Không Lối Thoát Chương 3


Chương 3
NGƯỜI THỢ GIÀY VÀ NHỮNG ĐỨA CON TINH NGHỊCH

Nấu rượu

Vào ngày cá tháng tư năm 1925 - mặc dù Frances thì chẳng bao giờ cần phải kiếm cớ. Cô bé và Lily đang chơi trên gác xép, xung quanh là một đám búp bê lộn xộn, trong khi đó căn phòng hoàn toàn ngược lại, nó trống trơn, chỉ có mỗi cái rương đựng đồ. Lily sắp sửa được sáu tuổi. Frances mười một tuổi. Cô bé là người giữ trẻ, bạn chơi chung và cũng là người hành hạ tự chỉ định của Lily. Lily không có sự lựa chọn nào khác.

Lily không còn giống cô bé lạ lùng lúc trước nữa, dấu vết duy nhất là sự chăm chú một cách đặc biệt của đôi mắt xanh lá cây cứ như lúc nào cô cũng đang chuẩn bị đón chờ một điều gì đó rất trang trọng. Đó là một đặc điểm mà Frances cực kì thích thú. Mái tóc đen của Lily có một vẻ đẹp lộng lẫy và mặc dù ở thời này các cô bé cậu bé đều cắt tóc kiểu Buster Brown, mái tóc của Lily đã dài quá eo khi thả ra. Làn da cô bé trắng hồng như quả đào pha kem và mật ong, nhìn cô bé cứ như lúc nào cũng bị mặt trời hôn lên má dù là trong mùa đông. Cô bé có đôi môi đỏ như hoa hồng và một cái bướu nhỏ xinh xuất hiện trên trán mỗi khi cô sợ hãi. Frances cứ chọc cô rằng đó là một cái sừng và chẳng mấy chốc nó sẽ mọc xuyên qua da.

Hôm nay Lily mặc đồ như búp bê với một cái váy phồng bằng vải mỏng viền đăng ten dài ngang gối màu xanh lá nhạt, không phải dịp gì đặc biệt, chỉ bởi vì cô bé là cục cưng Lily của chúng ta và cha muốn thấy cô bé xinh đẹp. Hầu hết các cô bé dù lớn hay nhỏ cũng đều đã không còn mặc váy lót và váy phồng từ lâu, phụ nữ thì không còn cần những thứ ngáng chân đó nữa, họ có quá nhiều thứ phải lo từ khi chiến tranh xảy ra. Nhưng Lily thì không có gì phải làm, cô bé chỉ cần sống vui vẻ.

Hôm nay như thường lệ, cô đeo một chiếc vương miện lấp lánh làm từ những bím tóc được Mercedes thắt quá chặt đến mức hai góc mắt của cô bé hơi bị kéo ra. Mercedes chăm sóc cho tóc của Lily, còn Lily thì không muốn ai ngoài Frances thay quần áo hay tắm cho cô bé. Mọi thứ phải theo đúng như vậy. Mặc dù Lily không biết được khi nào thì Frances sẽ làm gì đó hoặc nói gì đó đáng sợ - "Thực sự thì, Lily à, em là con nuôi. Mọi người tìm thấy em trong một đống rác, vỏ khoai tây dính đầy người em".

Frances là một cô bé gầy gò và lúc nào cũng trắng trẻo, chỉ trừ những đốm tàn nhang trên mũi và trừ lúc cô cười lớn hoặc khi cô nghĩ đến một điều gì đó hay ho. Lúc đó những đốm xanh trong đôi mắt màu lục của cô bé sáng lên, mũi của cô hồng lên và những sọc trắng nhỏ xuất hiện trên sống mũi. Lily để ý mũi của Frances như các thủy thủ để ý ánh sáng của ngọn hải đăng. Khi các vạch đó xuất hiện nghĩa là Frances sắp nhảy khỏi boong tàu.

Và mái tóc quăn vàng hoe xinh đẹp của Frances đã trở nên như thế nào? Chúng đã nhường chỗ cho một sự xâm phạm đối với những bụi cây hoang dã. "Quăn tự nhiên" chỉ là một cách nói tránh. Dưới ánh nắng sáng sủa thì rất dễ dàng tìm thấy dấu vết của vầng hào quang màu vàng mà cô vẫn hay đội. Nhưng những lúc khác thì nó bị xóa đi bởi một đám tóc lộn xộn rối tung màu nâu đồng gỉ sét. Frances cũng tết tóc mình thành bím như Mercedes và Lily mặc dù các bím tóc của cô cứ lỉa chỉa những lọn tóc bay nhảy lung tung và đến cuối ngày thì chúng sẽ xù lên tự do. Cô bé tự cắt tóc mái cho mình.

Mercedes đã không còn quan tâm đến búp bê nữa, nhưng Lily thì vẫn phát cuồng lên vì chúng và Frances cũng vậy. Cô bé vẫn còn giữ lại tất cả búp bê mà cô có từ nhỏ đến giờ. Khi mấy con búp bê không ngủ trên giường thì chúng sẽ ở trên gác xép. Vào lúc này thì chúng đang được xếp ngay ngắn thành hàng, dựa lưng vào chiếc hộp đựng đồ: này là Maurice, con khỉ đang chơi đàn; này là Scarlet Fever, cô bé búp bê có cái đầu bằng sứ; này là Diptheria Rose, cái váy nhung của nó đã được Frances cắt ngắn lên một cách thời trang; này là hai anh em thủy thủ sinh đôi, Typhoid và TB Ahpy; và cậu bé búp bê nhỏ nhắn, Small Pox. Còn có một cô búp bê xinh xắn mặc chiếc váy dạ hội tên Cholera La France nữa, nhưng nó đã thất lạc ở đâu đó. Kiêu hãnh nhất trong bọn là một nhạc công flamencô với cây đàn castanet, Cúm Tây Ban Nha.

Lily rất cẩn thận với mấy con búp bê của Frances nhưng món đồ chơi mà cô yêu thích nhất chính là con búp bê của riêng cô: Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi. Bà Luvovitz đã làm cho cô bé và Lily đặt tên nó theo tên loại nước hoa mà Frances thích nhất. Nó có một nhúm tóc nâu làm bằng len dày, rất tuyệt để thắt bím chỉ trừ cái chỗ đã bị Frances xén đi một chút. Hôm nay Lily lấy Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi ra và giật đứt cái miệng của nó ra mà không biết tại sao mình lại làm vậy. Ngay sau đó cô bé liền cảm thấy vô cùng hối hận, nhưng có thể làm gì được nữa bây giờ?

"Em phá hư nó rồi", Frances nhìn và nói.

"Không, em không có."

"Chắc chắn là em phá hư nó rồi, đây này, đưa chị xem."

"Chị định làm gì nó?"

"Chị sẽ sửa nó."

"Đừng có làm hư đấy!"

"Nó đã hư rồi còn gì!"

Lily đưa con búp bê tơi tả cho Frances.

"Thôi được rồi, Lily, chúng ta hãy giả vờ như nó bị phong cùi nhé."

"Không!"

"...nhưng sau đó nó đã gặp được Chúa Giêsu và Người đã chữa lành cho nó."

 

Frances lấy cây bút máy từ trong túi áo choàng của cô. Lily ngồi nhìn và chuẩn bị tư thế xông vào chụp lấy con búp bê để giải cứu cho nó nếu cần. Frances nhẹ nhàng giữ con búp bê ngoài tầm với của Lily, nhưng vẫn giúp cô bé yên tâm bằng cách nghiêng con búp bê để Lily có thể nhìn thấy được sự phục hồi nụ cười cho Tả-Tơi. Frances vừa hát vừa làm "Cô Polly có một con búp bê bị ốm, cô gọi bác sĩ nhanh chóng đến. Vị bác sĩ thở dài và lắc đầu, ông ấy nói với cô Polly rằng nó đã chết."

Lily tru tréo lên "Frances, đó không phải là lời của bài hát!"

Frances trả con búp bê lại, "Này."

"Sao chị lại vẽ miệng của nó màu xanh?"

"Nó ở trong nước quá lâu nên môi nó chuyển sang màu xanh."

"Nhưng còn lúc nó ấm lên thì sao?"

"Không đâu."

"Frances!"

"Chị không giúp được đâu Lily", Frances lý luận. "Chính em là người đã làm hư hết nửa cái mặt của nó. Chị sửa nó lại, chỉ vậy thôi, nhìn nó sẽ rất kì cục nếu không có miệng. Thật là một con bé không biết ơn gì cả!"

Lily nhìn chằm chằm vào Tả-Tơi.

"Cám ơn chị, Frances."

"May cho em là nó không chết đuối đấy!"

Lily tìm thấy một góc trong lòng mình nơi mà cô bé cảm thấy Tả-Tơi bây giờ thân thương hơn bao giờ hết. Frances nhìn cô bé vuốt ve thứ đồ chơi rách nát tả tơi và luồn ngón tay mình vào mớ tóc lưa thưa.

"Lily...", Frances nói bằng một giọng điệu thân thiện dụ dỗ, "Em biết sao không? Cha về lại lều rồi đấy, có một cái máy chưng cất rượu nữa, ông ấy là một người buôn rượu lậu."

"Không phải, ông là một thợ đóng giày mà,"

"Chứ em nghĩ tại sao ông ấy lại gọi chúng là giày uýt-ki? Tại vì cha vừa làm giày vừa làm rượu đấy!"

"Frances!"

"Còn chị là một đứa nghiện rượu. Từ lúc sáu tuổi chị đã nghiện rồi. Đừng nói với Mercedes nhé, chị đã lấy trộm chai rượu vào cái ngày em được sinh ra và từ lúc đó chị luôn bí mật say xỉn. Lúc này chị đang say này."

Lily không hề thích những lúc mắt Frances lấp lánh ánh sáng màu xanh lá. Đó là dấu hiệu đầu tiên, điều đó có nghĩa là Frances sắp sửa nói với cô điều gì đó.

"Không, Frances, chị không say, em không ngửi thấy mùi rượu mà."

"Nó tinh khiết đến mức nó không có mùi luôn đấy", Frances luôn biết cách nói vừa thản nhiên vừa nghiêm trọng, nói ra sự thật rất trần trụi, cứ như một ông bác sĩ vậy. "Tôi nghĩ là cái đầu sắp rụng ra rồi, bà Jones!"

"Cha sẽ không để chị như vậy đâu, Frances."

"Cha đưa cho chị đấy, chị là người thử rượu mà."

"Em sẽ tự đi hỏi cha, điều đó không đúng mà, Frances."

"Lily à, nếu em mà hỏi cha thì ông sẽ buồn lắm đấy. Ông làm rượu chỉ vì muốn chúng ta có một cuộc sống đầy đủ, còn chị thì phải giúp ông. Việc chị bị nghiện thật tệ nhưng đó là sự hy sinh của chị cho em và Mercedes. Nếu chúng ta không đủ tiền gọi bác sĩ thì sao? Họ sẽ chặt chân của em đi đấy."

Lily bắt đầu khóc.

"Frances, em không muốn chị nghiện rượu."

Nước mắt Lily cứ tuôn ra còn cổ họng cô bé thì nghẹn lại vì sợ, "Em sẽ nói cha không đưa rượu cho chị nữa."

"Đừng khóc Lily, không sao mà, chị không quan tâm đâu, chị luôn biết là mình sẽ chết sớm mà."

"Khôngggg!" Lily che mặt lại và nước mắt chảy ra qua các kẽ tay. Frances chầm chậm đưa tay ôm lấy Lily và nhẹ nhàng đong đưa cô bé trong khi cô bé vẫn khóc.

"Cha không phải là người xấu đâu Lily, ông thương chúng ta nhiều lắm."

Frances nhắm mắt và cảm thấy khó chịu khi cô cảm nhận được nỗi đau của Lily, nó lan ra như thuốc trong lồng ngực hẹp của Frances. Cô đang cảm nhận một khoảnh khắc bình yên quý giá. Lily thương mến. Frances hít thở sâu và khuôn mặt cô tự điều chỉnh cho tới khi nó láng mịn lại như làn da con gái xuân thì.

"Frances, Lily... các em đâu rồi?"

Mercedes không thích lớn tiếng, những điều đáng nói cần phải được nói một cách có văn hóa. Điều này có nghĩa là cô đã trèo lên rất nhiều bậc thang rồi.

Những bím tóc màu nâu sáng của Mercedes được búi gọn lại một cách đoan trang đằng sau cổ. Cô đeo một món trang sức bằng đá sát vào cổ áo dựng đứng, chiếc váy bằng vải séc dài hơn đầu gối đúng một tấc. Phong cách lúc nào cũng giản dị và thùy mị. Mercedes là một cô gái mảnh khảnh và luôn cảm thấy ngại về cái vóc dáng của mình. Mercedes hai mươi tuổi và cô cũng sẽ phải chuẩn bị cho ngày bước sang tuổi bốn mươi.

Tầng hai cũng không có dấu vết của mấy cô bé, trong khi đó thì món bầu dục đang nguội dần trong chảo dưới bếp. Đầy chất sắt và tiết kiệm, ăn nhiều bầu dục thì bạn sẽ không bao giờ bị bệnh. Ông Luvovitz đã nói vậy và hẳn là ông phải chắc chắn về điều đó. Mấy ngày này hầu hết việc mua sắm tạp phẩm là do Mercedes làm. Mỗi ngày thứ sáu, cha sẽ tin tưởng giao cho cô toàn bộ tiền sắm sửa trong nhà và sáng thứ bảy cô sẽ dạo một vòng. Gần đây thì cô cũng bắt đầu lo hết việc nấu nướng. Sau bữa ăn, cô và Frances sẽ rửa dọn và Mercedes sẽ đi làm bài tập và làm bài tập cho Frances - mặc dù cô tự nói với mình rằng cô chỉ đang giúp đỡ Frances thì nó vẫn là một kiểu gian lận. Còn Frances làm gì? Cô bé chơi với Lily hoặc lượn lờ quanh cây đàn piano. Cha dạy cho Mercedes chơi đàn cho tới tận lớp bảy theo tiêu chuẩn của Nhạc viện Toronto, nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ việc đó với Frances. Frances thích học chơi bằng tai nhưng chỉ mỗi khi cha đi ra ngoài


làm việc.

Mercedes liếc nhìn vào phòng ngủ của Frances và Lily, chúng cũng không có ở đây. Mercedes luôn luôn khó chịu mỗi khi trễ bữa tối và nó cứ thường xuyên như vậy mặc dù không phải do lỗi của cô. Cô thở dài và mong cho mau hết ngày, lúc tất cả việc lặt vặt đã xong và cô đã có thể ngồi yên với mấy cuốn sách. Mấy ngày nay cô lại đang chìm đắm trong quyển Jane Eyre lần thứ hai. Hôm nay là thứ năm, chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày thứ bảy tuyệt vời , sau khi làm xong tất cả những việc mua sắm, rửa dọn và ủi quần áo thì như thường lệ, Mercedes sẽ đến nhà Helen Fyre, bạn thân của cô - đúng ra là bạn thân nhất sau Frances. Helen Fyre sống trong một căn nhà của công ty vì bố cô là một thợ mỏ, nhưng nhà Fyre không nghèo như những gia đình thợ mỏ khác vì Helen rất hiếm có, cô bé là con một, tất cả những người khác đều đã mất. Do vậy nên Helen có phòng riêng và quần áo đẹp riêng của mình. Có thể thứ bảy này Helen và Mercedes sẽ đi chụp hình ở Bijou hoặc là làm vài kế hoạch chung: họ có một cái mền bông đang làm dở dang và vài bộ quần áo trẻ em cho các con tương lai của họ. Và cũng có thể như họ vẫn muốn làm gần đây, họ sẽ nói chuyện về tình yêu. Helen đang yêu Douglas Fairbanks. Mercedes cũng đang yêu, nhưng cô thậm chí còn không thể tự mình nói ra cái tên thiêng liêng của anh.

Cánh cửa ở cầu thang dẫn lên gác xép khép hờ, Mercedes đứng ở chân cầu thang và cảm thấy hơi khó chịu. Có gì hấp dẫn vậy chứ? Tại sao chúng lại chơi trên đó? Chỉ có một thứ, trên đó không có gì ngoài cái rương đựng đồ và chỉ cô có chìa khóa, và một chuyện khác nữa là Frances đã có vẻ hơi lớn để chơi như vậy. Frances có thể chơi với các bạn cùng lứa, Mercedes đưa tay bắc loa miệng và kêu lớn vào khoảng tối của cầu thang.

"Frances, Lily, ăn tối nào!"

Không có tiếng trả lời. Sau đó là một tiếng rên rỉ và tiếng rít lên như gió, chỉ trừ việc rõ ràng đó không phải là tiếng gió.

"Frances, không vớ vẩn nữa, bữa tối nguội hết rồi" - cô đã bắt đầu cho phép mình nổi giận.

"Mercedes... trả bầu dục lại cho ta!"

"Làm ơn đi, Frances."

"Mercedes, ta đang ở bậc đầu tiên đây". Có tiếng bước chân nặng như chì.

"Bữa tối nguội hết rồi đấy!"

"Mercedes, ta đang ở bậc thứ hai". Có tiếng lách cách.

"Được thôi, cứ chết đói đi nhé!"

Có tiếng thì thầm "Mercedes, ê!"

"Áaaaa!"

Tại sao? Tại sao lúc nào nó cũng có tác dụng?

Frances hiện ra ở hành lang và nhảy một điệu nhảy sôi động của vùng cao nguyên, cái lắc bằng sắt ở chân trái của cô bé đong đưa như một cây sồi.

"Frances, cha đang ở ngay dưới cầu thang đấy... Frances!"

Frances tiếp tục nhảy, chân đá cao vào bức tranh Offenbach, hát bằng giọng Xcốtlen "Bạn có thể nhảy điệu cancan không, bạn có thể nhảy điệu cancan không nào"... và hát càng lúc càng nhanh "Bạn có thể nhảy điệu cancan không..."

Lily bị ngã ở chân cầu thang dẫn lên gác xép và cười rúc rích, cố gắng không tè trong quần, còn Mercedes thì đã bắt đầu chịu thua.

"Cái gì náo động trên đó vậy?" Đó là cha, ông đang bước lên bậc đầu tiên.

Mercedes nhảy đến bên lan can và nói vọng xuống "Không có gì đâu cha, tụi con xuống liền đây". Cô nhanh chóng đi xuống và đẩy ông đi "Bữa tối đã sẵn sàng đợi cha rồi đấy" trong khi Frances tháo cái dây da ở lắc chân của mình ra và trả lại cho Lily.

Họ cầu nguyện quanh bàn ăn trong bếp "Lạy Chúa, chúng con chúc tụng, tạ ơn Chúa là Ðấng Nhân lành giàu lòng xót thương. Xin Chúa chúc lành cho chúng con và cho của ăn chúng con sắp dùng, do lòng rộng rãi Chúa ban, nhờ ơn Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen." Frances thêm vào "Nếu trời phù hộ".

James nhìn con bé và khẽ lắc đầu, Lily mỉm cười đằng sau chiếc khăn ăn còn Mercedes thì dọn bàn.

"Ừm, da và hành", Frances nói.

Một cái bông tai do cha cho, cô bé đã tìm được nó. Tất cả hãy cứ lờ cô bé đi.

"Mấy củ cà rốt này là ở vườn nhà mình đấy cha", Mercedes nói.

James đã bỏ hoang khu vườn, nhưng Mercedes đã phục hồi nó lại vào năm ngoái bởi vì cô biết rằng có một lúc nào đó nó đã quan trọng với ông đến mức nào. Trước khi tất cả những chuyện buồn xảy ra. Cô rất tự hào về những củ cà rốt gầy gò và những củ khoai tây hình thù kì cục từ khu vườn của mình, cô luôn tuyên bố rằng cả gia đình đang được nuôi dưỡng bằng chính sự dồi dào trong khu vườn của mình. James gật đầu và nở một nụ cười nhạt nhẽo xa cách với cô rồi lại tiếp tục ăn. Tuy nhiên Frances đang gặp một chút khó khăn.

Ăn, nhai nhai nhai, hãy ăn nó cho sự trong sạch của những linh hồn tội nghiệp. Frances luôn gặp rắc rối với việc ăn hết toàn bộ thức ăn dành cho một bữa ăn - hay là mình lén cắt nhỏ bầu dục thành từng miếng và bỏ vào túi nhỉ - mình biết rồi, tối nay lúc mọi người đi ngủ hết mình sẽ lén dán một cái phong bì lớn vào dưới ghế của mình, thế là từ nay về sau...

"Ăn đi!", James nói.

Trán của Lily nhăn lại và mắt đã bắt đầu ngấn nước nhưng cô bé vẫn can đảm ăn tiếp

"Thôi được rồi, con không cần phải ăn hết đâu", James nói.

Lily nhìn sang Mercedes vì không muốn làm chị mình buồn "Không sao mà, nó ngon lắm, cám ơn chị Mercedes!"

James nở một nụ cười đồng lõa kiểu người lớn với Mercedes, cô bé cười lại rồi dọn đĩa của Lily đi và nói bằng giọng trìu mến "Lily, em thích ăn phô mai nướng không?"

"Dạ có thưa chị Mercedes!"

"Ngoan lắm", James nói.

"Còn em thì muốn ăn thịt thăn", Frances nói.

James ném cho con bé một cái nhìn - nó sẽ cảm nhận được bàn tay của anh ngay lập tức.

Anh quay sang Lily và giật một bím tóc của cô bé. Thật là giống mẹ nó quá, cái miệng xinh xắn, cái mũi hoàn hảo, đôi mắt... thật là giống Kahtleen, cứ như một thảm họa. Nhưng điều đó lại làm cho con bé trở nên quý giá hơn với ta, theo một cách đúng đắn.

Lily không biết mình giống ai, cô bé chỉ biết rằng mình có một người chị gái đã mất và ngay sau đó thì mẹ qua đời vì bị đau tim và cha rất thương chúng.

James gõ nhẹ vào đầu Lily và cô bé dùng má của mình nũng nịu vào tay ông. Bàn tay biến thành một con nhện và cù vào dưới tai cô bé, cô bé lăn lộn, cười ré lên và hôn ông một cái để ông dừng lại. Lily cảm thấy Mercedes không hài lòng, có thể nghĩ là do chị ấy đã quá lớn cho những trò chơi như vậy, nhưng Lily không thể tưởng tượng ra lúc cô lớn đến mức không được đùa giỡn với cha nữa, cô bé không muốn lớn đến mức đó.

Nhìn chung thì James đang hài lòng với cuộc sống của mình, và theo một cách nào đó thì anh đang rất vui vẻ. Mercedes là trụ cột gia đình. Còn Lily là một thứ quý giá. Chúng đã bù cho Frances. "Ở trường hôm nay thế nào?", anh hỏi cô bé.

"Tuyệt lắm, tụi con đã được xem rất nhiều hóa thạch và dành cả buổi để đọc quyển Jane Eyre". Thực sự là vậy, Frances có xem các hóa thạch, cô bé đã dành cả ngày để lang thang ngoài bãi biển, đọc sách và nhảy nhót trên các hòn đá.

James nhìn cô bé và trong một khoảnh khắc cô có cảm giác như mình đang bị kim châm, nhưng vẫn ráng cắn một miếng bầu dục nữa. Mercedes đứng đợi bên bếp. Cô sẽ mắng Frances sau vì cái tội dám mượn sách của cô mà không xin phép. Còn bây giờ thì cô đang nhìn cha, ông sẽ bỏ qua việc này chứ? James mở miệng ra nhưng Mercedes đã líu lo "Cha sẽ không đoán nổi chuyện gì đã xảy ra hôm nay đâu", cô đặt miếng phô mai nướng trước mặt Lily và quay lại ghế của mình. "Con ếch cưng của Ronan Chism nhảy ra khỏi túi quần cậu ta!"

"Chuyện gì xảy ra vậy?", Lily hỏi và dỏng tai lên.

"Con ếch lang thang chạy đi đâu đó không ai tìm thấy cho tới khi xơ Saint Agnes nhảy lên khỏi ghế của mình và con vật bé nhỏ nhảy ra từ viền áo của bà, cả lớp phấn khích tột độ còn xơ Saint Agnes vô cùng khiếp đảm."

James cười một cách lịch sự, Frances thì ngáp rõ kêu.

James lại tập trung vào đĩa của mình và Mercedes đã có thể thở lại. Cô nghĩ về tình yêu thương mà cha dành cho Lily và sự giận dữ ông dành cho Frances, cô cầm nĩa lên và cảm thấy cô đơn.

Đêm hôm đó, Mercedes bò vào căn phòng mà Frances và Lily ngủ chung và trèo lên giường nằm cạnh em gái mình "Frances, em còn thức không?"

"Không, em đang nói mớ."

"Ngày mai em phải đi học đi!"

"Ôi cha ơi, lúc đó thật là vui, con ếch thật là xấc láo, con nghĩ là nó nhảy ra từ vết rách bẩn thỉu trên người xơ Saint Agnarse."

"Frances!"

"Chị đang cười kìa."

"Chị không có", Mercedes dúi mặt vào gối cười khẽ một lúc. Sau đó cô lấy lại sự tập trung, quệt nước mắt đi và "Frances?"

"Gì cơ?"

"Hứa với chị là mai em đi học nhé?"

"Để làm gì?"

"Xơ Saint Eustace sẽ kêu giám thị trốn học đi theo giám sát em và ông ta sẽ nói với cha đấy!"

"Thì sao nào, chắc chúng ta sẽ được vui vẻ một chút đấy."

"Frances, làm ơn đi mà!"

"Được rồi được rồi", Frances lăn qua và giả vờ ngáy.

"Frances, tối nay chị ngủ ở đây được không?"

"Không quan tâm!"

"Cám ơn". Mercedes rúc vào và nhét hai bàn chân lúc nào cũng lạnh như đá của Frances vào giữa chân mình.

"Aa’di aa’e’ley, Habibti"

"Đừng lo, Mercedes"

"Te’berini."

"Ừ ừ."

"Chúc ngủ ngon Frances, yêu em!"

"Đồ cà chớn này!"

Mercedes cười khúc khích và ngủ thiếp đi.

 

Rượu của quỷ

James đang lách Luật cấm dùng rượu mạnh của Nova Scotia một cách rất tốt và anh thậm chí còn làm tốt hơn đối với Luật điều chỉnh số 18 trong Hiến pháp Mỹ, hay còn gọi là Luật cấm. Frances không biết chắc chắn nhưng cô bé nghi ngờ như vậy. Trong sân trường Đức mẹ núi Carmel, hai anh em cùng tên Cornelius để phòng trường hợp có một đứa chết đang phao ầm cái tin này lên. "Ông già mày chỉ là một người buôn rượu lậu thôi!", Frances trả đũa "Vậy sao? Vậy thì ông già mày là đồ chó!". Chúng đuổi theo nhưng Frances đã chạy m 10000 t và không ai có thể đuổi kịp khi cô bé chạy.

Frances đã học được rằng con trai và những người đánh cá có vốn từ vựng phong phú hơn là con gái và các nữ tu - mặc dù không phải lúc nào cô cũng chắc chắn về nghĩa của những từ đáng sợ mà cô hay dùng. Cô biết rằng cô sẽ không tìm thấy từ "người làm rượu lậu" trong từ điển, cũng như cô không thể thỏa mãn với việc tìm mãi không ra nghĩa của từ "Chó chết!", do đó Frances tìm đến hỏi ông MacIsaac. Khuôn mặt đỏ của ông nặn ra một nụ cười, ông cười khò khè như một cây đàn bị hỏng và nói cho cô bé biết nghĩa của từ đó là gì rồi nhanh chóng thêm vào "Nhưng mà cha con không phải một người làm rượu lậu đâu con gái à, con lấy cái ý tưởng đó ở đâu ra vậy?"

Frances nghĩ rằng ông MacIsaac chỉ nói tốt vậy thôi, còn không thì có lẽ là do ông ấy ngốc. Nếu không thì sao ông ấy lại không đế ý rằng cứ mỗi khi đi ngang qua hũ kẹo quế và kẹo dẻo thì mấy ngón tay của Frances lại bị dính. Frances cho Mercedes tham gia vào cái lý thuyết về công việc của cha nhưng Mercedes chỉ nói "Vớ vẩn!"

James là một người làm rượu lậu. Mỗi khi anh làm việc, anh làm vào buổi tối. Anh rời khỏi nhà vào khoảng mười một giờ và khóa cửa nhốt mấy cô bé trong nhà. Anh thắp một ngọn đèn trong lán, nơi mà những cái máy cắt và dập của anh đang nằm phủ bụi và cũng rời khỏi lán, khóa cửa lại và lái xe đi, mặc kệ ngọn đèn cứ cháy cả đêm để người ta có thể nhìn thấy từ ngoài cửa sổ.

Anh đi thẳng đến cửa của một dòng suối và thấy những đàn cá dây gương đang tụ tập dưới những con tàu đang thả neo ở "Khu vực ngoài vùng cấm rượu". Những con tàu này đang trên đường đi từ Đế quốc Anh của vùng đất mới - nơi mà rượu được coi là hợp pháp, đến những nơi ở các bờ biển xa như thành phố New York. Anh khiêng hết thùng này đến thùng khác, hết hộp này đến hộp khác ngược lên trung lưu của con suối và giấu vào một nơi bí mật. Đêm hôm sau anh quay trở lại, chất đầy xe của mình và mang chúng từ nơi che giấu đến những cơ sở bí mật của anh ở trong rừng. Tuy nhiên anh đã bắt đầu cảm thấy quá già cho những công việc khuân vác và đi vận chuyển này và đang nghĩ đến việc thuê vài chàng trai trẻ và nhà nghèo. Những ngày này thì cả hai loại người trên đang đầy rẫy.

Các cuộc đình công liên tục diễn ra hết lần này đến lần khác, 1922, 1923, và chỉ vừa mới tháng 3 năm 1925 vừa rồi những người thợ mỏ lại nổi dậy một lần nữa. Điều này gợi cho James nhớ đến những ngày tồi tệ khi xưa của New Waterford trước chiến tranh. Bên ngoài Cape Breton, những người tuổi đôi mươi đang gào thét, nhưng các cuộc bùng nổ nổi tiếng thời hậu chiến sẽ không bao giờ đến được đây, ít nhất là đối với người bình thường. Mọi thứ còn đi từ tệ đến tồi tệ hơn. Các chính trị gia và những người đứng đầu các ngành công nghiệp đổ tội cho các cơ chế bí ẩn mang tên "Nền kinh tế thế giới". Nhưng ngay đến James cũng nhận ra rằng đây chỉ là một từ ẩn dụ cho "Những thằng khốn nạn đã vét sạch mọi thứ ra khỏi đây và không trả lại bất kì thứ gì". Rất nhiều con cái của những người thợ mỏ phải đi bộ chân trần đến trường và ăn bánh mì nướng với mỡ lợn để có chất dinh dưỡng - chuyện này xảy ra trong lúc tuyển dụng đang dư thừa. Vẫn chưa ai biết nhưng những chuyện xảy ra ở Cape Breton chính là một buổi diễn thử của "Đại
suy thoái".

Không có gì bất ngờ khi việc làm rượu lậu xảy ra. Ai có thể đổ tội cho một người chỉ vì người đó muốn kiếm thêm một ít thu nhập? Hay vì người đó đang ấp ủ một ít niềm an ủi để chia sẻ với bạn bè và gia đình quanh cây đàn violon? Và đó chính là những việc mà hầu hết mọi người đều làm. Việc người dân địa phương bán những thứ ở nhà làm với giá cao hơn chi phí là một điều bất thường. Và nó cũng bất thường nếu người ta không có một cái két sắt ở đâu đó trong nhà, nếu đến mức không có nổi một cái bình trên bếp. Chuyện kể rằng cha Nicholson mở cửa nhà mục sư núi Carmel và gặp một người lạ hỏi rằng "Tôi có thể uống một chút ở đâu thưa Cha?". Và Cha xứ đáp lại "Con trai à, con đã đến nơi duy nhất trong thị trấn mà con không thể tìm được rượu, mặc dù ta không chắc lắm nhưng có thể Cha phó cũng đang bán đấy". Một số người làm rượu nghiêm túc lại là những chàng trai tốt - man rợ nhưng không xấu, và dĩ nhiên là không keo kiệt hay thù vặt. Ngay cả lực lượng cảnh sát hoàng gia cũng thích thú với cuộc chơi này, mặc kệ họ bị lừa bao nhiêu lần, và sự tôn trọng lẫn nhau nảy sinh. Một vài lần thắng, một vài lần thua.

Một cách tự nhiên, "Hội phụ nữ Thiên Chúa giáo không bán rượu" được hình thành nhưng họ lại là một nhóm người theo đạo Tin lành và New Waterford lại là một thị trấn theo Thiên Chúa giáo. Ngay cả ở Sydney, nơi có nhiều người Tin lành bài rượu hơn nữa thì các khách sạn vẫn phục vụ rượu mạnh với một lời đe dọa ở hiện tại và sau đó sẽ bị phạt tượng trưng vì vi phạm lần đầu. Lần vi phạm thứ hai thì sẽ bị hạn chế, tuy nhiên những người chủ luôn biết cách làm cho mình ít nổi tiếng đến mức lần vi phạm thứ hai mươi của họ cũng chỉ được ghi nhận là "vi phạm lần hai".

Làm rượu lậu không có gì là xấu hổ, cả cái cách người ta đang làm cũng vậy. Còn James lại là một chuyên gia. Ở lều của mình giữa một chỗ trống trải bí mật trong rừng, anh nếm thử rượu ê-cốt và gin thật, rượu rum thật và nấu tất cả chúng theo công thức pha chế lên men của riêng anh, chúng sôi sùng sục cả ngày lẫn đêm. Sau đó anh dán những cái nhãn của rượu thật lên và kiếm được khá là bộn tiền. Cũng may là anh không có bạn bè gì nên không ba hoa với ai. Nếu không thì người này đồn cho người khác và chẳng mấy chốc bọn cảnh sát hoàng gia sẽ đổ xô đến và hống hách hỏi mua rượu cho dịp Giáng sinh và năm mới, ăn mừng cũng là một nghĩa vụ và sau đó là thiêu trụi tất cả mà không hề có chút cảm giác khổ sở nào.

Đúng như cái kiểu chuyên nghiệp của mình, James chỉ bán cho những người có khả năng trả tiền cao nhất: vài người giàu có uống rượu ở nhà và có thể sắp xếp giảm bớt chi tiêu cho những thứ thường ngày như cam thảo, men rượu và nước.

Anh cũng bán cho các khách sạn và những người bán lẻ rượu lậu, vào tay họ thì rượu sẽ bị pha loãng thêm một lần nữa. Anh không bán cho những người thợ mỏ nữa vì anh đã quá mệt mỏi với việc đi đòi nợ. James đọc thấy trên báo có nói đến vài vụ bạo lực đáng chú ý xảy ra ở Liên bang, nơi những băng đảng đánh nhau giành quyền kiểm soát lãnh thổ và có rất nhiều người bị bắn chết vì không trả được nợ. Nhưng theo kinh nghiệm của James thì tất cả những gì cần làm là hù dọa nói cho vợ của lũ khốn đó biết, James đã phát ốm với việc nghe bọn họ kể khổ. Nếu bọn trẻ nhà họ khổ sở như vậy thì lẽ ra họ không nên chi tiền cho cái thứ "thuốc độc" của anh, và họ cũng chẳng cần tìm kiếm đâu xa mà chỉ cần nhìn vào ví dụ điển hình là James: anh không bao giờ đụng đến một giọt rượu. Điều này giúp James khỏe mạnh nhưng nó cũng làm anh bị ghét. Vì sao? Vì anh không chết dần mòn đi vì những ngụm rượu như họ, bởi vì anh có quyết tâm và ý chí chăm sóc gia đình mình.

Công việc của James không chỉ giúp bữa cơm trong nhà có thịt trong khi những người khác may mắn lắm mới có được bữa cháo yến mạch, giúp các con anh có quần áo đàng hoàng để mặc trong khi những người khác có thể phải cắt may quần áo từ những cái túi đựng bột mà còn cho anh thời gian ở bên cạnh thứ mà anh quan tâm
nhất Lily.

James đã không còn đếm sách nữa, chúng đã quá nhiều. Mercedes và Frances say mê đắm chìm trong mấy thùng sách và anh rất khuyến khích chúng, nhưng về phần mình thì anh chỉ còn đủ thời gian để lướt qua tờ báo trước bữa ăn và toàn bộ thời gian trong ngày được dùng để dạy dỗ Lily.

Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ thì họ sẽ học một từ mới trong quyển Bách khoa toàn thư nước Anh, James chỉ định những đoạn văn cho Lily học thuộc và đặt câu hỏi để kiểm tra mức độ hiểu của cô bé. Cô bé viết những đoạn văn ngắn về bướm, toa xe, Bungari và súng trường. Lily yêu thích học hỏi, nhưng hơn hết là cô bé rất yêu cha. Sau những giờ học trong sách, James sẽ lái xe đưa Lily đi chơi. Đôi khi họ đi chơi cả đêm, ví dụ như lần họ đến St Ann’s và đi xem nhà của Angus McAskill, người khổng lồ vùng Cape Breton. Lily thấy bức tranh một người đàn ông to lớn đang đặt Tom tí hon trong lòng bàn tay mình. Cô bé rất thích thú khi thấy những mối thâm tình giữa người khổng lồ và người tí hon - thật may là họ có nhau.

James đã có giấy phép để không cho Lily đi học, vì cô bé bị tật. Và dĩ nhiên là cô rất mỏng manh, mọi người đều cho là vậy, trừ Frances. James hoàn toàn không ủng hộ sự thân thiết giữa Frances và Lily nhưng anh không thể từ chối Lily bất cứ điều gì. Anh chỉ cố gắng theo sát chúng. Trong đầu anh lúc nào cũng còn những hình ảnh con lạch vào cái đêm Lily được sinh ra và anh bắt gặp Frances đang cố dìm chết con bé. Chỉ có James mới biết Lily phải biết ơn ai vì cái chân bị tật của mình bởi vì Frances còn quá nhỏ nên không thể nhớ được. Cũng như nó còn quá nhỏ để nhớ đứa bé thứ hai...

Vào mỗi khi bình minh, James vẫn thường xuyên ghé vào nghĩa trang để thăm Kathleen trên đường trở về từ chỗ làm việc. Anh không để lại hoa, để làm gì chứ? Anh có thể nhổ những đám cỏ đang che khuất tên cô. Phiến đá khắc tên được tôn cao lên và không vướng bận những thứ tình cảm vớ vẩn, nó chỉ ghi đơn giản là "Con gái yêu thương". James không chăm sóc cho phần mộ của Materia vì có ai đó đã làm thay. "Những tiếng gọi của yêu thương từ thế giới này". Ai đó lúc nào cũng để hoa lại mà anh không biết là ai. James đứng im như tượng, nhìn ra biển và thấy thế giới đã trở nên thật là nhỏ bé. Châu Âu đang ở ngay trước mặt anh, nhà ở ngay phía sau anh, còn ở dưới chân...

Vào giờ này lúc nào cũng có sương mù kéo dài khoảng một dặm. James là một người theo Thiên Chúa giáo nhưng anh không tin vào kiếp sau, dù sao thì cũng không phải là dành cho anh. Dù vậy, đôi khi nhìn màn sương trên mặt nước, anh lại cảm thấy dễ chịu.

 

Những người phụ nữ bé bỏng

Mercedes đang yêu, cậu ta cao - ít ra là cô bé nghĩ vậy - và đậm người, và dĩ nhiên là đẹp trai, không cần phải bàn cãi. Đôi mắt cậu như đốt cháy tâm hồn cô và có vẻ như chúng đang nói rằng, cậu rất cần, thực sự rất cần một người phụ nữ tốt để yêu thương và thuần hóa cậu. Cậu luôn có một cái khăn xếp. Thường thì cậu sẽ được tìm thấy trong cái lều kẻ sọc xa xỉ của mình hay bắt gặp lang thang trên những bãi cát trên lưng con ngựa chiến Ả Rập màu trắng. Cậu ta là Rudolph Valentino. Mercedes không biết mình nên ghét Pola Negri bằng cả trái tim hay nên cầu nguyện cho cô vì cô đã tin tưởng vào tình yêu đích thực của Mercedes. Cô cầu nguyện cho Valentino hằng đêm. Cô chưa bao giờ nghe thấy giọng cậu ấy nhưng đôi khi cô lại tự liên kết hình ảnh im lặng của cậu với cái giọng trầm tuyệt vời của Tita Ruffo, cô có tất cả đĩa nhạc của anh ta.

"Rudy có thể có một cái giọng nói kinh khủng như bị nghẹt mũi và còn bị ngọng nữa", Frances nói một cách không thương tiếc. "Có thể anh ta còn là một người tí hon ngoài đời thực nữa". Nói gì thì nói, sao Frances lại có thể đoán ra được bí mật của cô chứ? Mercedes đã rất cẩn thận để không phản bội lại trái tim của cô bé, nhưng Frances thực sự rất kì cục; quấn một cái khăn uống trà quanh mặt như mạng che mặt, nháy mắt và hạ giọng nói theo cái kiểu như một người nước ngoài "Một ngày nào đó chị sẽ dùng bàn tay mạnh khỏe đó để đánh em, và em sẽ rất thích khi biết cảm giác đó nó như thế nào..."

Mercedes chỉ nói với Helen Frye, người cũng đang chìm đắm trong tình yêu với Douglas Fairbanks. Mercedes chiều theo tình cảm học trò của Helen nhưng cô không thể đồng cảm với nó, Fairbanks có vẻ khá thiển cận và tự mãn. Không may là Valentino thì lại có vẻ nóng tính và nghèo túng. Helen đã từng nói cậu ấy lỗ mãng - gần như là tình bạn đã sắp kết thúc. Nhưng họ làm hòa ngày hôm sau và lại thay nhau kể về cuộc sống hôn nhân tương lai của mình với những người tình của mỗi người.

Cứ mỗi lần Mercedes có một khoảng thời gian thoải mái riêng với Helen thì cô lại cảm thấy có một chút tội lỗi. Nó làm cô cảm thấy đau khi thấy dường như Frances không có người bạn nào. Trừ khi bạn có thể gọi những thằng đểu cáng ở trường là "bạn". Frances cứ lỉnh đi với chúng vào những bụi cây trong giờ ra chơi. Mercedes biết rằng có thể chúng đang hút thuốc, khạc nhổ và chửi thề, điều đó thật tệ. Và sau đó thì ai biết được Frances làm gì khi cô bé hoàn toàn biến mất khỏi trường học? Mercedes đã làm hết sức nhưng thực sự rất khó để có thể giữ Frances không gây rắc rối. Ví dụ như Frances luôn có ấn phẩm mới nhất của tờ báo lá cải khủng khiếp "Những chuyện lạ" của H.P. Lovecraft. Cha không cho phép những thứ rác rưởi trong nhà và Mercedes thường xuyên phải giấu những thứ hàng lậu của Frances dưới gối của mình hoặc làm cái việc yêu thích của cô là ném chúng vào lò sưởi.

Khi Mercedes cảm thấy những sự nhức nhối trong lương tâm của một người chị, cô rủ Frances đi chơi chung với cô và Helen. Helen luôn mím môi một cách khó chịu khi thấy Frances và Mercedes không thể trách cô được. Lần cuối cùng họ đi chơi ba người là lúc đi xem Douglas Fairbanks trong vở "Tên trộm thành Bát-đa" ở Bijou. Frances đã kích động một cách tồi tệ và bắt đầu lớn tiếng nhại lại lời thoại ngay từ lúc họ còn chưa lên sân khấu, nhưng tệ nhất là cô bé đã chọc tức Helen bằng câu nói "Rồi, xem nhé, giờ là phần mà anh ta bị ném đi rồi anh ta trốn thoát khỏi cung điện và chị có thể nhìn thấy ‘thằng nhỏ’ của anh ta lòi ra khỏi quần."

Frances là một người hâm mộ phim hành động nhưng cô có nhiều thần tượng khác nhau. Lilian Gish. Lilian Gish. Lilian Gish. Mái tóc của cô ấy thật tuyệt, đôi mắt cô ấy thật hoàn hảo, cái miệng nhỏ xinh của cô ấy thật hoàn hảo. Cô ấy thật nhỏ bé và thật dũng cảm. Cô ấy có thể bị bẻ cong nhưng sẽ không bao giờ gãy. Đàn ông chỉ là những tên vô lại, nếu không thì họ chỉ là những tên vụng về vô tích sự hay là những chàng hoàng tử hào hiệp nhưng lại xuất hiện quá trễ. Khi Frances chơi khúc côn cầu thì có thể tìm thấy cô bé ở bãi biển, cũng có thể là đang nói chuyện với những người nuôi tôm hoặc nếu có đủ tiền thì cô sẽ ngồi vắt chân lên cái ghế trước mặt mình trong bóng tối ngây ngất ở rạp Empire hoặc Bijou và bàn luận về vở kịch mới xem.

Vì không có tiền riêng nên Frances thường xuyên xin xỏ Mercedes vài đồng trong tiền chi tiêu cho gia đình và sau đó là ăn cắp vặt khoảng một nửa số đó khi Mercedes không chú ý. Nếu Frances đưa Lily đi cùng vào ngày thứ bảy thì Lily phải tự chi trả vì sự cho phép đó. Nếu không thì Frances sẽ tự cứu lấy mình bằng cách lấy từ số tiền giấu riêng của Lily mà cô bé cất ngay trên nóc tủ quần áo xài chung của họ. Frances chỉ lấy đủ xài - "Không bao nhiêu"- và cô biết rằng Lilian Gish cũng sẽ làm vậy. Họ có quá nhiều điểm chung: bị ép buộc sống trong cảnh nghèo hèn, phải hạ mình sử dụng những trò mưu mẹo và liều mạng đáng xấu hổ chỉ để tồn tại, và cả hai đều biết thế nào là sống "ở miền Viễn đông".

Về phần mình thì Lily luôn bị thu hút bởi Mary Pickford, lúc nào cô bé cũng khóc suốt vở "Pollyanna". Frances cố gắng mở rộng tầm mắt cho Lily: "Coi nào Lily, em không thấy là nếu cô ấy bị què thì cô ấy rất đáng chán sao?"

"Không."

"Tại vì em cũng là một người đáng chán"

"Em không phải!"

Họ sẽ vừa đi về nhà trên đường Plummer và chia nhau một tách Havelock Iron Brew còn sôi xèo xèo mà Lily đã hào phóng mua.

"Cũng giống như trong ‘Katy đã làm gì’ vậy, cô ấy là một tên khủng bố thần thánh và cho tới lúc cô ấy bị gãy lưng thì cô ấy trở thành một con bé yếu đuối y như em!"

"Em không phải con bé yếu đuối, Frances!"

"Thật sao, chứng minh xem nào!"

Sau đó Lily sẽ làm một trò gì đó chọc cho Frances cười, cô giữ đầu của Lily dưới tay mình và nhìn cô bé đong đưa cho tới lúc mệt lả. "Lily, nói ‘khốn nạn’ đi!"

Lily chần chừ, Frances chế nhạo "Thấy chưa, chị nói rồi mà,
con bé..."

"Khốn nạn!"

Frances nhìn quanh "Suỵt, đừng nói lớn quá, Lily!"

Lily thì thầm "Khốn nạn!"

"Nói ‘Đồ ngu’ đi!"

"Đồ ngu!"

"Nói ‘Lily Piper là một đứa ngu’ đi!"

"Frances Piper là một đứa ngu ngốc!"

"Lily", Frances dừng trò chơi của mình lại, "Lần này em làm tổn thương chị thật đấy."

Mắt Lily ngấn nước, "Em xin lỗi, Frances!"

Frances cười điệu và nói "Yếu đuối!"

Nếu Frances có thể chịu được sự hâm mộ điên cuồng của Lily đối với cục cưng của nước Mỹ thì cô lại không có chút kiên nhẫn nào với The Sheik bởi vì từ khi Mercedes đem lòng yêu Valentino thì cô chẳng còn gì vui nữa cả. Cô không chơi chung nữa mà chỉ lòng vòng trong nhà và nấu nướng và cư xử cứ như cô vừa làm mất trái dưa leo trong tài sản quý giá nhất của một người phụ nữ, hoặc say sưa với niềm đam mê riêng của cô: cây gia phả - một cái biểu đồ khô khan ghi đầy tên của những người Xcốtlen đã chết. Frances biết rằng Mercedes đã bắt đầu có kinh nguyệt và có thể đây là một cách giải thích. Bà Luvovitz ghé qua nhà vào một buổi chiều tháng một và ở trong phòng tắm với Mercedes cả tiếng đồng hồ. Sau đó thì Mercedes xuất hiện với một nụ cười cực kì tươi tắn trên mặt bởi vì bà Luvovitz đã nói với cô một tin tốt lành rằng cô đã chính thức là một phụ nữ. Mercedes cười điệu đà, "Frances à, điều tuyệt vời này cũng sẽ sớm xảy đến với em thôi!"

Trong những ngày xưa tươi đẹp thì cả ba chị em thường cùng chơi với nhau. Lily là búp bê của họ và họ có thể làm bất cứ gì với cô bé cho tới khi cô bé bắt đầu hét lên. Sau đó họ sẽ để cô cùng tham gia vào trò chơi. Chơi với cô bé rất tuyệt vì cô rất nhanh chóng nắm bắt mọi thứ.

"Chơi trò những người phụ nữ bé bỏng nhé?"

"Được thôi Mercedes!"

"Lily, em đóng vai Beth nhé? Các chị sẽ nói với em các chị yêu em nhiều thế nào và em sẽ tha thứ cho các chị vì đã chọc ghẹo em và sau đó thì em chết, vậy nhé?"

"Được rồi, Frances".

Mercedes sẽ là người chị gái Meg giống y như mẹ và Frances sẽ là cô nàng Jo ngổ ngáo cắt tóc ngắn nhưng cuối cùng cũng kết hôn, còn Lily sẽ là cô Beth mỏng manh, tốt bụng và cuối cùng sẽ chết. 

Mặc dù những người phụ nữ bé bỏng trong truyện theo đạo Tin lành, "Cứ coi như họ là những người theo Thiên Chúa giáo đi nhé", và Mercedes và Frances sẽ làm lễ xức dầu cho Beth trên chiếc giường mà cô chết và đặt một di vật lên cái trán đang nóng như lửa của cô, hãy gọi nó là một mảnh vải liệm của Turin đi nhé? Không, hãy gọi nó là cái lưỡi của thánh Saint Anthony.

"Tạm biệt các chị em gái thương yêu, ta sẽ cầu nguyện cho các chị. Cám ơn vì đã luôn là các chị em tốt và vì món bánh quế, cám ơn Jo vì đã cho em chơi với con búp bê Tây Ban Nha của chị và Meg vì đã là một đầu bếp giỏi. Vĩnh ...biệt....". Mắt Lily sẽ nhắm nghiền lại y như thật và sau đó cô bé sẽ nằm im ru, không thở nữa. Lần nào Mercedes cũng khóc, mấy ngày đầu tiên thì Frances cũng vậy, nhưng dần về sau thì cô bé sẽ phá hỏng nó đi bằng cách nói "Giờ chúng ta đi chôm tiền và chia quần áo của cô ấy đi!"

Khoảng một năm trước khi Mercedes không chơi chung nữa, trò chơi càng lúc càng sâu sắc. Nó tối tăm hơn, thời gian như căng ra và họ như đi vào một thế giới khác. Họ chơi trò "Những người phụ nữ bé bỏng ở chỗ cây thánh giá". Lily vẫn thường đóng vai Beth thì giờ là Veronica đang lau mặt cho Giêsu bằng một cái khăn và cái cảnh người vùi mặt vào trong khăn cứ như một món quà đền đáp lại sự tử tế của cô. Mercedes từng là Meg thì giờ là Simon vùng Cyrene đã giúp Giêsu vác cây thánh giá và Frances đã từng muốn làm Jo thì giờ muốn đóng vai Giêsu nhưng Mercedes nói rằng đó là một sự báng bổ do đó Frances phải làm "Tên trộm tốt" treo bên cạnh Giêsu. Vậy đấy, Frances phải làm một "Tên trộm tốt".

Họ giảm xuống một bậc và bỏ "Những người phụ nữ bé bỏng" dang dở để đến thế giới của "Kho báu từ các vị thánh và liệt sĩ của bọn trẻ". Chúng đã trải qua một loạt các nguyên tắc. Chúng luôn bắt đầu với thánh Lawrence, người đã bị nướng sống trên cây xiên và nửa chừng sẽ nói "Các người có thể lật ta lại rồi đấy, phía bên này chín rồi" và người trở thành vị thánh phù hộ của những người phải nướng thịt kiếm sống. Đến đoạn cuối lúc nào bọn trẻ cũng cười lăn lộn, ngay cả Mercedes cũng vậy. Cả ba đều cảm thấy nóng và mệt, nhưng càng tiếp tục thì trò chơi càng nghiêm túc và tôn kính hơn và bọn trẻ cũng đạt được những ngưỡng tình cảm ngoan đạo cao hơn.

Mỗi cô bé có những nhân vật yêu thích của riêng mình. Có lúc thì Frances đóng vai thánh Barbara, cô có một người cha tà đạo và khi cô muốn theo Thiên Chúa giáo thì ông đã lôi cô lên đỉnh núi và chặt đầu cô trong khi cô đang cầu nguyện cho ông. Lúc khác thì cô bé là thánh Winnifried, cô từng quen biết một người đàn ông muốn làm chuyện sai trái với cô nhưng cô từ chối và hắn chặt đầu cô; tuy vậy người chú của cô đã đặt nó vào lại chỗ cũ và cô chỉ bị một vết sẹo trắng nhỏ. Hoặc đôi khi cô bé đóng vai thánh Dymphna, cha của cô muốn làm điều sai trái với cô nhưng cô không muốn và đã bỏ trốn với người pha trò trong nhà thờ; cha của cô đã tìm ra cô ở Bỉ và chặt đầu cô nhưng vì cô không có một người chú tốt bụng nên cô đã chết và trở thành vị thánh phù hộ cho những người điên.

Nhân vật yêu thích của Mercedes là Bernadette.

"Như vậy không được, Mercedes", Frances nói, "Bernadette thậm chí còn chưa phải là thánh nữa mà". Đúng vậy, Bernadette chỉ mới được tuyên phúc nhưng bởi vì Mercedes lớn tuổi nhất, chúng chơi trò chơi và Bernadette là một cô con gái ngoan bị bệnh hen suyễn và đã được gặp Đức mẹ trong hang động của Người ở Lourdes, nơi mà Đức mẹ đã tiết lộ cho cô ba bí mật.

Lily thì chỉ muốn làm thánh Veronica để lau mặt cho Giêsu và sau nhiều lần chơi thì nó trở nên chán phèo và Frances cùng Mercedes sẽ thuyết phục cô bé chọn một vai khác.

"Sao em không làm vị thánh nhỏ bị chặt chân tay nhưng sau đó lại có chân tay mới bằng bạc?"

"Lily à, sao em không làm thánh Giles, vị thánh phù hộ cho những người tàn tật?"

"Lily này, em có muốn đóng vai thánh Gemma không, người bị bệnh gai cột sống nhưng đã được Đức mẹ chữa lành ấy?"

"Không", Lily nói, "Em muốn làm Veronica"

Thôi được rồi, được rồi, nếu không để cô bé làm vậy thì cô sẽ hét lên và cha sẽ chạy đến ngay, lúc đó sẽ biết chuyện gì xảy ra.

Họ luôn kết thúc trò chơi hấp dẫn đầy niềm tin ngây ngất và những sự đau khổ thần thánh của mình với cùng một câu chuyện mà trong đó họ cùng đóng vai thánh Brigid. Cô là cô gái xinh đẹp nhất ở Ai-len và cô muốn trở thành một nữ tu nhưng có quá nhiều các chàng trai trẻ theo đuổi cô nên cô đã xin Chúa "xin Chúa hãy làm cho con trở nên xấu xí!"

Và Người đã làm vậy.

Từng người một, Frances, Mercedes và Lily sẽ co rúm, sụp đổ và tàn úa đến khi chúng trở nên xấu xí như mụ phù thủy. Sau đó sẽ duỗi người và bước vào nữ tu viện với giọng cười khúc khích - "Chào xơ, hôm nay xơ thế nào? Ha ha ha..." - rồi chúng quỳ xuống trước bệ thờ và điều kì diệu xảy ra: thánh Brigid đã trở nên xinh đẹp lại. "Ôi xơ, xơ thật là xinh đẹp!", "Xơ cũng vậy!", "Ôi, xơ hãy nhìn mái tóc vàng xinh đẹp của tôi này!", "Nhìn đôi môi xinh đẹp của tôi này!", "Ôi, nhìn chiếc váy xinh đẹp của tôi này!", "Nhìn của tôi này!".

Rất nhiều buổi chiều thứ bảy và chủ nhật như vậy, trong khi cha đang ngủ bù cho những giờ làm việc khuya trên chiếc ghế dựa
dưới nhà...

Chỉ mới mấy ngày trước, nhưng nó dài như vô tận từ khi Mercedes có kinh nguyệt và mất trí đi từ khi biết yêu. Ôi... Ít ra là Frances và Lily vẫn còn biết cách tạo ra niềm vui.

 

 Cái nôi cho mèo

Frances và Lily ở chung một phòng. Mặc dù James thích Lily ở chung phòng với Mercedes hơn nhưng Lily cứ khăng khăng như vậy - Mercedes lặng lẽ thở phào nhẹ nhõm. Frances đã dọn giường để tất cả mọi thứ đều có hai cái giống nhau và Lily biết chính xác phía bên nào là của cô bé còn phía nào là của Frances. Các bạn có thể nghĩ rằng Frances là một đứa bê bối nhưng không phải vậy, cô bé rất gọn gàng ngăn nắp. Cô bé đã sắp xếp chỗ của Lily với một bức tranh của Mary Pickford mặc một chiếc tạp dề bằng vải bông trông thật là ngu ngốc, nó được cắt từ báo và được lồng vào khung hình. Treo bên cạnh là bức tranh màu hình Chúa Giêsu và bầy cừu. Giêsu có vẻ buồn, "Tại vì ông ấy đang nghĩ xem ông thích thịt cừu nhiều hay không", Frances nói nhưng Lily không bị lừa vì trò đó. Phần còn lại trên tường là bộ sưu tập của Frances, cô dọn chỗ cho những bức hình quảng cáo. Có một bức hình Lilian Gish bị kẹt trong tảng băng trôi, hình Houdini khỏa thân và đang nổi giận trong một bình sữa, một bức áp phích thật của Theda Bara trong vở "Tội lỗi" mà một người dẫn đường ở rạp Empire đã cho cô, bức tranh vẽ cô gái đang cầm bím tóc dài không thể tin nổi đưa lên đầu như một bà điên. Frances gọi cô ta là "Cái đầu của Haira" còn Mercedes thì nghĩ đó là một bức tranh đồi bại.

Một đêm nọ, Frances ngồi ở bên phía giường của mình và cầm bút làm "bài tập về nhà":

 

Gởi cô Lilian Gish,

Cháu viết thư này mong nhận được một bức hình của cô, cháu đã xem qua tất cả chúng. Điều này sẽ có ý nghĩa rất lớn vì cháu bị tật và cả đời phải ngồi trên xe lăn. Cháu đã cưỡi con ngựa hoang dã nhất trong chuồng và bị kéo lê đi, nhưng nhờ sự phù hộ của Thiên thần hộ mệnh mà cháu không chết. Cháu ước gì mình có thể chạy nhảy chơi đùa như những đứa trẻ khác, nhưng may mắn là cha cháu luôn sẵn sàng đẩy xe đến phòng tranh để cháu có thể gặp cô. Xin cám ơn cô.

Thương.

Frances đăm chiêu một lúc và sau đó nảy ra ý tưởng... phải ghi là do ai gởi nhỉ? Cô kí tên và nhét nó vào phong bì rồi ghi địa chỉ ở Câu lạc bộ người hâm mộ của Gish ở Hollywood, California. Sau đó nhìn sang Lily nãy giờ đang ngoan ngoãn ngồi chờ đến lúc được chơi và nói "Được rồi, Lily, đến đây với chị nào!"

Lily đi theo Frances lên gác xép.

"Chị định cho em xem thứ này nhưng chị nghĩ là em chưa đủ lớn."

"Có mà, Frances, em lớn rồi mà!"

Chúng ngồi trên sàn nhà, khoanh chân lại trước hộp đựng đồ, câu "Frances, đây là phòng của Kathleen" lúc nào cũng được nói ra và lúc nào câu trả lời cũng là "Đúng rồi, Lily, đây là nơi chị ấy đã chết" trước khi chúng bắt đầu bất kì trò chơi nào mà Frances nghĩ ra. Cái nghi thức này là để tưởng niệm một câu chuyện không cần kể lại nữa. Câu chuyện mà Frances đã kể cho Lily nghe từ lâu và lặp đi lặp lại mãi:

"Chị gái xinh đẹp của chúng ta, Kathleen. Chị ấy có mái tóc đỏ rực như một thiên thần lửa và có giọng hát của một thiên thần. Chúa rất yêu chị ấy nên đã mang chị ấy đi. Lúc chị ấy chết vì bệnh cúm chị ấy mới có mười chín tuổi. Chị đã ở đó lúc chị ấy mất và chị đã vuốt mắt cho chị ấy."

Đến đoạn này lúc nào cũng nghỉ một chúng để bọn trẻ thành tâm nghĩ về cảnh đó, sau đó Frances lại tiếp tục "Những lời cuối cùng của chị ấy là ‘Frances thương mến, em là người chị thương nhất, và em cũng là người xinh đẹp nhất trong các em của chị. Xin em, hãy chăm sóc cho Lily’". Đôi mắt Frances bắt đầu sáng lấp lánh nhưng đó là ánh sáng của sự nghiêm túc. Thật đáng sợ. Mắt Lily mở to và ươn ướt, cái bướu đã xuất hiện trên trán cô bé.

"Tại sao chị ấy lại nói là chăm sóc em?"

Frances không hề rời mắt khỏi Lily, cô ấy chỉ nói chung chung "Tại vì chị ấy rất yêu em, Lily."

"Em cũng yêu chị ấy nữa", và òa lên khóc.

Frances đưa một tay lên vuốt mái tóc dài của Lily, mái tóc chưa một lần được cắt, và sau đó... "Được rồi, đừng bù lu bù loa nữa, mình chơi đi!"

Bọn trẻ hiểu rằng không được nhắc đến Kathleen khi có cha ở cạnh "bởi vì nếu em chỉ nói ra cái tên chị ấy thôi thì cha cũng sẽ rất đau khổ đấy Lily."

Một đêm nọ Frances quyết định rằng đã đến lúc để nói về những chuyện khác, cô cho tay vào túi áo và lấy ra chiếc chìa khóa của rương đựng đồ. Lily thở hổn hển.

"Đừng có cường điệu hóa quá vậy, Lily!"

"Cường điệu hóa là cái gì?"

"Là ngốc!"

"À!"

Frances cất cái chìa khóa vào lại trong túi.

"Chị lầm rồi, em còn nhỏ quá."

"Không mà!"

"Nói nhỏ thôi!"

Thì thầm một cách phấn khởi "Em không còn nhỏ mà Frances, em sẽ không nói với ai đâu!"

Frances nhướn mày, lắc đầu và lẩm bẩm "Chắc mình đang làm mất mấy viên bi của mình rồi" và nhét chìa khóa vào ổ. Mở nắp ra, một làn hương thoang thoảng mùi tuyết tùng. Frances cảm thấy nghẹn ở cổ, chớp mắt chờ cảm giác đó trôi qua. Lily biết là không nên hỏi gì.

"Nhắm mắt lại đi Lily!"

"Vâng!"

"Có những thứ trong này mà em chưa sẵn sàng để xem đâu."

Sột soạt, sột soạt.

"Xòe tay ra nào!"

Lily làm theo, "Nó thật là mềm mại!"

"Nó là satanh thuần khiết đấy. Em mở mắt ra đi."

Frances đang cầm một thứ giống như một chiếc váy cưới nhỏ và đã hơi ố vàng theo thời gian.

"Đẹp quá", Lily thở mạnh.

"Đây là cái áo rửa tội, tất cả chúng ta đều mặc nó lúc được rửa tội. Kathleen, Mercedes, chị, em. Và cả Ambrose nữa!"

Lily ngẩng lên "Ambrose là ai?"

Những sọc nhỏ màu trắng xuất hiện trên sống mũi của Frances. Chúng vẫn thường xuất hiện khi cô bé cười, nhưng ngay lúc này cô đâu có cười.

"Đó là anh trai của em, Lily!"

Lily hoàn toàn im lặng và nhìn vào mắt Frances, chờ đợi. Frances nói "Này, em có thể cầm nó."

Lily cầm lấy chiếc áo từ tay Frances và đong đưa nó trong tay mình, thật là một món đồ quý giá, một vật gia truyền.

Frances nói "Ambrose đã chết."

Lily chờ đợi, lắng nghe, Frances kể:

"Vào cái ngày hai đứa sinh ra, một con mèo màu cam đi lạc đã chạy vào nhà qua đường hầm rượu. Nó trèo lên cầu thang hầm rượu, trèo lên tầng dưới, trèo lên tận gác xép mà không gây ra một tiếng động nào. Nó đến chỗ hai đứa đang ngủ và trèo vào trong cũi. Nó để miệng lên mặt Ambrose và hút hết hơi thở của cậu bé, Ambrose tái đi và chết. Sau đó con mèo để một chân lên ngực em và chuẩn bị làm điều tương tự nhưng chị đã đến và cứu em. Cha bắt lấy con mèo màu cam và dìm chết nó dưới con lạch, sau đó ông chôn nó trong vườn, ở chỗ mà lúc trước là con bù nhìn và bây giờ được thế chỗ bằng một hòn đá đấy. Chị đã giúp cha.

Lily không hề cử động, Frances cẩn thận lấy lại chiếc áo từ tay cô bé và gọi "Vào đây Trixie", làm âm thanh chút chít, "Vào đây nào, Trixie, vào đây" cho tới khi họ nghe thấy tiếng nhảy bạch, bạch trên cầu thang và Trixie xuất hiện trong phòng, chớp mắt. Gọi tôi à?

"Ngoan lắm Trixie, đến đây nào!"

Trixie chạy đến, nó luôn nghe lời khi Frances gọi. Nó tìm thấy Frances ba năm trước. Trixie là một con mèo đen tuyền có cặp mắt màu vàng. Dù vậy, ai có thể chắc chắn được nào, có thể cái chân trước bị cụt của nó có một chiếc dép màu trắng thì sao, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được.

"Frances, Lily, ăn tối nào!"

"Đến ngay đây, chị Mercedes!"

Ở dưới nhà, Mercedes đang thò đầu ra khỏi của trước và nhìn quanh tìm chiếc xe Hupmobile của cha, chiều nay ông phải đi giao hàng gấp ở Vịnh Glace, có ai đó cần hai mươi đôi giày ngay lập tức. Mercedes rất tự hào vì cha làm việc rất chăm chỉ, và thường là làm việc buổi tối cho nên ông sẽ có thời gian chăm sóc Lily. Nếu không thì Mercedes sẽ phải bỏ học. Cha lái xe đi khắp nơi để giao những thứ đồ khô mà ông chọn ở Sydney. Thường thì buổi tối cha mới làm giày ở trong lán. Mercedes đã nhìn thấy ánh sáng của ngọn đèn qua ô cửa sổ mặc dù cô chưa bao giờ nghĩ đến việc làm phiền ông - Cha không thích người ta xen vào khi ông đang làm việc.

Mercedes cũng tự hào vì nhà họ có xe máy dù cô biết cái cảm giác mà cô nên có là biết ơn. Về rồi, đúng y như lịch, một hình hộp dài đong đưa trên con đường mòn. Và mấy cô bé cũng đã chạy xuống khỏi gác xép, có vẻ như đây là lần đầu tiên bữa tối đúng giờ. Tối nay là một món ăn Cape Breton cổ mà Mercedes học được từ bà MacIsaac: ceann groppi, đó là tiếng Xen-tơ, nghĩa là "đầu cá tuyết nhồi". Mercedes đã làm suốt cả buổi chiều và thực sự mong là cha sẽ thích: lấy một cái đầu cá to, lấy thật nhiều gan cá tuyết và nạo sạch tới những miếng nhỏ nhất, lấy yến mạch cuộn, bắp, bột và muối, nhồi vào con cá qua cái miệng nó, cầm nó bằng hai ngón tay đặt ở hai con mắt nó. Luộc lên.

James ném cái mũ lên cây treo đồ và nói "Ra đây chơi một chút đi Mercedes, ta muốn nhảy nhót một chút với con gái ngoan của ta!"

Mercedes mỉm cười với cha và ngoan ngoãn làm theo, buộc phải để bữa tối lại sau. Cô cảm thấy như bị tra tấn bởi cái âm mưu ngầm nào đó trong cả cái gia đình cô. Cô ngồi vào cây piano và nghiến chặt răng khi nghe thấy tiếng Lily cười khúc khích và chạy tới bên cha. Mercedes mở quyển sách "Chúng ta cùng chơi piano" và bắt đầu chơi.

Lily đặt chân trái lên chân phải của cha và chân phải đặt lên chân trái của ông và họ nhảy theo bản "Hoa hồng Picardy."

Cho tới lúc "Ta sắp chết đói rồi", cha nói, "Chúng ta ăn gì vậy Mercedes?"

 

Bữa tối.

"Chị đang đùa sao?", Frances nói.

Ngay cả James nữa. "Ta chắc chắn rằng nó sẽ ngon lắm, Mercedes, nhưng ta thật sự cảm thấy khó khăn khi bữa tối của mình nhìn mình chằm chằm như vậy!"

Tất cả cười rộ lên chỉ trừ Mercedes, cô đứng dậy và rời khỏi phòng.

"Có chuyện gì với chị con vậy?", James hỏi.

Frances đáp "Chị ấy đang trong kì!"

James rúm người lại, cảm thấy hối hận vì đã hỏi câu đó đến mức anh không nhận ra sự không phù hợp của câu trả lời. "Ồ, ta xin lỗi, ai muốn ăn bánh quy và cam thảo nào?"

Ở trên phòng, Mercedes tự làm mình dễ chịu với cây gia phả, cô bé đã làm nó gần một năm, đó là một công việc đòi hỏi sự cần mẫn. Mỗi khi có một cái tên mới - mỗi khi cô có thời gian quý báu để đào bới thêm trong thư viện Sydney hay những dịp hiếm có mà cô nhận được hồi âm từ những kho lưu trữ văn thư địa phương ở Halifax sau một khoảng thời gian chờ đợi mỏi mòn - cô cẩn thận mở cuộn giấy đặc biệt và trải ra trên bàn. Cô vuốt thẳng các góc, lấy bút chì và thước cẩn thận kẻ một đường thẳng ngắn dọc xuống dưới mấy đường kẻ ngang dài rồi viết một cái tên ở dưới đó. Cái tên treo lặng lẽ ở đó như một thứ trái cây khô.

Sự kiên nhẫn của Mercedes cho việc này là có hạn, cô bé định làm cha ngạc nhiên vì điều này, ông không bao giờ nói gì về gia đình của mình trừ việc nói rằng họ đều đã chết. Có thể cô có thể phục hồi lại cho cha một mảnh kí ức nào đó mà ông đã mất.

Sau bữa ăn tối hôm đó, Lily chạy lên và thấy Mercedes đang cặm cụi tỉ mỉ đồ mực lại cho mấy đường kẻ bằng bút chì.

"Cám ơn chị vì bữa tối, Mercedes!"

Mercedes nhìn lên coi Lily có ý gì không, nhưng Lily không bao giờ cố tình độc ác, Mercedes biết điều đó và cảm thấy hối hận vì sự nghi ngờ của mình. Cô quay trở lại làm việc và chỉ nói "Ừ."

Lily chạy đến và nhìn qua vai Mercedes một cách hào hứng.

"Sao nó không giống cái cây chút nào hết vậy chị?"

"Cây chỉ là một cách nói thôi, Lily. Nếu nó mà nhìn giống cái cây thì nó thành tác phẩm nghệ thuật mất rồi. Đây là một kiểu biểu đồ."

"Giống bản đồ hở?"

"Cũng giống vậy."

"Có kho báu không?"

"Mỗi cái tên là một kho báu."

"Nó dẫn đến đâu?"

"Bản đồ cũng chỉ là một cách nói thôi, nó không dẫn đi đâu hết". Mercedes ngả lưng ra ghế "Có lẽ là theo một cách nào đó thì cũng có, nó dẫn chúng ta đi vào quá khứ. Nó nói cho chúng ta biết mình từ đâu đến, nhưng nó không cho mình biết mình đang đi đâu. Chỉ có Chúa mới biết điều đó."

"Em ở chỗ nào?"

"Em ở ngay đây, cùng hàng với chị và Frances và Kathleen, cầu Chúa phù hộ cho linh hồn chị ấy!"

"Còn Lily khác đâu?"

"Nó không có tên ở đây cưng à."

"Sao vậy?"

"Con bé chưa được rửa tội."

"Nhưng cũng là chị em của mình mà."

"Đúng vậy, chúng ta yêu thương và cầu nguyện cho nó, nhưng nguyên tắc của cây gia phả là vậy."

"Còn Ambrose đâu?"

Mercedes nhìn Lily "Ambrose là ai?"

Lily nhìn lại vào Mercedes "Chị đọc truyện cho em nghe nhé?"

"Được thôi cưng, chị sẽ đọc, em lên thay áo ngủ rồi chọn một quyển đi, chị sẽ đến ngay."

 

Ba giờ sáng ngày hôm đó, Mercedes đang thiu thiu ngủ dưới ánh sáng trăng. Như thường lệ, cửa phòng cô để mở hoặc khép hờ - cô chẳng có gì phải che giấu và có nhiều thứ cần phải nghe. Cánh cửa lặng lẽ mở ra, Mercedes mở to mắt vừa kịp nhìn thấy nó mở rộng đủ để cái gì đó chui vào, có thể là một đứa trẻ rất nhỏ.

"Ai đấy?"

Không có tiếng trả lời. Có thể nghe thấy rõ tiếng bạch, bạch nhẹ nhàng của những cái chân nhỏ xíu đang tiến gần đến bên giường.

"Trixie à?"

Im lặng, Trixie chưa bao giờ vào phòng cô.

"Đi chỗ khác đi Trixie!"

Trong góc mắt Mercedes lóe lên một tia sáng mơ hồ, máu trong người cô đông lại, không phải Trixie, Mercedes ngẩng đầu lên, cái thứ đó đi vào chỗ có ánh trăng và đứng đó. Ôi Chúa ơi, một đứa trẻ khủng khiếp, trông rất rách nát vì bị chịu lời nguyền đầu tiên. Mercedes cô gắng nhưng không thể nói ra được "Đi ra!"

Mặc một chiếc áo rửa tội đã bị ố màu đi vì ở trong vòng tay
của quỷ.

"Đi ra!" - Một tiếng thì thào.

Đôi mắt màu vàng.

"Đi ra, đi ra, đi raaaaaaaaaaa!", cô lấy hết sức hét lên.

James lao vào phòng, quờ quạng tìm kiếm và mở đèn lên, anh thấy Mercedes đang run rấy và nhìn chằm chằm đâu đó, răng nghiến chặt, tràng hạt đeo trước ngực.

"Có chuyện gì vậy?"

Mercedes cố nói nhưng tiếng khóc thổn thức làm câu nói đứt đoạn và vỡ ra nhiều khúc, anh giữ chặt vai cô bé. "Nhìn ta này", anh lắc lắc cô bé, "Nhìn ta này", cô làm theo. Cô ngồi thẳng dậy và lấy lại bình tĩnh, sau đó nói "Con nghĩ là con đã nhìn thấy thứ gì đó."

Anh gật đầu và ngồi xuống bên thành giường cô bé. Có lẽ có, mà cũng có lẽ không có những thứ như ma quỷ. Ví dụ như trong căn nhà này, thành thật thừa nhận với chính mình rằng có những chỗ và những khoảng thời gian mà anh không muốn đến, ngay trong chính căn nhà của mình. Không phải vì không tin, mà vì cảm giác rờn rợn sau gáy mà anh không biết tại sao. Chính đó là những lúc anh ước gì mình có thể cầu nguyện, bởi vì đó chính là những gì mà những linh hồn dao động cần có. "Cầu nguyện cho chúng tôi" là những gì họ nói và rên rỉ trong những chuyến đi lúc nửa đêm của mình.

James liếm đôi môi tái nhợt của mình và giờ Mercedes mới để ý thấy lông mi ông rất dài. Anh nói với cô bé, chỉ một mình cô, dường như đây là lần đầu tiên từ khi cô còn rất nhỏ.

"Bà của con, mẹ của con, đều có một lần thấy thứ gì đó. Ôi không, nghe thấy gì đó."

Mercedes chờ đợi, cha chưa bao giờ nhắc đến mẹ của ông trước mặt ai, chỉ có mình, ngay lúc này... và có thể là rất lâu trước đây ông cũng đã nói với Kathleen. Mercedes thở nhẹ, cố gắng không phá vỡ khoảnh khắc này. Thật là mỏng manh. Tất cả những thứ tốt đẹp, những thứ không hề có một vết nhơ, tất cả những thứ không thể héo úa nhưng lại rất dễ vỡ, ông là vậy.

"Tiếng nhạc", ông nói, "đó là một ngày nắng đẹp. Bà không thể nói được đó là nhạc cụ gì hay tiếng gì, hoặc là nó đã xuất hiện như thế nào - qua cửa sổ, hay ngay bên cạnh bà. Ngay lúc đó bà nghĩ "Có thể thiên đường là vậy". Rất đẹp. Và bà quỳ xuống ngay trong bếp để cầu nguyện tạ ơn vì bà đã trải nghiệm được cảm giác đó, con thấy không? Sau đó thì bà ấy chẳng còn sợ điều gì nữa".

Mercedes mỉm cười và giấu tất cả nước mắt của mình vào một cái hồ chứa, nước mắt sẽ làm ẩm ướt những khoảnh khắc như thế này, nó sẽ mốc lên và bị hư đi mất.

Có tiếng nói ngoài cửa "Chuyện gì vậy?"

"Chào con gái", James chạy đến và bế Lily lên, Lily vòng chân quanh eo ông. Con bé đã quá lớn để được bế, Mercedes nghĩ vậy và trả lời "Chị nghĩ là chị...", nhưng cô bắt gặp ánh mắt cảnh báo của cha và sửa lại câu chuyện của mình "Không có gì, Lily, chị chỉ gặp ác mộng thôi"

"Chị mơ thấy ông kẹ hở?"

James cười vì cái kiểu dùng từ cổ của Lily "Không có thứ như vậy trên đời đâu, ai nói với con về ông kẹ vậy?"

"Frances."

Im đi Lily, chỉ một lần thôi, em không thể im đi được sao, Mercedes nói "Frances chỉ đùa thôi, không có những thứ như vậy đâu."

"Mercedes, chị muốn ngủ với em và chị Frances không?"

"Không, cám ơn em, Lily!"

"Hôn chúc chị con ngủ ngon đi Lily!"

Họ rời khỏi phòng và Mercedes đã hoàn toàn bình tĩnh lại, đứng dậy đi về phía góc phòng để tắt đèn và lần mò trong bóng tối để quay lại giường, khinh bỉ nhớ lại những ngày mà cô tin rằng có những con quái vật cổ dài đang nằm chờ dưới giường và chờ để cắn chân cô.

Cô quỳ xuống bên giường và bắt đầu lần tràng hạt, vừa đúng lúc, vì cô đã cảm thấy sự mơ hồ đầu tiên về con quái vật cổ dài khi sự khinh bỉ trong cô tan đi. Quỳ bên giường trong bóng tối luôn rất khó khăn vì những thứ mà bạn tưởng tượng ra có thể đang nằm cuộn mình quanh chân bạn, kéo bạn xuống. Đừng tưởng tượng nữa, không thể có chuyện như vậy xảy ra nếu như bạn đọc kinh với một tấm lòng thành tâm. Mercedes rất khinh thường chính bản thân mình vì những sự mê tín trẻ con đó, dù cô biết rằng chúng vô lí nhưng cô vẫn không thể ngăn được cơ bắp đùi của mình khỏi co rút. Việc gập gối lại như vậy thường gây ra một cảm giác rất tệ sau khi cầu nguyện, và cũng chính cái cảm giác này chứ không phải điều gì khác nhắc người ta nhớ rằng - dù không có quái vật cổ dài dưới gầm giường và ông kẹ chỉ là một quan niệm tà giáo - chắc chắn là có quỷ, "Thánh Maria Đức mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen!"

Mercedes tưởng tượng ra hình ảnh bà của mình đang tắm mình trong ánh nắng và quỳ gối cảm tạ vì đã được trải nghiệm khung cảnh thiên đường, sau đó lại nghĩ đến chuyến viếng thăm vừa mới được hạ cố đến cho mình. Chúa ban cho mỗi chúng ta một thứ khác nhau.

Frances đang ở dưới hầm rượu, cầm một cái đèn dầu trong tay và lần mò soi vào khoảng không gian giữa lò sưởi và bức tường đã bị đen, Trixie đang ở trong đó và cố nép mình vào càng sâu càng tốt. Cái nón cột dây trên đầu Trixie bị lệch sang một bên, cái váy satanh trắng dính đầy bồ hóng. Tối hôm đó ngay trước giờ ăn, nó lẻn ra khỏi cái lồng của Frances trên gác xép và trốn xuống hầm rượu. Mèo không thích mặc đồ, nó ở sau lò sưởi cho tới khi cả ngôi nhà đã hoàn toàn im ắng, sau đó chui ra và bò lên thang, vào phòng Mercedes.

 Frances phải nhanh chóng cởi cái áo ra khỏi người Trixie vì nếu cha thấy nó như thế này lần nữa thì cha sẽ ném cả hai xuống lạch.

"Trixie, ngoan nào!"

Trixie liếm mạnh chân của mình và chùi chùi lên mặt.

"Trixie, taa’i la hown, Habibbti."

Trixie nhìn lên và đau khổ chịu đựng khi bị lôi ra khỏi góc nhà. Frances gỡ cái nón ra "Nhìn mày xinh lắm đấy Trixie" và gỡ cả ngàn cái nút trên áo rửa tội "Im nào, sắp xong rồi..."

Trixie vùng ra và phóng lên cầu thang, Frances cố đuổi theo trong im lặng. Khi cô bé chạy lên đến bậc thang trên cùng thì ngọn đèn trên tay cô lướt qua đôi giày của cha. Trixie đã chạy mất rồi, cảm ơn Chúa, hai ba ngày sau nó sẽ quay lại.

James chờ cho tới khi Frances giặt sạch chiếc áo và nón và phơi chúng lên.

Ở trên gác, Mercedes đã đọc kinh xong. Cho dù cô đang hét lên thì trong đầu cô cũng đã xác định được là mình đã nhìn thấy gì, nhưng nó cần phải có thời gian để cơ thể cô theo kịp. Sự xuất hiện của quỷ đã được giải thích, nhưng không phải là được xóa bỏ. Đó là một cái nhìn về quỷ dữ ngay trên mặt đất. Chúa làm việc theo những cách khó hiểu, nhưng cách của quỷ lại còn bí mật và khó hiểu hơn và thường sẽ được nêm nếm thêm một chút lố bịch. Một số người sẽ nói là buồn cười, còn Mercedes thì không. Buồn cười là cái cảnh một bà mập ôm cây đàn Hawaii, buồn cười là cảnh một người đàn ông giả gái và nhảy nhót trong vở nhạc k 10000 ch Gilbert và Sullivan. Chẳng có gì buồn cười khi một con mèo què lại hóa thành một đứa trẻ ma quỷ và mặc bộ đồ rửa tội của gia đình vào lúc nửa đêm. Frances là một con tàu lớn. Cũng giống cái buổi sáng mẹ mất, cả Mercedes và Frances đều có vết dơ trên trán và Frances nói rằng đêm qua có "một người phụ nữ của bóng đêm" đến tìm cô bé. Xin Đức mẹ Chúa trời hãy nghe lời nguyện cầu của con và chấp nhận lời kinh con cầu và bảo vệ cho linh hồn của em gái con, amen.

Ngay khi Mercedes quay trở lại giường thì đèn lại mở lên và cô tròn mắt lên khi thấy Frances lảo đảo với cái đầu sưng lên, cha đang nắm phía sau cổ cô bé. Cái đấm và cô con gái nhỏ.

"Giờ thì xin lỗi chị con đi!"

Mercedes nhìn đi chỗ khác, cô không thể chịu nổi khi thấy Frances mỉm cười với đôi môi chảy máu.

 

Sau đó, khi mọi thứ đã bình ổn lại, Mercedes lẻn vào căn phòng nhìn ra con lạch. Cô trèo lên giường và vòng tay ôm qua cái lưng lạnh lẽo và cái eo thon của Frances. Ở phía bên kia giường, Lily đang giả vờ ngủ. Cả ba chị em rúc vào nhau trên một cái giường, chuyện tuyệt vời chỉ xảy ra mấy ngày này và cũng chỉ khi có chuyện buồn. Cha đã có một kiểu "nói chuyện" khác với Frances, Lily biết điều đó.

Mercedes cảm thấy dễ chịu, cảm giác này giống như khi cô đến gần với ơn Chúa trời, cảm thấy tò mò vì cái cảm giác mà cô muốn biết. Đó là một điều bí ẩn. Được trải qua cảm giác bình yên với cô em gái hư hỏng trong vòng tay, không gì có thể động đến em ngay lúc này được đâu, Frances, te’berini.

Mercedes ném một cái lưới tạo ra bởi những lời cầu nguyện quanh cô bé Frances đang say ngủ, nhẹ hơn không khí, nhẹ hơn tơ, chắc chắn hơn cả loại lụa hạng nhất để giữ cho em gái bé bỏng của ta được an toàn. Ngoan nào, em thương yêu, hãy ngủ đi, mẹ em đang chăm lo cho đàn cừu...

 

Cây gia phả

Ba tuần rưỡi sau, Mercedes lại khám phá được một miếng hóa thạch khác, nó kẹt dưới một lớp bụi dày phủ trên một trang của cuốn sổ đăng kí đi lính mục nát. Một cái tên nữa, được bảo vệ hoàn hảo ở một bia mộ bỏ hoang, chờ đợi để được khai quật và ghép vào trong cây gia phả của Mercedes và được cấp cho một cuộc sống vĩnh cửu trong một văn bản có ý nghĩa.

Khuya hôm đó, khi tất cả mọi thứ hoàn toàn im lặng, khi cô bé có một khoảnh khắc cho riêng mình, cô ngồi tại bàn, thẳng lưng và bắt đầu trải cây gia phả ra. Cô nheo mắt như thể có ánh sáng vừa lóe lên - trải rộng ra một tí nữa, gì đây nào? - Một cuộc nổi loạn của các màu sắc: vàng, xanh lá và đỏ đang cuộn mình và tru tréo trên cả tờ giấy, cái gì vậy? Chầm chậm mở nó ra thêm từng chút một và đến khi thấy một đường kẻ trang nhã khắc bằng mực với tất cả sự cẩn thận và yêu thương, rồi đến những đường nét lảo đảo và đong đưa, cái gì vậy, một cái cây! Một cái cây, đúng vậy, giờ thì cô có thể thấy được rồi, đó đúng là một cái cây.

Được tô bằng màu sáp, mỗi cái tên cổ đều được đồ lên bằng màu đỏ táo, ở góc phải bị đánh lừa bởi một chỗ cuộn lên của tờ giấy, mỗi đường kẻ dọc xuống phát triển thành một nhánh cây xum xuê lá và mang theo một quả. Quả táo lớn nhất căng mình ra và giữ tất cả những cành nhỏ ở dưới thẳng hàng. Chỉ có vài quả táo với những cái tên được viết theo kiểu chữ con nít vụng về: "Cha", "Mẹ", " Kathleen", "Mercedes", "Frances", "Lily khác" và "Lily". Quả táo của mẹ và Kathleen được vẽ thêm cặp cánh màu vàng và quả của Lily khác thì có cánh màu bạc. Khuôn mặt đen và đôi mắt màu vàng của Trixie ló ra từ sau một nhánh cây cao giữa đám lá màu xanh ngọc bích. Còn ở dưới gốc cây cỏ mọc lên xanh ngát và một con lạch nhỏ chảy ngang một cách vô tội với những màn kịch tính bên dưới, mặt cắt ngang của mặt đất cho thấy những rễ cây đâm mạnh xuống lòng đất và chĩa lên bề mặt đầy đá được trải một lớp than lấp lánh do một đội quân sâu bọ thực hiện. Và đây, nép mình giữa những nhánh rễ cây dưới đất là một cái rương lớn chứa đầy kim cương. Một kho báu được chôn giấu.

Nước mắt Mercedes rơi xuống và nhỏ giọt lên những lớp màu sáp lấp lánh của bản gia phả mới được chỉnh sửa. Cô chưa bao giờ khóc một cách đau khổ và thầm lặng như vậy trong suốt cả cuộc
đời mình.

Người ta vẫn nói rằng thức đêm thì con người ta sẽ bạc tóc hoặc trở nên trắng bệch ra bởi vì sợ hãi hoặc mất hết tất cả những niềm vui trong cuộc sống. Nhưng mái tóc của Mercedes chỉ nhạt màu đi, Frances thấy nó diễn ra. Cô bé đang nghĩ đến việc lẻn ra khỏi nhà khi đi ngang cửa phòng Mercedes và thấy ánh đèn.

"Mercedes?.... Chị còn thức hả?"

Mercedes nằm dài trên bàn, hoàn toàn bất động. Chị ấy chết rồi ư? Hóa đá? Hay tan thành muối? "Mercedes?" Frances đến bên cạnh, nghiêng mình và nhìn. Thật đáng kinh ngạc. Chị ấy đã như thế này bao lâu rồi nhỉ? Miệng khép và có nếp nhăn ở khóe, đôi mắt nhắm nghiền và rỉ nước, hoàn toàn bất động. Frances chạm vào vai Mercedes và cô bật dậy, hít một hơi dài và bước ra khỏi bức tranh tĩnh lặng rồi òa khóc trong thế giới thật.

"Chuyện gì vậy? Sao vậy Mercedes, có chuyện gì xảy ra sao?"

Mercedes nói từ sâu trong cổ họng "Chị ghét nó, chị ghét nó lắm. Ước gì chị có thể giết chết nó, ước gì đó không phải là một tội lỗi, ước gì nó chết đi, chết đi, chị ghét nó lắm, ghét lắm!"

Frances hiểu rõ Mercedes cho nên cô bé không ôm lấy chị mình mà chỉ nhẹ nhàng chạm vào bím tóc mới bạc màu của cô. Có chuyện quái gì đang xảy ra với Mercedes vậy chứ?

"Nó làm hỏng tất cả mọi thứ", Mercedes nói, "mọi người đều vui vẻ trước khi nó xuất hiện, mọi người đều chết hết, mọi thứ đảo lộn hết từ lúc nó sinh ra, nó không bình thường và chị phải chăm sóc nó cả đời chỉ vì nó bị tật, Chúa ơi, chị ghét cuộc đời của mình, chị ghét cuộc đời của mình!"

Mercedes khóc nức nở. Frances cố làm cô cảm thấy dễ chịu theo cách người ta dỗ dành một con bướm mỏng manh, nếu như bướm có thể được dỗ dành.

"Suỵt, suỵt, ổn rồi, mọi thứ đã ổn rồi."

"Có chuyện gì với chị Mercedes vậy?", Lily hỏi vọng vào từ ngoài cửa bằng một giọng nói đầy tôn trọng và lo lắng. Nó đã đứng đó bao lâu rồi? Nó đã nghe thấy những gì? Frances nhẹ nhàng trả lời, rõ ràng và rành mạch.

"Chị ấy gặp ác mộng thôi, Lily, quay về giường của em đi!"

Mercedes không hề biết Lily xuất hiện, cô cứ tiếp tục khóc, Lily quay về phòng, Frances nhìn xuống cuộn giấy.

 

Trên giường, dưới lớp chăn có một đốm sáng nhỏ, nó phát ra từ một cái hang nhỏ được dựng lên bằng cái chăn trên hai đầu gối của Lily. Nguồn gốc của đốm sáng đó là từ Đức mẹ Đồng Trinh. Bà được làm từ nhựa tổng hợp có dạ quang màu trắng và cao khoảng mười hai xentimet trên cái xe ô tô bằng thiếc mà Lily, Frances và Mercedes đã đi lạc vào lúc nửa đêm. Chúng nhìn thấy ánh sáng cách một quãng xa so với mặt đường, trên cánh đồng. Và Người ở đó. Đức mẹ. Ở khắp nơi đều có mùi thơm của hoa lily thung lũng. Có thể đó là ở ngay giữa cánh đồng hoa lily nhưng vì trời quá tối nên không thể chắc chắn được. Có thể là vậy hoặc cũng có thể mùi thơm dễ chịu đó tỏa ra từ chính Người. Đức mẹ Đồng Trinh đã có một thông điệp cho mỗi cô bé và họ không bao giờ được tiết lộ bí mật đó, thậm chí là với chị em của mình. Thông điệp của Lily là: chân của cô sẽ không bao giờ được chữa lành. Nó sẽ không bao giờ giống cái chân còn lại, cô bé sẽ luôn phải mang đôi giày với một chiếc cao cổ và một chiếc bình thường. Có một lí do cho việc này nhưng Đức mẹ không nói ra điều đó. "Giờ con quay trở về xe đi, hãy yêu thương lẫn nhau nhé!"

"Vâng thưa Đức mẹ."

"Lily!"

Đó là Frances, ôi không, Lily đã dùng nước hoa của chị mà không xin phép, nhưng Frances không nói gì về việc đó.

"Lily!"

Lily lái chiếc xe ra khỏi hang và chui ra khỏi đống chăn mền, cô bé nhìn Frances, Frances đang cầm cuộn giấy trong tay.

"Chuyện gì xảy ra ở đây vậy Lily?"

Nước mắt đọng trong mắt Lily bắt đầu chảy ra nhưng cô bé không biết là mình đang khóc "Em đã tô màu cây gia phả."

"Đó là món đồ đặc biệt của chị Mercedes mà!"

"Đó là một điều ngạc nhiên". Giờ thì cô bé bắt đầu khóc thật sự.

"Em biết là em không được đụng vào đồ của người khác mà Lily, đặc biệt là khi họ phải làm việc cực khổ vì nó. Lẽ ra em phải tự vẽ cái của mình chứ."

"Em không ngăn được."

Frances biết những điều này là sự thật, cô ngồi xuống bên thành giường.

"Em xin lỗi, chị Frances!"

"Đừng khóc, Lily!"

Lily nhào vào lòng Frances và khóc rấm rứt khi Frances ôm cô.

"Chị Frances!"

"Sao?"

"Mọi người không có chết."

"Ý em là sao?"

"Mọi người không có chết lúc em sinh ra."

"Dĩ nhiên là không rồi."

 

"Cha không chết, chị Mercedes không chết, chị cũng không chết."

"Chị Mercedes chỉ đang bị tổn thương thôi, tất cả chỉ có vậy thôi Lily, chị ấy không cố ý đâu. Chị ấy yêu em mà. Tất cả chúng ta đều yêu em."

Lily không thể cưỡng lại việc nhìn vào tác phẩm nghệ thuật của mình một lần nữa, cô bé mở cuộn giấy ra và thò tay vào dưới đống mền gối để tìm cái tượng dạ quang. Cô và Frances ngồi xem bức tranh dưới ánh sáng của tượng Đức mẹ.

"Em là một họa sĩ gioỉ đấy Lily, chị thích mấy con sâu lắm."

"Cám ơn chị!"

"Có cái gì trong rương kho báu vậy?"

"Kho báu"

"Kho báu gì?"

"Ambrose."

"Lily, Ambrose chỉ là một câu chuyện thôi!"

"Em biết."

Đức mẹ đang mất dần ánh sáng, bọn trẻ không thể nhìn thấy bức tranh nữa, đã đến giờ đi ngủ, Frances cuộn tờ giấy lại.

"Chị định làm gì với nó vậy Frances?"

"Tụi mình không muốn Mercedes thấy nó nữa, chắc là chị phải đem nó đi vứt hoặc đốt nó đi."

"Không!"

"Suỵt. Chúng ta không thể giữ nó được."

"Mình chôn nó đi cũng được mà."

Frances suy nghĩ... "Trong vườn."

 

Lily và Frances đang lén lút trong vườn và làm việc dưới ánh sáng thận trọng của một mẩu nến, Đức mẹ Đồng Trinh đang nằm trong túi Lily. Chúng cùng nhau khiêng tảng đá to ra - một thảm họa cho cộng đồng những loại động vật thân mềm đang chạy tán loạn khắp mọi hướng. Lily lấy làm lạ là sao chúng có thể chui xuống dưới đó mà không bị tảng đá đè nát.

"Đối với chúng thì tảng đá là bầu trời"

"Nhanh lên Lily, mình không có cả đêm đâu"

Mặc dù Mercedes là người làm vườn của gia đình nhưng cô không thích đào bới dưới mấy tảng đá, do đó khu vườn là một nơi giấu đồ khá tốt. Cha đã đặt cục đá ở chỗ này, "cái năm mà ông quyết định biến nó thành một vườn đá", Frances nói, "Trước đó thì ở chỗ này có một con bù nhìn, nhưng nó đã tự bứt mình ra khỏi mặt đất và bỏ đi rồi".

Lily ngừng lại và nhìn sang Frances nhưng Frances đang im lặng đào bằng một cái muỗng, không sử dụng cái giọng ma lanh hay bất kỳ thứ gì khác.

"Không ai biết nó đã đi đâu, nếu em may mắn thì một ngày nào đó nó sẽ quay trở lại và thăm chúng ta, Lily. Mà sao cũng được, cha sẽ không làm vườn đá bởi vì mẹ mất vào khoảng thời gian đó và ông cũng không còn tâm trí đâu để tiếp tục nữa."

"Khoảng thời gian mà em sinh ra hở?"

"Đúng rồi, em và Ambrosem"

"Frances, chị đã nói là Ambrose chỉ là một câu chuyện thôi màm"

"Chị đổi ý rồi!"

"Frances, đừng vậy mà!"

"Đừng có con nít nữa Lily, em dễ hoảng sợ quá!"

"Cậu ấy chỉ là một câu chuyện thôi mà Frances."

"Được rồi Lily, nó chỉ là một câu chuyện."

"Đúng là vậy mà Frances!"

"Lily à, em nghĩ những gì em muốn nghĩ còn chị nghĩ những gì chị muốn nghĩ. Nếu em còn không đủ lớn để giúp đỡ chị lúc này thì mình sẽ đốt bức tranh ngu ngốc của em trong lò sưởi và cha sẽ biết, em có muốn vậy không?"

"Không."

"Vậy thì đừng có lải nhải về Ambrose nữa, nó chỉ là một câu chuyện thôi."

Im lặng. Lily đã thỏa mãn và ngoan ngoãn cầm cái muỗng lên để đào.

Frances mỉm cười "Nó không phải".

Lily tự kiềm chế mình để không phản ứng. Frances bắt đầu cười, họ vẫn tíêp tục đào. Frances gọi khẽ "A-a-ambro-o-ose... Ambro-o-ose, Lily muốn em nàyyy..."

Sau đó cười phá lên, ánh sáng như kim châm sáng lên trong đôi mắt cô bé và những cái sọc nhỏ xuất hiện, Frances lăn lộn trong đống đất, lắc tay và chân như một con chó và cười khúc khích một cách khoái chí. Việc duy nhất có thể làm trong những lúc Frances như thế này là để cho cô bé yên một mình cho tới khi cô bình thường lại, nếu không bạn chỉ làm mọi việc tồi tệ thêm. Lily tiếp tục đào.

"Sâu chừng đó đủ rồi đấy", Frances đột ngột quay lại với nhiệm vụ, "Mình không muốn đào xương của con mèo màu cam lên luôn đâu".

Lily thụt lùi lại, cô bé quên mất con mèo đang nằm dưới đó có mấy xentimet, Frances đặt cuộn giấy vào cái lỗ cạn, "Yên nghỉ nhé."

Lily nhìn lên một cách sắc lạnh nhưng không sao, trừ cái ánh sáng đang lóe lên trong mắt cô bé thì Frances đang an toàn ở bờ
bên kia.

Mỗi đứa bỏ vào một nắm đất, sau đó chôn cuộn giấy xuống và lăn cục đá về lại chỗ cũ. Một việc hoàn hảo. Chỉ cần đặt thêm một ít mảnh lá ngô khô quanh chân cục đá và sẽ không bao giờ có ai phát hiện ra nữa.

"Được rồi Lily, em vào nhà đi, chị sẽ vào ngay."

"Chị định làm gì nữa?"

"Chị cầu nguyện một chút."

Lily nghe lời, đi ra khỏi khu vườn và bước lên cây cầu nhỏ bắt qua con lạch trong cái dáng đi khập khiễng đều đều của cô bé và "Bốp!", một cục đất ném vào sau đầu cô bé. Cô quay lại, Frances lại đang lăn lộn ngay giữa khu vườn, chị ấy lại vậy nữa rồi, ôi không.

"Frances, đi nào, sẽ có người thấy chị đấy"

Frances chạy rề rề một cách điên khùng ra khỏi khu vườn, dọc xuống bờ lạch và lội ngang qua con lạch, tay vẫy vẫy và bắt chước điệu bộ của Lily - "Fwances đến đây nào, đến đây nào Fwances!" rồi lại cười lớn và rề rề suốt cả quãng đường về nhà. Lily chậm chạp theo sau, Frances không thể cưỡng lại được, Lily biết điều đó. Cô bé chỉ hy vọng cha sẽ không nghe thấy tiếng chúng ở ngoài vào giờ này. Bởi vì nếu ông nghe được thì Frances sẽ lại có một cuộc "nói chuyện" ra trò nữa và Lily sẽ không thể làm gì được trừ
việc sau đó mang cho chị sữa ấm và để cho chị ngủ với Raggedy- Lily- of-the-Valley.

Nhưng mọi việc đều ổn, cha đã đi ra ngoài, ông không làm việc, chỉ là ông không ngủ được. Ông đi dạo và lang thang đến nghĩa trang, tìm chút gì để uống. Tuy vậy, tất cả những gì ông uống chỉ là không khí mang mùi muối biển. Đến khi bình minh thì ông quay về, lắng nghe âm thanh của đôi giày hầm mỏ gõ trên đại lộ Plummer và mong sẽ được nghe một tiếng huýt sáo ở hầm mỏ. Anh nhớ lại cuộc đình công, chẳng hiểu vì sao cổ họng anh nghẹn lại, mắt anh cay cay nhưng anh sẽ không khóc, anh không có thời gian. Anh muốn có mặt ở nhà khi các cô con gái cuả mình thức dậy. 

 Cháo yến mạch.

"Đây cha!"

Bữa sáng. Hôm nay đã là một ngày mới, đêm đã qua và giờ ta đang ngồi với các con gái của mình. "Cám ơn Mercedes, ăn hết đi Frances!"

"Con không đói."

"Ăn!"

Frances khuấy khuấy tô cháo yến mạch, nó vẫn còn nóng ở dưới nhưng trên mặt đã đông lại thành một lớp màng mỏng và vài miếng dính vào cái muỗng của cô bé.

"Đừng có chơi với đồ ăn!"

"Nó nguội rồi."

Cha ra hiệu cho Mercedes và cô đổ một muỗng đầy cháo nóng hổi còn bốc khói vào tô của Frances, Frances nhăn nhó.

"Những người lính trong chiến hào sẵn sàng đổi cả cánh tay để có được cái thứ mà con đang ngồi nhăn nhó đó đấy!"

Frances tưởng tượng ra quân đội dũng mãnh, cô thấy một chàng trai Tommy có đôi má ửng hồng, anh đang mỉm cười và cắt cánh tay của mình ra rồi nói bằng giọng Anh quyến rũ "Không đau đớn gì đâu, giờ thì ta có thể có được tô cháo của em rồi chứ?" Đừng cười. Chỉ nhìn vào cái đống nhầy nhụa màu xám lấp lánh này thôi. Có người chết ở dưới đó.

"Ta bảo ăn!"

Frances nhét cái muỗng vào miệng. Nước mũi chảy ra.

"Nuốt đi!"

Ai cứu Frances bây giờ? Lily đang ăn từng muỗng một hết tô cháo của nó, con nhóc láu cá. Có cách nào để đổ bớt một ít qua tô của nó không nhỉ? Mercedes có kín đáo can thiệp không nhỉ? Frances nặn óc tìm một cách tránh né. Cô bé biết rằng cổ họng mình sẽ không mở ra một lần nữa, nó sẽ đóng kín lại và cô sẽ nôn ra và cha sẽ...

"Trả lời chị con đi."

"Sao cơ?"

Mercedes chầm chậm lặp lại "Em ổn không Frances?"

"Vâng, cám ơn chị Mercedes, nó ngon lắm."

Ai cứu Frances bây giờ?

"Cái con mèo khốn kiếp đó lại chạy vào vườn nữa rồi đấy Mercedes!"

"Không sao đâu cha."

"Nó đang đào bới lung tung", ông bỏ muỗng xuống, "Chúng ta không nên ăn những thứ trồng trong vườn đó nữa nếu con vật đó cứ lảng vảng như vậy."

"Trixie không bao giờ làm bậy ngoài đó đâu cha."

Mọi người nhìn ra và thấy Trixie ngoài cửa sổ, cái đuôi của nó đong đưa quanh cục đá. James đã chịu đựng con mèo của Frances bởi vì Lily cứ bám riết lấy nó, nhưng anh đã hết kiên nhẫn, anh đã soạn sẵn một lời nói dối tốt đẹp về việc Trixie đã sống lâu và sống vui vẻ như thế nào nhưng mèo đôi khi cũng hay bỏ đi. Anh đứng lên khỏi bàn ăn.

Frances nhìn theo ông đi về phía cửa sau - Ôi tạ ơn Chúa, tạ ơn Giêsu, Đức mẹ Mary, Joseph và các thánh, con sẽ không bao giờ phạm tội nữa - cô đợi cho đến khi ông đi được nửa đường ra vườn rồi nhảy xuống và đổ cả tô cháo vào thùng rác bên cạnh bếp lò. Mercedes không nói gì nhưng Lily trông có vẻ rất lo lắng.

"Bình tĩnh nào Lily, cha sẽ không biết được đâu", Frances nói.

Nhưng Lily không phải đang lo về tô cháo, cô vẫn đang nhìn theo cha, ông đang ngó nghiêng hòn đá trong vườn.

Ông quay vào bếp nhưng không ngồi xuống, ông đứng ở đầu bàn, tay khoanh lại và hỏi nhẹ nhàng "Ai đã di chuyển hòn đá?"

Frances cảm thấy như muốn ốm, giờ thì cô biết rằng đời vẫn dễ dàng hơn với món cháo yến mạch. Mặt Lily đỏ ửng lên.

"Con đã làm vậy, thưa cha". Có cố gắng đấy Lily.

Người cha vuốt tóc cô bé. Mercedes thì đang hụt hẫng - nếu cô biết tội lỗi của Frances là gì thì cô đã có thể - "Có lẽ là con làm nó di chuyển trong lúc làm vườn đấy cha ạ", thật là xấu hổ.

"Con làm", Frances nói rõ ràng.

"Khi nào?"

"Tối qua."

Im lặng, sao lại có thể vừa cảm thấy lạnh vừa đổ mồ hôi cùng một lúc được nhỉ? Chúng ta đã ngồi đây bao lâu rồi? Cuối cùng thì có chuyện gì to tát chứ?

"Bốp" vào đầu cô bé.

"Ta sẽ nói cho con biết "chuyện to tát" là gì", ôi không, Frances, mày nói ra miệng mất rồi, mày nghĩ là chỉ nghĩ thôi nhưng mày đã nói ra mất rồi - ‘chuyện to tát’ là con đã dắt em gái mình ra ngoài vào lúc nửa đêm và nó có thể chết vì bệnh viêm phổi."

Frances: "Con cũng vậy thôi."

"Con có món quà trời cho là sức khỏe, còn em gái con thì rất mỏng manh."

"Con không sao mà cha", Lily nói, và hắt hơi một cái.

Frances có vẻ như đang mỉm cười, còn Mercedes chỉ nhìn xuống, cô không tin vào những sự tình cờ. James vẫn không rời mắt khỏi Frances. "Con đang làm cái trò quái quỷ gì vậy?"

Frances suy nghĩ, và trả lời "Chúng con trồng vài thứ."

"Cái gì?"

Lily đỡ cho Frances "Chúng con trồng một cái cây, cho cả gia đình."

Mercedes nhìn Frances và bắt đầu hiểu ra.

James hỏi Frances "Trồng dưới cục đá sao?"

"Nó là một cái cây rất khỏe mà", cám ơn Lily.

James nhìn Frances, lẽ ra anh nên lát đá miếng đất làm vườn và đậu xe vào đó. Nhưng điều đó có vẻ không tốt, anh nên đào cái thứ đã được chôn dưới đó lên và mang nó đi chỗ khác, nhưng anh không thể. Và có lẽ là sau đêm hôm qua thì nó đã không còn ở đó nữa rồi. Anh nhìn Frances, chắc chắn là nó còn quá nhỏ nên không thể nhớ được. Nhưng nếu nó nhớ... Làm gì có loại chị nửa đêm dắt em gái mình ra vườn để đào bới những gì còn sót lại của một đứa trẻ chứ?

Frances bắt gặp ánh mắt của James và nói "Con đã nói với Lily rằng nếu đào trong vườn thì sẽ tìm ra kho báu, nhưng tụi con chẳng tìm được gì cả."

James lại ngồi xuống ghế, anh để đôi mắt mình nghỉ ngơi bằng cách nhìn vào những lá trà ở đáy ly, Mercedes rót cho anh một ít trà nóng, anh nhấm nháp. Frances không thể tin vào vận may của mình. Mercedes thì tạ ơn và xin lỗi vì đã không biết ơn gia đình mình. James bảo Frances "Ăn đi."

"Con ăn xong rồi, cha nhìn này"

"Ừ thì xong rồi."

 

Không, nó không thể nào nhớ được,

Những đứa bé nước.

 

Từ bữa sáng đến cả ngày dài

Ta ở nhà cùng các bạn

Nhưng hàng đêm ta đi ra ngoài

Vào vùng đất của những cơn gà gật.

ROBERT LOUIS STEVENSON, "VÙNG ĐẤT GÀ GẬT"

 

Frances trẻ tuổi đang đứng giữa con lạch vào lúc nửa đêm và nhìn chằm chằm, vào chúng ta, hoặc vào ai đó ngay sau chúng ta. Cô đang ôm một cái bọc gì đó trong đôi tay gầy gò của mình. Bạn có thể nhìn thấy nó từ trong góc mắt của mình nhưng nếu nhìn thẳng vào nó thì bạn sẽ chẳng thấy được gì cũng như nhìn vào một thứ gì đó mờ ảo trong bóng tối. Thật là khó chịu. Đó là cái gì chứ? Và ngay khi bạn bắt đầu nghĩ rằng đây là một bức tranh tĩnh lặng chỉ có hai màu đen trắng thì màn nước quanh chiếc váy ngủ màu trắng của Frances chợt lóe lên màu xanh. Nguồn gốc của luồng ánh sáng này là một con cá màu xanh đang búng tanh tách và bơi dưới chân cô. Nó thật là đẹp. Lily thức dậy và hét lên.

"Lily, ôi Chúa quyền năng!", mặt Frances tái nhợt đi và cô nhìn chằm chằm vào cái tư thế hoảng sợ của Lily, bây giờ cô bé đã im lặng và nằm thẳng tắp bên cạnh cô trên giường.

Ngọn đèn ngay trên đầu bật sáng, James chạy đến một cách lo lắng trong chiếc áo choàng kẻ sọc. "Có chuyện gì xảy ra vậy?"

Mercedes xuất hiện ngay sau lưng ông, lại có một nếp nhăn mới xuất hiện trên trán cô.

"Không sao, nó chỉ gặp ác mộng thôi", Frances nói và vỗ nhẹ lên cái lưng cứng ngắc của Lily. Lily quay sang nhìn James, James đến bên cạnh và bế cô bé lên, cô bám cứng chân tay vào người anh và đặt đầu lên vai anh, mắt mở to. Anh nhẹ nhàng đong đưa cô bé qua lại và hơi suy nghĩ một chút về một loạt ác mộng xảy ra dạo gần đây trong
nhà anh.

Lily nói "Con mơ thấy con là một con cá."

Frances rùng mình, Mercedes xoa nhẹ hai thái dương của cô bé.

"Ở dưới lạch", Lily tiếp tục, "và con không thể thở được."

Mercedes đi xuống bếp để làm sữa nóng cho tất cả mọi người, Frances lăn qua và giải cứu Lilian Gish khỏi tảng băng nổi, James rời khỏi phòng nhưng quay lại ngay sau vài phút, ngay trước Mercedes. Anh đang bế Trixie, Trixie trông thật thảm hại nhưng nó đủ thông minh để biết rằng nó không nên cử động khi đang nằm trên tay của người này. Anh nhẹ nhàng đặt Trixie xuống bên cạnh Lily, nó bò lên và che hết cả mặt Lily bằng cả bộ lông đen một cách đáng ngạc nhiên. Khi Mercedes đưa sữa nóng cho mọi người, James đổ một ít trong ly của anh ra tay và đưa cho Lily. Trixie nhìn anh, sau đó cúi xuống và liếm sạch.

"Giờ con cảm thấy đỡ hơn chưa con yêu?", James hỏi.

"Rồi ạ", Lily trả lời.

Trixie cuộn mình giữa Frances và Lily, James đắp mền cho chúng và tắt đèn.

Quay trở về phòng mình, Mercedes đang cố đọc xong Jane Eyre một lần nữa. Cô thật sự rất biết ơn khi Frances trả lại quyển sách yêu thích của cô nguyên vẹn. Còn bây giờ, với cảm xúc lẫn lộn giữa thỏa mãn và hối tiếc cho hồi kết của cuốn sách yêu thích, Mercedes lật đến trang cuối cùng và thấy chữ viết nguệch ngoạc không thể lẫn đi đâu được của Frances trên tờ bỏ trắng. Đó là một đoạn kết, trong đó bàn tay đã bị thương và bị mất trong ngọn lửa của ông Rochester đã quay lại và bóp chết đứa con mới sinh của họ.

Mercedes gấp quyển sách lại và chỉ thở dài, cô đã không khóc và không nghiến răng nữa. Nó đã quá đủ rõ ràng rằng các em gái của cô đang cố động vào tất cả những thứ có ý nghĩa với cô và phá hủy chúng. Giờ thì Mercedes từ bỏ, một ngày nào đó cô sẽ cưới một người tuyệt vời, có thể đó không phải là Valentino, nhưng dù sao vẫn là một người tuyệt vời. Cô sẽ có gia đình riêng của mình và họ sẽ sống một cách văn minh. Frances có thể ở chung nhưng đó sẽ là lâu đài của riêng Mercedes, dĩ nhiên là cả chồng cô nữa. Nhưng vẫn chưa thể được, cha đang cần cô. Ôi Đức mẹ Mary giàu lòng nhân từ, Chúa đang ở cùng người...

"Nếu em là một con cá thì làm sao mà em không thở được?"

Frances vẫn không đụng vào ly sữa của mình, nó đang ở cái bàn bên cạnh giường và đã có một lớp màng nhăn nhúm ở trên.

"Em chết đuối."

"Cá không chết đuối."

"Chị cũng ở đó nữa Frances."

"Dưới lạch hả?"

"Chị còn nhỏ lắm."

"...Chị biết."

"Chị đang cầm gì lúc đó vậy?"

"Không có gì... Chị không nhớ nữa. Đi ngủ đi, đó chỉ là một giấc mơ thôi."

 

Bàn tay của Lily sáng lên màu đỏ khi cô cầm bức tượng Đức mẹ bằng nhựa - những sợi dây dẫn màu đỏ tươi dưới sợi dây của sinh mạng, của định mệnh, của trái tim và đầu óc, bàn tay cô đang chảy máu, chảy ra ánh sáng.

 

Khuya hôm đó Frances thức dậy vì cảm thấy có gì đó đè lên ngực, cô mở mắt và nhìn thẳng vào khuôn mặt của Trixie đang gí sát vào mặt cô và nhìn chằm chằm. Cái chân đen với những cái móng trắng quơ quào và khựng lại trong không khí. Một thứ gì đó nhăn nheo và mỏng manh cứ như một miếng trứng sống đong đưa ở khóe miệng Trixie. Frances chớp mắt và Trixie quay lại chỗ cốc sữa còn âm ấm ở cái bàn cạnh giường và lờ Frances đi, chùi cái mặt dính đầy sữa của mình rồi lại hụp xuống uống tiếp.

 

Lần đầu tiên Ambrose đến tìm Lily, cậu ta không mặc gì trên người chỉ trừ cái áo ngủ màu trắng của Frances đã bị mục rữa mà lúc cậu chết cậu đã được gói vào. Những mảnh vải vụn bám vào người cậu và khẽ rung rinh vì có một ngọn gió nhẹ khi Ambrose đến. An toàn và im lặng trong cái mộ của mình trong vườn, cậu ấy không hề nằm mơ vì cậu vẫn chưa ngủ. Cậu đã lớn lên nhiều. Cơ thể bám đầy đất và than nhưng cậu lại xanh như một cái rễ cây. Mặc dù cậu đúng bằng tuổi của Lily nhưng cậu đã cao lớn như một người đàn ông trong khi cô bé vẫn chỉ là một đứa trẻ. Điều này là do môi trường khác nhau. Mái tóc thiên thần lưa thưa của cậu có màu gì dưới đám đất và bồ hóng đó? Đỏ. Cậu đang đứng ở chân giường, Frances đang ngủ, còn Lily đang ở đâu đó ở giữa. Sao cô có thể thấy một thứ như thế mà không hét lên? Thấy một thứ như vậy và biết rằng đó không thể là một giấc mơ bởi vì đó là chân giường mình, đó là chị gái mình đang ngủ, đó là con búp bê rách rưới của mình, và đó là Trixie đang nằm cuộn mình giữa hai chị em với một mắt đang mở.
Và đó là Ambrose, mặc dù Lily vẫn chưa nhận ra người anh sinh đôi của mình.

"Anh là ai?"

Cô đã nói vậy sao? Chắc chắn là cô đã nói vì người đàn ông đang đứng ở chân giường nhìn cô đã mở miệng ra và định trả lời. Khi cậu vừa làm vậy, nước tràn ra từ trong miệng cậu và làm ướt sàn nhà. Giờ thì cô bé hét lên. Giờ thì cô bé hoàn toàn "tỉnh táo" - trở lại với một nơi được ghi ra rõ ràng trên bản đồ, một nơi gọi là "tỉnh táo". Ở phía bên kia của vương quốc này là địa phận của "mơ ngủ". Bạn có thấy cái khoảng tối giữa hai vương quốc không? Đừng bén mảng đến đó nhé. Đó là "Vùng đất không người."

Lily đã được an toàn ở chỗ "tỉnh táo" và mong là sẽ lờ mờ thấy khuôn mặt bực bội của Frances đang nhìn cô, mong là đèn sẽ lại bật sáng và cha sẽ chạy vào bế cô lên và thắc mắc tại sao cô có thể có tới hai cơn ác mộng trong một đêm. Nhưng không có chút ánh sáng nào và Frances thì vẫn đang ngủ. Lily đã không hét lên, mặc dù tiếng khóc của cô đủ để làm cô thức dậy thì rõ ràng là nó không lớn hơn một tiếng thút thít là mấy bởi vì cả ngôi nhà vẫn đang hít thở bình thường, phồng lên, xẹp xuống, và đang mơ. Và thấy gì không? Chẳng có người đàn ông nào đứng ở chân giường cả, không có nước trên sàn nhà trong khi lẽ ra là phải có nếu như anh ta đã thực sự ở đây.

Lily không nói với ai về giấc mơ này bởi vì nó quá đáng sợ tới mức cô bé không nói được. Mặc dù giấc mơ về Frances đang ôm một cái bọc đen và con cá phát sáng màu xanh đã làm Lily hét lên và đánh thức cả nhà dậy thì giấc mơ về "Người đàn ông nước" làm cô thức dậy vì một tiếng thút thít còn đáng sợ hơn nhiều.

 

Đứa bé cầu nguyện cho một cái chết vui vẻ

Ôi Chúa của con, ngay lúc này con nguyện nhận từ tay Người cái chết mà Người đã ban cho với tất cả sự đau đớn và thống khổ của nó.

Ôi Giêsu, con nguyện dâng cho Người giây phút hấp hối và và tất cả sự đau đớn trong cái chết của con...

Ôi Đức mẹ Mary đồng trinh, xin hãy cầu nguyện cho chúng con bay đến bên Người. Nơi nương náu cho những kẻ tội đồ, Đức mẹ của những con người đang hấp hối, xin đừng bỏ chúng con trong giờ lâm tử mà hãy ban cho chúng con nỗi đau trọn vẹn, sự thành tâm hối lỗi và tha thứ cho tội lỗi của chúng con, sự ân chuẩn đáng giá cho quần áo thánh và sự mạnh khỏe trong lễ xức dầu thánh. Amen.

Xơ MARY AMBROSE, O.P.

 

"Cầu nguyện cho một cái chết vui vẻ" được trích từ một quyển sách bỏ túi cho trẻ em mang tên "Món quà cho Giêsu", bài kinh này là bài cuối cùng trong quyển sách và rất có ý nghĩa. Quyển sách này là một món quà Mercedes cho Lily không nhân dịp gì cả. Khoảng hai mươi phút trước Mercedes bước vào và nói "Này Lily, đây là một món quà cho em, chẳng nhân dịp gì đâu", sau đó Mercedes đi đến nhà Helen Frye.

Đó là một ngày Chúa nhật khá nóng và lẽ ra Frances và Lily phải đang tung tăng ở bãi biển - Lily ngồi trong chiếc xe đấy cũ và Frances đang đẩy nó chạy như bay, băng qua những hòn đá và sỏi, lao qua những màn nước bắn tung tóe và cùng nhau hét lên vì sợ hãi và thích thú. Nhưng thay vào đó chúng lại đang mặc áo dài và đội khăn xếp lấy từ tủ đồ vải lanh và bị nhốt trong nhà vì cha nói rằng chơi ở ngoài không an toàn. Thực ra thì ông đã lái xe đưa Mercedes đến nhà Helen ở đường Ninth và cũng định sẽ lái xe đưa cô về nhà. Cuộc đình công đã kéo tới tận tháng sáu và tình hình trở nên xấu đi.

Lực lượng an ninh đặc biệt của công ty đang nổi cơn thịnh nộ: những tên khủng bố say xỉn trên lưng ngựa đang cầm gậy và sung, hạ gục những người đi đường - phụ nữ, trẻ em, chẳng có gì khác nhau. Những ông chủ giờ là một hệ thống độc quyền mang tên Công ty than và thép Đế chế Anh, "Besco". Lần này thì họ không chỉ cắt giảm tín dụng tại cửa hàng công ty mà còn cắt nước và điện của New Waterford. Cả tuần vừa rồi, những đoàn người xách xô đi kiếm nước không chỉ còn tập trung ở các giếng nước mà còn rải khắp cả thị trấn. Ở Bệnh viện trung tâm New Waterford, trẻ em nằm la liệt, người khô khan giữa một cơn bùng nổ mới của tất cả các bệnh cũ với những cái tên đẹp đẽ.

Người ta không thể cứ xách xô đi mãi mà không có gì để ăn để duy trì sức khỏe và sự tái diễn của cảnh tượng những chiếc hòm trắng nhỏ xuất hiện hầu như mỗi ngày đã thuyết phục họ rằng tốt nhất là họ nên dùng chút sức lực cuối cùng của mình để đánh bại những tổ chức có lỗi.

Khi James đưa Mercedes đến nơi, anh lái xe đi tiếp đến Sydney để mua nước đóng chai và dầu hỏa cùng những lời dặn dò kĩ lưỡng với mấy cô con gái là phải "ở yên trong nhà". Trừ việc không được ra ngoài vào các ngày Chúa nhật, còn lại thì bọn trẻ không quan tâm mấy. Thật là vui khi quay lại sử dụng đèn dầu và nến "như hồi xưa". Frances có thể đi mạo hiểm một mình còn Lily thì sợ chuyện đó xảy ra đến mức cô bé thề rằng cô sẽ nói ra nếu như Frances dám làm.

Sau khi mệt mỏi vì chơi trò "Đêm Ả Rập", Lily và Frances mải mê đọc cuốn "Món quà cho Giêsu", cũng như các chị của mình trước đây, Lily đọc rất tốt, nhưng cô bé chưa hề có cơ hội tự đọc quyển sách vì Frances đã chộp lấy nó, lật đến trang cuối - theo thói quen của cô bé khi đọc bất kì quyển sách nào - và đọc lớn. Lily hiểu tất cả trong đoạn kinh cầu cho một cái chết vui vẻ chỉ trừ một từ.

"Quần áo thánh là gì?"

"Đó là một từ thiêng liêng để chỉ những bộ quần áo lót sạch sẽ."

"Giờ em đọc được chưa Frances?"

Lily chồm tới nhưng Frances lại đưa quyển sách ra chỗ khác và giải thích "Khi em sắp chết thì một thầy tu sẽ đến và làm lễ xức dầu cho em, ông ấy sẽ lấy một bộ đồ ra khỏi ngăn kéo của em và tuyên phúc cho nó, sau đó mặc vào cho em. Hoặc nếu trong trường hợp khẩn cấp mà không có thầy tu thì bất kì ai cũng có thể tuyên phúc cho một bộ quần áo sạch. Đó là lí do người ta nói quần áo "Trái ngọt của khung cửi", nó xuất phát từ Đức mẹ Maria nếu em nói "Được tuyên phúc là trái ngọt của khung cửi, Giêsu."

"Hồi nhỏ em có được mặc quần áo sạch lúc em xém chết không?"

"Có."

"Cha Nicholson đã ban phúc hở?"

"Không, chị làm. Lily, nhìn này", Frances đã để ý đến cái tên ở trang bìa quyển "Món quà cho Giêsu". "Quyển sách này do một xơ tên Mary Ambrose viết."

Lily thở ra, hùa theo "Bà ấy có biết anh trai mình không?"

"Có thể đây là một thông điệp do chính Ambrose gởi cho mình đấy."

Lily nhìn đầy thắc mắc vào trang bìa khi Frances ngồi suy luận.

"Ambrose đang gởi gắm qua nữ tu sĩ này, nó cũng làm cho Mercedes mua quyển sách này và đưa cho em như vậy em sẽ biết được rằng nó đang dõi theo em."

Chúng nhìn nhau và thống nhất về sự khám phá đó.

"Lúc nào anh ấy cũng nhìn em hở?", Lily hỏi.

"Ừ."

"Lúc em hư?"

"Ừ."

"Anh ấy sẽ nói với Chúa chứ?"

"Dù sao thì Chúa cũng biết tất cả mọi thứ rồi."

"À vâng", điều này vừa thoáng qua trong óc Lily.

"Ambrose biết lúc em đang ngủ, biết khi nào em thức dậy."

"Giống ông già Noel sao?"

"Nói vậy là báng bổ đấy Lily."

"Em xin lỗi."

"Đừng nói với chị, nói với Chúa ấy."

Lily khoanh tay lại, nhắm nghiền mắt và thì thầm "Xin lỗi Chúa mến yêu" và nhanh chóng làm dấu chữ thập. Việc làm dấu chữ thập sau khi cầu nguyện cũng quan trọng như dán tem lên thư vậy, nếu không thì thông điệp của bạn sẽ không thể đi đến đâu cả mà chỉ bị quên lãng đi thôi.

"Chị Frances, biết sao không? Chúa là ông già Noel và ông già Noel chính là Chúa đấy."

"Không phải vậy đâu Lily."

"Nhưng Chúa ban cho chúng ta những món quà và biết hết tất cả mọi thứ và ông già Noel cũng vậy."

"Ừ, nhưng ông già Noel không có ban cho người ta bệnh cùi hay làm động đất xảy ra, em ngốc quá, ông ấy cũng không làm cho tàu Titanic chìm hay làm người ta bị chặt chân."

Frances lại tập trung vào quyển sách và lờ Lily đi.

"Chị Frances?"

Không trả lời.

"Chị Frances?"

"Cái gì!"", và dập quyển sách lại.

"Ambrose sẽ mang quà đến cho em chứ?"

"Nó sẽ mang cho em một đống than nếu như em không ngoan."

"Nhưng nếu em ngoan thì sao?"

"Ambrose không quan tâm em ngoan hay không đâu Lily."

"Vâng."

"Nó chỉ quan tâm em có ổn hay không và có được vui vẻ hay không thôi."

"Sao lại vậy?"

"Tại nó yêu em."

Frances nhìn thẳng vào Lily, Lily đang thể hiện một khuôn mặt tập trung chú ý hết sức.

"Em không biết Ambrose là ai sao Lily?"

"Đó là anh trai bé bỏng đã chết của em."

"Nó là thiên thần hộ mệnh của em đấy."

Trán Lily nhăn lại. "Mọi người đều có thiên thần hộ mệnh của mình đúng không chị Frances?"

"Đúng vậy, nhưng hầu hết họ không biết thiên thần hộ mệnh của mình là ai. Em rất may mắn đấy, em biết thiên thần hộ mệnh của em là ai, và đó chính là anh trai của em và nó đang dõi theo em. Nó yêu thương em, thực sự rất yêu em đấy Lily."

"Đừng khóc, chị Frances."

"Chị không có khóc."

"Có, chị đang khóc mà."

Frances quệt mắt, cổ họng cô nghẹn lại, đúng là cô đang khóc. Tại sao chứ? Cô không cảm thấy buồn cho tới lúc cô bắt đầu khóc.

"Chị Frances?.... Frances, lên trên chơi nhé, chúng ta đi xem hộp đựng đồ nhé."

Nhưng mà Frances đang khóc.

"Frances, chị có muốn tắm cho Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi không? Được mà, em sẽ để chị tắm cho nó nếu chị muốn. Hay chị muốn đeo thử dây đeo của em? Này, em cho chị
thử đấy."

Frances đã làm rơi quyển "Món quà cho Giêsu", Lily nhặt nó lên và lặng lẽ đọc, mải mê ngắm những bức tranh sáng sủa. Cho tới khi Frances cảm thấy đỡ hơn thì Lily sẽ hỏi cô ấy INRI nghĩa là gì, nó là chữ viết trong cuộn giấy được đóng vào đỉnh cây thánh giá của
Giêsu. INRI.

Lily nghĩ, mình sẽ hỏi chị Frances, chắc chị Frances sẽ biết.

Chiều tối ngày hôm đó Mercedes về nhà và cũng khóc, nhưng vì một lí do khác. Lúc ở trong xe thì cô nói với cha rằng tại vì cô và Helen đã nói chuyện về những đứa trẻ nghèo trong bệnh viện. James chỉ gật đầu, bà Luvovitz đã nói trước với anh rằng con gái tuổi này rất giàu cảm xúc, điều duy nhất mà người ta có thể làm là bảo chúng đừng khóc. Anh nhìn cho tới khi Mercedes đã vào nhà an toàn rồi quay xe lại và hướng về phía thị trấn vì anh đã quên ghé vào bưu điện.

Mercedes rón rén đi lên phòng và nhẹ nhàng đóng cửa lại, cô không muốn gặp ai và cũng không muốn giải thích chuyện gì, cô nằm úp mặt xuống gối và khóc. Ngày hôm nay một người thợ mỏ tên Davis đã bị bắn chết, có một cuộc nổi loạn xảy ra tại nhà máy năng lượng ở hồ Waterford. Những người thợ mỏ đến đó để san bằng đồn cảnh sát công ty và mở lại nguồn điện nước cho thị trấn, những người thợ mỏ có gậy gộc, đá và gỉ sắt; đám cảnh sát có súng và ngựa nhưng những người thợ mỏ đã thắng. Chỉ trừ việc có vài người bị bắn và ông Davis tội nghiệp thậm chí còn không tham gia vào cuộc chiến thì lại bị bắn chết, ông ấy đang trên đường đem sữa về nhà cho con mình, họ tìm thấy một chai sữa em bé trong túi áo ông. Giờ lại có thêm bảy đứa trẻ không cha ở New Waterford.

Nhưng đó không phải lí do mà Mercedes khóc, chiều nay cha của Helen Frye về nhà với một viên đạn găm trong cổ tay. Trong khi bà Frye lấy viên đạn ra, ông Frye uống một chai thuốc và nói với Mercedes rằng ông rất "lấy làm tiếc, vì ta biết cháu là một cô gái tốt, Mercedes. Nhưng ta chỉ có một đứa con gái và ta không thể để nó dây dưa gì với nhà Piper được."

Nước mắt đầy lên trong mắt Mercedes và khuôn mặt cô có cảm giác như bị bỏng, cô cảm thấy mất thể diện cứ như có ai đó mới bắt quả tang cô đang làm một việc riêng đáng xấu hổ nào đó nhưng cô không thể nghĩ ra mình đã làm gì sai. Bà Frye vẫn đang cố gắng đào bới trong cổ tay của ông Frye trong khi ông chuyển sang màu tái nhợt nhưng không hề nhăn nhó mà vẫn nói giọng rất lịch sự, những từ làm Mercedes như vỡ nát. Ông nói cha Mercedes là người xấu, một người buôn rượu lậu, một tên phá hoại, một kẻ thù của cả thị trấn. Sau đó Helen bị bắt đi lên gác và Mercedes phải ngồi ở nhà trước đợi cha cô lái xe đến đón.

Mercedes cuộn mình nằm nghiêng và bắt gặp hình ảnh của Valentino trong cái khung hình đặt trên tủ áo, bên cạnh bức tượng sứ nhỏ hình người phụ nữ mặc một bộ đồ cổ điển. Valentino làm cho nước mắt chảy ra thêm, nhưng đó là nước mắt của sự an ủi. Ít ra em vẫn còn có anh, tình yêu của em. Còn bức tượng nhỏ làm cho cô nhớ lại cha cô là người tốt như thế nào. Đúng vậy, ông đúng là một người tốt bụng và đàng hoàng. Và nếu, nếu, cha bị buộc phải làm những việc gì đó thì đó chỉ là do ông quá yêu chúng ta và chúng ta không còn mẹ để được chăm sóc. Nước mắt. Mercedes có thể nghe thấy mẹ hát, và đó là quá nhiều rồi. Cô lấy gối bịt tai lại và cố ép âm thanh đó ra khỏi đầu mình. Cô xua đuổi những kí ức đi và cố tập trung vào điều quan trọng ngay lúc này: gia đình. Giúp đỡ cha - một người đàn ông rất rất tốt, người phải chăm sóc đứa con gái bị tật suốt cả ngày dài. Nếu ông Frye và những ngưòi khác có thể thấy lúc ông ở bên Lily thì mọi người sẽ hiểu.

Mercedes đã bình tĩnh hơn và ánh mắt cô lạc sang bức hình của Bernadette trong hang động của Đức mẹ ở Lourdes, Bernadette đã được tuyên phúc. Một ngày nào đó cô ấy sẽ trở thành một vị thánh. Họ đã đào cô lên và cô ngọt ngào như một đóa hoa hồng - đó là mùi của thánh thần. Cô ấy cũng là một cô bé bị tật, có thể mọi người cũng ghét cha của cô.

Mercedes đã khóc đến lúc gần ngủ nhưng khi cô sắp sửa ngủ thì có một kế hoạch nảy ra trong đầu. Ngày mai cô sẽ đưa Lily đi dạo, họ sẽ đến bệnh viện, không phải đến những khu phòng bệnh vì cô không muốn Lily nhìn thấy gì, chỉ đến khu vực tiếp tân. Ở đó Mercedes sẽ giúp Lily phân phát những cuốn truyện cũ và quần áo cũ cho mấy đứa trẻ nghèo trên gác, cũng như Mercedes sẽ nướng một ít bánh. Sau đó thì mọi ngưòi sẽ biết... Một người đàn ông tốt đến thế nào...

James mất một khoảng thời gian dài bất thường để đến được bưu điện vì có một số con đường không thể đi được, đá văng lên mui xe và một đám trai trẻ lao đến rồi đẩy chiếc xe tới lui. Anh cố gắng thoát khỏi họ nhưng anh cảm thấy đại lộ Plummer như một đàn ong vỡ tổ. Một đám cảnh sát công ty ngã ngựa đang bị đá, bị thụi và giải đến nhà lao. Đám phụ nữ chạy sau những người tù nhân và vung vẩy những cây kim cài nón, họ cũng sử dụng chúng. Đêm nay thế nào cũng có chuyện.

James lái đến đường Shore, đậu xe ở đó và đi bộ men theo vệ đường để quay lại bưu điện. Anh có thể để việc này lại ngày mai nhưng anh nghĩ rằng bưu điện và cả một nửa số tòa nhà trên các con đường chính sẽ bị đốt trụi còn anh thì đang đợi số tiền.

Anh bước vào bưu điện, nhận tiền và chuẩn bị đi thì "Có một bức thư nữa, thưa ông Piper."

James với lấy bức t 17ec hư từ tay người thư kí, thư từ khá là hiếm. Những gói hàng và hình ảnh lâu lâu được gởi đến cho Frances nhưng James đã xem qua trước khi đưa cho con bé, anh cũng đã tịch thu vài chai "Rượu Coca: dành cho não bị suy nhược và lơ đãng". Ngay lúc này thì bưu điện đang ồn ào vì những sự kiện trong ngày và người ta đang bám vào các khung cửa sổ để xem đám đông đi qua nhưng tất cả bỗng trở nên im lặng tuyệt đối quanh James khi anh nhìn thấy cái tên ở mặt trước của phong thư: Gửi cô Kathleen Piper.

Anh thấy như mình bị bất tỉnh trong chốc lát, như một cái chớp mắt của bộ não đi kèm với ánh đèn chớp của máy chụp hình. Sau đó những âm thanh ồn ào lại tràn về quanh anh và trong một lúc anh nghĩ rằng những tiếng ồn ào đó đang nói về việc có ai đó gửi thư cho Kathleen Piper, ai đó đã gởi thư cho con gái anh mà không biết rằng - hoặc cũng có thể đã biết - là cô đã chết.

Chỉ là hình ảnh của cái tên được khắc bằng tay, hoàn toàn không giống với những nét chữ khắc trên các phiến đá ngoài rìa thành phố - đây là lí do tại sao ánh sáng trong đầu anh lóe lên và nhòa đi trong một ý tưởng thoáng qua rằng cô vẫn còn sống. Có thể đó là một sự điên rồ, James nghĩ vậy. Chỉ trừ việc ánh sáng đó kéo dài mãi, có thể như vậy cũng tốt.

Anh quay trở lại xe trước khi mở bức thư, anh vẫn nhớ một bức thư trước đây rất lâu. Người giấu tên. Thật khủng khiếp. Nó đã làm thay đổi mọi thứ. Anh xé phong bì, mớ bức thư ra - nét chữ con gái tinh tế. Anh đọc:

Kathleen thân,

Tôi rất lấy làm tiếc khi nghe về tai nạn của cô, cô rõ ràng là một cô gái rất can đảm và cô cũng thật may mắn khi có một người cha tốt như vậy. Có thể một ngày nào đó cô có thể rời khỏi chiếc xe lăn và có thể chạy nhảy chơi đùa trở lại. Tôi mong là vậy. Đây là một bức hình với chữ kí của tôi để cô có thể bổ sung cho bộ sưu tập của mình với tất cả những điều ước tốt đẹp nhất của tôi.

Thân mến,

Lilian Gish

James ấn nút khởi động trên chiếc xe và lái về nhà, anh sẽ lôi Frances ra cái lán và bắt nó giải thích về trò đùa này.

Đêm hôm đó, cha và Mercedes và Lily đứng ngoài hiên để xem những ngọn nến diễu hành khắp thị trấn, Frances đang nằm trên giường trên gác với một cái khăn ướt trên mặt. James đậu xe và đổ đầy nhiên liệu để phòng khi họ phải đi gấp. Quân đội sẽ không đến
đây trong vài ngày tới, nhưng cho tới lúc đó thì tốt hơn hết là nên chuẩn bị.

Trước tiên đám thợ mỏ đốt cửa tiệm giặt là ở đường Number 12, sau đó họ đột kích vào những cửa hiệu công ty - họ không làm vậy để đe dọa hay để dìm cả thị trấn trong lửa. Sau đó họ kéo đến nhà lao để hành hình đám cảnh sát công ty nhưng thầy tu đã đến và giải thích cho họ rời khỏi đó. Đã có đủ những đứa trẻ không cha ở New Waterford rồi.

 

31/10/1918

Ông Piper thân mến,

Con gái của ông đang gặp nguy hiểm. Biết rằng Kathleen xuất thân từ một gia đình tốt và được thiên phú cho một giọng hát phi thường, tôi nghĩ rằng đó là nhiệm vụ của tôi đối với ông và với cả thế giới rằng phải báo động cho ông biết. Thưa ông, tôi biết ông đang ở một đất nước khác và có thể may mắn rằng ông không biết đến từ "hôn nhân khác chủng tộc". Đó là một điều xấu xa hiện đại và nó đang làm mỏng đi bộ xương của cả quốc gia. Bây giờ thì nó đang đe dọa tấn công con gái ông. Thông qua những sự cám dỗ và nịnh bợ xảo quyệt, con gái ông đang bị gài bẫy vào một cái lưới của những thứ âm nhạc xấu xa và những điều trái luân lí. Tôi chỉ biết nhìn tuyệt vọng mà không thể can thiệp vì tôi là một người ngoài. Tôi chỉ nói như một người nhìn thấy được giá trị của cô ấy, khi tôi nói ra điều đó bằng cách băng qua ranh giới tự nhiên, con gái ông đang tự chuốc lấy sự tàn lụi cho chính mình và chỉ có thể kết thúc trong những tàn dư đen tối của con quái vật trong mỗi con người. Có thể là vẫn chưa muộn, con gái ông vẫn còn trẻ. Đó là đặc quyền của ông khi muốn lờ đi hay muốn chỉ trích những lời nói của một người xa lạ. Chính lương tâm của tôi đã viết nên bức thư này để có thể hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng của một con chiên Thiên Chúa giáo.

Người ẩn danh luôn mong những điều tốt. 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86299


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận