Không Lối Thoát Chương 4


Chương 4
MỎ THAN KIỂU PHÁP CŨ

Để Ta Không Quên

Chân Lily đang chảy máu. Cô bé không biết điều đó, bởi nỗi đau đang bị tiếng kèn túi át đi. Kèn túi được thiết kế để làm điều đó mà. Nhưng nếu Lily có cảm nhận được nỗi đau và thấy máu thấm ướt phía sau tất của mình đi nữa, con bé sẽ vẫn tiếp tục cuộc diễu hành mà không ngừng lại, bởi vì cô đang ở trên đỉnh thế giới. Tay cô đang cầm lá cờ Nova Scotia trên Đại lộ Plummer. Tim và phổi cô cũng to và kẻ sọc giống như những chiếc túi đựng khí trên kèn ống vậy. Và một lần trong đời, tướng đi của Lily lại trở thành tướng đi lý tưởng, đôi chân bị lệch của cô bé khiến cho dáng đi của nó khập khiễng một cách nhịp nhàng, và điều đó lại rất hợp với tiếng nhạc nhún nhảy cứ ngân cao lên sau mỗi hai nhịp gõ. Lily nở một nụ cười thật tươi trên khuôn mặt nhưng cùng lúc đó nước mắt lại chảy trên mi - tiếng kèn ống luôn làm cô cảm thấy vừa buồn thảm vừa phấn chấn. Với một bông hoa anh túc cài trên chiếc khăn choàng kẻ sọc của mình, Lily cảm thấy cô giống như một chiến sĩ dũng cảm. Hôm nay là ngày 11 tháng 11 năm 1929, kỷ niệm 11 năm ngày ký hiệp định chấm dứt Chiến tranh Thế giới I (11-11-1918). Hôm nay chúng ta nhớ về Cuộc Chiến Tranh Chấm Dứt Mọi Cuộc Chiến Tranh khác.

Người dân New Waterford tràn cả ra đường và xếp thành hàng dài trên Đại lộ Plummer. Cả James cũng ra đường - nhưng không phải như một cựu chiến binh mà như một ông bố danh dự. Mercedes đứng cạnh anh trước hiệu sách nhà Cribb. Bên kia đường, tiệm Thức ăn Do Thái Canada nhà Luvovitz đã đóng cửa, màn được kéo xuống. Nếu họ có không nhớ ngày này thì cũng chẳng hề hấn gì cả, nhưng đơn giản chỉ là vì bà Luvovitz thích đón Lễ Tưởng Niệm ở nhà, tránh xa khỏi những cảnh tượng và âm thanh của ngày này bên ngoài hơn. Frances lẽ ra cũng phải ở đây, nhưng cô bé hiện đang ở Nhà hát Hoàng Gia để ngắm lại Louise Brooks trong vở Hộp Pandora trước khi vở này bị chính quyền phát hiện ra và cấm diễn.

Đoàn diễu hành rẽ sang hướng Đài Tưởng Niệm Những Người Thợ Mỏ. Mặc dù được dựng lên để tưởng nhớ 65 người thợ mỏ đã thiệt mạng trong vụ nổ năm 17, đài tưởng niệm này đã trở thành một biểu tượng của tất cả những người khác đã hy sinh trong chiến tranh trong cũng như ngoài nước: những người như ông Davis, đã bị bắn trên đường, và tất cả những ai đã hoặc sẽ bị nổ tung hoặc chết vì nhiễm khí độc trong một cái hào hay hầm mỏ nào đó. Tiếng kèn túi đột ngột im bặt. Lily và tất cả những người còn lại tiếp tục diễu hành dưới tiếng trống mạnh mẽ cho đến khi họ ngừng lại tại đài tưởng niệm. Sau đó là hai phút im lặng.

Bạn có thể nghe thấy tiếng sóng biển. Bạn nghe được cả tiếng chim và tiếng gió thổi. Bạn nghe được tiếng cây anh túc nở hoa trên những cánh đồng vùng Flanders giữa những hàng thánh giá trập trùng. "Chúng ta vừa mới lìa trần - đã từng được sống tình thân vui buồn - bình mình rực rỡ thương yêu - hoàng hôn ấm áp tim yêu dịu dàng - đã từng yêu, đã yêu thương." Những người đàn ông chắp tay phía trước, mặt hằn lên nét lạnh lùng, sắt đá. Những người phụ nữ đứng thật nghiêm trang. Mỗi người trong họ đều đang nhớ về những người thân sẽ sống mãi với tuổi trẻ của mình.

Một tiếng than khóc thật lớn bay vút lên, tiếng ò è lại nổi lên và dàn kèn túi lại tiếp tục cuộc diễu hành. Điều này khiến bao giọt nước mắt phải tuôn rơi, dù cho kèn túi đã than khóc thay cho mọi người rồi. Một nhạc cụ xưa làm từ cây sậy đánh thức điều gì đó thuộc về những ngày xưa cũ và gửi nỗi buồn vào một viễn cảnh bền vững dài lâu. Có lẽ bởi vì cỏ là loại nhạc cụ lâu đời nhất của tất cả mọi người.

Lily cảm thấy an toàn khi đứng giữa những đôi chân đàn ông xanh xao đầy lông rắn chắc đang nhảy múa theo nhịp giữa những đôi vớ, những cái túi spo-ran nhún nhảy và những cái váy kilt đung đưa. Cô cảm thấy thật thân thiết, gần gũi với họ làm sao. Cứ như đã cùng nhau chiến đấu trên chiến trường vậy. Cô bé thích làm một người lính. Dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô muốn được trở thành cựu chiến binh khi lớn lên. Cô sẽ không sợ hãi trước đau thương hay bom đạn, cô sẽ nhảy qua đỉnh và quỳ trên gối nạp đạn để lao vào trận chiến. Cha đã nhận được huân chương Anh Dũng Bội Tinh, ông MacIsaac đã cho cô bé biết điều đó.

Chỉ khi tiếng kèn túi và tiếng trống ngừng lại và ban nhạc chuyên dùng bộ gõ bằng đồng ở phía sau cất lên bài "Rule Britannia" Lily mới bắt đầu cảm thấy nhói ở chân trái, cái chân nhỏ hơn của cô. Đôi bốt nâu của Lily, với cái đế đúc được cha làm riêng, đã được gắn chặt vào miếng thép chống khớp nối ở chân cô, nhưng vì còn khá mới nên giờ đang cọ mạnh vào đầu gót của cô. Một vệt đỏ chảy quanh mắt cá chân. Lily lén nhìn mọi người, nhưng vẫn giữ đúng nhịp. Có cha và chị Mercedes này. Có cả ông bà MacIsaac nữa. Lily gửi đến họ nụ cười mà cô hy vọng được coi là một nụ cười nam tính thật mạnh mẽ. Có nhiều người mỉm cười lại với cô bé, trong đó có cả những người cô không hề biết.

Lily không hề biết gì về điều không hay xung quanh cha mình, và mọi người - không chỉ những người trong gia đình - đều đồng lòng giấu cô. Có nhiều trẻ em có khớp nối ở chân, có đứa còn bị gù lưng nữa, nhưng Lily là đứa duy nhất được diễu hành. Cô bé cũng là đứa xinh đẹp nhất trong số những đứa trẻ mang bệnh. Và ngọt ngào nhất nữa. Nhờ Mercedes mà cô trở nên nổi tiếng trong thị trấn, nhưng nhờ chính mình mà con bé có được sự thương yêu của mọi người.

New Waterford không thay đổi nhiều. Những cửa hàng của công ty đã không còn. Besco không bao giờ mở cửa chúng nữa sau vụ cướp năm 25. Nhiều thợ mỏ trở lại làm việc và chấp nhận mức lương thấp hơn đến tám phần trăm, nhưng nhiều người khác đã bị liệt vào sổ đen như những người Bôn-sê-vích. Họ phải di tản vào miền nam biên giới Boston, và làm việc ở những nhà máy và trại gỗ ở New England. Đó là khởi đầu của cuộc di tản không có điểm dừng vào miền Nam và miền Tây diễn ra sau đó. Cuộc khủng hoảng năm 29 tuy đã làm rung chuyển cả thế giới nhưng chỉ gây ảnh hưởng rất nhẹ đến Mũi Breton, và lắng xuống không lâu sau đó vì thật ra, suy thoái đã diễn ra ở nơi này từ rất lâu về trước rồi. Hơn nữa, người ta cho rằng thảm họa của Nova Scotia đã xảy ra từ tận năm 1867 với Liên bang. Bất cứ những gì xảy ra sau đó đều chỉ là dư chấn. Không ai có thể tưởng tượng những năm ba mươi sẽ tệ hơn những năm hai mươi như thế nào. Và như R.B. Bennett vẫn thường nói, "Sự thịnh vượng đang đến rất gần."

Nhưng không gì có thể làm mất đi lòng tự hào công dân - cú ngoặt hôm nay đã chứng minh điều đó. Người dân mũi Breton hòa hợp giữa việc trung thành với nhà vua và đất nước với việc khinh bỉ và hoài nghi tất cả những gì "từ bên ngoài" - ở đây nói những kẻ ngu dốt ở Upper Canada và những tên vô dụng ở Whitehall. Họ vô cùng tự hào về những cựu chiến binh của mình, nhưng cũng rất cay cú với quân đội Canada vì xâm chiếm những mỏ than quá thường xuyên. Mặc dù vậy, lực lượng vũ trang lại đang ngày càng là một lựa chọn tốt cho những người thất nghiệp và những người công nhân nghèo khó đang mong mỏi rũ bỏ được cái nghề khốn khổ đáng nguyền rủa mà họ yêu hơn cả mạng sống của chính họ. Chẳng có nơi nào là "quê nhà" nếu bạn không chịu "đi xa". Vào tháng 11 năm 1929, việc gia nhập quân đội được tiến hành và nhờ đó mà rốt cuộc thì nhiều người sẽ được có "quê nhà" hơn "ngôi nhà". Ngày Tưởng Niệm có xu hướng khơi dậy nhiều cảm xúc lẫn lộn.

Vào những ngày như hôm nay, Lệnh cấm dường như trở nên lố bịch gấp đôi so với bình thường. Vào buổi tối, những căn bếp sẽ ngập tràn với những tiếng nhạc, những gia đình và những cuộc chuyện trò. Bình trà và tách trà sẽ được chuyền đi khắp nhà. Cảnh sát sẽ dễ dãi hơn với các quán bar khách sạn và điểm bán rượu lậu và sẽ có hơn một cuộc cãi vã trong cuộc vui đêm nay.

Tối nay James sẽ không làm việc. Và chắc chắn cũng sẽ không ra ngoài vui chơi, dù đây chính là đêm những sự xa cách có thể được hàn gắn lại - xét cho cùng thì anh cũng là một cựu chiến binh, và vun đắp thêm. Nhưng đây cũng là một trong hai đêm duy nhất trong năm anh không dám đến gần bình rượu, vì anh chỉ muốn quên chứ không muốn nhớ đến cái ngày Hiệp định được kí kết. Khắp nơi trong thị trấn, người ta đang hỏi nhau cái câu hỏi nghi thức "Cậu có nhớ mình đã ở đâu vào cái ngay chiến tranh chấm dứt không?" James nhớ rất rõ. Hôm đó anh ở New York. Anh đã ở căn hộ của Giles ở Greenwich Village. Anh đi qua cánh cửa chính vì nó không khóa. Anh đã gọi lớn, nhưng chẳng ai trả lời. Giờ anh đi xuống tiền sảnh, căn hộ có mùi hoa oải hương, anh đang tìm Kathleen, anh thấy nó-ngừng lại.

Tối nay James cần ở yên trong nhà trong sự bảo bọc của gia đình.

Frances đã về nhà, đang ngồi mơ về một tương lai làm một vũ công nhà chứa nô lệ da trắng ở Cairo, chơi những bài nhạc bị cấm đựng trong chiếc rương của mẹ - Cha nói đó là nhạc da màu, cất chúng đi. Cô bé đang nhấp nhô trên ghế dài chơi bản "Cole Black Rose" khi James và Mercedes ào vào mang theo Lily. Cha bế Lily lên lầu và Mercedes chạy theo. Frances rời cây đàn, chạy hai bậc một lên cầu thang vào nhà tắm, nơi cha đang cởi chiếc vớ đang dính cứng ngắc vào bàn chân bé tí của Lily còn Mercedes thì đi lấy thuốc khử trùng. Lily không thét lên vì đau, nó chỉ nhìn Frances đang đứng ở cửa qua bờ vai của Mercedes. Frances nói, "Không sao đâu, bánh gừng nhỏ bé," đây là một trong số những mật mã đặc biệt của chúng, và thêm vào, "Hayola kellu bas Helm." Cái nhìn của cô không hề dịch chuyển khi đáp lại, "Inshallah." James liếc nhìn Mercedes đang đứng đó nhưng anh không nói gì. Mercedes băng bó vết thương cho Lily, cầu nguyện rằng nó sẽ không để lại sẹo.

Inshallah là một từ ma thuật đối với Lily. Nó bắt nguồn từ thứ ngôn ngữ mà con bé biết là không được sử dụng vào ban ngày ngoại trừ những trường hợp khẩn cấp. Bởi những từ ngữ đó giống như những điều ước thần đèn ban cho - đừng lãng phí chúng. Lily thậm chí còn không hề có kiến thức sơ bộ về tiếng Ả Rập; nó giống như một giấc mơ hơn. Vào ban đêm, khi nằm trên giường đã lâu sau giờ tắt đèn đi ngủ, cô bé và Frances nói thứ ngôn ngữ xa lạ đó. Thứ ngôn ngữ giờ ngủ của chúng. Frances dùng những cụm từ chỉ nhớ được phân nửa để kể những mẩu chắp vá của những câu chuyện cũ, nối chúng lại với nhau bằng những đoạn nhạc, điền vào vô số những khoảng trống trong đó với những từ tự chế hao hao giống tiếng của Old Country của mẹ. Lily đáp lại lưu loát bằng thứ ngôn ngữ tự chế đó, không biết từ nào là thật, từ nào được chế, và từ nào được ghép. Ý nghĩa nằm ở âm nhạc và sự riêng tư của chiếc giường thảm ma thuật của chúng. Nghìn lẻ một đêm.

Đêm hôm đó, khi Mercedes xuống bếp pha cacao cho mọi người, Lily tuột khỏi lòng cha trên chiếc ghế bành không làm cha thức giấc và bí mật nhờ Frances băng lại vết thương giúp nó: Mercedes đã băng hơi chật.

 

Tuổi Mười Sáu Ngọt Ngào

Frances đã cao thêm gần 4cm nữa. Giờ cô đã cao một mét rưỡi và đã đủ lớn để rời trường. Và cô sẽ làm thế, chỉ có điều cha sẽ không đồng ý. Frances muốn ra đời và kiếm một vài kinh nghiệm thực tế để có thể xin làm y tá trong quân đoàn French Foreign Legion. Cô muốn được băng qua một sa mạc cải trang thành một người cưỡi lạc đà vào ban ngày và một cô gái quyến rũ vào ban đêm, để lén chuyển tài liệu mật cho các nước Đồng minh. Mata Hari và bảy lớp mạng che mặt. Ngoại trừ việc Frances sẽ thoát khỏi tiểu đội bắn chỉ thiên ở tận giây cuối cùng. Tuy nhiên, mặc kệ cái tham vọng ngông cuồng đó của Frances, cha vẫn chỉ có một câu trả lời duy nhất: "Kể cả điệp viên - đặc biệt là điệp viên - cần phải có học thức."

Frances đã làm cho Mercedes thấy xấu hổ rồi, bằng cách ở lại đến hai lớp. Không phải vì điều đó tạo nên sự khác biệt quá lớn, khi đến tuổi đi học, cả hai đứa đều được gửi đến trường sớm hơn một lớp nhờ vào việc chúng đã biết đọc và làm những phép tính dài. Như vậy, theo tính toán của Frances, cô chỉ mới ở lại có một lớp thôi.

Frances luôn ngồi cuối lớp với bọn con trai vụng về to xác cho đến khi giáo viên nhận ra rằng tốt nhất nên chuyển cô lên bàn đầu ngồi. Cô trở nên khá thân thiết với anh em nhà Cornelius. Thằng Cornelius em hóa ra là một đứa tử tế, bạn bè nó gọi nó là Mắt Mèo. Mọi người hy vọng khi lớn lên nó sẽ trở thành một linh mục vì không ai có thể tưởng tượng cảnh nó mặc đồ thợ mỏ hoặc đồ lính. Thằng Cornelius anh thì ngỗ nghịch, nickname của nó là Petal. Frances đã nhìn thấy của quý của Petal từ ba năm trước, nhưng cô bé chưa bao giờ cho thằng bé xem của mình cả. Petal luôn luôn nghĩ rằng Frances sẽ để nó thực hành những điều nó đã học được một ngày nào đó, nhưng Frances sẽ chỉ nói với nó, "Mày chỉ là đồ súc vật, biến đi." Petal nghỉ học năm ngoái và chuyển đến Vermount để cắt gỗ và khủng bố người Mỹ, như vậy, ngoài Mắt Mèo và Mercedes, những người không cần tính đến, thì Frances không có lấy một đồng minh đáng giá nào ở trường núi Carmel. Nếu bạn không thể gọi xơ Eustace Martyr là


đồng minh.

Xơ ấy là hiệu trưởng và do đó là kẻ địch lớn nhất của Frances. Không phải vì bà ấy đã dọa đuổi học cô, mà là vì bà ấy từ chối làm vậy. Và nếu vậy thì làm sao Frances có thể ra khỏi trường được chứ? Đến lúc này, Frances đã làm biết bao nhiêu việc tồi tệ, vậy mà dường như chưa có việc nào đủ tệ để xơ Eustace, một phụ nữ mà đức tin - đánh giá bằng niềm tin của bà ấy vào Frances - có thể dời cả núi.

"Con có khả năng thiên phú, Frances. Khi nào con sẽ tự nộp đơn đây?"

Im lặng. Mùi mật ong. Frances sốt ruột.

Xơ vẫn kiên trì. "Có rất nhiều học bổng cho những học sinh sáng dạ, nhưng con phải bắt tay vào và kiên trì giành lấy chúng."

"Con biết, thưa xơ Vô Ích, cảm ơn xơ."

Frances nghĩ xơ Eustace không để ý.

Không thì đã là: "Tại sao con làm những điều này hả, Frances?" Điều này có thể liên quan đến bất cứ gì từ vụ trộm hay phá hoại tài sản người khác đến việc chọc một cô bạn học khóc nức nở bằng cách nói với nó rằng bố mẹ nó vừa qua đời trong một tai nạn xe hơi, "Cái đầu của mẹ bạn đứt lìa ra luôn."

"Tại sao vậy, Frances? Khi chúng ta biết rằng bên trong con là một cô bé ngoan."

"Con xin lỗi xơ. Con sẽ cố cư xử xứng đáng với những nỗ lực đặc biệt xơ đã thay mặt con làm."

"Vậy còn những thứ xứng đáng với con thì sao, Frances? "

Im lặng. Frances liếc nhìn Đức Chúa Giêsu tuyệt vọng tội nghiệp trên cây thánh giá. Nó liếc xuống những ngón tay bám đầy nicotin
của mình.

"Khi lớn lên, con muốn làm gì hả Frances?"

"Một kẻ ăn bám múa hát giúp vui."

Biểu hiện của xơ không mảy may thay đổi. Frances trồng củ cải đỏ dưới cái nhìn chằm chằm xanh và sáng. Cuối cùng: "Con biết đấy, Frances, đôi khi chính những cô bé ngông cuồng nhất lại là người có năng khiếu nhất."

Không đời nào, không đời nào mình sẽ trở thành một nữ tu.

"Nhưng con đâu cần phải trở thành một nữ tu để có thể được giáo dục tốt và theo đuổi nghề nghiệp mình mong muốn. Ngày nay phụ nữ có thể làm được mọi thứ mà. Con lại là một cô bé thông minh, Frances. Thế giới là con hàu của con."

Vâng, nhầy nhụa và bốc mùi.

Frances tự hỏi, phải làm gì để được tự do đây? Vì tất cả những gì xơ Eustace làm là chọc vào vết bầm dù đã lâu nhưng vẫn còn rất đau luôn gợi cho Frances nhớ mình hư như
thế nào.

Frances đã rất bồn chồn mong mỏi đến ngày cuộc đời cô bắt đầu. Cô bé tự tay cắt gần hết ống tay áo đầm và thu ngắn chúng lên - mốt đồ lệch đang rất thịnh hành. Cô bé quả quyết rằng mình có một thân hình hoàn hảo, trong khi thực tế không phải vậy. Cô gỡ ruy băng buộc trên bím tóc và buộc chúng quanh trán và thử nghiệm phong cách nhã nhặn và sang trọng với chuỗi hạt ngọc mắt mèo của Mercedes. Trong chiếc vớ thừa trong ngăn tủ của mình, Frances cất một thỏi son môi Hoa Hồng Ả Rập cô xoáy được từ cửa tiệm nhà MacIsaac. Tóc cô đã bị cháy sém khi đang cố duỗi cho thẳng ra, và trước mắt cô lúc nào cũng là hình ảnh Louise Brooks, với mái tóc tém ngang trán đen tuyền.

Lousie Brooks đã chiếm chỗ Lillian Gish trong tim Frances và cả trên tường phòng cô nữa. Lillian giờ chỉ còn tồn tại ở một vị trí danh dự, đơn độc trên tảng băng trinh tiết của mình. Trong khi đó, Louise bốc lửa bên dưới cái mạng che mặt của một quả phụ da đen, tự mãn trong bộ tuxedo, liếc mắt đưa tình qua vành ly sâm-banh, cười giả tạo trên đầu gối của Jack the Rippers và ma mãnh ưỡn người ra, khoe khéo tấm thân trần trụi chỉ có độc một nhúm lông vũ trên người. Cô ta là đứa con gái ngoan nhất, nhưng cũng hư nhất trên thế giới. Cô ta cũng là người mô-đen nhất. Frances mong mỏi được bán vào "chốn đầy tội lỗi", bị ép lên sân khấu và vào "nhà chứa", nơi mà cuộc sống tuy rất bi thảm nhưng lại rất vui.

Trong lúc chờ đợi, cô trốn học ra bờ biển chơi hoặc lang thang ở rạp chiếu bóng. Gần đây cô bé còn vừa đi vừa chạy suốt chín dặm Đường Shore để đến Sydney, ở đó cô đi đến bến cảng Esplanade và quanh quẩn trên những chiếc tàu. Cô đang nghĩ đến việc đi lậu vé. Cô tán gẫu với thủy thủ của các tàu buôn đến từ khắp nơi trên thế giới và mua vui cho họ bằng điệu nhảy skinnamalink của riêng mình - điệu Charleston để kiếm tiền. Cô để cho bọn dơ bẩn đáng ghét chạm vào ngực mười lăm phút rồi mới dùng đến gót chân của mình.

Thứ duy nhất còn giữ chân Frances chính là Lily. Cô bé phải chắc chắn rằng Lily phải ổn thì mới bắt đầu cuộc sống riêng của chính cô được. Nghĩa của từ "ổn" mơ hồ lắm. Frances sẽ tự biết khi nào thời điểm đó đến. Còn bây giờ, Frances tạm bằng lòng với một trò vui mới: ngày 12 tháng 11, cô sẽ theo James đi vào nơi bí mật của ông trong rừng.

Chuyện đó đã khá khó khăn vì cô không có xe để đi theo ông, hơn nữa, ông sẽ phát hiện ra, vậy nên cô chui xuống sàn ghế sau chiếc Hupmobile của ông và lấy một cái chăn trùm lên người.

Khi chiếc xe ngừng lại, cô nghe tiếng ông bước xuống xe. Sau đó cô nghe tiếng một chiếc khác trờ tới, nghe như tiếng xe tải. Cô nghe giọng của James và của người đàn ông kia, trầm và êm dịu. Cô đợi đến khi hai người họ đã đi xa mới nhổm dậy và nhìn lén ra cửa sổ. Có một ngôi nhà với cột khói bốc lên từ miệng ống khói bằng thiếc - Mình đã đoán đúng!

Sự phấn chấn đó làm cô hụp đầu xuống theo phản xạ, như thể cô đã gây tiếng động. Cô ngó ra nhìn vừa đúng lúc thấy James bước ra khỏi ngôi nhà và đứng quay lưng về phía mình. Gần đó là một chiếc xe tải, với toa moóc được phủ bởi một tấm vải dầu căng rộng và che bên trên một cái khung sườn bằng gỗ giống như chiếc xe ngựa bọc kín. Người đàn ông kia bước ra khỏi ngôi nhà, vai vác theo một cái thùng to.

Nhìn anh ta rất quen nhưng Frances không thể nhớ nổi anh ta là ai. Anh ta trông vạm vỡ, dù chỉ cao bình thường, với vai và ngực rộng; rõ ràng anh ta là người khỏe mạnh, nhưng không có nét nào sắc sảo cả. Cơ thể anh ta là một đống nệm, mặt là một lời mời gọi người đối diện hãy đến và thư giãn. Vầng trán rộng trung thực, đôi mắt to - có một phẩm chất chung mà Frances cố vắt óc suy nghĩ. Và rồi cô đã nghĩ ra. Anh ta có vẻ tử tế. Có điều gì đó ở anh khiến Frances nhớ đến Lily. Có lẽ vì vậy mà cô thấy anh ta quen thuộc. Người đàn ông đó lăn cái thùng xuống khỏi vai vào trong thùng xe tải, nơi Frances thấy in chữ "Vận tải Leo Taylor." Cái này cũng rất quen, nhưng cũng không nhớ nổi.

Frances nhìn người đàn ông khuân hết thùng này đến thùng khác, kệ này đến kệ khác leng keng lách cách trong khi James đứng đợi. Khi đã khuân xong, anh ta buộc mấy đầu tấm vải bạt lại với nhau. James lấy từ trong túi ra một cuộn hóa đơn và xé ra vài tờ. Người đàn ông nói, "Cảm ơn, ông Piper."

Và James nói, "Được rồi, Leo. Lái xe cẩn thận nhé."

 

Let Me Call You Sweetheart

"Em biết sao mà em có một cái chân teo không, Lily?"

"Vì em bị bệnh bại liệt trẻ em hồi em còn nhỏ xíu nhưng Chúa muốn em sống tiếp."

Đó là một buổi chiều thứ Bảy mưa nhiều. Frances và Lily đang chơi trò Xe Ngựa Kín trên giường Mercedes. Mercedes đang đi làm tình nguyện ở bệnh viện còn cha thì đến nơi Frances-biết-là-nơi-nào. Tấm trải giường có viền là miếng che xe ngựa và bên dưới nó là những đứa con của chúng: Hoa Hồng Bạch hầu, Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi, Cúm Tây Ban Nha, Maurice và những đứa còn lại. Họ là một gia đình đi khai hoang đang đi về hướng Biên giới. Cuối cùng Lily cũng đã cầm được yên cương.

"Em mắc bệnh đó từ dưới sông."

Ngựa ngừng chạy. Lily chờ đợi.

"Em mắc bệnh đó từ dưới sông bởi vì mẹ đã cố dìm chết em ngay khi em vừa sinh ra."

"Frances" - môi run run, đây là điều tệ nhất Frances từng nói - "Mẹ yêu em, mẹ không làm hại em đâu."

"Em là một đứa trẻ da đen. Em và Ambrose."

"Frances, cha nói là..."

"Ông ấy không phải cha em."

"Phải mà!"

"Im đi, Lily, không thì chị sẽ không nói gì với em nữa đâu."

Thầm thì, "Phải mà!"

Frances đứng dậy và đi ra phía cửa. "Thôi đừng bận tâm, Lily, vì rõ ràng em thậm chí còn không muốn biết cha ruột của em là ai mà."

"Có, em có muốn."

Frances nhìn Lily một lúc lâu, như đang ước lượng khả năng chống chịu sự thật của con bé. Sau đó: "Cha em là một người da đen đến từ Coke Ovens ở Whitney Pier."

Lily tiếp nhận điều đó.

"Mẹ cố nhấn nước em là bởi vì em đen." Mỗi khi Frances kể về sự thật, câu chuyện luôn thật hơn một tí.

"Chị đã cứu em, Lily."

Lily cắn môi mình. Môi của Frances đã cứng đờ đến trắng dã. Cổ họng cô là một sợi dây thừng trắng.

"Khỏi chết duối hả?"

"Chết đuối, không phải chết duối, đồ ngốc."

Frances quẳng mấy con búp bê xuống sàn nhà và bắt đầu dọn giường. Đôi chân mày đen mượt của Lily run run. "Mẹ đã giết Ambrose hả?"

"Đúng vậy." Đột nhiên cô thấy thoải mái, cô đập mạnh xuống gối.

Lily bắt đầu khóc.

Frances chỉ ra một cách hợp lý, "Bà ấy sợ rằng cha sẽ giết bà ấy."

"Nhưng ông sẽ không làm vậy!" Lily nức nở.

Frances ngắm nó một giây. Cô luôn cảm thấy vô cùng hả dạ khi Lily bắt đầu khóc. Cô đến ngồi cạnh Lily, khoác một tay lên người nó và vuốt đầu con bé. Lily yêu quý.

"Không sao đâu, Lily... Cha không bao giờ có thể làm hại bất cứ ai hết."

"Có rồi."

"Chị không kể em nghe nữa đâu, em còn nhỏ quá."

"Em không nhỏ!" Lily vùng ra, quẹt mạnh nước mắt trên má.

"Em nhỏ, Lily à. Em là một cô bé nhỏ đáng yêu."

"Kể em nghe đi, Frances! Em lớn rồi."

"Nhỏ."

"Lớn!"

"Nhỏ xíu."

"KHÔNG PHẢI!"

"Phải."

"KỂ EM NGHE ĐI!" Mặt Lily đỏ bừng, tay đấm xuống giường.

 Frances nằm phịch xuống gối, tay xếp lại sau đầu, và hát vu vơ, chân nọ gác chân kia nhịp nhịp, "Quý cô từ Armentières, cô có nói-i-i-hay-không?" Lily bắt đầu xốc tung cái giường vừa mới được dọn gọn gàng. "Quý cô đến từ Armentières, cô có nói-i-i-hay-không?" - tấm trải giường dưới chỗ Frances nằm bị giật mạnh. - "Quý cô từ Armentières" - tấm trải giường rơi đầy dưới sàn, chuỗi hạt dính với kim băng - "đã bốn mươi năm chẳng được hôn" - Lily giận dữ đến mức ngất đi được - "tồi tàn, dơ dáy, có nói hay không-g-g-g" - con bé đi vòng vòng trong phòng, chộp lấy một cuốn sách to và xé rời gáy sách. Nó xé rách một xấp giấy dày bên trong và ném chúng ra cửa sổ, sau đó ném tiếp phần bìa mất ruột xuống đất theo kiểu mái nhà bị tốc, lảo đảo trên cái chân cứng ngắc của mình, khớp nối bằng thép trên chân nó văng sang một bên, chỉ ngay vào "Cô Gái Nhà Quê" hát bài "Let Me Call You Sweetheart". Trên tay nó là một cái ô. Nó đứng một mình trên tấm lót đặt trên tủ của Mercedes. Lily chộp lấy nó.

"Kể em nghe, Frances, không em sẽ đập nát nó đấy."

"Chị không kể với em gì cả, em là đồ điên."

Tay Lily vung lên, "Kể em nghe."

"Không."

Lily ngừng lại - và rồi vì ý nghĩ ném Cô Gái Nhà Quê xuống sàn là độc ác sắp ập đến nên Lily buông tay để nó rơi xuống đất. Bức tượng nhỏ va xuống sàn. Cái ô và cái đầu. Keng. Lăn lăn, lóc cóc lóc cóc. Lily sững sờ nhìn điều mình vừa gây ra. Frances chỉ ra điểm mấu chốt của vấn đề:

"Nếu em làm tất cả những chuyện này để trả đũa chị thì em thua rồi. Vì những gì em làm được chỉ là phá hỏng những thứ quý giá của chị Mercedes."

Lại nữa rồi. Ôi không. Lily đứng đó miệng há hốc, trán nhăn lại. Ôi không, ôi không, ôi không.

"Được rồi, Lily. Chị sẽ kể" - Lily quên khuấy mất chuyện Frances đang nói - "nhưng em phải thề."

Lily cứ đứng như thế.

"Đừng lo, Lily, chúng ta sẽ dọn sạch sẽ mà."

"Nhưng mấy cái này bể rồi."

"Mình sẽ sửa chúng lại, đừng lo. Thề đi."

"Em thề."

"Em phải thề với cái gì đó chứ."

"Ừm... với Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi."

Việc này làm Lily ứa nước mắt vì nó hình dung được nó sẽ thấy thế nào nếu có ai đó đến gần và làm với Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi những điều nó vừa gây ra cho Cô Gái Nhà Quê. Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi với cái đầu gãy lìa. Một ít chất xám mất đi. Nhưng Frances nghĩ đến chuyện khác trong đầu.

"Thề với cái chân teo của em ấy."

"Với cái chân nhỏ của em."

"Nó sẽ bị cắt đứt nếu em nói về chuyện này lần nữa."

Lily nhìn xuống hai chân mình: chân phải thì khỏe mạnh, còn chân trái thì ốm yếu nằm gọn trong chiếc vớ len màu be lún xuống như chỉ có mỗi da bên trong cái khung thép và chiếc giày cao bó chặt với cái mặt ngựa hiền hòa, chính là miếng sắt được kẹp chặt vào đế giày. Gót chân cô bé giờ đã đỡ nhiều rồi, chỉ còn là lớp mài từ ngày Lễ Tưởng Niệm.

"Được thôi," Lily nói. Đừng lo, chân nhỏ, tao sẽ giữ lời thề của mình.

"Tốt. Được rồi. Mẹ phát điên vì xấu hổ về những gì bà đã làm với người đàn ông từ Coke Ovens. Phần vì mẹ đang sắp chết vì vết thương gây ra do cha đã dùng lưỡi lê mổ bụng bà để lấy em và Ambrose ra." Bây giờ bạn bình tĩnh nhé. "Lúc đó là nửa đêm. Cha để mẹ ngủ, và đi gọi bác sĩ. Nhưng mẹ vẫn có thể ngồi dậy dù vết thương vẫn hở." Frances chuyển sang giọng ma quái của câu chuyện con mèo-mắt-cam, cũng là giọng nó dùng để nói sự thật. "Lúc đó chị đang đứng ở cửa số phòng ngủ của chị trong chiếc đầm ngủ sọc của mình. Chị thấy mẹ dưới suối. Ambrose đang nằm dưới đáy sông. Mẹ đang định làm y như vậy với em, nhưng mẹ nhìn lên và thấy chị đang nhìn nên bà ngừng lại. Trăng rất rất sáng và chị cứ đứng nhìn bà như vậy cho đến khi cha đến và lôi bà vào nhà cùng em. Sau đó thì bà chết."

"Tội nghiệp mẹ quá," Lily thổn thức.

Sau cùng Frances đã có thể chớp mắt, "Tội nghiệp mẹ sao? Bà ta đã cố giết em đấy, đồ ngốc. Chính chị là người đã cứu em đây nè."

"Sao chị không cứu mẹ."

"Không ai cứu được mẹ cả."

"Chị đã cứu em."

"Đúng vậy, ngốc ạ, chị đã cứu em."

Lily ôm lấy Frances, "Cảm ơn chị, Frances. Cha có biết không?"

"Chuyện chị đã cứu em? Có."

"Cha có biết ông không phải là cha ruột em không?"

"Có, nhưng em không được nhắc đến chuyện đó đâu Lily, cha sẽ đau lòng lắm. Vì dù em không phải con ruột của cha, nhưng ông ấy còn yêu em hơn cả bọn chị nữa."

"Ông cũng yêu chị mà, Frances."

"Đúng, nhưng ông yêu em nhất."

"Em muốn cha cũng yêu chị nhất nữa."

"Không sao đâu, Lily, mọi chuyện nên như thế mà."

"Em yêu chị nhất, Frances."

"Còn cha và Mercedes?"

"Em cũng yêu họ nhất."

"Làm gì có chuyện cùng yêu mọi người nhất chứ?"

Cả buổi sáng Mercedes ở bệnh viện đa khoa New Waterford. Cô đọc sách cho một cựu chiến binh bị nhiễm khí độc trong chiến tranh, đổ bô, thay nước bình hoa và nói chung là làm cho bản thân có ích. Đáng lẽ cô dẫn Lily theo, nhưng cha muốn chân con bé lành hẳn trước khi ra khỏi nhà. Rời bệnh viện, Mercedes đến giúp các nữ tu đánh bóng tay vịn trong thánh đường và lau bụi bàn thờ ở nhà thờ núi Carmel. Cô thắp nến, quỳ dưới chân tượng Đức mẹ Maria tám chân xinh đẹp và cầu nguyện một chút cho mẹ và Kathleen và Valentino và tất cả những linh hồn bị giam giữ nơi luyện ngục.

Valentino mất ba năm về trước. Cái ngày cô bàng hoàng nhận được hung tin, cô phải cố hết sức để không chạy đến nhà Helen Frye. Cô đã tìm ra sức mạnh khiến cô có thể chịu đựng. Thực sự rất đơn giản: đừng cử động, và bạn sẽ không gây ra điều gì để phải hối tiếc về sau. Cả ngày hôm đó, Mercedes chỉ ngồi yên một chỗ trên mép giường, kiệt sức, nhìn chằm chằm vào ảnh của Valentino. Khi tỉnh hồn lại, cô lồng một bài thơ cô tình cờ đọc được trong cuốn Reader’s Digest tên là "Đừng Than Khóc" vào khung hình thay cho khuôn mặt của Valentino.

Mercedes luôn băng qua đường bên kia mỗi khi cô thấy Helen Frye. Helen nhìn cô buồn bã, dù cô không chào lấy một tiếng. Nhà Frye giờ chắc đã nhận ra họ đã sai lầm thế nào, chắc chắn Helen đã khóc rất nhiều. Đáng đời họ lắm. Từ sau Frye, Mercedes không còn phí thời gian cho những đứa bạn gái ngớ ngẩn nữa. Cô quá bận rộn với việc học và gia đình. Đây là thứ tự ưu tiên: Chúa Trời, gia đình, học hành, chơi piano, bạn bè.

Mercedes sắp mười bảy tuổi rồi - Tháng mười một là tháng mà cô và Frances bằng tuổi với nhau. Mercedes đang học năm cuối trung học. Cô đang cố gắng tìm một suất học bổng vào trường Đại học Thánh Frances Xavier trên đại lục. Đến lúc đó chắc chắn cha sẽ cho phép cô đi. Cô cố không ích kỷ về việc này, nhưng cô thực sự rất muốn học đại học. Đã quá trễ để thực hiện tham vọng khác của cô: trở thành học sinh giỏi nhất được vinh danh của trường Holy Angels. Cô đã trở thành học sinh giỏi nhất trường núi Carmel, và một trong số những học sinh giỏi nhất tỉnh. Giỏi về chuyện học và cả về bếp núc, dọn dẹp và trông em nữa. Mercedes cố không tự hào mà chỉ biết ơn về điều đó. Hãy nghĩ đến rất nhiều cô gái thậm chí còn không được học hết trung học. Nghĩ đến những đứa trẻ trong những gia đình nghèo đến độ cả nhà chỉ có một đôi dép mang chung.

Mercedes rời khỏi nhà thờ, giương ô lên và đi xuống Đại lộ Plummer dưới làn mưa lất phất, gật đầu lễ phép chào mọi người cô gặp trên đường. Dù cô còn rất trẻ, nhưng mọi người đều gọi nó là "Cô Piper". Điều đó âu cũng là tự nhiên. Một phần do thái độ và những việc tốt cô đã làm. Một phần vì phong cách ăn mặc của cô. Trông cô kín mít trong cái khăn quàng len, cứng nhắc trong chiếc áo choàng trắng và cà vạt đen, tay đeo găng, cùng một chiếc mũ rơm nằm chếch trên búi tóc. Lúc nào cô cũng mang găng tay và đội nón, không chỉ để chỉnh tề mà còn vì da cô rất dễ bị đen, dù là mùa hè hay mùa đông. Ở Paris, Coco Chanel vừa mới phát minh ra mốt thời trang rám nắng, nhưng New Waterford chưa biết gì về điều đó. Bên dưới lớp quần áo bên ngoài ấy, Mercedes chỉnh tề trong áo ngực và váy lót. Frances đã nói với cô rằng trông cô cứ như vừa bước ra khỏi Cỗ Máy Thời Gian vậy. Nhưng cái gì hợp với thị hiếu thì luôn hợp mốt. Thật vậy, nền văn minh chỉ là một lớp vỏ bọc mỏng dính. Chúng ta phải phân biệt mình với những con thú trên cánh đồng vì điều gì? Ngoài ra, đương nhiên, một linh hồn bất tử? Cung cách và trang phục phù hợp.

Một tác dụng của việc nuôi dưỡng đức tính thích làm từ thiện chính là việc nhận ra rằng nhà Mahmouds ở Sydney cần những lời cầu nguyện của cô. Do vậy, ngoài những người đã chết, cô còn cầu nguyện cho những người họ hàng không quen biết của mình. Giờ cô đang thầm cầu nguyện cho họ đây, ngay trong lúc đi qua cây xăng mới và gật đầu chào ông MacIsaac. Ở nhà thờ cô đã quên việc này, nhưng không sao, vì làm gì có khoảnh khắc bất tiện nào khi người ta cần cầu nguyện chứ. Đó chính là điểm tuyệt vời của việc này. "Hỡi Đức Chúa Trời kính mến, xin Người đừng phán xét quá khắt khe với những kẻ bề tôi của Người ở Sydney, những người đã ruồng bỏ chính ruột rà máu mủ của mình. Amen."

Dù vẫn còn quá trẻ để đáp lại hai mươi lăm năm đầu của thảm họa một cách nhân từ, nhưng cô vẫn cố làm việc cật lực để bù đắp. Và vẫn còn nhiều thời gian, vì xét cho cùng, năm nay chỉ mới năm 1929 thôi. Trong thế kỷ hai mươi dù bị trọng thương nhưng vẫn trẻ trung này, Mercedes hoàn tất lời cầu nguyện của mình với một dấu thánh giá bí mật gồm ngón trỏ chồng lên ngón cái và rẽ vào tiệm Kosher Canadian của nhà Luvovitz để mua thịt quay cho bữa tối chủ nhật.

Cửa hàng thực phẩm nhà Luvovitz vừa bán thêm trái cây, rau quả, thức ăn đóng hộp, thức ăn khô, và thức ăn nhiều chất xơ, bởi vì rất ít người mua nổi thịt với giá thường.

Cái chuông kêu leng keng khi Mercedes mở cửa, và Ralph Luvovitz ở quầy tiền ngước nhìn lên. Hai vành tai chìa ra đáng yêu của cậu ta đỏ lên như đường sọc trên tạp dề của cậu khi nhìn thấy cô. Mercedes trông thật trẻ khi cô cười với cậu ta. Chúng trao nhau những lời nhận xét lịch sự, tránh và bắt gặp ánh mắt nhau khi cậu ta kéo dài thời gian cân đo, cắt giấy nâu, tháo một cuộn dây, chọn miếng thịt ngon, gói và buộc nó lại. Cuối quy trình, dường như cậu quên mất là Mercedes đang đợi cậu trao gói thịt cho cô. Mercedes cũng không buồn nhắc.

"Việc học cla-ri-nét sao rồi, anh Ralph?" Cô hỏi.

"Tôi vẫn đang tập luyện..."

"Tốt, anh có..."?

"Cô có... ? Xin lỗi..."

"Xin lỗi."

Cười.

"Tối chủ nhật cô vẫn có thể đến chứ?" Ralph hỏi.

"À có chứ. Tôi đưa mấy đứa nhỏ đi cùng được không?"

"Đương nhiên là được, vậy sẽ rất tuyệt."

Cười.

 Mercedes đã hơn một lần nhận thấy rằng đôi mắt nâu ngời sáng và những lọn tóc xoăn hung hung đỏ của Ralph không hiểu sao nhìn dễ chịu hơn cái khăn xếp và cái trừng mắt màu than của Valentino. Có lẽ là vì, nếu giơ tay ra lúc này, cô có thể chạm được Ralph. Cô lại ngượng ngùng và vụng về cầm lấy gói thịt. Ralph đánh rơi nó.

Hai người họ đã biết nhau từ rất lâu, nhưng vài tháng trở lại đây họ bỗng trở lên khách sáo cực kỳ. Đó là một thay đổi xuất phát từ bà Luvovitz, người đang kiểm hàng bên kia lối đi.

Mercedes là một cô gái tốt. Một cô gái tuyệt vời. Ta đã giúp mang nó đến thế giới này. Ta đã yêu thương mẹ nó như yêu con gái ta vậy. Nhưng.

Vấn đề nằm ở chỗ, nếu ông và bà Luvovitz có cháu nội - cháu nội Do Thái - thì nó không thể nào mang dòng máu Công giáo được, phải không?

"Cứ bình tĩnh," Benny bảo bà.

"Làm sao tôi bình tĩnh được? Ông muốn có một đứa cháu đạo Công giáo hả?"

"Có cháu cũng tuyệt."

Bà Luvovitz tức nghẹn và không thể tiếp tục tranh cãi. Benny nói, "Lại đây nào, lại đây."

Bà làm theo. Ông nói, "Bà muốn nó đi học, và bà muốn nó ở nhà." Bà gật đầu. Ông nói, "Bà muốn nó trở thành bác sĩ, và bà muốn nó làm người bán tạp phẩm." Bà lại gật, và mỉm cười trong nước mắt. Benny tiếp tục, "Và, nó nên kết hôn với một cô gái đạo Do Thái và về ở trong một căn nhà phía cuối đường." Bà gật đầu, nhét một cái khăn tay vào giữa vai của ông và mũi bà.

"Bà biết đấy, vợ yêu, chính chúng ta đã chọn đến đây ở. Nếu chúng ta ở lại Old Country thì đã có rất nhiều cô gái Do Thái xinh đẹp. Ralph không có lỗi khi được sinh ra ở đây." Ông ngưng lại. "Và nó không có lỗi vì..."

Nhưng ông không cần phải nói thêm. Họ đều biết. Nếu Abe và Rudy không hy sinh trong chiến tranh, bà Luvovitz sẽ để Ralph được cưới Mercedes.

Nhìn qua những lọ tẩy rửa Hà Lan, bà Luvovitz thấy Mercedes đếm từng tờ tiền đưa cho Ralph, rồi cậu cẩn thận bỏ nó vào máy. Bà thấy cậu thả một nụ hồng bằng sô-cô-la vào tay Mercedes trước khi cô rời đi.

 Mercedes ra khỏi cửa hàng Kosher Canadian nhà Luvovitz, tâm trạng lâng lâng. Cô đi qua vài dãy nhà với đôi má ửng hồng với ý nghĩ con của mình và Ralph sẽ trông như thế nào. Mercedes Luvovitz. Con của chúng ta sẽ theo đạo Công giáo, đương nhiên rồi.

Mercedes tự thỏa mãn bản thân như thế cho đến phố King mới chịu kiềm chế suy nghĩ và bung dù ra. Không biết Frances và Lily có vẫn đi picnic không nhỉ? Với thời tiết này mình hy vọng là không.

Cô đi vào đường Water và nhận thấy là cha vẫn chưa về. Cũng tốt thôi. Mình muốn ngả lưng một tí trước khi nấu bữa tối.

Mercedes leo lên cầu thang để lên phòng. Căn nhà thật yên tĩnh. Chắc cuối cùng Lily và Frances cũng quyết định đi picnic. Frances thật đáng yêu khi thân với Lily như thế - cũng đồng nghĩa với việc Lily sẽ không quanh quẩn bên mình suốt - nhưng mình ước Frances có được một người bạn cùng lứa. Một người bạn tốt.

Mercedes nằm xuống trên chiếc giường gọn gàng của mình, và đảo mắt nhìn quanh căn phòng. Cô chỉ có những thứ tốt đẹp. Những cuốn sách. Trên chiếc bàn cạnh đó, cô có một bức ảnh cũ chụp cha và mẹ đứng dưới cổng vòm. Và được giấu kỹ là một tấm hình Kathleen lúc còn sống - Ừm, nó làm gì trên sàn vậy chứ, lúc nào nó cũng được kẹp trong cuốn Jane Eyre, nơi mà cha sẽ không bao giờ thấy được kia mà. Mercedes với tay lấy tấm hình và đặt nó trên chiếc bàn cạnh giường. Cô sẽ nhét tấm hình lại vào trong cuốn sách sau khi chợp mắt một lúc.

Mắt Mercedes uể oải ngừng lại trên bức tường phía trên cái tủ, nơi cô treo bức ảnh Đức mẹ Đồng Trinh hiện ra với thánh nữ Bernadette lần đầu tại một hang động tại Lộ Đức(1). Những bông hồng vàng nở giữa những ngón chân của Bà, và xếp thành vầng hào quang trên đầu Bà là những lời Bà đã nói với Bernadette, "Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội." Có một dòng suối chảy dưới chân họ, dòng suối trở thành nguồn nước chữa bệnh cho Lộ Đức, và hiện cung cấp ba-lần-chín ngàn ga-lông nước mỗi ngày. Đức mẹ Đồng Trinh đã xuất hiện với Bernadette ba-lần-sáu lần. Bà đã ba lần bảo Bernadette uống nước từ dòng suối, điều mà cô đã thực hiện sau khi đã bỏ đi ba vốc nước đầu tiên. Đức mẹ Đồng Trinh đã nói cho Bernadette ba bí mật mà cô sống để bụng chết mang theo. Bernadette đã trở thành nữ tu để rời xa dư luận. Trong nữ tu viện, cô giúp đỡ trong bệnh viện và nhà thờ và cô đã nỗ lực rất nhiều để kiềm chế bản tính nóng nảy cả đời của mình. Khi được hỏi cô đang làm gì, Bernadette đáp, "Tiếp tục công việc của tôi: bị bệnh." Ba ngày sau Ngày Lễ Đức mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, cô nằm liệt giường. Ở tuổi ba-lần-mười hai, cô qua đời vì bệnh hen, bệnh lao và một khối u ở đầu gối. Cô được xức dầu thánh ba lần. Có ba nữ tu quỳ xung quanh cô khi cô qua đời và ngày nay, mỗi năm có ba triệu con chiên tụ tập về ba vương cung thánh đường ở Lộ Đức, nơi mà thỉnh thoảng nguồn nước lại mang đến một phương thuốc thần diệu.

Mercedes thấy buồn ngủ khi nghĩ về Bernadette. Khi mắt cô hạ xuống khỏi tấm ảnh, chúng tự nhiên ngừng lại ở bức tượng Cô Gái Nhà Quê thân yêu. Mắt Mercedes mở to, lảo đảo. Ma quỷ.

Cô Gái Nhà Quê có một cái dù cho cái đầu, và một cái đầu cho cái dù. Cô ta đang tao nhã giơ cái đầu tóc vàng óng của mình về hướng mặt trời trong khi cái dù vàng vô tri vô giác lại được cắm vào cái cổ trống như một lá cờ. Frances.

Mercedes chớp mắt để nước mắt thấm vào trong. Luôn luôn là vậy - ngay khi mình vừa có được cái gì đó tốt đẹp, cái gì đó sạch sẽ. Cô đi đến cái tủ, lau nước mắt bằng cổ tay gầy guộc run rẩy của mình.

Cô kiểm tra phần thân. Những mảnh vở đã được dán lại như vậy, không sửa gì được nữa. Ít nhất không phải lúc này. Phải làm gì với nó, phải đặt nó ở đâu trong khi chờ đợi tìm được một nơi không có mùi tục tĩu, vô hình nhưng không ngột ngạt. Cái rương. Nó đã bị khóa từ khi Frances lấy chiếc đầm rửa tội mặc cho con Trixie. Mercedes có chìa khóa.

Cô cầm pho tượng đã bị biến dạng lên nhưng không nhìn. Pho tượng kêu những tiếng leng keng đứt quãng. Trên đường đi, cô cầm tấm hình của Kathleen lên, dự định sẽ nhét nó lại vào giữa những trang sách Jane Eyre, nhưng Jane đã không cánh mà bay. Cô ấy không còn trên kệ sách gần cửa sổ nữa. Không thấy cô đâu cả. Chắc là Frances đã mượn rồi. Lại nữa.

Làm những chuyện đầu tiên trước đã. Mercedes sẽ tìm cuốn sách sau. Cô bỏ Kathleen vào túi và đi đến chân cầu thang dẫn lên gác xép. Lắng nghe. Sự im ắng. Cô leo lên những bậc thang.

Căn gác xép thật trống trải. Chẳng có gì khác ngoài cái rương. Ngay cả một đặc điểm nhận dạng khác của căn gác xép cũng bị thiếu đi: dấu chéo ngay giữa tường nơi từng treo một cây thánh giá. Mercedes nhớ khi đây còn là phòng ngủ của Kathleen. Trước khi chị ấy chết ở đây, bình yên trong giấc ngủ.

Cái rương là nơi lý tưởng để cất những thứ như Cô Gái Nhà Quê đã hỏng vì căn gác xép hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của căn nhà. Trong tình trạng cách ly vĩnh viễn. Nó thực sự là một căn phòng bỏ hoang. Đó là lý do không khí của nó thật buồn, Mercedes cho là vậy. Buồn như một nhà thờ đã hoàn tục. Có thể mình sẽ treo lại cây thánh giá lên đây nếu mình nghĩ đến nó lần nữa. Hoặc là không, bởi vì sau đó sẽ không thể cất những thứ như Cô Gái Nhà Quê bị hỏng lên đây nữa. Mercedes thấy được lợi ích thiết thực của việc có một căn phòng-không-phải-là-phòng trong nhà.

Cô mở rương. Mùi tuyết tùng dịu nhẹ tỏa ra thật sống động, gợi lại một nỗi buồn đã qua. Mercedes không muốn nán lại lâu hay lục lại quá khứ. Cô cầm lấy món đồ vun lên chạm tay nó - chiếc đầm rửa tội nằm trên cùng đống đồ trong rương từ vụ Trixie - và gói Cô Gái Nhà Quê vào trong. Sau những gì chiếc đầm này đã trải qua, không thể coi nó như một món đồ thông thường được. Cô bé đóng nắp và khóa cái rương lại. Cô đứng lại một chút trong căn phòng trống. Sau đó ra khỏi phòng, nhẹ nhàng đóng cánh cửa phía sau lại.

Mercedes thấy bình tĩnh hơn khi xuống đến phòng khách. Cha sắp về nhà và cô không được để ông thấy bất cứ điều gì bất ổn. Cô ngồi xuống chỗ cây đàn piano. Chắc chắn Lily đã vô tình đánh đổ bức tượng rồi, xét cho cùng nó chỉ là một đứa trẻ - tiếng dính cháp cháp cháp vang lên khi cô chạm vào nốt đô cao, cha cứ nói là sẽ sửa nhưng vẫn chưa chịu làm - Mercedes có cảm tưởng rằng cô đã tha thứ cho Lily vụ cây gia phả và giờ lại chuẩn bị tha thứ cho Frances vì đã làm vỡ Cô Gái Nhà Quê. Cô giở trang ba mươi hai của cuốn Những Bài Hát Được Yêu Thích Nhất. Thật kì quặc, tha thứ cho Frances luôn dễ dàng hơn cho Mercedes so với tha thứ cho Lily, dù Frances đã ranh mãnh từ khi mới ra đời còn Lily lại hoàn toàn ngây thơ. Mercedes cần phải tha thứ cho Frances theo đúng cách mà Frances cần dỗ dành Lily.

Mercedes đưa tay tính chạm nhẹ vào những phím đàn nhưng ngừng lại và thọc tay vào túi, tấm hình của Kathleen vẫn còn yên vị trong đó. Cô lấy tấm hình ra và đặt nó đứng trên giá đỡ kế bên tập bài hát. Kathleen trong bộ đồng phục trường Holy Angels, hai tay đặt trên đầu gối, miệng cười rạng rỡ. Chị ấy đẹp quá. Vùng quanh tóc chị ấy hơi bị nhòe bởi vì chị ấy chẳng chịu ngồi yên đủ lâu để chụp hình. Mercedes thầm nhắn nhủ Kathleen, nếu ở nơi đó chị có thể nghe được và thấy được thì em sẽ chơi một bài tặng chị.

Mercedes bắt đầu chơi đàn. Và cất giọng hát với cả tấm lòng:

"‘Chị yêu ơi em đang già đi. Những sợi bạc xen lẫn sợi vàng, ánh lên trên trán em ngày hôm nay, cuộc sống đang trôi đi thật nhanh. Nhưng, chị yêu ơi, với em, chị sẽ mãi, sẽ mãi, sẽ luôn trẻ trung và xinh đẹp. Đúng như thế! Chị yêu ơi, với em, chị sẽ mãi, sẽ mãi, sẽ luôn trẻ trung và xinh đẹp.’"

Trixie, Frances, sau đó là Lily lặng lẽ đi vào. Than đen bám khắp mặt Lily chỉ trừ một khoảng hình ô-van quanh miệng. Mercedes thấy chúng, nhưng vẫn tiếp tục hát. Frances nhìn Mercedes và nghĩ, mình đoán chị ấy vẫn chưa lên phòng.

Frances, Lily và Trixie ngồi trên sô-pha và lắng nghe.

"‘Với những bông hoa hồng tháng Năm, em sẽ hôn lên môi chị và nói, Ôi! Chị yêu quý của riêng mình em, Chị trẻ mãi không bao giờ già đi.’"

Cha đứng ngay cửa. Bài hát kết thúc.

"Hay lắm, Mercedes."

"Cảm ơn cha."

"Chơi bài gì khác đi con," ông nói trong khi băng ngang qua căn phòng đến ngồi trên ghế bành.

"Chơi bài ‘Ôi Clementine Con Yêu Của Ta’ đi ạ," Lily yêu cầu.

"Con đã làm gì v 8000 ới cái mặt của con vậy hả?"

"Chúng con biểu diễn hát lưu động ở dưới hầm cha ạ," Lily nói.

James nhìn Frances, Frances chỉ nhìn lại. Cha cười với Lily,

"Lại đây nào cô bé ngịch ngợm."

Lily nhảy vào lòng cha.

"Chơi đàn tiếp đi Mercedes."

Mercedes đánh đàn, cha và Lily hát, ôm lấy nhau trên chiếc ghế bành. Frances nhìn họ như thể bị xuyên thủng. Lily gào to đoạn nó yêu thích, "Những chiếc hộp chật cứng không có nắp, chất đầy những đôi giày dành cho Clementine." Lily luôn thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với Clementine, con gái của người thợ mỏ năm-bốn-chín, cô ta "đã đi và mãi không còn nữa", nhưng là đi đâu mới được chứ?

Bài hát kết thúc; Cha nhẹ nhàng nhấc Lily ra khỏi đầu gối ông và đứng dậy.

"Con biết không, Mercedes, cha sẽ sửa phím đô cao đó ngay bây giờ."

"Ôi tạ ơn Chúa, nó thật khó chịu làm sao, cha ạ." Mercedes giờ đã là một phụ nữ. Chị ấy có thể nói chuyện với cha kiểu đó. Frances kinh ngạc. James mở nắp cây đàn và nhìn vào trong. "Gõ nhẹ xem, Mercedes."

Cô làm theo.

"Không sao hết," James nói, "Ta đi lấy đồ nghề." Rồi anh nhìn thấy tấm ảnh. Đứa con gái đang ngả về phía trước tươi cười với vệt nhòe vì muốn chụp xong nhanh, "Cha!" Căn nhà ở ngay sau nó và bạn có thể nhìn thấy Materia đang vẫy tay từ trong bếp. Có gì đó phát sáng trong tay cô ấy. Nó phản chiếu lại ống kính. James có thể nghe thấy tiếng Kathleen cười với anh, không chút sợ hãi, không có gì để sợ cả. Không như căn phòng này bây giờ. Bây giờ là quá khứ tối mờ. Còn lúc đó là thực tại ngời sáng. Anh nghe tiếng con bé cười. Anh nghe tiếng nước róc rách dưới lạch và bàn tay vẫy của Materia sáng lấp lánh, dù mặt cô ấy chỉ vừa đủ rõ. Kathleen mười bốn tuổi. Bạn nghĩ rằng mình đã được an toàn. Cho đến khi bạn thấy một tấm ảnh như vậy bạn mới biết mình đã lầm. Và rồi bạn nhận ra, bạn sẽ mãi là kẻ nô lệ cho hiện tại bởi sức mạnh của nó còn ghê gớm hơn quá khứ nữa, dù hiện tại đã xảy ra cách đây bao lâu đi chăng nữa.

Giá như anh đừng để con bé đi xa. Giá như anh đi cùng nó đến New York. Thì đã chẳng có chuyện gì xảy ra. Con bé đã chẳng có thai. Không phải mình chối bỏ Lily, Lily là niềm an ủi của mình, nhưng nếu chuyện không ra như vậy thì giờ đây đứa con gái đầu của mình... sẽ đang ở bên mình lúc này. Ôi con gái cưng của cha. Hơi thở ập vào phổi James và anh bước ra khỏi bức ảnh trắng đen, quay trở về căn phòng đầy màu sắc sống động.

Và nhìn quanh. Con gái ngoan của mình. Con gái hư của mình. Và con gái của con gái yêu quý của mình - với cái mặt đen. Cả việc đó cũng không đáng để nổi giận, dù Frances làm vậy chỉ là để chọc tức mình.

"Cái này làm gì ở đây vậy, Mercedes?", anh nhẹ nhàng hỏi Mercedes. Không có hình của Kathleen ở bất cứ đâu. Không có guồng quay tơ nào trong Vương Quốc, nói vậy nhưng rồi bạn vẫn bị đâm vào tay.

Mercedes trả lời, "Con xin lỗi, cha."

Frances nhìn chằm chằm vào James, "Con đã làm đấy."

Mercedes xoay người trên chiếc ghế piano. Cô muốn nói với Frances, không, mọi chuyện sẽ khó khăn hơn với em, em không cần phải bù lại việc làm hỏng những món đồ ngớ ngẩn của chị bằng cách nhận phần lỗi này về mình. Nhưng Frances đã tự đào hố chôn mình, "Kathleen là chị gái con và thỉnh thoảng con muốn nhìn lại chị ấy."

Mặt James trắng bệt. Phần xanh trong mắt anh đang nóng lên.

Frances đốt thêm. "Dù sao đi nữa, tại sao chúng ta lại không thể chứ? Có chuyện gì không ổn với chị ấy sao? Chị ấy bị điên hay bị gì hay sao?" Vẫn giọng điệu xấc xược như mọi khi.

Mercedes không tài nào cất giọng. Trong miệng cô giờ đang là mùa thu và tất cả những gì lưỡi cô có thể làm là kêu xào xạc. Lily không thích cha nhìn Frances như thế. Đó không phải là cha nữa. Không phải cha của nó.

"Chị ấy là gái hư sao?" Frances, với giọng điệu giúp đỡ. Àaaa, vậy là đúng rồi. Nhìn ông ấy kìa, đỏ bừng hết lên y như ngọn nến Phục Sinh rồi.

James nhẹ nhàng nói với Frances, "Đi với ta."

Frances nhún vai và đứng dậy, lãnh đạm, toét miệng cười với Mercedes. Mercedes lấy tay che mặt mình. James bảo Mercedes, "Đưa em con ra ngoài một chút đi."

"Đi nào, Lily."

Lily nhíu mày không muốn nhưng nó phải nghe lời.

Frances thong thả băng qua căn phòng đi về phía James, ông cuối cùng cũng đã chấm dứt cái cảnh Frances thong thả đi về phía mình bằng cách chộp lấy cổ nó và ném nó qua cánh cửa. Mercedes đẩy Lily ra cửa trước.

"Mình đi đâu vậy, chị Mercedes?"

"Ra ngoài."

"Em đã làm bể món đồ xinh đẹp của chị."

"Chị không quan tâm, Lily, làm ơn cứ đi đi" - chúng đi xuống bậc thang cổng vòm.

"Frances đã dán nó lại nhưng chính em đã làm bể nó và em cũng đã xé sách của chị, em không cố ý đâu."

"Chúng chỉ là đồ vật thôi, Lily, không quan trọng."

Lily rất khó khăn mới theo kịp, nhưng nó không có sự lựa chọn, Mercedes đang nắm chặt cổ tay nó.

"Em xin lỗi, Mercedes."

Không trả lời.

"Mercedes..."

"Đủ rồi đó, Lily."

Chúng lôi nhau đi qua khắp thị trấn cho đến khi đến được vách đá phía trên bờ biển. Mercedes đứng nhìn chăm chăm ra biển xám. Lily ngồi trên mép đá, hai chân buông thõng.

"Sao chưa bao giờ em nhìn thấy bức ảnh đó vậy?"

"Em biết rất rõ còn gì, vì cha không thích nhắc đi nhắc lại mãi về Kathleen. Nó làm ông đau đớn."

"Chị đã giấu nó hả?"

"Ừ, trong cuốn sách em đã phá hỏng. Đó là nguyên nhân nó lộ ra ngoài."

"Đó là cuốn sách Frances thích đọc. Đó là vì sao em đã vô tình làm hỏng nó. Bởi vì Frances đã vô tình khiến em làm vậy."

"À, ra vậy. Vậy thì con bé phải cảm ơn em về bất cứ điều gì cha mang đến cho nó."

"Tại sao chị lại để nó trên piano, Mercedes?"

Mercedes sững người. Thực ra là vì sao nhỉ? Chắc chắn là không cố ý. Mercedes chầm chậm quay đầu lại nhìn Lily. Cô thấy con bé rơi khỏi vách đá xuống bãi đá phía dưới. Thứ duy nhất sẽ còn nguyên vẹn là cái chân khô quắt bọc trong khung thép của nó.

Không nhìn Mercedes, Lily đứng dậy và đi lang thang về phía Đường Shore. Nó quay lại xem Mercedes có đang đi đến không, nhưng Mercedes đang quỳ gối ở vách đá, mặt hướng ra biển.

"Mercedes," nó gọi. "Đừng ngã, Mercedes."

Mercedes làm dấu thánh giá và đứng dậy. Chúa sẽ tha thứ cho cô. Cô vừa hứa với Người một chuyện.

Trên đường Water, những bức tường ngoài của căn nhà một tầng thỉnh thoảng phát ra những tiếng thụi nghe như tiếng trống cái với một bàn đạp đang hoạt động bên trong để giữ nhịp. Trong căn nhà, buổi biểu diễn vừa bắt đầu. Nhịp cuối tóm lấy cổ con bé cho đến khi nó vào đúng nốt, nhịp đầu ấn mạnh nó vào tường, cái đầu va vào gỗ tạo hai nốt móc đơn, tiếng đốt tay kêu lốp cốp làm nhạc nền. Trong quãng nghỉ dài một nốt trắng, gương mặt xanh xao của con bé sáng lên theo đôi mắt sáng như hai ngọn bấc xanh của ông, và những lời hát góp phần vào sự sinh động, mạnh mẽ của buổi diễn: "Mày có quyền gì, mày không có quyền gì cả, thậm chí cả quyền gọi tên con bé cũng không, ai là đồ gái hư chứ, nói xem, ai là đồ gái hư?" Hai đoạn tiếp theo cũng giống như đoạn đầu, sau đó ta chuyển sang màn thứ hai, quăng bạn diễn của mình từ chỗ bức tường sang bàn gia công, nó đón lấy con bé ở phần thắt lưng, con bé vấp ngã tạo thêm một nốt đệm vì nó còn trẻ nên người nó bị bật ngược ra. Đoạn ngắt âm chạy trên khuôn mặt nó, rồi nó mở rộng phạm vi gõ của mình và trở thành một cái lục lạc câm lặng. Frances vượt qua đoạn này bằng cách tự giả vờ rằng nó thực sự chính là Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi, điều này khiến cô bật cười và việc đó làm cho đợt biểu diễn thứ hai của ông bắt đầu, "Tao không muốn mày gọi tên con bé," nốt thăng giáng bất thường bằng giọng mũi chuyển thành hợp âm trưởng lớn, "Mày - Có - Hiểu - Không - Hả?" Chúng ta đã hoàn tất vai trò của mình trong vở diễn rồi, những nốt nhạc sẽ đảm nhiệm từ đây. Con bé lại bay vào một bức tường khác, và ông theo sau đường đi của nó, tranh thủ thời gian bởi giờ ta đang sắp vào hồi kết rồi. Thêm một cuộc xung đột giữa gỗ và khăn giấy và cuối cùng là nhạc kịch, "Tao sẽ cắt lìa cái lưỡi mày ra đấy." Nó lè lưỡi về phía ông và nếm máu. Báo hiệu màn diễn chính sắp đến hồi kết. Frances gập người xuống cho đến khi nằm dài trên sàn. Vũ công múa hiện đại.

Việc đầu tiên Mercedes đã làm là mang Cúm Tây Ban Nha và những đứa con yêu thương còn lại của cô sang cho Frances và âu yếm xếp chúng trên giường. Dù Frances không biết chúng được đưa đến khi nào, nhưng Mercedes biết rằng chúng ở đó sẽ làm con bé khuây khỏa phần nào. Rồi cô đi lấy cái chậu và khăn để rửa mặt cho Frances.

Những vết sưng tấy làm cho Frances trông còn trẻ hơn tuổi mười sáu, đặc biệt là khi có thêm những con búp bê quanh mình. Cuối cùng cô cũng nói, giọng hơi nặng. "Trixie đâu?"

"Không sao, Trixie ổn."

Toàn thân Frances đau ê ẩm, điều đó làm cô cảm thấy thật yên bình. Một cảm giác lần đầu tiên trong đời cô có được.

Mercedes vắt khăn, "Em không nên làm cha giận dữ như vậy."

"Đáng đời ông ấy."

"Chính em là người bị đau đấy!"

Frances cẩn thận nuốt nước miếng. "Em xin lỗi về những món đồ của chị."

"Không sao đâu, Frances. Đáng lẽ em đừng nên nhận lỗi chuyện bức ảnh về mình mới phải."

"Nên chứ."

"Sao lại nên?"

"Vì chuyện đó nên diễn ra như vậy thôi, Mercedes. Chị không thể thay đổi được cách mọi chuyện diễn ra."

"Chị không đồng ý, điều đó thật vớ vẩn, em không nên bị cha đánh vì một chuyện mà chị đã gây ra."

"Thôi nào, ông ấy sẽ không đánh chị đâu."

"Tốt lắm, vậy thì, không ai cần phải bị đánh cả."

"Có, ai đó cần bị đánh. Hơn nữa, em có thể trả đũa ông ấy."

"Về chuyện gì?"

 Frances nhìn Mercedes và cười mỉm, làm cho vết rách còn mới ở môi dưới của cô rướm máu.

"Chuyện mà chị không biết. Và chuyện chị không biết sẽ không làm chị đau."

Mercedes không nói gì. Frances với tay lấy con Hoa Hồng Bạch Hầu, ôm nó và khép mắt nó lại.

Mercedes nói với cha là tấm hình đã bị đốt trụi trong lò. Nhưng cô đã nói dối. Cô không thể xa tấm hình được. Cô để Frances nằm ngủ, nhưng trước khi đi xuống hầm để thực hiện lời hứa với Chúa Trời, cô leo lên căn gác xép lần thứ hai trong ngày. Mercedes biết rằng cha không bao giờ nhìn vào cái rương. Tấm hình sẽ được an toàn tuyệt đối trong đó.

Khi căn nhà đã trở nên yên tĩnh, Trixie nhảy lên những bậc thang vào phòng của Frances và Lily và lặng lẽ nhảy lên giường. Nó rúc vào giữa những con búp bê nằm trong vòng tay của Frances. Nó ngắm con bé ngủ một hồi lâu. Sau đó nó kê đầu mình lên gối, duỗi thẳng chân ra để tựa vào trán Frances. Cả hai nằm im như vậy cho đến sáng.

 

Chúng Ta Vừa Mới Lìa Trần

...Đơn độc một mình Tôi bước đi

Không một ai bảo nên làm gì

Một mình bên những dòng suối mát

Và trên những sườn núi giấc mơ...

ROBERT LOUIS STEVÉNON,

"VÙNG ĐẤT GẬT GÙ"

 

Một lỗ hổng xuất hiện trên mặt đất khi đã đi được một phần ba quãng đường dẫn lên một dốc đá vôi dựng đứng, lưa thưa cỏ và rất ít đất. Những cây thông điên dại mọc rải rác song song với đường dốc. Một cái cổng vòm trên mặt đất. Không một câu viết. Một cái mỏ rượu lậu bỏ hoang. Một cái mỏ ngang, loại mỏ đâm vào sườn dốc và đi sâu vào theo chiều ngang.

Mỗi khi người ta tìm thấy một cái mỏ cũ quanh đây, họ nghĩ họ vừa tìm được một cái mỏ kiểu Pháp cũ. Không có kho báu nào liên quan đến mỏ kiểu Pháp cũ, nó chỉ tình cờ là cái hố đầu tiên được đào nhằm mục đích chiết ra "ánh nắng bị vùi lấp". Đây là thứ trở nên rất quan trọng khi bạn không có thánh đường.

"Nó là cái mỏ kiểu Pháp cũ," Frances nói. "Không ai khác biết là nó ở đây."

Frances và Lily đứng dưới chân đồi nhìn lên. Đằng sau chúng là khu rừng, nơi Frances vừa đánh dấu vào vỏ cây thông bằng cây kéo làm bếp. Cô đưa một tay lên che mắt theo kiểu của người chỉ huy quân đoàn French Foreign Legion, mặc kệ bầu trời u ám của vùng Cape Breton. Hốc mắt trái của cô bé đã đỡ hơn và chuyển sang màu vàng nhạt, nhưng còn mắt phải thì vẫn bầm tím - những vết thương để lại sau cuộc so găng xáp lá cà mới đây của ta và bọn An-giê-ri, Chúa ơi!

Frances thực hiện ý định trở thành một nhân vật gan dạ của mình với một bộ đồng phục hướng đạo Thanh Nữ Anh màu xanh. Chiếc khăn quàng cổ được thắt lại gọn gàng, chiếc nón bê-rê đội chếch đúng quy cách, cái túi nhỏ được cài vào thắt lưng. Thứ duy nhất còn thiếu chính là những cái huy hiệu. Cô vẫn chưa kiếm được cái nào cả. Cô vẫn chưa tham dự buổi hướng dẫn thứ hai. Lily đang mặc bộ đồng phục hướng đạo Chim Non. Cuối cùng thì cha cũng đã cho nó tham gia vì con bé đã rất lâu rồi không được ra ngoài vận động. Thay vì đưa con bé đến buổi họp mặt nhóm Chim Non đầu tiên vào chiều nay thì Frances lại đưa nó đến đây. Chúng đi khắp nơi, chúng đã đi qua nhiều dặm đường. Frances cho Lily biết nó sẽ được nhận huy hiệu đi bộ đường dài.

"Có người chết trong đó, Lily. Và kim cương nữa."

"Như trong truyện Aladin."

"Đúng vậy."

"Mình về đi, Frances."

"Mình sẽ vào trong đó."

Frances nắm lấy tay Lily, nhưng Lily lùi lại. "Coi nào, Lily, thăm một tí thôi mà."

"Không, Frances, trong đó có người chết."

"Người chết thì hoàn toàn vô hại mà."

"Còn ma thì sao?"

"Làm gì có ma."

"Vậy mình thăm ai trong đó nếu họ đều chết cả rồi?"

"Ambrose."

Lily nhìn Frances dò xét. "Ambrose chết rồi."

"Không, nó chưa chết."

"Nó chết rồi, nó bị chìm, chị đã nói vậy mà."

"Đúng, nó đã bị chìm, nhưng chưa chết, Lily, nó là thiên thần, nhớ không? Nó đã biến thành thiên thần. Và nó đang ở trong đó. Đó là nơi nó sống. Chị nghĩ giờ là lúc em nên gặp nó rồi."

"Không."

"Thôi nào, chị sẽ đi với em mà."

"Không."

Frances chụp tay Lily và kéo nó đi, giống như cố lôi một chú chó lên cầu thang vậy.

"Em sẽ kiếm được một cái huy hiệu cho việc này, Lily."

"Em không muốn vào đó, Frances." Giọng Lily run rẩy đầy sợ hãi.

"Em không thể tự mọc cánh và bay đến chỗ Những Người Dẫn Đường được nếu em không kiếm được huy hiệu thiên thần hộ mệnh của mình."

Frances bắt đầu cười và Lily biết rằng mọi chuyện đang trở nên tồi tệ. Chúng bắt đầu leo lên dốc, Lily nhăn nhó vì bị Frances cầm tay quá chặt. Frances vác con bé lên vai như vác một bao khoai tây. Lily thôi vùng vẫy. Chúng leo lên đến miệng mỏ. Chúng đi vào.

Không có nhiều thứ để xem - một vài lá gỗ và cột chống hầm mục nát, một cái xẻng gỉ sét. Frances lôi Lily đi tới. Trời tối hơn. Không khí ẩm mốc. Chúng đi theo một khúc quanh trong hầm và không còn thấy ánh sáng phía của hầm nữa. Frances chầm chậm bước vào bóng tối ẩm ướt và kì quái.

Lily khẽ hỏi, "Lỡ chúng ta bị lạc thì sao?"

"Không có đâu. Ambrose sẽ tìm ra chúng ta."

Lily khóc thút thít.

"Thằng bé yêu em mà, Lily, đừng sợ."

"Em muốn về nhà."

"Chúng ta đang ở nhà còn gì. Chúng ta đang ở nhà của nó."

Frances ngừng lại và đặt Lily xuống. Tay cô lần tìm cái khóa trên chiếc túi Thanh Nữ Anh của mình. Cô bé lấy ra một điếu thuốc, và đánh một que diêm vào khóa thắt lưng của mình. Một ngọn lửa bừng lên: một cái hồ phẳng lặng sâu thăm thẳm, Chúa ơi, hồ sâu đến mức nào? Và đằng kia, dựa vào tường - Lily thét lên. Frances châm thuốc và thổi diêm đi.

"Có ai đó ở đây, Frances." Lily run rẩy nói.

"Chị biết rồi."

"Ông ta đứng bên kia kìa. Bên kia hồ nước."

Frances hút một hơi dài. "Ông ta trông thế nào?"

"Ông ấy mặc đồ công nhân. Và có một cái cuốc chim. Và một cái mũ lưỡi trai."

"Có đèn trên mũ ông ta không?"

"Có. Loại giống bình trà."

"Có lẽ ông ta đã chết khá lâu rồi đây."

Frances nhả ra những đợt khói vô hình.

"Frances" - Nỗi sợ hãi của Lily đang dâng trào.

"Đó không phải Ambrose đâu, Lily. Chỉ là một người thợ mỏ đã chết thôi."

Frances đốt một que diêm nữa: cái hồ, bức tường thấm nước­ - Lily lại thét lên khi ánh lửa vụt tắt.

"Đó không phải một người thợ mỏ đâu, Frances."

"Chứ là gì?"

"Ông ấy mang mặt nạ."

"Mặt nạ Halloween hả?"

"Mặt nạ khí. Ông ta có một cây súng trường và một cái lưỡi lê treo trên mũi súng."

"Một người lính đã chết."

Frances đốt thêm một que diêm nữa: mặt nước tối đen, đá và những bức tường bằng đất nung...

"Ông ấy đi mất rồi."

"Ambrose đã đưa ông ta đi vì nó biết em sợ đó. Cô bé. Cô bé Chim Non."

"Ambrose đã không ở đây."

"Có chứ."

"Ở đâu?"

Frances ném điếu thuốc xuống và nó kêu xèo xèo trên mặt hồ không thấy được.

"Dưới đó."

Lily nhìn xuống, hoa mắt vì bóng tối. "Thiên thần phải sống trên thiên đàng chứ."

"Họ sống ở bất cứ nơi quái nào mà họ thích."

"Em sẽ mách lại. Chị hút thuốc và chửi thề."

"Đi mà ba hoa đi. Dù gì đi nữa thì chị và Ambrose vẫn sẽ chăm sóc em."

"Làm gì có Ambrose nào chứ."

"Ban đêm nó lặn sâu dưới hồ này và bơi trong một dòng sông trong lòng đất cho đến khi dòng sông trồi lên khỏi mặt đất và biến thành con sông nhỏ nhà chúng ta. Nó lấy hơi và bơi trong nước cạn, dài và trắng, bơi mãi cho đến khi nó đến được chỗ của ta. Sau đó nó leo ra khỏi bờ đê và bước thật chậm, ướt đẫm, qua sân nhà mình và mở cửa bếp. Nó đi qua lò nướng. Nó đi vào sảnh băng qua phòng trước. Nó đi lên cầu thang không một tiếng động, và bỏ qua cánh cửa căn gác mái. Nó đi vào căn phòng nơi em đang ngủ. Nó đứng ở chân giường và cúi xuống nhìn em. Tóc nó màu đỏ. Và sau đó nó đi. Nhưng nó không thể bơi ngược trở lại. Nó phải dịch chuyển tảng đá trong vườn và đi xuống một cái hầm giờ đã trở nên quá nhỏ hẹp so với nó, cho đến khi nó về đến cái mỏ u buồn và cô độc. Nó bước đi hàng dặm dài trên đôi chân trần băng qua tất cả những người lính và thợ mỏ câm lặng đang nghỉ bên những bức tường. Và cứ mỗi khi nó quay lại cái hồ, trái tim nó lại vỡ nát. Giờ thì em thấy nó yêu em đến mức nào rồi đó, Lily, để có thể đi như thế hết đêm này qua đêm khác."

Im lặng. Lily tè cả ra quần.

Tiếng chân Frances chạy đi và vòng theo khúc quanh cho đến khi Lily không nghe thấy gì nữa. Đôi vớ Chim Non của nó ướt sũng. Nó ngất đi.

Khi không còn nghe Lily khóc la gì nữa, Frances quay đầu chạy ngược lại xuyên qua bóng tối và đốt thêm một que diêm nữa. Chúa ơi, "Lily!" Llily nằm bất động, chết vì trụy tim khi mới mười tuổi đầu, có thể lắm chứ, "Lily!" Frances lắc người con bé, hất nước lên mặt nó, và con bé tỉnh dậy. Frances cõng nó ra khỏi cái mỏ và trượt trên đất đá trên nửa quãng đường xuống đồi. Khi xuống tới chân đồi, cô bé để Lily ngồi tựa vào một cái cây bám đầy rêu rồi nín thở, tay chống gối.

Lily mở mắt. "Frances, em tè ra quần rồi."

"Không sao, chúng ta sẽ về thẳng nhà và thay đồ, đi nào."

Lily vẫn ngồi yên. "Frances. Lỡ Ambrose là tên Ác Quỷ thì sao?"

"Nó không phải Ác Quỷ đâu. Chị biết Ác Quỷ là ai và hắn không phải Ambrose đâu."

"Hắn là ai?"

Frances cúi thấp xuống như đang nói chuyện với Trixie. "Đó là điều chị sẽ không bao giờ kể cho em, Lily, dù em sẽ lớn đến mức nào, bởi vì Ác Quỷ rất hay ngại ngùng. Hắn sẽ nổi giận nếu có ai nhận ra hắn, vậy nên khi có ai nhận ra, tên Ác Quỷ sẽ bám theo họ ngay. Và chị không muốn hắn bám theo em."

"Tên Ác quỷ có bám theo chị không?"

"Có."

"Đức Chúa Giêsu có thể đánh được Ác Quỷ."

"Nếu Người muốn."

"Chúa Trời chống lại Ác Quỷ."

"Chính Người đã tạo ra hắn."

"Tại sao?"

"Để cho vui."

"Không đúng, để kiểm 78ce tra chúng ta."

"Nếu đã biết em còn hỏi chị làm gì nữa?"

"Bố nói Ác Quỷ không có thật, chỉ là tưởng tượng mà thôi."

"Tên Ác Quỷ đang sống cùng chúng ta."

"Không, không phải đâu."

"Em gặp Ác Quỷ mỗi ngày đó. Ác Quỷ ôm em và ngồi ăn ngay cạnh em."

"Cha đâu phải là Ác Quỷ."

"Chị chưa bao giờ nói ông ấy là..."

Ánh nhìn của Frances khô khốc, bùi nhùi dễ bắt lửa ở trong mắt cô; giọng cô là một mớ cỏ khô đang cháy ở giữa, miệng cô là một đường may kín mít. "Chị chính là Ác Quỷ."

Đây là lúc Lily thôi không còn sợ hãi với bất cứ điều gì Frances sẽ nói hoặc sẽ làm. Không còn sợ bất cứ thứ gì nữa hết. Nó đưa tay ra và nắm lấy tay Frances. Bàn tay trắng ngần luôn có mùi hương hoa dại nhỏ, hoa lan chuông. Bàn tay vẫn luôn cài nút và buộc dây cho Lily, và tạo ra những đồ vật tuyệt vời. Nó nắm lấy tay Frances và nói, "Không sao đâu, Frances."

Gương mặt tím bầm của Frances nhăn lại và trán cô kê trên đầu gối, đẩy cái nón bê-rê lêch sang bên. Cô vòng hai tay ra ôm chặt lấy hai chân và bắt đầu khóc. Lily vuốt ve cái lưng gầy guộc của Frances trong khi cô cứ lầm bầm mãi điều gì đó.

Nhiều năm sau đó, Frances vẫn còn nhớ lúc đó cô đã nói, "Chị xin lỗi, chị xin lỗi, Lily, chị xin lỗi."

Nhưng trí nhớ thường bịp bợm. Trí nhớ là phiên bản khác của câu chuyện, và do đó trí nhớ là thứ khó tin cậy nhất.

 

Phép Màu Đầu Tiên

Linh hồn con thét gào trong đau khổ, nó rất khát khao sự thanh lọc và tẩy uế.

 Ngay khi con ngủ linh hồn con vẫn ước ao được hiến dâng cho Chúa.

Chúa Cứu Thế của con, trái tim con rỉ máu vì đau đớn và tình yêu.

Chúa ơi - Người biết điều đó mà - Đức Chúa của con!

"BÍ MẬT CỦA SỰ ĂN NĂN,"

TÁC GIẢ VÔ DANH

 

Trong khi Frances và Lily ở tại cái mỏ kiểu Pháp cũ, Mercedes đang ở nhà, cô đang thực hiện lời hứa của mình với Chúa Trời ở
dưới hầm.

"Lỗi tại con, lỗi tại con, lỗi tại con mọi đàng." Sự sám hối không chỉ làm linh hồn cô được thanh thản mà còn là dịp để Đức mẹ Đồng Trinh mang đến cho Mercedes ý tưởng về một cái quỹ Lộ Đức cho Lily. Sao trước đây mình không nghĩ ra nhỉ? Nhưng Mercedes nhận ra ngay câu trả lời. Cô không xứng đáng được truyền cảm hứng khi nào cô vẫn chưa nhận ra tội lỗi của mình và chưa nhún nhường van xin Chúa tha tội.

Mercedes thú nhận toàn bộ tội lỗi một cách tự nhiên: "Xin Chúa tha thứ cho con, vì con có tội... Con đã ước cho em gái con chết vì bị ngã, con đã làm buồn lòng người cha đáng thương của con, con đã để đứa em gái con thương nhất chịu tội thay con. Con có một đứa em gái mà con yêu thương nhất." Dù đã được ấn định một lời cầu nguyện sám hối tiêu chuẩn, nhưng cô đã chế thêm ra một phần sám hối phụ cho riêng mình ngay trong căn hầm này.

Dù không nói với ai về sự sám hối của mình nhưng Mercedes đã nói với cha và Frances về quỹ Lộ Đức để họ đóng góp vào, và nói với Lily để con bé có thể kỳ vọng. Mới có một tuần mà đã được gần hai đôla trong lon cacao rồi. Cứ đà này Lily sẽ có thể đến được Lộ Đức khi nó mười bốn tuổi. Đó là tuổi thích hợp để chữa bệnh. Tuổi dậy thì. Nghĩ xem Lily sẽ xinh đẹp hoàn hảo thế nào khi không phải chịu đau đớn nữa.

Mercedes đứng dậy, cởi bỏ chiếc váy trắng và giấu nó đằng sau lò lửa. Cô đứng khỏa thân trong bóng tối một lát rồi cầu nguyện cảm ơn Trái Tim Vô Nhiễm của mẹ Maria. Đức mẹ Đồng Trinh Tối Cao, Đức mẹ Nhân Từ, mẹ Chúa Giêsu Quyền Năng Nhất, Ngôi Vị Thông Thái, Tháp Ngà, Hoa Hồng Thần Bí, Nữ Hoàng của Các Tông Đồ, Những Người Tử Vì Đạo và các Thánh, Đức mẹ Thanh Khiết, hãy cầu nguyện cho chúng con. Hoa Hồng Trắng Của Sự Thuần Khiết, Hoa Hồng Quyến Rũ, Đấng Cao Quý Xinh Đẹp nhất Chúa đã từng tạo ra, Chiếc Hộp Huyền Bí Vĩ Đại, Công Chúa Xinh Đẹp, rằng cái chết xảy đến với con cũng được, nhưng xin hãy báo con biết trước bằng một nụ hôn, amen.

Rồi cô mặc đồ vào và đi lên lầu để rửa sạch lưỡi trước khi mọi người về nhà.

Cô vừa dọn bữa tối vừa xong thì Lily và Frances về đến nhà khá trễ từ các tổ chức Chim Non và Thanh Nữ. Lily đi thẳng lên phòng tắm để giặt bộ đồng phục và đôi vớ len "để được một huy hiệu sạch sẽ". Frances đi ngủ luôn để tránh bữa tối. Vẫn chưa có huy hiệu nào cho hành động đó. Mercedes nói với cha rằng Frances thấy "khó chịu" và biết ông sẽ không hỏi gì thêm. Nói dối như thế không phải là tội, mà là sự hy sinh. Mercedes lên lầu để gọi Lily.

Lily đang quỳ chân không trong bồn, và nhờ đó Mercedes phát hiện ra rằng vết thương trên chân trái của con bé đã bị hở ra lại. Không tốt tí nào. Từ hôm Lễ Tưởng Niệm đến nay đã hai tuần rồi. Mercedes vắt khô bộ đồng phục Chim Non của Lily, và nhúng bên chân bị thương của nó vào nước muối ấm.

"Mai chúng ta sẽ gọi bác sĩ đến khám cho em."

Gần đây, Lily nhận thấy có gì đó khang khác ở Mercedes. Ví dụ như ngay lúc này đây - những động tác của chị ấy. Chúng rất dịu dàng. Mercedes lấy ra trong tủ thuốc một cuộn băng sạch. Cô buộc vết thương nhẹ nhàng và hiệu quả, lần này không quá chật, vậy thì tại sao Lily lại thấy sợ khi nó nhìn miếng vải trắng quấn tròn và tròn và tròn quanh cái chân bé nhỏ của nó?

"Xong rồi."

"Cảm ơn, Mercedes."

Mercedes cười với Lily với sự bình yên mà sự sám hối đó mang đến. Lily nhếch miệng mình sang phía tây và phía đông cùng một lúc. Và nó lại thấy hơi sợ bởi vì nụ cười của Mercedes là kiểu cười mà bạn cảm giác không phải dành cho bạn mà cho cái người đang đứng sau bạn, nhưng sau bạn chỉ có bức tường thôi.

Họ ăn bánh mì nướng cá mòi vì tối nay không ai đói lắm.

Khi Lily bò vào giường, Frances đã ngủ rồi. Và nhanh chóng, Lily cũng thiếp đi.

Đó là Ambrose. Đang đứng ngay chân giường nó, nhìn xuống con bé theo cách nó vẫn nhìn. Lily thấy mình ở nơi đó một lần nữa, giữa những ranh giới. Lần này con bé nhìn thằng bé thật chăm chú. Đôi mắt xanh to tròn của nó vẫn nheo lại dù là trong ánh sáng leo lắt. Vầng trán cao láng mịn còn in dấu sưng. Trên cơ thể nhợt nhạt hiện rõ những vùng xanh xao nằm dưới lớp da mỏng. Cái bụng trắng ngà, những khúc thịt mềm mại trông rất lạ lùng nằm tập trung giữa hai bên đùi nó. Cái đầu dù trọc lóc, nhưng vẫn có màu vàng mịn.

Lily hỏi nó, "Cậu là ai?"

Con bé chuẩn bị tinh thần để thấy nước ào ra nhưng thằng bé không mở miệng. Thay vào đó, nó chỉ đưa lòng bàn tay mình về phía con bé. Chúng trống rỗng.

Lily hỏi lần nữa: "Cậu là ai?"

Nó mở miệng và nước tuôn ra ngoài nhưng Lily vẫn ngồi ở nơi-chính-giữa đó không động đậy cho đến khi cả nó, cái giường lẫn Frances đang ngủ bên cạnh nó đã ướt đẫm. Không tệ lắm. Nước khá ấm, vì nước chảy từ trong cơ thể thằng bé ra mà. Khi nước đã chảy ra hết, nó vẫn đứng nhìn mãi với hai lòng bàn tay rỗng không giơ về phía con bé.

Con bé hỏi lần thứ ba, "Cậu là ai?"

Ambrose nói những tiếng đầu tiên. Giọng nó u tối bởi vì nó sống ở một nơi u tối. "Tôi là Không-ai-cả"

"Đừng sợ, Ambrose. Đừng sợ. Tụi chị yêu em."

Ambrose nói, "Xin chào."

"Chào," Lily nói. "Chào cậu bé. Xin chào."

Lily tỉnh giấc vì Mercedes đang chà xát đầu nó. "Con bé đang tỉnh lại."

"Ambrose," Lily nói.

"Nó đang mê sảng." Giọng Mercedes giống như một cuộc phẫu thuật trên da Lily vậy.

"Ai đã đánh cắp da của tôi?"

"Người ướt đẫm vì sốt."

Lily giấu mặt bên dưới cái gối ướt đẫm mồ hôi vì ánh đèn sáng làm nó đau như vừa trải qua một cuộc phẫu thuật mắt.

"Đèn tắt rồi, Lily, thấy không? Không có đèn đâu."

Cha đi vào cùng một bác sĩ. Đáng mừng Lily đã hết sốt, nếu không thân nhiệt của nó sẽ lại tăng cao. Chứng hoại tử. Đâu đó trong ánh đèn sắc như dao mổ Lily nghe ông ta nói chuyện với cha và hai chị nó, "Cháu làm đúng lắm, Mercedes." Họ sẽ phải canh chừng nó đến hết đêm, nếu nhiệt độ của nó lại tăng, nếu nó tăng... Họ đi ra ngoài sảnh, Lily không còn nghe họ nói gì nữa ngoại trừ việc Mercedes thét lên điều gì đó, sau đó Frances quay trở vô và hát cho Lily nghe. Những bài thật hay. Những bài hát buồn hay tuyệt ở điệu thứ, những bài hát kể chuyện dài mà ông cha ngày xưa vẫn thường hát trên những con tàu vượt biển bằng những ngôn ngữ khác.

Lúc đó là nửa đêm. Ba giờ ba mươi phút sáng. Lily thức giấc. Mặt trăng sáng lấp lánh trên khung cửa sổ. Hai bên giường, Frances và Mercedes đang ngồi ngủ trên hai chiếc ghế, bên trên phủ những tấm trải giường có màu xanh như bóng hắt từ những ụn tuyết dưới ánh trăng. Đêm nay là đêm trước Giáng sinh. Những người chăn cừu đã chìm vào giấc ngủ bên dưới những ụn tuyết của họ. Lily ngồi dậy. Da nó không còn đau rát nữa. Nó thấy thật mát mẻ và dễ chịu, sự trong trẻo nửa đêm. Nó đi giữa những ụn tuyết và những người say ngủ đến bên cửa sổ vì nó được mời. Ồ, hóa ra không phải là mặt trăng, đêm nay trời không có trăng, ánh sáng đó chiếu ra từ dưới sông.

Ambrose đang ở dưới sông. Nó đang chồm người tới vẫy, tay trái giơ qua đầu, tay phải duỗi trên mép đất. Phần thân dưới của nó bị khuất sau bờ đê. Nó trông như một người cá đang vẫy chào Lily trong bài hát ru xa xăm, u buồn của đại dương, chào... Màu da nó chuyển từ trắng sang hổ phách và ánh sáng chói lóa ấy đã khiến cho cơ thể đang nóng như thiêu đốt của Lily trở nên dịu mát và hồng hào như sữa. Nó đặt một tay lên cửa sổ, chào... Ambrose là mặt trời trong nước, thằng bé là ánh dương bị vùi lấp, nó đang cất lời, đến đây Lily, đến đây nào. Chị gái của em. Và em sẽ chữa bệnh cho chị. Một khu vườn bị khóa, một nguồn nước bị chặn, em vẫn chưa hết khát dù uống nhiều nước. Nó tiếp, con suối trong vườn em bắt nguồn từ Lebanon, hãy đến với em và chị sẽ được nghỉ ngơi. Rồi Lily đáp, được. Lily đang ngủ nhưng trái tim nó lại đang rất tỉnh táo, được, chị đến đây, Ambrose. Đợi chị nhé, em trai yêu quý, chị đang đến đây.

Lily bỏ những người ngủ trong tuyết lại rồi đi xuống lầu, băng qua nhà bếp, ra khỏi cửa sau và leo qua những đống than ở sân sau trên đôi chân trần. Với cái gót chân bị thương như vậy, lẽ ra nó không thể nào bước đi, thế nhưng nó lại có thể đi và không thấy đau tí nào. Nó chỉ thấy ánh sáng của Ambrose, đứa em trai to lớn của nó, đang đợi nó dưới sông. Thằng bé dang rộng đôi tay. Nó đến với em mình. Thằng bé đón lấy nó trong chiếc đầm ngủ trắng và đong đưa nó, đầu nó gối lên khoảng cong trên vai trái trong khi cơ thể nó được ôm trọn trong cánh tay phải của thằng bé. Chưa bao giờ nó cảm thấy ấm áp và yên bình như vậy, mắt mình đang nhắm hay đang mở nhỉ, chuyện đó không quan trọng. Con bé hầu như không cảm nhận được sự thay đổi giữa không khí và nước, nên phải một lúc sau nó mới nhận ra tại sao lúc này nó lại thấy mình nhẹ hơn và vòng tay ôm cũng dịu dàng hơn - khi thấy mái tóc mình trải ra xung quanh và thứ ánh sáng dịu nhẹ màu cam, nó mới biết mình đang ở dưới nước, má kề vào ngực thằng bé, cơ thể đang uốn quanh người bạn đầu tiên của mình, em sẽ đưa chị đến căn nhà của mẹ em, đến căn phòng của người mẹ đã mang thai em - Lily chưa bao giờ quen với việc thui thủi một mình. Chúng đi vào nước và quay trở lại, rồi Ambrose nhấc nó ra khỏi mặt nước một lần nữa, nước tuôn thành sông từ người nó. Thằng bé nhẹ nhàng đặt nó trên bờ sông và tim con bé đau nhói. Nước mắt nó bắt đầu tuôn ra vì thằng bé đang rời xa nó - đừng đi mà! Nó ngửa ra và lặn xuống nước - hãy đưa chị đi cùng em! Cơ thể thằng bé trắng trở lại và tỏa sáng từng đoạn cho đến khi tất cả đều biến mất. Lily nằm sấp theo phương vuông góc với con sông, đầu kê trên mép sông, hai tay duỗi ra, hướng về nơi nó nhìn thấy em trai mình lần cuối cùng.

Mercedes đã tìm thấy Lily như vậy vào lúc 5 giờ sáng, trong cơn mưa tuyết đầu tiên.

Mercedes tự trách mình về cơn sốt đang giày xéo Lily và có thể làm con bé mất đi chân của nó hoặc tệ hơn. Đó là lí do cô đi thẳng xuống hầm than sau khi bác sĩ đã ra về. Khi Frances hát cho Lily nghe trong bóng đêm, Mercedes đang khỏa thân dưới lớp vải bọc, quỳ cạnh lò than hiến dâng sự hy sinh của mình cho Chúa Trời.

Cô cầm cục than bằng hai tay, nâng nó lên và cúi đầu xuống; "Lỗi tại con." Khi làm điều này vào tuần trước, cô không nghĩ ngợi gì cả, môi vẫn còn nở một nụ cười xuẩn ngốc. Vậy mà lần này cô lại thổn thức với những giọt nước mắt nóng hổi. Lần này cô thực sự hối lỗi. Vấn đề của lần đầu tiên chính là danh dự. Cô đã tự hào về bản thân khi đã diễn cảnh sám hối dưới hầm và vì đã lập ra lon cacao Lộ Đức. Cô hài lòng với bản thân khi đã tắm và băng bó chân cho Lily theo cách mà cô nghĩ là còn thành thạo hơn cả những y tá bệnh viện đa khoa New Waterford. Lòng mộ đạo của cô chỉ là danh dự trong lốt Ác Quỷ, sự sám hối của không là gì khác ngoài một tội mới hình thành, ôi, cách bao lâu chúng ta lại phải học lại bài học cũ chứ? Chúa đã phản ứng lại rất nhanh và đã giáng hình phạt xuống Lily. "Lỗi tại con," Mercedes chỉ có thể nói như vậy, và khi cô cắn miếng than đầu tiên, nhai và nuốt, nỗi buồn vây kín cô. Cô cay đắng nhận ra mình đã làm tổn thương Chúa thế nào, và Chúa với lòng nhân từ vô hạn đã cho cô cơ hội thứ hai mà cô không đáng được nhận ra sao. "Là do tội lỗi nặng nề nhất của con mà ra." Cô cắn một miếng than khác...

Khi đã xong việc dưới hầm, Mercedes run rẩy đứng dậy, thay chiếc đầm ngủ của mình và lên lầu, nơi cô rửa sạch than đen, nước mũi và nước mắt trên mặt, chà lưỡi sạch nhất có thể, lấy chuỗi hạt cầu nguyện và đi trông chừng Lily. Cô thiếp đi trên chiếc ghế đối diện với Frances. Khi cô đột nhiên thức dậy lúc 4 giờ 55 phút sáng, Lily đã biến mất. Mercedes tuân theo phản xạ cổ xưa là nhìn ra cửa sổ và nhìn xuống bờ sông.

Đêm sau đó, khi Lily mở mắt và nhìn vào cái miệng đang cầu nguyện của Mercedes, lần đầu tiên nó thấy như mình đang mơ, vì tại sao mà lưỡi Mercedes lại có màu đen như vậy được?

Lily không bị đánh thức bởi lễ xức dầu thánh, bởi tiếng bác sĩ nói rằng bây giờ thậm chí không cần phải cắt bỏ chân nó đi nữa và liệu nó có thói quen mộng du không? Nó vẫn ngủ khi cha tựa đầu trên ngực nó khóc nức nở. Nó vẫn ngủ khi Frances mua chuộc và đe dọa Chúa, "Này đồ khốn, tôi sẽ ngoan, được chưa? Chỉ cần ông đừng bắt con bé phải chết thì tôi sẽ không hút thuốc nữa, được chưa? Tôi không thề đâu, nhưng tôi sẽ không khiến ông bố điên rồ của tôi tức giận nữa, và tôi sẽ cầu nguyện mười lần một ngày và sẽ là một nữ tu mắc dịch, được chứ? Amen."

Nhưng thứ đã đánh thức Lily chính là những lời cầu nguyện thầm thì của Mercedes.

Lily hỏi, "Sao chị lại có cái lưỡi màu đen chứ, Mercedes?"

Mercedes khóc òa, "Ôi tạ ơn Chúa - Cha ơi! Cha ơi!"

Ông ập vào phòng - "Ôi tạ ơn Chúa" - và quỳ cạnh Mercedes bên giường Lily.

Lily nói, "Con đói quá."

Cha và Mercedes phá lên cười và ôm chầm lấy nhau và cảm ơn Chúa lần nữa. Frances lảng vảng ở cửa và nói với Chúa, "Còn lâu tôi mới trở thành nữ tu vì chuyện này nhé."

Mercedes cẩn thận né tránh cái ý nghĩ thoáng qua rằng toàn bộ sự hồi phục kì diệu của Lily là nhờ những hành động ăn năn của cô dưới hầm mà có. Việc này sẽ kêu gọi thêm lòng nhân từ vô hạn từ Chúa. Vậy nên cô an tâm khi Lily đưa ra một lời giải thích của
riêng nó.

"Ambrose đã chữa bệnh cho em. Nó tắm cho em ở dưới suối."

"Ambrose là ai?"

"Là thiên thần hộ mệnh của em."

 

Mercedes kể lại cho linh mục nghe. Ông gật đầu nhưng lại nói với cô rằng điều quan trọng nhất là không được hấp tấp về những chuyện này. Thiên Chúa giáo đòi hỏi nhiều hơn một sự việc riêng lẻ tầm thường, trong khi những người phàm lại hầu như chẳng cần gì đã có thể dựng lên một nơi linh thiêng từ một con sông và một vị thánh từ một bé gái mười tuổi. Tốt nhất là nên im lặng và chờ đợi các dấu hiệu.

Vì vậy Mercedes nghe theo. Cô cố không chăm chăm vào những dấu hiệu bỗng dưng rõ ràng trong hồi ức: cái chân bị teo của Lily - các vị thánh thường phải chịu bệnh tật lúc còn nhỏ. Gương mặt xinh xắn của con bé - tấm gương phản chiếu linh hồn của nó. Hoàn cảnh ra đời bi thương của nó - một đứa bé mồ côi mẹ đáng thương. Thử tưởng tượng Lily thực sự có năng lực chữa lành vết thương. Hoặc giả nó chính là công cụ của một phép màu sau khi chết mà Bernadette ở Lộ Đức đã tạo ra. Mercedes cố hết sức chế ngự những ý nghĩ này, vì đã nếm kinh nghiệm đau thương về khả năng giả mạo của Ác Quỷ. Hắn là một kẻ hay giả danh và bắt chước, một kẻ buôn bán những cái bóng và những đường song song. Cứ thử nhìn tất cả những người tưởng là thánh mà Giáo hội đã phải thiêu chết cách đây vài thế kỷ. Các vị thánh và nguồn gốc của quỷ satăng có xu hướng cùng hình thành chung một cách. Bạn phải quan sát thật gần để thấy được lực lượng nào sẽ xông lên giành lấy linh hồn có tính dẫn cao của ứng viên - bởi vì nếu không là loại này thì bắt buộc phải là loại kia. Mercedes biết rằng chỉ cần Ác Quỷ đánh hơi được một chút gợn tham vọng ở nó, hắn sẽ đến và tóm lấy Lily.

Nhưng bởi vì Mercedes không thể nào không mong muốn Lily hóa ra một vị thánh, cô cố mong điều đó chỉ là vì cha. Minh chứng căn bản.

Sau việc này Frances không cần phải kể thêm cho Lily những câu chuyện về Ambrose nữa bởi vì chúng đã trở thành chuyện của Lily. Cuối cùng Frances cũng đã thành công trong việc giao thằng bé cho con bé. Lily vẫn ổn. Ngay lúc này. Frances có thể tiếp tục với những việc khác rồi. Cuộc sống của chính cô.

Cô lấy tiền trong lon Lộ Đức, mặc bộ đồng phục Thanh Nữ Anh của mình vào và đi lén trên chiếc Hupmobile. Ngay khi James ngừng xe lại, cô trượt khỏi xe và núp trong bụi rậm cho đến khi chiếc xe tải của Leo Taylor ngừng lại. Cô đợi đến lúc anh ta chất hàng xong và đi đến chỗ James để lấy tiền mới di chuyển từ bụi cây tới xe tải, nhảy vào sau xe và biến mất sau những cái sọt và thùng đựng rượu.

"Cảm ơn, ông Piper."

"Được rồi, Leo. Lái xe cẩn thận."

Frances thò đầu ra giữa những tấm che bằng vải nhựa và ngắm nhìn đường Shore xa dần bên dưới. Cô xoay người và cười toe toét như một chú chó vào ngọn gió biển đầy nắng, và mặc kệ hai bím tóc bung ra đằng sau.

Xe chạy chậm lại khi họ đến Sydney và ngừng hẳn ở khu Coke Ovens của Whitney Pier. Cô thụt người xuống khi Leo xuống xe, đi vòng ra sau và dỡ những tấm vải phủ ra để giao kiện hàng đầu tiên. Khi anh ta quay tấm lưng to bè lại, cô nhảy ra, lấy đi một khối lượng bằng 1,3kg từ chiếc xe. Cô bé đứng núp sau một cái trụ có mùi hắc ín của cầu tàu C.N. chờ anh ta lái đi. Sau đó cô tiến về phía căn nhà làm bằng ván ghép ọp ẹp và gõ một cánh cửa thép lớn.

Nếu tôi có ý định,

nhảy xuống biển lớn kia,

sẽ chẳng liên quan đến ai nếu tôi nhảy, nhảy, nhảy, nhảy, nhảy....

 

tôi thề tôi sẽ chẳng gọi viên cớm nào,

nếu tôi bị bố đánh cho một trận,

sẽ chẳng liên quan đến ai nếu tôi bị đánh...

 

Hoa hồng đều được để lại trên má của con...

Thứ bảy, ngày 31 tháng 8 năm 1918

Nhật ký thương yêu,

Ta không biết phải bắt đầu từ đâu nữa. Ta phải viết ra hết khi mọi thứ còn mới mẻ. Ta đang ở đây ngay dưới cái cây của ta trong Công Viên Trung Tâm và chúng ta có cả buổi chiều cho đến giờ ăn khuya. Ta sẽ phải quay lại một vài ngày, vì dù đã than vãn rằng chẳng bao giờ có chuyện gì đó xảy ra, thì giờ ta nhận ra rằng có hàng tấn chuyện đã đang xảy ra và đều dẫn đến việc mà ta sẽ nói với mi, chính là MỌI THỨ.

...Trước mi ta không thấy xấu hổ gì hết, Nhật Ký à, vì mi là chính ta mà. Mi sẽ không tỏ ra lúng túng, không thể bị sốc, mi biết rằng không có gì là đáng ghê tởm trong tình yêu, do đó ta sẽ cố gắng thoải mái với mi như ta đang thoải mái trong suy nghĩ của mình vậy. Để không quên, ta xin gửi đến Giles một bài kinh cầu nguyện thay lời cảm ơn. Cô ấy là người ít tò mò nhất trên mặt đất này đó. Nếu không có sự hoàn toàn thiếu thận trọng của cô ấy thì cuộc sống của ta đã chẳng bao giờ được bắt đầu. Nếu bố biết được cô ấy là một người trông chừng kém như vậy thì ông sẽ đến đây ngay trong tích tắc để gửi ta đến chỗ mấy nữ tu cho xem. Điều này nhắc ta nhớ, ta nên viết cho ông vài chữ. Ồ, nhưng ta đang chọc ghẹo ngươi, đúng không hả Nhật Ký. Ngươi đang chịu đựng đau đớn vì sự đề phòng. Yên nào, hãy mở cửa trái tim, và ta sẽ bắt đầu ngay từ đầu và giãi bày với mi mọi chuyện ta đã rõ...

 

Ta đã thấy chúng phai nhạt dần vào héo úa...

 



1. Một tỉnh miền Nam nước Pháp

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86300


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận