng tìm thấy cha mẹ bạn nằm chết trên giường chẳng vì lý do gì cả. Hãy cầu nguyện một chút nào. "Con xin lỗi Người, hỡi đức Chúa Trời." Giờ thì đưa nhẹ tay xuống giường và - chẳng có gì cả - tấm trải trống không. Nhẹ nhõm làm sao, họ không nằm chết ở đó, họ chỉ không có ở đó thôi. Ôi trời! Họ ở đâu mới được chứ? Giờ là nửa đêm mà, cha mẹ mình ở đâu được chứ? Mẹ đâu rồi? Cha đâu rồi? Ngừng lại, ngươi sẽ làm Chúa tức giận đấy, ngươi đáng phải tìm thấy cha mẹ ngươi chết dưới lầu, bị giết bởi một kẻ lang thang.

Thần kinh của cô bé gần bảy tuổi Mercedes vẫn còn rất yếu, nhưng đêm nay sẽ diễn ra một quá trình mà sau khi kết thúc, thần kinh của con bé sẽ biến thành thần kinh thép. Những sợi dây thần kinh mỏng manh của con bé đang nóng dần lên. Đêm nay là đêm nấu chảy kim loại. Khi thần kinh của cô đã nóng đến sáng lên, chúng sẽ được nhúng vào nước lạnh, như thế chúng sẽ trở nên cứng cáp và vững chắc mãi về sau. Đủ chắc để chống đỡ cho một tòa nhà hoặc một gia đình, đủ vững để bảo vệ ngôi nhà số 191 đường Water khỏi bị sập trong những năm sắp tới. Nó sẽ đứng vững. Nó sẽ đứng vững. Nhưng vào lúc này: Hãy đi xuống lầu...

Cuộc tìm kiếm của Mercedes tiếp diễn theo như vậy. Lắng nghe, lắng nghe, nhìn nhìn, ngó ngó. Con bé không thấy ai ở dưới lầu. Rõ ràng chỉ có mình cô trong nhà mà thôi. Ồ, ngoại trừ Kathleen. Hoặc Kathleen cũng đi mất rồi cũng nên. Có thể mọi người đã đi hết, bỏ cô ở lại. Ngươi có thể lên kiểm tra mà, Mercedes. Lên kiểm tra gác xép đi. Không. "Và thêm nữa," Mercedes trả lời, "Kathleen không còn nói chuyện được nữa, chị ấy cũng chẳng thể nói tôi biết mọi người đã đi đâu." Ngươi chưa xem thử dưới tầng hầm. "Chẳng có gì khác dưới tầng hầm ngoài than và cái lò than đâu."

Phải có tuýp người ít lí trí hơn để thực hiện loại tìm kiếm cho ra thông tin thật - loại tìm kiếm cho ta tìm thấy cái kính đọc sách trong tủ lạnh và thấy cái chìa khóa xe trong tủ thuốc. Nhưng sau đó lại cần tuýp người ít lí trí hơn để đặt mọi thứ nhầm chỗ một cách đẹp mắt. Hoặc để suy đoán, "Hừm, có lẽ mẹ mình đang bị nhốt dưới hầm than, mình sẽ xuống xem sao." Và cần phải có kiểu người không thể cưỡng lại rắc rối để thực sự leo lên những bậc thang dẫn lên gác xép đó sau những tiếng than khóc và xô xát phát ra từ hướng đó. Nhưng Mercedes có thể. Cô bé có thể đứng ngoài rắc rối, đứng ngoài sự tò mò, ai đó phải như thế.

Cô bé quay trở về giường, quấn chăn quanh mình, ngồi trên gối và nhìn qua cửa sổ để ngắm khoảng sân sau tràn ngập ánh trăng. Đức mẹ Đồng trinh ở trong mặt trăng kia. Thứ ánh sáng trắng dịu mát kia chính là tình yêu của Bà. Mọi thứ sẽ ổn thôi. Và Mercedes bỗng thấy thứ gì đó hiện hữu. Là Frances, ở dưới sông. Con bé đang ôm thứ gì đó, nâng niu nó - một cái bọc. Và trên bờ đê có gì đó đang động đậy. Một con vật nhỏ. Một con mèo con. Chắc thứ con bé đang ôm cũng là một con mèo. Frances nhúng cái bọc xuống nước, và lặn xuống theo nó. Nó đang làm gì vậy nhỉ? Không! Không đâu, Frances rất yêu mèo, con bé không nhấn nước chúng đâu. Nó chỉ tắm cho chúng thôi. Đó là điều con bé đang làm. Nó đặt con mèo đó xuống và nhặt con kia lên, nhưng Mercedes không thấy điều xảy ra sau đó bởi cha đã đi vào sân và bước đến bên bờ sông, che mất tầm nhìn của nó. Chao ôi, Frances sẽ lãnh một trận ra trò đây. Dù sao đi nữa thì con bé cũng không nên thức và chơi đùa dưới sông vào giờ này chứ. Mà thật ra là chẳng ai được xuống con sông đó chơi bao giờ cả. Đó đâu phải biển chứ. Mercedes thấy được Frances vùng vẫy và không nghe lời thế nào khi con bé chạy ngược về phía con sông và nhảy xuống. Sao nó lại hư như vậy chứ? Một vài người đã như vậy ngay từ khi sinh ra.

Khi về đến giường, người Frances lạnh như băng. Mercedes vờ như đang say ngủ, và trong giấc ngủ giả vờ của mình, cô nhích dần lại gần con bé và quấn nó vào trong áo choàng ca-rô của mình. Frances không mặc gì cả, điều này cũng thật kì lạ. Nhưng dù Mercedes xích đến gần Frances cỡ nào, con bé vẫn không ngừng run lẩy bẩy.

Mercedes sẽ không bao giờ ngủ vào ban đêm nữa. Từ giờ cô sẽ luôn lắng tai nghe kể cả trong khi ngủ. Ai đó phải làm vậy.

Trời sáng, Mercedes thấy có máu dính trên dép của mình, cô liền rửa sạch đi. Một điều khác nữa trong sáng nay là khi nhìn ra vườn, bạn sẽ không còn nhìn thấy tên bù nhìn ở chỗ hắn hay đứng nữa và thế vào đó là một tảng đá lớn.

 

 

 

 

 

Sự đáng yêu của cái xác

James đứng dưới sông, nước ngập đến gối, anh với lên và đặt đứa trẻ sơ sinh đã chết xuống đất ở bờ kia con sông, sau đó anh cũng lên theo. Frances đang ôm chặt đứa bé gái vào cái đầm ngủ ướt nhẹp và lấm tấm bẩn của mình và dợm bước quay vào nhà.

"Đứng yên đó!"

Frances nhìn cha đi lép nhép trong đôi giày đầy nước đến chỗ người bù nhìn. Ông nắm chân nó và giật lên như nhổ một cái cây nhỏ. Cái đầu nó lúc lắc, sau đó rơi xuống và lăn theo triền dốc rồi rơi tòm xuống nước. Nước sông bắt đầu cuốn trôi nó đi. Frances ngắm cái đầu nổi lềnh bềnh trên nước và nghĩ, " Rồi hắn sẽ tìm thấy cây kẹo trắng đen của mình và ăn nó, sau đó hắn sẽ kể cho ai đó ở một vùng đất xa xôi nào đó chuyện mình đã làm cho xem." Cái đầu trôi xa dần về phía biển và biến mất. Nhưng cái mũ của hắn thì vẫn còn đây. Cái mũ phớt rách bươm.

James xé nát người bù nhìn ra. Bên trong nó là một cây cọc, chắc là cây xanh, vì khi cha nhổ nó ra khỏi mặt đất, bạn có thể thấy là nó đang sống, rễ mọc lưa thưa. Cuối cùng thì một cái cây có thể sẽ mọc lên từ người bù nhìn. Có trái nữa cũng nên. Môt cành cây sẽ đâm thẳng ra từ miệng hắn, và ở đầu cành mọc ra một quả táo đỏ thật to. "Thử tưởng tượng," Frances nghĩ. "Tưởng tượng cảnh một cái cây mọc trong người bạn." Tưởng tượng bạn thấy lá cây ở khắp nơi, nằm ngay dưới da bạn và lớn lên từng ngày, tưởng tượng những cái rễ mỏng manh xoắn lại dưới da bàn chân bạn, những cái đầu rễ trắng bóc luôn tìm chỗ để đâm ra ngoài. Mặt đất là một thỏi nam châm đối với rễ cây.

James quẳng tên bù nhìn qua con sông. Hắn rơi xuống đánh phịch gần chỗ Frances, trên cổ hắn rơm chỉa ra lún phún, hai chân hắn nằm quặt quẹo ở hai bên cây cọc gỗ dính đầy rơm. Frances cảm thấy như tên bù nhìn đang nhìn mình. Hắn không có đầu nhưng cô có thể thấy nét mặt của hắn, đau thương và buồn bã: "Tại sao lại làm vậy với tôi?" Hắn nằm đó như một người lính sắp tử trận muốn gửi cho cô một thông điệp từ cái cổ họng sắp im lặng mãi mãi của mình: vị trí của kẻ thù, một tin nhắn cho người thương nơi quê nhà, một câu chuyện cười, một đoạn thơ, địa chỉ ngôi nhà lưu giữ tuổi thơ trong veo, ký ức về một chàng trai đang uống nước từ dòng suối mùa hè trong một bức tranh hay điều đó có thật, đó có phải là tôi không nhỉ? Frances không trả lời hắn. Cô rời mắt khỏi tên bù nhìn mặc dù biết rằng nếu không nhìn hắn, có thể hắn sẽ di chuyển. Tay cô tê cứng ôm quanh người đứa trẻ lạnh ngắt. Cô dán mắt nhìn cái nón của tên bù nhìn. Cái nón đang nằm gần chỗ cha. Và cha thì đang đào đất trong vườn, bằng tay không.

James ngừng lại. Thật nực cười khi dùng tay không để đào đất ở bất cứ đâu, ngoại trừ trong hộp cát đồ chơi. Đào trong sân sau một căn nhà ở New Waterford lại càng nực cười hơn nữa, bởi vì cách mặt đất chẳng bao xa là than, thậm chí nhiều chỗ than còn vun cả lên trên mặt. Và có cả đá nữa. James đang khóc. Anh lấy tay ôm lấy mặt, bùn, bồ hóng và máu cũng theo đó mà dính khắp mặt anh. Anh chưa bao giờ khóc như thế này trước đây, không tính lúc anh còn bé. Anh đang ở chiến trường. Không phải anh đang hồi tưởng về Mặt trận hay đang nghe tiếng đạn nổ trong đầu, hoặc nhìn thấy những người lính không toàn thây, không rõ rệt như thế. Chỉ là nếu bạn hỏi cái phần hồn đang làm nhiệm vụ giả định trong anh, "Anh đang ở đâu?" nó sẽ đáp rằng, "Chiến trường, đương nhiên rồi." Vì nơi đây đang có một cái rãnh ngập nước. Có một người đàn ông đau khổ tay dính đầy máu. Có xác một đứa bé trai. Chắc chắn đây phải là chiến trường rồi.

"Cha ơi!"

"Không-g-g-g-g-g. Không-g-g-g-g-g-hô-hô-hô". Nghe như tiếng ông già Nô-en, chỉ khác là cha không vui được như ông ấy.

"Cha à, con xin lỗi."

James nhỏ tiếng hơn một tí và đứng lên một lúc lâu, hai chân lảo đảo xiêu vẹo tạo ra những tiếng sột soạt nho nhỏ, tay vẫn ôm mặt.

"Em bé bị lạnh, cha ơi."

James đứng dậy, hổn hển, hơi lảo đảo, một tiếng rên nhỏ phát ra sau mỗi lần anh thở. Nhưng đó chỉ là dư chấn của đau khổ. Giờ thì anh có thể hoạt động trở lại rồi, trái tim anh sẽ đập mạnh như bị nấc cục vậy. Anh nhìn sang Frances. Anh băng qua con sông và giằng lấy đứa trẻ còn sống từ tay nó. Từ khớp khuỷu tay nó mồ hôi vã ra như suối, và tay nó nhẹ bỗng vì không còn bị đè bởi sức nặng của đứa bé, nhưng cảm giác ấm nóng thì vẫn còn đó - những ngày tới nó sẽ luôn ẵm một đứa bé không có thật trên tay mình. James đẩy nhẹ nó về phía ngôi nhà.

"Đi ngủ đi, nhanh lên."

"Đừng làm em bé đau."

"Ta sẽ không làm nó đau đâu, đi đi."

Frances rời đi.

"Đợi đã. Con cởi đầm ra đi."

Nó cởi đầm ra và James cầm lấy nó. Con bé nhìn theo cha quay trở lại khu vườn, nơi ông bọc đứa trẻ vào cái đầm và nhét nó xuống chỗ đất nông.

Frances đi qua sân sau để vào nhà và đã được tận hưởng làn không khí ban đêm mới lạ trên ngực trần của mình, điều mà trước nay chỉ có bọn con trai mới được làm. Trăng sáng làm chiếc quần trong của cô cũng rực sáng và cô tự giả vờ rằng cô thực sự là một thằng con trai cởi đồ để đi bơi ở Lingan. Cô đi qua sân sau và thấy mình nhẹ bổng và tự do, và chỉ khi cởi chiếc quần nhỏ ướt đẫm ra và nằm xích vào Mercedes ấm áp thì cô mới bắt đầu thấy lạnh và run rẩy.

Dưới hầm, Materia gối đầu trên tro và co người ngủ đằng sau lò than. Cô mơ thấy trải dài trước mắt cô là mặt đất yên tĩnh được bao phủ bởi một biển cát khô cằn, rồi sau đó biển cát bỗng trở nên mềm mại. Trong giấc mơ đó cô ý thức được rằng vua và hoàng hậu được chôn dưới cát. Phía xa xa lấp lánh một dòng sông xanh ngắt mênh mông. Dưới đó có thứ gì đó cô cần. Nhưng cát làm cô buồn ngủ quá, buồn ngủ như khi thấy tuyết ở Bắc Cực vậy. Thứ làm cho bạn ngủ say đến chết đi ở Bắc Cực không phải là cái lạnh ghê gớm của nó, mà chính là sắc xanh xao ủ dột của khung cảnh xung quanh. Và dù là ở Ả Rập thì sa mạc cũng có sự xanh xao ủ dột y như vậy. Chính cái trắng toát và tương đồng của mọi thứ làm cho bạn ngủ đến mất cả mạng, bị nung nóng đến chết hay là bị đóng băng đến chết khi đang mê ngủ; và thật thoải mái làm sao khi cuối cùng bạn để yên cho nó đi qua đầu óc bạn, dễ dàng như một cây lăn lăn qua miếng bột vậy.

Chốt cửa căn hầm bật mở đánh ầm, và phần hồn đang lang thang của Materia đột ngột dội ngược trở về, mắt cô mở ra theo tiếng động; cô đã tỉnh giấc. Anh bước lép nhép nặng nề xuống những bậc thang mỏng dựng đứng. Anh suýt ngã ở nhũng bậc thang cuối vì ở đây tối om và anh lại chẳng mang theo đèn lồng. Materia nằm yên bất động. Giờ cô chỉ là một đôi mắt, chỉ vậy thôi. Một sa mạc khô cằn có mắt.

Hoặc James quên khuấy rằng cô đang ở đây, hoặc anh coi chuyện đó không có gì là quan trọng. Anh giật mạnh cánh cửa cái lò than nguội lạnh ra, quẳng vào đó một đống tấm trải dính đầy máu, rồi tẩm dầu hỏa và đốt trụi. Ánh sáng vụt bừng lên qua mặt anh làm Materia giật mình, và mắt cô nhòa lệ, không gì đáng buồn hơn là Ác Quỷ. Nước mắt cô tuôn rơi vì dưới ánh sáng này, dưới ánh lửa cũng như dưới ánh nến, vẻ đẹp thuần khiết của một người hiện ra rất rõ. Ánh nến rất dịu dàng và đầy yêu thương và do đó mà tự nhiên nó được gắn liền với sự lãng mạn. Con người đích thực của James là thứ mà ánh lửa đang soi rọi, cũng là thứ giờ đây đang làm tan nát những gì còn lại trong tim cô, đó chính hình ảnh anh của ngày xưa rất xưa, cái ngày xưa mà chỉ có mỗi hai người họ trong căn nhà gỗ đi săn khi đã sang mùa với món quà anh mang đến là cái mền ca-rô của mẹ anh, với bài hát và niềm hạnh phúc của anh khi được nghe cô hát bằng tiếng mẹ đẻ, anh đã yêu cô, nhưng cô đã không hề biết rằng cô phải cứu lấy anh, cô không hề biết, không hề, hẳn là anh đã bị ngã và giờ chắc chắn là anh đang chịu nhiều đau đớn lắm vì gương mặt anh lấm bẩn, má anh bê bết máu, và từ nãy giờ anh cứ khóc mãi.

Anh tưới thêm một ít dầu vào đống lửa. Materia không thể ở cạnh lò than lâu thêm nữa với sức nóng như thế này. Nếu anh không rời đi sớm e là cô sẽ phải cử động và làm lộ mình ra mất. Nhưng anh đã đóng cái cửa lò bụng phệ lại và ánh sáng vụt tắt, nỗi đau êm đềm của anh biến mất và thay vào đó là hình bóng của gương mặt mà cô vừa biết đến và Materia sững người vì cảm giác tắc nghẹn nơi cổ họng.

Khi anh thở hắt ra và lê chân bước lên cầu thang, Materia quẹt vội nước mắt trên má mình với hai bàn tay bám đầy bụi than. Cô nhấc người lên và lết trên sàn nhà đầy bụi than phía sau đến khi có thể đứng trên nó lần nữa, nhưng vẫn chẳng khác gì một đôi mắt di động.

Trước bình minh, với Mercedes vẫn còn say ngủ bên cạnh, Frances mở mắt và trông thấy một người phụ nữ da màu đang chằm chằm nhìn mình. Bà ta đưa tay vuốt nhẹ trán nó. Bà ta cũng làm thế với Mercedes và bỏ đi. Frances ngủ thiếp trở lại. Kẹo. Nó mơ thấy kẹo.

Ánh trăng soi sáng bầu trời đêm. Hãy nhìn xuống đường Water. Trên bãi đất cô độc giữa nơi những dãy nhà ngừng lại và nơi biển lớn cắn vào đất liền, một cái bóng xuất hiện từ một gốc cây, nó chuyển động và trở nên to dần tại cùng một điểm, giống như cây mọc ra một trái màu đen rũ xuống, sau đó lìa cành. Đó là một dáng người đi ra từ dưới những cành cây và tiến về phía con đường. Nó dừng lại, dạt vào đâu đó giống như một cành cây trên mặt biển. Rồi nó quay ngược lại con đường đó để ra nghĩa địa. Nó đi giữa những tấm bia mộ đã cùng đồng hành với thị trấn này từ lâu, nhưng nó không ngừng lại lâu ở nấm mộ mới nhất. Nó đi tiếp đến vách đá. Tại đó, nó nằm úp xuống, đặt cổ lên trên mép đá, như thể mặt đất là một cái máy chém khổng lồ vậy. Nó nhìn thẳng ra mặt biển trải dài bốn ngàn dặm về hướng đông, và hát.

Đại Tây Dương sẽ dẫn đường cho bài hát đó băng qua sóng nước, cho đến khi đã khát khô và tơi tả, bài hát ra đến eo biển Gibraltar, lấy lại sức đôi chút với món ăn nhẹ là tiếng vọng của chính nó vào ngọn núi thời gian và tiếp tục cuộc hành trình, xoay tròn trên cái trục đã tả tơi của mình suốt trên đường đến Lebanon, nơi mà cuối cùng nó sẽ mất đà và lửng lơ trong không khí trước khi cong người đáp xuống bờ cát phía dưới, và rồi sẽ an nghỉ ở đó đến muôn đời? Điều có có thể xảy ra không nhỉ?

Khi mở cửa sau nhà mình lúc ba giờ sáng, bà Luvovitz giật nảy người. Ai đó đang ở trong vườn nhà bà. Đứng đó theo một góc nghiêng nhẹ, như thể gió đã mang người đó đến và đặt xuống
như vậy.

Bà Luvovitz thức dậy vì nghe thấy gì đó. Một phụ nữ đang hát, hát đủ mọi thứ. Bà không nghe rõ người đó hát gì. Tiếng hát đó không làm Benny thức giấc. Thật khó mà không nghĩ đến "những nữ thần báo tử" - khi thì họ rên rỉ, khi thì khóc than hoặc chỉ khe khẽ hát, nhưng thông điệp họ mang đến thì luôn giống nhau: Có ai đó sẽ ghé qua. Khi bà Luvovitz mở mắt, tiếng hát vừa cũng im bặt. Nhưng bà vẫn nhìn ra cửa sổ trước - không có gì cả. Để chắc chắn, bà đi xuống lầu và mở cửa sau, và tại đó bà đã giật mình - một bóng người đứng trong vườn, quay lưng về phía bà.

Nỗi sợ hãi nhanh chóng chuyển thành sự ngạc nhiên khi bà Luvoviz nhận ra dáng người đó.

"Materia?"

Materia không quay người lại, cũng không hề cử động. Cô đứng như một thân cây trưởng thành được trồng trên đất cạn, nặng đầu, sắp ngã bật rễ đến nơi. Và ngay lúc này thì chỉ một hơi thở của một đứa trẻ sơ sinh thôi cũng đã làm được điều đó.

Bà Luvovitz đi giữa những cây đậu và cà chua đến khi đủ gần để chạm vào bàn tay mát lạnh, mềm và đầy đặn của Materia. Tóc cô để xõa, làm lộ ra những gợn tóc khô cứng màu đen dài chấm vai. Cô đang mặc một trong những chiếc đầm rộng in những bông hoa dại màu nhạt mà bà Luvovitz đã giúp cô may, nó mềm và hợp với tuổi của cô.

Materia quay sang khi bị chạm, và bà Luvovitz thấy phần thân trước của cô. "Gott in Himmel."

Materia đứng trong bồn tắm của bà Luvovitz trong khi bà ấy tắm rửa cho mình. Họ đang ở trong bếp dưới ánh lửa bập bùng. Bụi than và máu làm cho nước đen lại. Chiếc đầm của Materia đang nằm trên sàn, phần thân trước là một cái vảy, nó sẽ bị vứt đi. Bà Luvovitz tắm cho cô thật nhẹ, không chà xát, không có bông tắm, chỉ bằng đôi tay xà phòng của cô, như thể Materia là trẻ sơ sinh vậy. Làn da Materia rất giống sữa, không phải ở màu sắc mà là ở sự mịn màng, ở những đường cong, và cơ bắp rắn chắc bên dưới lớp da mềm mại. Materia không nói một lời. Tất cả những nỗ lực và sự lo lắng về việc phân biệt thứ này với thứ khác không còn nữa, mọi khoảng cách giờ đều bằng nhau - giữa gương mặt của bà Luvovitz và Mũi Hảo Vọng, giữa cơ thể ấm nóng của Materia và những thứ khác trên đời.

Bà Luvovitz đã bảo Benny sang nhà Piper để xem chuyện gì đang diễn ra bên đó. Khi sang đến nơi, ông thấy James đang pha trà trong một chiếc áo sơmi trắng tinh, lúc ba giờ sáng. Căn nhà rất ấm, nóng. Kathleen nằm chết trên lầu dưới một tấm vải lanh mới. Một bé gái mới sinh đang ngủ trong chiếc cũi đặt cạnh lò sưởi.

"Tôi rất tiếc về chuyện nhà anh, James à."

"Cảm ơn ông, Ben. Ông uống gì chứ?"

"Một tách trà."

Buổi sáng, Mercedes thức dậy bên cạnh Frances và nhìn thấy một vết đen trên trán em gái mình. Trông giống như tro từ lò sưởi. Mercedes liếm ngón tay mình và lau sạch nó đi. Frances vẫn còn ngủ. Khi thay đồ, Mercedes phát hiện trên trán mình cũng có vết đen giống như vậy. Cô lau ngay đi. Frances thức giấc.

"Mercedes, đêm qua em mơ thấy người phụ nữ cho em kẹo đã vào phòng mình."

"Người phụ nữ nào?"

"Người phụ nữ da đen. Bà ấy chạm vào em."

Mercedes biết rằng đó chính là Ác Quỷ, và chuỗi hạt đã bảo vệ hai chị em chúng. Tên Ác Quỷ sẽ để lại một vệt than đen trên trán bạn. Giống như hắn bắt chước điều linh mục làm trong Thứ tư lễ tro. Và đó không thể là Đức mẹ Đồng Trinh được. Ai cũng biết Đức mẹ Đồng Trinh thì luôn trắng ngời trong chiếc đầm xanh.

"Đó chỉ là mơ thôi, Frances."

"Bà ta đẹp lắm."

Mercedes thầm cầu nguyện cho em gái mình.

"Bà ấy là bà tiên của em," Frances nói

Mercedes đeo chuỗi hạt quanh cổ Frances và đi xuống lầu để phụ mẹ nấu bữa sáng. Frances cuộn người lại và run rẩy.

Cha đang đợi Mercedes trong bếp. Ông đã nấu cháo yến mạch cho nó. Nó ngồi xuống bàn.

"Chào buổi sáng, thưa cha."

"Ta cần con là một cô gái chững chạc, Mercedes."

Ông nhìn nó. Họ có đôi mắt giống nhau, dù mắt cô màu nâu. Mặt họ làm bằng sa thạch, dù mặt cô có màu ô-liu. Mercedes hiểu rằng điều tệ nhất đang đến và cô mở khăn ăn ra, trải ngay ngắn trên vạt váy. Cô mừng vì đã thắt bím cẩn thận sáng nay.

"Chị Kathleen của con đã rời xa chúng ta."

"Chị ấy đi đến New York sao ạ?"

"Chị ấy về với Chúa rồi."

Một khoảng trống mở ra trong bụng Mercedes. Cô lấp lại bằng cách cầm muỗng lên. "Cảm ơn vì bữa sáng, thưa cha."

"Cha cần con chăm sóc mẹ giúp cha."

"Mẹ ốm ạ?"

"Không. Nhưng mẹ rất mệt mỏi. Mẹ vừa có em bé."

"Ồ." Mercedes nhe răng một cách lễ phép và đồng thời tự tặng cho mình nếp nhăn vĩnh cửu đầu tiên. "Là con trai hay con gái ạ?"

"Thêm một đứa em gái nữa cho con."

"Ồ." Nếp nhăn vĩnh cửu thứ hai.

"Mẹ rất buồn vì mất đi chị Kathleen. Giờ mẹ đã quá mệt nên không thể chăm sóc em bé được."

"Con sẽ chăm sóc em ạ."

"Đúng là con gái ngoan của ta."

"Cha đừng lo ạ."

 

Phiên bản chính thức

Cô đã trải qua những phiên tòa khắc nghiệt nhất với sự bình tĩnh,

kiên cường và nhẫn nhịn, là những bằng chứng tốt nhất cho sự

trong trắng trong cuộc đời cô ấy.

BÀI VĂN BIA, NGHĨA TRANG HALIFAX

 

Materia đã làm điều giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã khuyên làm; người mẹ đã chết. Và James, đương nhiên, đã không có mặt ngay lúc sinh và do đó không ở vào thế có thể hiểu rõ sự nguy hiểm hay có thể can thiệp vào. Cho nên không có cuộc điều tra một cái chết bất thường nào, và bác sĩ khám nghiệm tử thi và dịch vụ tang lễ giữ kín chi tiết câu chuyện trong phạm vi của họ và vợ họ.

Một đứa trẻ đã được sinh ra.

Kathleen nhìn xinh lắm, Chúa ngự tại linh hồn con bé, thật trẻ và có sức sống. Cứ như nó chỉ đang ngủ. Nó được chôn trong chiếc đầm màu trắng, đó đáng ra nên là đầm cưới của nó mới phải. Bệnh cúm, bạn biết đấy, đâu có gia đình nào trên khắp ba châu lục chưa bị bệnh cúm bao giờ. Và bệnh cúm cũng đã không chừa nó ra, cô bé với tài năng thiên phú và cả cuộc đời tươi đẹp phía trước.

Ai cũng biết rằng Kathleen đã có thai và chết vì đứa con trong bụng. Chỉ có đồ ngốc mới không nhận ra điều đó, khi mà cô bé đó vội vã trở về và bị giam hẳn trong nhà. Nhưng điều bạn cần làm trong một trường hợp như thế này là hùa với ý kiến rằng đứa trẻ đó là con đẻ của ông bà ngoại nó. Mọi người đồng ý với chuyện bịa đặt này, và những người hé nửa lời về sự thật cho đứa trẻ thông minh đó biết là những kẻ quá độc ác để gây ra điều đó để rồi họ sẽ dễ dàng bị xua đuổi như những kẻ dối trá. Vì xét về sự thật thì họ chính là những kẻ dối trá. Bởi những người nói dối tốt bụng nói sự thật về đứa trẻ, đó là "con thuộc về cộng đồng này", trong khi những người nói thật độc ác lại dùng sự thật để nói lên một lời nói dối, đó là "con không thuộc về cộng đồng này". Đây là một hệ thống không hoàn hảo, nhưng nó lại rất được yêu thích. Và sau nhiều năm trôi qua, sự thật dần bị mai một theo thời gian, cho đến khi số người không biết chuyện nhiều hơn cả số người biết.

 

Mahmoud than khóc

Mahmouh không bao giờ muốn thấy lại Materia hay chồng bà hay con bà hay bất kỳ dấu tích gì của họ nữa. Mối liên hệ duy nhất ông đã có với nhà Piper mười chín năm qua chính là chuyện làm ăn với James, và cả hai đều đã làm tốt việc đó dù chưa bao giờ gặp mặt nhau, nhưng việc đó giờ cũng xong rồi.

Kathleen là người Mahmoud đã đầu tư vào, và đã lấy làm tự hào, nhưng lẽ ra ông nên biết rằng đưa con bé và tài năng của nó ra thế giới chính xác là một sự bán rẻ. Nó ra đó và thu được thành quả là sự phù phiếm (trong trường hợp của James) và sự ngu dốt (trong trường hợp của Materia) của cha mẹ nó và ôm một nỗi ê chề. Chuyện xảy ra như vậy đấy. Nó đã làm chuyện đó ở đâu, và nó đã để cho ai làm chuyện đó với nó và bao nhiêu lần cơ chứ, mà tên đó là ai, một tên khốn Ăng-lê chó chết không biết tôn trọng con gái người ta, hay tệ hơn, một tên Do Thái, New York đầy rẫy bọn Do Thái mà, hoặc tệ hơn nữa, đó là một tên da màu - cũng ở đầy trong thành phố đó - và một khi đã nằm trong máu bạn thì nó sẽ ở lì trong đó từ thế hệ này đến thế hệ khác đến tận khi bạn ít mong đợi nhất, cha con bé ở đâu khi nó đang bị hủy hoại tại cái thành phố tồi tệ nhất thế giới, nơi mà người ta giao phối với nhau như những con vật lai chứ? Và giờ là một đứa con hoang trong gia đình, thêm một đứa con gái nữa để bắt đầu, thằng con rể của ta thật là một tên khốn kiếp. Tồi tệ ngay từ ban đầu, tồi tệ vào phút chót, ta rửa tay thôi.

Mahmoud giận dữ phát hiện ra mình đang nghẹn ngào trong nước mắt khi nhìn đứa bé gái trắng như hoa huệ tây đang nằm trong quan tài với mái tóc màu đồng xõa dài quanh người. Ông chưa bao giờ ngắm nó gần như bây giờ. Và ông tức giận rằng chúng dám chôn con bé trong màu trắng, chúng đưa nó về với Chúa, người thấy tất cả mọi việc, trong màu trắng! Và có cả đứa con gái ngu dốt của ta ở buổi lễ nữa. Ta lẽ ra nên bẻ hết tay nó từ lúc mới sinh. Lẽ ra ta nên dẹp bỏ cây đàn piano và bắn bỏ tên khốn đó, Piper. Ta đã quá nhân từ, và kết quả là vậy đó.

Mahmoud đưa mắt nhìn Mercedes và Frances ngồi đó sạch sẽ và sáng bóng trên ghế cạnh James, cái tên da trắng như vừa được tẩy xong trong bộ vest đen, "Nếu hắn khôn ngoan, hắn sẽ cho đứa lớn vào tu viện và đẩy đứa nhỏ ra khỏi nhà và gả chồng cho nó trước khi nó có kinh, ta nguyền rủa tất cả bọn chúng sẽ xuống địa ngục hết."

 

Cái ghế bập bênh

James uống ly cuối cùng vào cái đêm diễn ra đám tang Kathleen. Lúc đó đã sau nửa đêm, anh đi vào nhà từ nhà kho, ngồi xuống bên cây đàn piano ở phòng trước và chơi đàn. Đoạn mở đầu của bản Sô-nát ánh trăng và rất nhiều đoạn khác.

Trên lầu, Mercedes thức giấc khi tiếng đàn ngừng lại. Frances không có trên giường. Mercedes ngồi dậy và nhìn ra cửa sổ, hy vọng lại thấy Frances đang ở dưới sông lần nữa, nhưng nó không thấy. Mercedes ra khỏi phòng và ngừng lại ở đầu cầu thang nhìn xuống. Có ánh sáng chiếu ra từ phòng trước. Và thứ gì đó phát ra từ nhà bếp - một mùi hương. Trời đã khuya nhưng mẹ vẫn đang nấu bầu dục để làm pa-tê. Món ưa thích của cha. Mercedes bước xuống một bước. Hai bước. Ba bước. Và ngừng lại lắng nghe... tiếng kêu nho nhỏ giống một con chó con. Mercedes nhớ đến những con mèo ở dưới sông đêm nọ và rùng mình. Cô không thích Frances đi lang thang dưới trời tối. Cô ước gì mọi người đều ở trên giường vào ban đêm. Cô cũng ước được quay trở về cái giường ấm cúng của mình nữa, nhưng giờ cô là chị cả rồi. Mercedes đặt nhẹ tay lên thanh vịn rồi đi về phía ánh sáng đang chiếu rọi ở phía cuối cầu thang. Cô đi qua cổng vòm của căn phòng trước và ngừng lại.

Ổn rồi. Frances vẫn còn sống. Cô bé đang ngồi trong cái ghế bập bênh với cha. Buồn cười là Frances dường như thấy được Mercedes ngay trước cả khi Mercedes bước đến bên cửa. Tiếng chó con phát ra từ phía cha. Ông buồn vì Kathleen đã chết. Lúc này ông cần những đứa con gái nhỏ khác của ông hơn bao giờ hết. Frances đang ngồi yên và ngoan, không hề cựa quậy đòi đổi kiểu ngồi. Mercedes đợi đến khi cái ghế thôi bập bênh và Frances tuột khỏi lòng cha để chạy đến bên cô ở cửa. Khi chúng nắm tay nhau leo lên cầu thang, Frances nói, "Không đau đâu chị." Mercedes nói, "Chị không thích cái mùi khi nấu bầu dục." Và Frances đáp, "Em cũng không."

Về lại giường với Frances cuộn mình nằm bên cạnh, Mercedes bắt đầu cảm thấy sợ. Và cảm thấy nôn nao trong ruột dù cô chẳng hiểu tại sao. Cô bật dậy, chạy đến chậu rửa và nôn thốc nôn tháo. Chắc là mùi nấu bầu dục đó đã làm cô khó chịu trong người, bởi vì tại sao mẹ lại làm pa-tê vào ban đêm chứ? Và có hay không những nơi người ta đặt trẻ em vào những miếng pa-tê rồi ăn chúng nhỉ? Thật tội lỗi khi nghĩ thế về mẹ. Nhưng Mercedes không thể cưỡng lại được. Cô biết là thực sự không thể có một em bé trong miếng pa-tê được, nhưng cô biết chắc rằng những chuyện xấu sẽ xảy ra bất cứ khi nào cô mất dấu Frances.

 

Bí tích thánh thể đầu đời

"Cha ơi, mẹ đâu rồi?"

"Ta muốn con là một cô bé chững chạc, Mercedes."

Điều đầu tiên James làm sau khi đã lôi xác Materia lên phòng ngủ là chạy đi và gọi linh mục đến - không phải cho Materia, quá muộn cho cô ấy rồi - cho đứa bé gái. James đã hiểu ra: có một Đức Chúa Trời. Có một tên Ác Quỷ - sự độc ác cần thiết. Bạn có thể bị nguyền rủa, nhưng ít nhất Chúa Trời có một kế hoạch dành cho bạn.

Phần người khác với phần biết tin tưởng của bạn đang oằn mình dưới sức nặng của tội lỗi không thể cứu vãn và sự vô nghĩa đã từng là ý muốn của bạn; đang ngừng hoạt động; và đó không phải là một sự lựa chọn. Anh có một gia đình với những đứa trẻ mồ côi mẹ đang dựa vào anh.

Anh bảo linh mục đến trước, sau đó anh chạy đi gọi bác sĩ.

Đứa bé gái đang nóng như lửa vì bệnh bại liệt trẻ em. Bất cứ ai cũng có thể bị bệnh này, không cứ gì 6914 phải là một trẻ sơ sinh.

Căn nhà được cách ly. Cũng không có gì khác biệt, không bao giờ có nhiều người ra vô nơi này. Nhưng bây giờ là chính thức. Vị bác sĩ lấy bình sơn đen của mình ra và đóng một dấu X lên cửa trước như ông vẫn hay làm trên rất nhiều cánh cửa khác. Mỗi ngày, người ta nhổ nước bọt lên ngưỡng cửa trước và cửa sau nhà mình, tuyên bố rằng, "Không có dịch bệnh trong nhà tôi!" nhưng bùa đã mất đi công dụng. Bệnh dịch ở khắp mọi nơi.

Giành được sân khấu trung tâm từ các diễn viên bình thường khác như bệnh bạch hầu, lao, ban đỏ, và sốt Rickettsia chính là căn bệnh cúm Tây Ban Nha. Không cứ gì phải là người Tây Ban Nha thì mới bị bệnh này. Năm 1918 và 1919, số người tử vong vì bệnh cúm này nhiều hơn so với trong chiến tranh hàng triệu người. Nhiều người tin rằng bệnh này lây lan từ lũ chuột ăn xác chết dưới mương rãnh.

Nghĩa địa lại mọc lên những cây thánh giá nhỏ màu trắng được khắc hình những con cừu thích được vuốt ve. Trẻ em bị ảnh hưởng rất mạnh. Mercedes vừa học xong lớp một. Cô bé đi đến Trường Đức mẹ Đồng Trinh Núi Carmel và mãi cho đến những kì nghỉ hè, nó phải mang khẩu trang giải phẫu đến lớp như những đứa trẻ khác, để không phát tán vi trùng. "Cô Polly có một con búp bê bị bệnh, bệnh, bệnh, nên cô ấy gọi bác sĩ đến nhanh, nhanh, nhanh." Trên khắp thị trấn, hàng tạp phẩm được đặt ở cuối sân trước cùng với sữa, không ai muốn đến gần ai. Ngay cả bác sĩ và y tá cũng giảm đi như ruồi. Việc phân phối than được giám sát chặt chẽ: nếu một xe than giao đến một đống than mà bạn chưa bao giờ đặt hàng, cẩn thận đó, ai đó sẽ cho cả nhà bạn vào hòm đấy. Nếu một con ngựa đen đột nhiên xuất hiện trước cửa nhà bạn, hãy cầu nguyện đi. Nếu một con ngựa trắng xuất hiện trong đêm, quên nó đi.

Bác sĩ đứng một bên James, nhìn vào cũi. Linh mục đứng phía bên kia. Ông ấy đang mặc lễ phục và tay cầm bình nước thánh và dầu. James không hề biết rằng đứa bé đã được rửa tội. Anh không hề biết rằng đó là điều Frances đã làm lúc ở ngoài sông, anh chỉ biết là con bé rất hư. Về đêm diễn ra đám tang của Kathleen - từ giờ anh sẽ không bao giờ đụng đến một giọt nào của bất cứ thứ gì mạnh hơn nước
trà nữa.

Linh mục sẽ rửa tội cho đứa bé mà không ẵm nó lên bởi vì di chuyển nó tại thời điểm này của căn bệnh sẽ rất nguy hiểm. Ông ta hỏi James, "Ai sẽ là cha đỡ đầu của cháu bé?"

"Là tôi," James nói, vì chẳng còn ai khác ngoài ông bác sĩ trong căn nhà bị cách ly này, và ông ấy là người theo đạo Tin Lành.

Giáo hội La Mã linh thiêng đã chờ đợi James rất lâu rồi. Anh nghĩ đến lễ rửa tội ép buộc của mình nhiều năm về trước khi ông lấy Materia. Anh đã bướng bỉnh đứng đó, đầu ngẩng lên trong khi một linh mục lầm rầm đọc, "Tiếng nói Chúa Trời to lớn. Tiếng nói Chúa Trời là quyền uy. Tiếng nói Chúa Trời làm rạp mọi cây Tuyết tùng của Lebanon...". Anh đã giả vờ chịu đựng điều đó. Nhưng giờ anh biết không hề có tai nạn nào cả, mà đó chỉ là thử thách. Nhà Thờ đầy những kẻ như anh, những người đã nghĩ mình bị nguyền rủa, và rồi họ đã được cứu. Đàn ông vừa là quái vật cũng vừa là người tử vì đạo. Và qua một hành vi cuối cùng - có lẽ xảy ra một cách vô hình từ sâu trong trái tim trong giờ lâm tử - họ đã được cứu. Thậm chí còn được phong thánh.

"Và ai sẽ là mẹ đỡ đầu?" Linh mục hỏi.

James mở cánh cửa đi ra nơi Mercedes đang đợi. Anh gặp nó đang đứng ngay ngưỡng cửa, quay trở lại từ lâu từ cái cũi nóng sôi. Tóc Mercedes được thắt gọn gàng dù không đều lắm, nó vẫn chưa quen tự thắt cho mình. Một cái áo khoác không tay vải bông kẻ màu xanh, đôi vớ màu đỏ vì màu đỏ và màu xanh hợp với nhau.

Linh mục không hề lưỡng lự. Trong con mắt của Giáo hội, một đứa trẻ có thể đứng ra bảo trợ trong trường hợp khẩn cấp, và hơn nữa, em bé này rõ ràng là sắp về với Chúa rồi.

Bố mẹ đỡ đầu phải hứa rằng, nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra với bố mẹ ruột của đứa trẻ, họ sẽ nuôi nấng nó với lòng tin vào Giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã. Đây thường là một lời thề mang tính giả thuyết, nhưng không phải đối với Mercedes vì mẹ đã chết rồi. "Giờ mình là mẹ rồi," cô tự nói với mình. "Và mình vừa xác nhận nên giờ mình đã sẵn sàng rồi." Tháng Năm vừa rồi, Mercedes mặc một chiếc đầm trắng tinh khôi, mang mạng che mặt, để rồi cùng với tất cả những bạn học sạch tinh tươm tất của mình, cô đã bị phạt bởi giám mục. Đã có ba người bạn học của cô chết đi kể từ lúc đó. Dottie Dugan, cô bé ngồi cạnh Mercedes, đã chết. Dottie có thói quen khác biệt là ăn keo dán và ngoáy mũi, nhưng giờ nó đã là thiên thần của Chúa rồi. Mercedes chọn tên thánh cho mình là Thánh Catherine của Siena dù cô rất thích tên Bernadette, nhưng Bernadette chưa phải là Thánh, đến bao giờ đây? Frances bảo Mercedes chọn Veronica làm tên thánh vì chiếc khăn tay ma thuật của Veronica. "Không phải ma thuật, Frances, là kì diệu."

Linh mục cúi xuống cái cũi nơi đứa bé đang nằm trên cái giường than bé xíu và ông ta hỏi nó, "Quo nomine vocaris?"

Đứng tại cửa ra vào, Mercedes và James cùng nói thay em bé, "Lily."

James chưa nghĩ ra tên lót. Không có thời gian. Anh chỉ cầu nguyện rằng đứa bé sẽ có thể lớn lên để dùng cái tên này là tốt lắm rồi.

Linh mục tiếp tục, "Lily, quid petis ab Ecclesia Dei?"

Mercedes và James đáp lại, "Trung thành." Họ được đặc cách trả lời bằng tiếng Anh vì Mercedes còn quá nhỏ để học những tiếng La-tinh đó - dẫu rằng nếu có thời gian thì cô cũng sẽ cố gắng học.

Mercedes rất mong được nhìn mặt em gái mới của mình. Cô nhìn linh mục cuối xuống và thổi nhẹ ba lần vào trong cũi. Ông ta đang thổi đi những linh hồn dơ bẩn để dọn chỗ cho Chúa Thánh Thần. Người an ủi.

"Exocrizote, immunde spiritus... maledicte diabole."

Linh mục ban phúc rất lâu cho Lily và cầu nguyện cho nó. Mercedes và James đọc kinh Tin Kính và kinh Lạy Cha. Và rồi linh mục quay lại với những câu hỏi. "Lily, abrenuntias satanae?"

"Con từ bỏ hắn."

"Et omnibus operibus eius?"

"Con từ bỏ chúng."

Linh mục xức dầu lên đầu Lily khi bố mẹ đỡ đầu của nó làm chứng cho lòng tin của nó đối với Chúa Thánh Thần, Giáo hội Công Giáo La Mã, các Thánh hiệp thông, sự xóa tội, sự hồi sinh của thể xác và sự vĩnh cửu của sự sống. Cuối cùng ông ta rắc nước nước Thánh lên cái trán nóng bừng. Nước lẫn vào dầu và sôi lên trên đó khi linh mục rửa tội cho nó, "in nomine Patris, et Filii, et Spiritus Sancti."

Khi linh mục quay sang Mercedes, cô bé run rẩy trước tầm quan trọng của khoảnh khắc này và đưa cho James bọc vải satanh trắng quý báu mà cô đã ôm chặt trong tay từ đầu đến giờ. Là chiếc áo rửa tội của gia đình, James trao chiếc áo cho linh mục. Vì Lily quá yếu không thể mặc áo được, nên linh mục chỉ đặt hờ chiếc áo lên người nó và nhắc nhở nó nhận tấm áo này và không bao giờ được làm vấy bẩn.

Như vậy, cùng với cha mình, ở tuổi lên bảy, Mercedes chịu trách nhiệm về linh hồn của Lily Piper.

"Con không muốn cha chết đâu," Frances nức nở, da diết vì người cha đáng thương, hai đứa con gái nhỏ của cha bị lạc giữa rừng với lá làm mền và không có gì để ăn. Cô khóc vì những chú chim tội nghiệp, những con sóc buồn bã và vì cha đáng thương không thể cứu con mình. Hôm nay cô ấm hơn mọi ngày.

"Frances, chị sẽ không để em trở thành trẻ mồ côi đâu."

Frances khóc to hơn khiến Mercedes bắt đầu thấy lo.

"Em muốn mẹ về-ề-ề-ề-ề."

Mercedes vuốt bím tóc bù xù và thì thầm, "Không sao đâu, con ngoan, có mẹ đây."

Frances thôi khóc.

"Giờ chị là mẹ của em," Mercedes nói.

Frances nằm yên một lúc lâu, rồi cô nói, "Chị đâu phải."

"Phải, em yêu à."

Frances cuộn tròn như trái banh.

"Mẹ đây," Mercedes thầm thì, "Mẹ đây."

Frances chụm hai đầu gối sát vào nhau. Cô biến chân tay mình thành những cành cây nhỏ cứng cáp. Biến xương sống thành một cành cây dẻo dai và da mình thành một lớp vỏ cây mới. Không được khóc.

Frances không bao giờ khóc đòi mẹ nữa từ sau đêm đó.

"Mẹ ra đi là một điều tốt," Frances thầm nói với chính mình, nghĩ đi nghĩ lại trong đầu những điều khủng khiếp mà cô không tài nào nhớ nổi - kết những sợi chỉ vào với nhau tạo thành một chiếc áo choàng xinh đẹp rực rỡ. "Vì nếu có mẹ ở đây, thể nào mẹ cũng sẽ biết mình đã hư thế nào."

 

Lily, đứa bé đã sống

Buổi sáng sau đám tang của Materia đến trong niềm vui. James nói với Mercedes, "Hãy đến gặp con đỡ đầu của con nào." Frances bước theo. Họ đi vào phòng bệnh, giờ đã rũ bỏ hết mọi thứ chỉ còn lại ánh mặt trời rực rỡ tràn ngập qua cửa sổ rộng mở, cái cũi ngập trong thứ ánh sáng rạng ngời của những bà tiên bụi. Frances và Mercedes đến gần và nhìn qua những thanh chắn. Cha tươi cười. Hai cô bé mong được thấy một phiên bản bụ bẫm và hồng đào của những em bé búp bê của chúng. Nhưng ở đó chỉ có đôi má gầy gò ẩn dưới một mớ tóc đen nhánh trông như một bộ tóc giả đáng sợ. Đôi mắt đen mang đầy sự căng thẳng và âu lo đầy cảnh giác - dường như chúng đã phải thấy rất nhiều rồi.

"Nó bị sao thế ạ?" Frances hỏi.

"Không sao hết, nó hoàn toàn ổn," James đáp.

Con bé giống như một con búp bê mặt đen, Mercedes nghĩ, và Frances nói, "Có điều gì đó không ổn với nó."

Và cô đã nhận một cái nhéo tai vì câu nói đó.

Mercedes nói, "Con bé rất đẹp," và ghi nhớ thật kĩ câu nói đó để còn xưng tội vì nói dối.

James bế đứa bé lên. "Nó sẽ làm nên chuyện đấy."

Frances theo chân cha và đứa bé và Mercedes xuống lầu. Giờ họ sẽ cho nó ăn. Phát ra từ căn bếp là tiếng nhạc ngân vang ngọt ngào. Họ bước vào và thấy một bé gái bằng sứ cao hơn tấc rưỡi đang xoay tròn trên bàn. Nó mang giày bốt cài nút trẻ em và mặc một chiếc đầm lụa xanh lá nhạt bên trên vài lớp đầm lót khác, và che một cái ô màu vàng và trắng bên trên mái tóc vàng óng của mình. Trên đế ghi, Cô gái Nhà Quê. Nó là quà cho Mercedes, "Vì đã là một cô bé trưởng thành."

"Con cảm ơn cha ạ."

Frances thấy vui và hạnh phúc vì trong căn nhà có sự hạnh phúc.

"Nó sẽ là của hai ta, Frances."

"Không, nó là thứ đặc biệt của riêng chị, Mercedes."

Mercedes để Frances ôm búp bê, "Cẩn thận, đừng ôm chặt quá."

Frances rất nâng niu nó, nhưng không thể kiềm nổi mong muốn được biết cái gì tạo ra tiếng nhạc.

Em bé nằm mềm rũ nhưng rất tỉnh táo trong tay Mercedes trong khi James đút sữa cho nó bằng ống nhỏ giọt. Anh nói, "Nó sẽ ổn thôi. Nó là điều kỳ diệu."

Mình đang ẵm một điều kỳ diệu, Mercedes nghĩ.

"Nó có gì đó rất không ổn," Frances nói thầm.

Giờ đến phần của bác sĩ. Ông ta nhìn vào trong cũi, lắc đầu, nhìn James cái nhìn quyền-quyết-định-lúc-này-là-của Chúa, vỗ vai Mercedes và ra về cùng linh mục.

 

Những đứa trẻ trong rừng

"Frances", Mercedes đưa cho nó một ly ca cao và nói, "Mẹ chúng ta đi xa rồi."

"Đi đâu?"

"Về với Chúa."

 

Nghĩa địa vẫn thật đáng sợ dù hôm đó trời nhiều nắng và gió từ biển nhè nhẹ thổi vào. Chúng nhìn quan tài của mẹ được hạ xuống đất. Mỗi đứa ném một ít đất xuống đó. Chúng cảm thấy hơi buồn cười khi làm vậy - việc này không hay cho lắm. Mộ của Kathleen nằm cạnh mộ của mẹ. Kathleen đang nằm dưới đó, Mercedes và Frances nghĩ - dù Mercedes đã cố nhắc mình rằng Kathleen không có dưới đó mà chị ấy đã về với Chúa. Frances thì rất lo cho Kathleen - ở dưới đó tối lắm. Làm sao chị ấy thở được? Chị ấy có sợ những người chết khác không nhỉ? Phần lớn bọn họ giờ đã biến thành những bộ xương rồi. Ở dưới đó có sâu không nhỉ?

Sau đó, họ về nhà và cha lấy trong tủ lạnh ra một miếng pa-tê thịt bò-và-bầu dục rồi cho nó vào lò hâm nóng. Làm sao mà món mẹ nấu lại có thể đang nằm trên bàn trong khi mẹ đã nằm dưới đất kia chứ? James ăn, còn hai đứa trẻ đã không thể ăn miếng nào. Chúng cố nín thở cho đến khi được phép rời khỏi bàn. Frances cố không nhớ đến cảnh mẹ cắt bầu dục sống bằng kéo. Tiếng nhóp nhép.

Vào đêm đám tang mẹ, chúng không ngủ được. Chúng lẻn ra khỏi giường và quỳ ngoài cửa căn phòng đặt chiếc giường cũ của Kathleen, nơi đứa em gái mới của chúng đã nằm. Có thể có bao nhiêu Lily trong một gia đình, Mercedes tự hỏi. Frances lo lắng; những đứa bé tên Lily đều nằm thật yên, sau đó bị bắt đi mất. Cha đặt tên nó là Lily vì chuyện gì đó mình đã gây ra, Frances nghĩ. Làm vậy là để nhắc mình nhớ. Chuyện gì đó. Và chúng cầu nguyện.

"Thiên thần của Thiên Chúa, vị thần hộ mệnh đáng kính của con, xin hãy cứu lấy đứa em gái bé bỏng của chúng con, Amen."

Chúng hát cho đứa bé nghe:

"Bạn ơi! Hãy ra đây và chơi với tôi nào. Và mang theo ba con búp bê của bạn, leo lên cây táo của tôi. Hét vào cái thùng hứng mước mưa của tôi, trượt xuống cánh cửa tầng hầm, và ta sẽ vui chơi cùng nhau mãi mãi..."

Và chúng nói với con bé tất cả những điều hay ho mà chúng sẽ cùng nhau làm khi nó khỏi bệnh.

"Chúng ta sẽ ăn kẹo vào bữa sáng," Frances hứa.

"Chúng ta sẽ vào ca đoàn," Mercedes bảo đảm.

"Chúng ta sẽ mặc đầm dạ hội thật đẹp."

"Chúng ta sẽ nấu những món ngon cho Cha."

"Bọn chị hứa đó, Lily."

"Bọn chị thề đó."

"Với nấm mồ của bọn chị."

"Với xương của bọn chị."

"Với thận của bọn chị." Điều này làm chúng phá lên cười và cha gọi vọng lên bảo chúng đi ngủ ngay, khiến cả hai bắt đầu hát thầm cùng một lúc, "Bác sĩ thở dài và ônxg ta lắc đầu, và ông nói, cô Polly để nó xuống giường ngay!"

Mercedes nhét cho Frances con búp bê yêu thích của cô, một vũ công fla-men-cô xinh đẹp trong chiếc đầm đỏ. Frances làm cho búp bê nhảy trong yên lặng một lúc lâu. Cô cho búp bê về nhà và làm bánh quy mật đường cho con của nó. "Bây giờ ngoan nhé," cô vũ công nói với con mình, "Mẹ sẽ học bài. Và sau đó, nếu mẹ không quá mệt, có thể chúng ta sẽ đi đến Old Country. Theo ý Trời." Một lúc sau Frances nói, "Mercedes?"

"Hả?"

"Nếu cha chết thì sao?"

"Cha sẽ không chết đâu, Frances."

"Tụi mình sẽ là trẻ mồ côi."

"Cha sẽ không chết mà."

 

Nhưng Frances òa khóc mất rồi, gương mặt lấp lánh của cô bé nhăn nhúm lại, nước mắt nóng hổi, hệt như nước nóng từ trong ấm.

"Frances, chị sẽ không để em trở thành trẻ mồ côi đâu."

 

Ta sẽ đưa em về, Kathleen...

Làm tình với người New York là một sự trải nghiệm báo cho Kathleen biết rằng thì hiện tại của cuộc đời cô cuối cùng cũng đã đến rồi. Giờ đang là mùa hè. Với Kathleen, Hiện tại là một đất nước mới, không thể bị tấn công bởi những đất nước cũ vì Những Người Lạc Hậu và Những Người Phá Hoại của nước cũ thậm chí còn chẳng biết đến sự tồn tại của Hiện tại. Nhưng cô có thể bị tấn công. Cô sẽ bị chọc thủng. Kathleen còn quá trẻ để biết điều đó. Ngay lúc này đây, vào mùa hè, cô đang làm tình. Cô chỉ mới được sinh ra.

Tình yêu của em

Em yêu anh

Ôi

Anh yêu

Em yêu anh

Anh yêu, ôi

Ôi.

Đó là một đoạn đối thoại tình đầu. Những cái miệng không thể nào hôn nhau đủ hay tìm được hết những thứ thuộc về người tình để hôn cho đủ. Đại dương vô hình giữ cho căn phòng, cái giường và những người yêu nhau lơ lửng trong lòng nó, và xem họ như những cây thủy sinh, những cánh tay không bao giờ ngừng chuyển động, như những lá dương xỉ trong gió nhẹ hiu hiu, những bàn tay không bao giờ ngừng vung vẫy nhẹ nhàng hết bên này đến bên kia, âu yếm người yêu thương, xin chào... những ngón tay không bao giờ ngừng quạt, như những chiếc tua trong một bó hoa không chịu yên, mọi phần đều đung đưa, khi thật mạnh khi gần như đứng yên. Chỉ một cử động nhỏ cũng đủ kích thích nhu cầu được gần nhau hơn, và đủ để phá vỡ mặt nước, chưa bao giờ trong anh đủ cả, nuốt lấy không khí, chưa bao giờ chứa đựng anh đủ cả, lên đến đất liền, chưa bao giờ ôm lấy anh đủ cả, cái nóng của sa mạc, uống lấy anh, người tình ốc đảo đẹp mờ ảo bên dưới bóng cọ, em sẽ đốt ra thành tro và thổi đi - đến khi đỉnh điểm hạnh phúc đó được phát hiện ra, và một khi đã được phát hiện, cú lăn chầm chậm về phía chân đồi, nước trong xô tràn ra rỉ rả, thấm từng vệt cát dọc trên đường đi cho đến khi lại xuất hiện sự đung đưa, mặt biển, và cái chạm nhẹ làm thức tỉnh đại dương lần nữa.

Em muốn anh

muốn anh làm

muốn anh quá

muốn làm

ôi anh

thật, thật

ngọt ngào

Ôi

Ôi

như mật ong

Em yêu anh

có vị mật ong

tình yêu của em

Mùa thu đó James nhận được một lá thư. Ông đến đó và đưa Kathleen về nhà vào ngày chiến tranh kết thúc.

Băng qua đại dương bao la và dữ dội...

 

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86298


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận