Không Lối Thoát Chương 5


Chương 5
Nhật kí của cô gái lạc lõng

Đứa trẻ khôi hài

Ô cửa khoảng hai mươi xentimet bật mở và hai con mắt màu nâu nhìn vào cô bé dưới hàng lông mày nối liền nhau. Frances đưa cái chai của James lên, ô cửa trượt về và đóng lại như cũ, ngay sau đó cánh cửa bằng thép mở ra. Đứng ở đó là một người đàn ông to con, mái tóc đen gợn sóng, mũi to như nắm tay, hai cánh tay như những khẩu đại bác, làn da có lẽ là màu nâu ôliu nhưng rõ ràng là anh ta đã quá thiếu ánh nắng mặt trời. Trẻ tuổi và, Frances phải đoán, đần độn. Anh ta nhìn chằm chằm vào Frances một cách vô hồn và chặn những nỗi u sầu nội tâm mà cô bé đang định nhìn vào lại.

"Đóng cái tủ đá đó lại đi Boustro, ánh nắng mặt trời chết tiệt đang tràn vào đấy!"

Một người đàn ông nhỏ con huých cùi chỏ vào bên sườn của chàng trai trẻ và liếc mắt nhìn, không phải nhìn Frances mà nhìn qua vai cô bé sau đó nắm lấy tay cô "Vào đi, vào đi!"

Cô đang ở bên trong.

Phía trong căn phòng chứa rượu lậu khác hẳn với bên ngoài của nó. Đó chỉ là một căn nhà buồn tẻ ở khu Coke Ovens, lớp sơn xám bong tróc, cửa sổ dát ván, bạn phải biết mình đang tìm gì thì mới có thể tìm ra được vì trông bên ngoài nó y như một ngôi nhà bỏ hoang - trừ tầng trên có vài cây thuốc lá cảnh và hoa cúc vạn thọ để mồi thuốc đang bám víu vào sự sống trong cái hộp bên cửa sổ nhìn xuống bãi đổ rác của công ty sắt thép Dominion. Phía trên là cái cầu tàu lửa. Đây là đường Railway.

Frances chớp chớp mắt trong căn phòng lờ mờ và đầy bụi, căn phòng bắt đầu hiện rõ ra, những băng ghế xếp dọc tường, giấy dán tường bong ra, chỉ còn lại dấu vết hình của các vị thánh và các cô gái bay ra từ các góc của mái nhà bị xỉn màu lại vì nicotin và vì bị bỏ hoang. Trên sàn nhà, cái ống nhổ bằng đồng thau ngập trong một đống chất nhầy màu nâu và vài cái hũ thiếc gỉ cũng được dùng với mục đích tương tự. Một đống tàn thuốc lá được quét dồn vào ngay giữa thảm. Một quán rượu tự chế - một đống sắt vụn trên hai cái trống dầu - chai lọ và thùng, không có cái gương, không có ly bỏ tiền, không có những hình chạm khắc của thuyền hay tàu, không có tranh các trung đoàn, không có những anh hùng đấm bốc đang làm dáng trên tường. Ở một góc xa xa có cây đàn piano tự động.

Frances nhìn vào khuôn mặt bủng beo căng thẳng của người đàn ông nhỏ con, đám râu tóc lởm chởm rất hợp với cặp mắt của ông ta.

"Ai gửi cháu đến đây vậy, cháu không phải một đứa bé bán bánh". Ông ta cười khúc khích, bỗng nhiên Frances cảm thấy buồn cười vì cái bộ quần áo nữ hướng đạo sinh của mình, vậy mà cô nghĩ rằng nó là món đồ hóa trang tốt nhất.

"Nó chỉ là một bộ trang phục thôi", cô bé ấp úng, "cháu là..."

"Cháu là gì nào?"

Cô bé không thể trả lời được, lông mày nhăn nhúm lại, cô tự nổi giận với chính mình - đồ con nít. Đồ con nít yếu đuối, Frances. Cô cắn vào phía trong má mình và nhìn xuống.

"Ta đang hỏi cháu đấy."

Cô nhìn vào ông ta, ông ấy là một thứ gì đó mới mẻ, không phải một nữ tu, không phải một thằng bé hư, không phải là cha cô.

"Đi ra khỏi đây, đi đi, biến đi!"

Ông ta đẩy Frances về phía cửa, cô bé bị vấp và buột miệng "Cháu là một người làm trò."

Ông ta dừng lại và cười to, nhét tay trong túi quần - một giọng cười buồn bã và hèn hạ, cái lưỡi nhọn của ông ta thè ra che hết môi dưới trong lúc một tay ông ta tạo ra những tiếng leng keng trong đống tiền xu. Bên cạnh, Boustro cao to vẫn không hề thay đổi biểu cảm trên mặt - và vẫn nhìn thẳng vào cô. Có thể đang định nhảy xổ vào cô bé và không cho cô chút nào, sẽ không có chút nào. Frances nhìn quanh nhưng chẳng thấy chỗ nào để chạy. Tên khổng lồ ngu ngốc đang đóng cọc giữa cô và cánh cửa, tại sao cô lại không chịu đi khi người đàn ông khó tính kia bảo cô đi chứ? Đột nhiên Frances chỉ muốn ba chân bốn cẳng về nhà với Lily và Mercedes.

"Tên cháu là gì, nhóc con?"

Frances nói "Cháu phải đi đây, xin lỗi vì đã làm phiền"

Người đàn ông nhỏ ra hiệu cho cô "đến đây", Frances đi chầm chậm quay về phía ông ta. Ông chụp lấy cái chai trong tay cô bé, mọi thứ của ông ta cứ như một cái lò xo xoăn tít và sẵn sàng búng vào mắt bạn bất cứ lúc nào. Frances không thấy ông ta cử động, cô chỉ thấy bỗng nhiên mình đang ngồi thẳng xuống một cái ghế dài.

"Làm ơn đi ông, cháu chỉ muốn về nhà thôi."

"Coi nào cưng, cháu tên là gì?"

Frances không trả lời, ông ta nắm lấy cằm của cô bé bằng ngón cái và ngón trỏ - cô nhận ra ông ta khỏe mạnh hơn vẻ bề ngoài của mình - và lắc đầu cô bé tới lúc cái cổ của cô nóng ran lên. Cô bắt đầu thả lỏng.

"Giờ thì cháu phải cư xử đàng hoàng. Coi nào. Cháu có định trả lời không?"

Nói chung thì cũng không khó khăn lắm. Cô bé nói "Biến đi."

Ông ta nắm một nắm tóc của Frances và lôi cô bé đứng dậy, Frances rất phấn chấn vì sức mạnh của cái từ mà cô mới dùng, ở đây, lần đầu tiên từ khi lớn lên. Cô cười vào mặt ông ta và làu bàu "Ông nghĩ tôi là ai, nhìn vào cái chai đi, đồ ngốc!"

Ông tát cô bé một cái ra trò, mắt đã hướng về phía cái nhãn vỏ, ông xem xét nó, đôi môi vẫn mở và cong lên. Ông lại nhìn Frances và chầm chậm lắc đầu. Frances chỉnh cái nón thẳng thớm lại. Ông ta ném cái chai cho Boutros mà không cần nhìn rồi hỏi cô bé "Anh ta có biết cháu ở đây không?"

"Không. Nhưng ông ấy sẽ biết."

"Vớ vẩn!"

Frances chỉ nhún vai.

Ông ta lặp lại, "Vớ vẩn, cháu mà nói cho ông ta biết thì ông ta sẽ giết cháu đấy!"

"Sau đó là giết ông, vì ông đã đụng vào tôi", cô nghếch cằm lên và nhìn xuống mũi mình "Cha không thích vậy đâu."

Ông ta suy nghĩ một chút về điều đó, sau đó nói "Cháu là đứa nào?"

"Frances."

Ông ta nheo mắt "Cháu muốn gì, Frances?"

"Một công việc!"

Ông ta lại bắt đầu cười nhưng Frances chỉ nhìn thẳng vào mắt ông. Ông ta dừng lại và hỏi "Cháu có thể làm được gì?"

"Cháu có thể nhảy múa, có thể hát và chơi piano."

Ông ta nhìn cô bé từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới lên "Gì nữa?"

Cô bé nặn ra một nụ cười chế nhạo trên mặt mà cô nghĩ là nó rất lạnh lùng "Tôi có thể làm tất cả mọi thứ."

Ông ta cười thành tiếng một hồi lâu, sau đó gật đầu. "Đúng rồi Frances", mắt vẫn không rời khỏi cô bé, ông ta nói với Boutros, "Chào chị họ của con đi, con trai". Frances nhìn sang Boutros với đôi mắt tròn xoe rồi quay lại phía người đàn ông nhỏ con: "Ông đang nói gì vậy?"

"Ta là Jameel, chú của con, búp bê ạ!"

Đó cũng là lúc mà Frances phát hiện ra, giữa đống màn màu vàng vàng xám xám trong bóng tối mờ ảo chỗ lối đi có một người phụ nữ béo phị đang nhìn chằm chằm vào cô làm cho cô rất ngạc nhiên. Chỉ có những người biết rõ mình thì mới có thể ghét mình tới mức đó được. Bà ấy có thể là ai được chứ? Sau đó Frances cảm thấy quặn lên trong ruột và nhận ra một mặt nữa của sự việc mà cô biết và đã từng rất thích.

"Camille, đến gặp cháu gái của em đi này", Jameel nói.

Nhưng bà Camille chỉ quay lưng lại và lại biến mất vào trong căn phòng tối tăm. Frances nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của bà chậm chạp đi lên cầu thang, thật là kinh khủng. Không phải những người đàn ông này, không phải đống nước dãi màu nâu trong mấy cái lon, không phải những cái tàn thuốc trên sàn, cũng không phải mùi hôi thối của mùi rượu trộn với mùi nôn mửa - mà chính là cái sự thật rằng người đàn bà đáng ghét kia lại là chị gái của mẹ.

Ngày thứ bảy tiếp theo, không cần chờ tới lúc cha rời khỏi nhà cho những chuyến đi đêm của mình, Frances rời khỏi giường, mặc bộ quần áo hướng đạo, cột hai tấm ga trải giường lại với nhau, thắt nút trên đó và cột chặt một đầu vào cái lò sưởi. Cô trèo xuống qua cửa sổ và chạy dọc theo bên hiên nhà. Lily cuộn cái thang lại sau khi Frances đã xuống tới đất an toàn. Lily sẽ ngủ chập chờn cho tới gần sáng và chờ đến khi nghe thấy tiếng cục than gõ vào ô kính cửa sổ. Để giúp đỡ cho Frances, cô bé đã phải chọn một thứ ít xấu xa hơn trong hai thứ: rất tồi tệ khi cô không biết Frances đi đâu suốt cả đêm dài, nó còn tồi tệ hơn khi thấy khuôn mặt của Frances khi bị cha bắt được. "Xin Chúa nhân từ, xin hãy để Ambrose đi theo bảo vệ Frances."

 

Cô ấy không ngọt ngào sao? Cô ấy đang đi trên đường.

Giờ tôi hỏi lại một cách tự tin, cô ấy ngọt ngào chứ?

 

Những người giàu có mua rượu một cách bí mật và sử dụng chúng một cách sang trọng tại nhà, những người bình thường thì chuyền tay nhau cái hũ trong bếp. Những cái nắp đậy lỏng và những người trẻ tuổi thích gây chuyện đến nhà buôn rượu lậu của Jameel ở đường Pier để đánh nhau, chơi bài và say bí tỉ. Thợ mỏ, những người lái buôn trên biển và công nhân thép, một số người ngọt ngào và một số khác thì chua chát như binh sĩ.Vài thứ đồ uống có cồn thật, một số nhà tu hành bị tâm thần và có vẻ kì lạ vừa đi ngang qua, một thầy thuốc với những vết thương không thể nhìn thấy được.

Không có tiếng nhạc - chẳng ai thèm động vào cây đàn piano tự động cũ kĩ, nơi này còn chẳng đủ vui vẻ để tạo cảm hứng cho một đoạn nhạc như mèo kêu vào giờ đóng cửa. Khách hàng là những người da trắng trừ một hai người thủy thủ Mỹ. Dĩ nhiên là không có ai đến từ vùng Coke Ovens. Không có phụ nữ. Không có khách du lịch - đây không phải là Harlem. Không có những người đến từ khu ổ chuột. Frances là công chúa duy nhất bước qua ngưỡng cửa nơi này. Cô Camille của cô bé thì không được tính bởi vì bà ấy không tự nguyện đến đây. Bà ấy ở trên gác cho tới lúc cần phải xuống để đổ mấy cái ống nhổ và lau nước tiểu trên sàn nhà.

Frances đã đến phía ngoài cánh cửa thép, hít một hơi không khí cuối cùng của Coke Ovens và bước vào chỗ tối tăm ồn ào, chui qua dưới cánh tay của Boutros như thể đó là một cây cầu. Không khí sệt lại như có thể nhìn thấy được, không phải chỉ bởi vì khói mà còn vì những đám chân tay và giọng nói đàn ông, quần áo dính đầy đất cát, mùi mỡ bôi trục xe, sunphua và mồ hôi. Đổi ca, những con tàu dơ bẩn to lớn đang tròng trành thả neo trong đêm và Frances phải bơi giữa chúng mà trong tay không có lấy một cái mái chèo hay một cây cột buồm. Cái gì có thể đáng sợ hơn được nữa? Bị chú ý và bị bắt? Hay vô tình bị nghiền nát? Cô tìm thấy Jameel và lấy lại tinh thần để gọi một cốc rượu mà cô mong là sẽ tìm lại được cảm giác của kinh nghiệm và sự mất kiên nhẫn đối với lần đầu tiên nếm trải tội lỗi của mình. Jameel bảo cô quên nó đi và bắt đầu làm việc.

Cô nhìn quanh. Làm việc...Không có sân khấu, không có đèn dẫn đường. Dĩ nhiên là cũng không có những đám đông im lặng dõi theo khi cô tiến đến bên cây piano. Phải bắt đầu từ đâu chứ? Frances ước gì có một bà tiên đỡ đầu hiện ra và vạch đám lông đà điểu này cho cô một con đường; trong cái đám ngực, hông, môi và son môi này - một giọng trầm khàn mà cô tưởng tượng là giọng của Louise Brook. Sẽ không có được một sự may mắn như vậy. Những người đàn ông cao to, tẻ nhạt như hai cục u trên cái bàn ủi quần áo. Eo mỏng manh như những chiếc đũa - mười sáu tuổi, Frances đã trưởng thành hết mức có thể. Cô đứng trước cây piano bởi vì không có cái ghế nào ở đó. Nó đã bị mất vài phím, những cái còn lại thì đang hư hỏng dần, vài cái khác còn nguyên vẹn thì không phát ra tiếng. Những bản nhạc loang lổ và vàng ố thì đã được mua ở các cửa tiệm từ cái thời chuyển giao hai thế kỉ trước đây.

 Frances quay sang đám đông thờ ơ ồn ào và cảm thấy chân mình như muốn sụm xuống, để tự ngăn mình bỏ chạy, cô đá chân cao lên và nhảy một điệu giậm chân đã giúp cô kiếm được rất nhiều tiền ở bãi đậu tàu. Không có phản ứng, thậm chí không có cả tiếng "Ê ê...". Cô ấy cứ như vô hình. Một đống nước nhầy có vài vệt thuốc lá tình cờ bay lên ngay cạnh giày của cô. Cô bịt miệng lại, nhắm mắt và siết chặt nắm tay rồi ráng ép mình vào bài hát đang vang lên từ tận đáy phổi "Quý cô từ Armentières, cô có nói hay không? Quý cô từ Armentières, nói hay không? Quý cô từ Armentières, chưa từng biết mùi đàn ông từ bốn mươi năm nay. Quý cô xinh xắn chưa hề bị vấy bẩn, nói hay không?". Chẳng có ích lợi gì. Những thứ có thể gây náo loạn trong sân trường chẳng hề nhận được chút quan tâm nào ở đây"

Cô diễn hết tiết mục của mình nhưng nó chẳng được gì. Ai muốn xem một cô bé gầy gò mặc bộ đồ hướng đạo nhảy một điệu focrot cũ xì bắt chước trong phim, hay là lắng nghe giọng hát lảnh lót ngọt ngào của cô? Jameel thì không. Ông muốn cô bé biến khỏi đây. Ông nắm cái khăn quàng cổ của cô lôi đi, cô quằn quại đau đớn và trong lúc tuyệt vọng, cô giằng ra rồi ngã lên chân của một ai đó, tiện tay cô giật lấy ly rượu của anh ta - "Này!"- cô uống cạn ly rượu và cất giọng nói theo cái kiểu châm biếm thường thấy trong phim "Ôi bé yêu, sao các thiên thần lại để cho cưng rời khỏi thiên đường vậy?". Cô len lỏi ra khỏi tầm với của ông ta và chen giữa đám eo thon vai rộng, lại cướp một ly rượu khác từ một người đàn ông với hình ba lá cờ - "Này, cô nghĩ cô đang làm cái gì vậy?" - và ném trả nó lại, nói "Tôi đã có những thứ không có trong sách vở", ho, phun phì phì và hôn gió. Jameel đuổi theo với một cái chai trong tay, rót lại cho những người lính thủy và ra hiệu cho Boutros "Đuổi nó ra khỏi đây". Khi Frances nốc hết cốc thứ ba sau một cú chộp gọn từ tay một "người đàn ông đẹp trai và cao to khủng khiếp" và cảm thấy rằng thực quản và ngực mình đang bốc cháy, đôi chân cô bỗng nhiên mọc cánh, chúng trở nên rất rất vui vẻ, cô loạng choạng đến bên cây piano. Cái máy bắt đầu vang lên bản nhạc hành quân "Xuyên qua vùng Rye", Frances lột chiếc áo đồng phục của mình ra và hóa thân thành người đầy tớ gái thông qua điệu nhảy cancan vùng cao nguyên. Họ bắt


đầu xem.

 

Vào thứ hai, Frances lại nghỉ học và chạy đến tiệm cắt tóc Sachel Ass Chism. Cô đưa cho ông ta một bức hình của Louise Brooks, ông ấy lắc đầu.

"Tôi không biết cắt tóc phụ nữ"

"Tôi không phải phụ nữ"

"Nghe này cháu yêu..."

Cô chụp lấy cái kéo và xén đi một trong những bím tóc của mình rồi nói "Giờ thì sửa nó lại đi"

"Ôi Chúa ơi, cô bé..."

Những người đàn ông khác đã ngẩng lên khỏi bàn cờ tướng và nhìn từ lúc cô bước vào, họ nhướn mày khi cô ngồi phịch xuống cái ghế cắt tóc, giờ họ đang cười với cô. "Phải vậy chứ!"

Sachel Ass lắc đầu và cố gắng làm đẹp nhất có thể "Tôi không hiểu sao cô không đến Sydney và tìm một tiệm chăm sóc sắc đẹp phù hợp nào đó."

Mấy người chơi cờ cười khúc khích và dùng giọng ngọng nghịu gọi ông là "Pierre."

"Tôi không có thời gian để bắt tàu đến Sydney", Frances nói, tự thưởng thức loại ngữ pháp kiểu găng-xtơ của mình, "tôi còn nhiều việc phải làm."

Hai mươi phút sau cô đã lại ở trên đại lộ Plummer, mái tóc giờ là một đám dây nợ màu gỉ sét lộn xộn. Canada lại có một tình nhân mới.

Cô nhún nhảy và tiệm thuốc và bánh kẹo MacIsaac "Chào ông MacIsaac, ông có thể lấy cho cháu một hộp kim không ạ?"

"Ta thích kiểu tóc của cháu đấy Frances, trông rất đúng kiểu nghệ sỹ nhạc jazz"

Khi ông ấy quay lưng lại, cô trộm một gói thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ, ông đưa cho cô hộp kim cùng với một cục kẹo chanh và hỏi "Năm sau cháu định sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp, cô bé?"

"Sao cơ, cháu nghĩ là cháu sẽ tiếp tục dạy học, thưa ông MacIsaac. Cháu tin rằng việc quan trọng nhất là bọn trẻ có được một sự khởi đầu tốt trong cuộc sống, và đó là những gì mà một giáo viên tốt có thể làm cho chúng."

"Cháu thông minh lắm, các cháu đều vậy, mỗi đứa đều có tài năng."

Cô bỏ tọt viên kẹo vào miệng rồi để hộp kim lại ở quầy tính tiền.

Cô đi vào giữa những đám đông trong sân trường giờ ra chơi. Frances đã quyết định rằng hôm nay sẽ là ngày cuối cùng cô đến trường, nếu cô không bị đuổi học sau những gì cô đang định làm thì sẽ chẳng còn gì là công bằng nữa. Cô đốt một điếu thuốc và nhìn quanh để tìm công cụ hỗ trợ cho sự kết thúc của mình. Ở trong lớp, Mercedes đang lau bảng, cô nhìn ra cửa sổ và thấy em gái mình đang hút thuốc hiên ngang trước mọi người. Và cái quái gì trên đầu Frances vậy? Một cái nón nhỏ kì cục làm từ tóc sao? Ôi Chúa ơi. Lúc Mercedes đi ra ngoài thì Frances đã biến đi đâu đó cùng với Puss-Eye Murphy. Con bé muốn làm gì với Puss-Eye bé bỏng tội nghiệp chứ?

Thực ra cái tên "Puss-Eye" đã bị nhại thành "Eye ngoan đạo" từ lâu, cho đến giờ thì mọi người vẫn gọi cậu là Pius hay "Cha xứ", tất cả và cả chính cậu cũng khá chắc chắn về định hướng trở thành Cha xứ của mình. Mercedes đứng ở hành lang, đập đập mấy miếng giẻ lau xuống các bậc thang bằng đá, không thể ngăn cản mình có một cảm giác khó chịu mặc dù cô biết rằng bất kỳ cô gái nào cũng sẽ an toàn tuyệt đối khi ở bên cạnh "Cha xứ" Cornelius Murphy.

Khi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên, Puss-Eye lảo đảo bước ra từ trong một căn nhà xí bỏ hoang ở rìa sân chơi, vừa chạy vừa khóc qua những khu trò chơi bóng sini, nhảy dây, nhảy ô, băng qua đường dẫn vào sân bóng chày và chạy thẳng về nhà. Sao cậu ta lại ôm bụng thế kia? Mercedes đảo mắt trong một biển học sinh để tìm Frances và bắt gặp cô đang đi ra khỏi nhà xí bỏ hoang. Chuyện quái gì đã xảy ra vậy? Học sinh tràn ra khỏi các bậc thang, vượt qua mặt Mercedes và bắt đầu bàn tán về tội lỗi cuối cùng của Frances Piper. "Đá vào giữa hai chân cậu ta", "Bỏ rắn vào quần cậu ta". Mercedes nhìn cho đến khi Frances biến mất khỏi tầm mắt, sau đó hít một hơi dài, nhặt mấy cái bàn chải và giẻ lau của mình và quay trở lại lớp, hy vọng cho điều tốt nhất xảy ra.

Chiều hôm đó James nhận được một tờ thông báo từ xơ Saint Eustace, Frances đã bị đuổi học.

 

Giữa bữa tối, Frances trở về nhà và cùng ngồi với mọi người trong gia đình ở bàn bếp. "Ôi, cháo ngô với ngô luộc!"

Lily rất ngạc nhiên với hình ảnh mái tóc của Frances nhưng cô bé chưa kịp nói gì thì James đã bảo cô bé và Mercedes đi chỗ khác. Họ bỏ dao nĩa xuống và rời khỏi đó mà không nói tiếng nào. James đứng dậy và đưa một tay lên, Frances không thèm rúm người lại, thậm chí không nhìn lên, không có cơ bắp nào trên người vô tình co rúm lại. Cô với lấy cái nĩa của Lily và bắt đầu ăn. James thả tay xuống bên hông, anh nói và bỗng nhiên cảm thấy mệt mỏi "Đừng đem về nhà". Con bé chỉ ngồi nhai, anh cẩn thận kéo cái đĩa ra khỏi tầm với của nó và "Con nghe ta nói gì không Frances?"

Cô bé nhìn lên, trưng ra một khuôn mặt ngoan ngoãn và lơ đãng "Cái gì cơ?"

"Nếu con còn muốn ở đây...dù con có làm gì...thì cũng để nó tránh xa Lily ra"

Frances với lấy cái đĩa và nói "Cha đừng lo".

Anh nhìn con bé và cảm thấy mệt mỏi hơn: khuôn mặt xấc láo, mái tóc ngắn cũn mới cắt, lạc lõng, và sẽ mãi mãi ra đi. Chuyện gì đã xảy ra với con bé vậy? Frances bé bỏng của ta. James thở dài. Anh không thể nghĩ đến tất cả những chuyện đó ngay lúc này được, như vậy là quá nhiều. Ở đây quá tối, và anh không còn chút sức lực nào. Anh nhìn con bé chống tay lên bàn và vừa nhai vừa ậm ừ, sau đó bỏ đi mà không tát con bé cái nào. Nó đã ăn đòn quá đủ rồi.

 

Frances đã nói với Puss-Eye rằng cô cần một lời khuyên về một tội lỗi khủng khiếp mà người ta thú nhận với cô. Đến khi đã vào trong bóng tối của nhà xí cùng cái mùi hôi thối ẩm mốc của nó, Frances đánh ngã cậu ta, nắm tóc và dùng đầu gối thụi vào ngực cậu bé, cô nhét tay còn lại của mình vào trong quần cậu, bóp và giật mạnh trong khi cậu bé khóc lên. Càng mạnh thì cậu bé càng khóc, cậu không thể ngừng một trong hai việc đó lại và nó cũng không kéo dài quá lâu, cậu bé chỉ mới mười lăm tuổi.

Frances chùi tay xuống sàn và bỏ đi. Nhiệm vụ đã xong. Cũng không giống mình đã làm cậu ta tổn thương hay gì cả.

Mẹ của Puss-Eye biết ngay khi cậu vừa xuất hiện, cậu bé không cần nói gì nhiều trừ cái tên thủ phạm. Cha của cậu đã chết, may cho Frances, còn Petal thì đang ở xa. Bà góa Murphy đến trường và nói với xơ Saint Eustace, cố nói càng ít càng tốt.

Nếu có ai đó còn cái suy nghĩ rằng sâu trong bản chất Frances vẫn là người tốt thì cái ý tưởng đó đã vừa bị xóa sạch.

Sáng hôm sau, Mercedes đến trường sớm như thường lệ và có vừa đủ thời gian trước khi chuông reng để xách một xô nước xà bông đi lau những dòng chữ nghuệch ngoạc viết bằng than trên tường "FRANCES PIPER SẼ BỊ THIÊU CHẾT DƯỚI ĐỊA NGỤC".

 

 

 

 

Phụ nữ rẻ tiền và đàn ông bị lừa

Bỏ thêm một đồng tiền nữa, vào trong hũ đựng tiền,

Tất cả những gì ta cần là em, âm nhạc, âm nhạc và âm nhạc.

Ta sẽ làm tất cả cho em, bất kỳ chuyện gì em muốn.

Tất cả những gì ta cần là được yêu em, âm nhạc, âm nhạc và
âm nhạc.

 

Giờ thì tất cả chỉ là giải trí, những người đàn ông bắt đầu mang các cuộc hẹn hò chớp nhoáng vào câu chuyện. Jameel đã kê vài bộ bàn ghế, đeo cái tạp dề vào. Mấy người phụ nữ ngồi xem buổi diễn với nhiều mức độ không tin tưởng khác nhau, khinh bỉ hoặc thích thú trong khi những người đàn ông của họ hoàn toàn thờ ơ. Frances đã rút bỏ mấy bản nhạc cũ trong cây piano tự động và cô vẫn tiếp tục dùng các phím cũ, lúc đầu là những bài nhạc kịch vui cũ của mẹ mà cô tìm thấy trong hộp đựng đồ, sau đó là những bài cô nghe được từ mấy cái đĩa nhạc mà các thủy thủ mang về cho cô từ New York.

Frances là một ngôi sao kì lạ một đêm, líu lo bằng cái giọng cao thanh thoát của cô bài "Moonshine Blues" và "Shave’em Dry, chơi một quãng tám trên mức bình thường và tuyên bố "Ta có thể hiên ngang với miếng lót giày của mình, có thể bôi dầu mỡ dễ dàng, vì ta luôn biết rõ ý kiến của mình, do đó ta luôn luôn thấy hài lòng". Ngày thứ bảy sau đó mọi người sẽ thấy cô thoát y từ phần eo trở lên, đeo cái túi lông ngựa cũ thời chiến của James như một bộ tóc giả và hát "Im just wild about Harry" bằng tiếng Ả Rập bồi. Cô biến cái nốt tàn nhang trên mũi mình thành dấu chấm than với một nét bút vẽ bằng chì kẻ mắt, đánh phấn hồng lên má, sơn phết cho đôi môi như cung tên của thần tình ái và nhảy khỏa thân sau một cái quạt tự làm từ lông mòng biển, "Ước gì tôi có thể nhảy được như cô ấy, Kate."

Cô dành hết số tiền lúc đầu kiếm được để tô vẽ khuôn mặt và sắm trang phục. Cô sẽ xuất hiện ở Valentino trong chiếc áo choàng kẻ sọc và chiếc mũ không vành. Trong lúc một tay đang lướt trên các phím đàn, tay kia cô cởi chiếc áo choàng ra để lộ hình Mata Hari mờ mờ từ mực tím và đỏ, sau đó bảy tấm mạng che sẽ được cởi bỏ từng cái một cho đến bản "Scotland the Brave" và để phòng trường hợp có ai đó bị kích thích hơn là thích thú thì luôn có một bất ngờ nhỏ để dập tắt những thứ đồi bại và khơi nguồn cho cảm giác không còn nghi ngờ nữa. Ví dụ như cô có thể thoát y đến cái quần cuối cùng sau đó đưa ngón tay cái lên miệng và nói "Trái tim tôi đã thuộc về cha mình, cho nên tôi không thể hư hỏng được..."

Những màn trình diễn của cô đổ đầy "chất jazz", vì lúc đầu Frances để tiền lương của mình được trả bằng rượu cho đến khi cô khôn ngoan hơn. Uống rượu chỉ là một công cụ để đến được cái kết thúc: nó giúp cô tìm cảm hứng cho những trò điên rồ của mình, và nó làm cô bất khả xâm phạm dù cô đưa những người đàn ông ra ngoài, từng người, từng người một. Bởi vì tiền không đến từ những cuộc nói chuyện, nó đến từ bên ngoài.

Frances là một bì thư dán kín, nó không quan trọng việc cô đến từ đâu hay ai đã viết ra, không ai có thể đụng đến nội dung dù cái phong bì có bám bụi đến thế nào đi nữa. Và chắc chắn là không ai có thể buộc cô mở ra. Frances có thể sà vào lòng bạn, cởi nút áo bạn và ở yên đó cho đến khi nào đủ giá trị của hai đô la. Mắc tiền, nhưng hãy nghĩ đến lúc được ở riêng trên tầng, trong tủ quần áo. Thỏa mãn bằng tay sẽ tốn khoảng hai đô rưỡi - cô bé có một chiếc găng tay đặc biệt để lại từ sau lần quan hệ đầu tiên. Thêm năm mươi xen nữa có thể mang lại cho bạn những lời thì thầm, một bài hát, bất kì cái tên nào bạn muốn nghe. Chạm vào bộ ngực bé xinh của cô ấy và phải chi ra thêm một đô nữa, không có gì dưới thắt lưng, đó là "thực đơn" và không có món thay thế. Nếu cô ấy cười vào mặt bạn, đừng dại dột đánh cô ấy nếu không cô ấy sẽ gọi Boutros đến.

Frances bắt đầu kiếm ra tiền, khi cô bé đã kiếm đủ những món nữ trang rẻ tiền và rác rưởi để giữ cho mình lộng lẫy, cô bắt đầu để dành tiền ở một nơi bí mật. Khoản đó để dành cho Lily. Không phải cho việc chữa trị - Frances không quyên góp vào lòng thương hại sung đạo của Mercedes. Thực ra, Frances cũng không chắc tại sao cô lại chắc chắn rằng khoản tiền đó dành cho Lily. Cô chỉ cất nó đi "phòng khi". Phòng khi gì chứ? Chỉ để phòng khi.

Xét cho cùng Frances vẫn còn trinh nguyên, cô gìn giữ bản thân mình để làm gì chứ? Cô không nói được, đó chỉ là một cảm giác, còn cái gì đó mà cô phải làm. "Dành cho Lily". Cái gì chứ Frances? Cái gì đó.

Mỗi đêm, khi những ly rượu cuối cùng đã đổ hết xuống sàn và chảy ra ngoài, Frances đi qua đám màn cũ kĩ để vào căn phòng phía sau và thay đồ. Một đêm lúc mới bắt đầu sự nghiệp của mình, cô rón rén đi lên cầu thang phía sau và phát hiện ra cô Camille của mình đang ngồi chơi bài trong bếp, dưới ánh đèn vàng mù mờ. Và Frances lại một lần nữa bị buồn đột ngột vì cái đống buồn bã kia vừa giống lại vừa không giống mẹ. Camille quá tập trung vào bộ bài nên không phát hiện ra Frances đang nhìn ngó quanh chỗ kẹt cửa, Frances nhìn Camille nhấp một ngụm trà và tự chơi ăn gian.

Frances không thể không thắc mắc tại sao Camille lại lảng vảng đến đây và kết hôn với ông Jameel. Nhưng, cứ nhìn cuộc sống của mẹ đã kết thúc thế nào mà xem, có thể bà Camille cũng đã bỏ trốn theo trai. Những suy nghĩ của Frances về những chuyện tình lãng mạn kết thúc bằng cảnh cuối trong vở "Chiếc hộp của Pandora": khi Louise Brooks cuối cùng cũng chịu dâng hiến vô điều kiện cho một chàng trai thì sau đó anh ta lại đứng dậy và giết chết cô.

Frances cũng không mong muốn tiến xa hơn vào cái bí mật hèn hạ của bà Camille, do đó cô không bao giờ lặp lại việc đột nhập lên tầng trên nữa. Gần đến giờ đóng cửa, cô trút bỏ quần áo của mình giữa một đống rương và thùng nhỏ trong căn phòng lạnh lẽo phía sau, ra vòi rửa mặt và rửa tay. Cô không bao giờ giặt quần áo của mình. Cô xỏ lại vào đôi vớ len, đôi giày nút đen, bộ đồng phục nữ hướng đạo sinh và cái nón rồi quay trở về New Waterford.

Lily luôn ngoan ngoãn đợi ở cửa sổ, sẵn sàng với tấm ga trải giường, mặc dù vào cuối tuần thì cha không còn về sớm hơn Frances nữa. James không muốn có mặt ở đó khi Frances lẻn vào và lẻn đi khỏi ngôi nhà, anh không muốn biết cô bé đi đâu. Mỗi buổi sáng anh đều liếc vào phòng con bé và có một chút mong muốn rằng con bé đã biến mất. Có thể là bỏ trốn với một thằng đàn ông nào đó, cũng có thể là đã chết ở một cái mương nào đó.

"Rapunzel, Rapunzel, thả tóc em xuống nào!", Frances kêu lên và Lily thả cái ga trải giường được thắt nút xuống. Frances thường khá tỉnh táo khi trèo vào cửa sổ trừ khi cô đã uống một chai khác trên đường về.

"Muốn một ngụm không Lily?"

"Không, cám ơn chị"

"Đến đây nào búp bê". Lily bước lên chân của Frances và họ cùng xoay vòng trong lúc Frances hát "Hãy nhảy đi nào, dù căn phòng có nhỏ, hãy biến nó thành buổi dạ vũ, hãy nhảy đi nào..."

Mercedes đứng trong bóng tối chỗ cầu thang, trông như một con ma trong chiếc áo ngủ màu trắng.

"Muốn tham gia uống một chút trước khi ngủ với em không?"

"Frances, em say rồi"

Frances huyên thuyên "Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch. Nói nhanh thử xem nào Lily"

"Frances à, đến giờ ngủ rồi". Mercedes cố gắng vừa ra vẻ bình tĩnh vừa ra giọng sai bảo cùng một lúc.

"Biến đi nào, chị gái", Frances cười lớn.

Đôi khi nếu cứ để cảm xúc như vậy và Frances đủ say thì Mercedes sẽ ôm ngang eo cô bé và lôi cô bé vào bồn tắm để sẵn rồi dùng vũ lực tắm cho cô, giặt bộ đồng phục và tất cả đồ cho cô. Nếu không thì Frances sẽ bẩn không thể chịu nổi bởi vì cô bé chỉ rửa tay và rửa mặt, cô bé cũng không bao giờ giặt bộ đồng phục. Mercedes lục lọi trong túi áo để tìm khăn tay bẩn nhưng cô chỉ tìm thấy một chiếc găng tay trắng bẩn.

"Chiếc còn lại đâu Frances"

"Em chỉ dùng một chiếc thôi"

"Vậy thì nó phải sạch sẽ chứ?"

Mercedes vò nó dưới vòi nước nóng và hỏi: "Không phải nó quá nhỏ so với em sao?"

"Nó làm được việc lắm đấy"

Mercedes không hỏi gì thêm.

Vào những buổi tối hơi hơi tỉnh táo, Frances cuộn mình bên cạnh Lily và thì thầm hơi rượu vào tai cô bé "Lily à, chúng ta là những người chết", Lily giả vờ ngủ, "chỉ là chúng ta không biết điều đó thôi. Chúng ta nghĩ là mình đang còn sống, nhưng thực ra là không. Chúng ta đều đã chết cùng lúc với Kathleen và chúng ta đã ám ngôi nhà này từ lúc đó". Lily cầu nguyện cho mọi người nếu như những gì Frances nói là đúng.

Vào những đêm khá tỉnh táo, Lily tâm sự nỗi sợ của mình.

"Chị Frances, em có phải đến Lourdes không?"

"Không, em không phải làm việc gì mà em không muốn cả."

Lily nhét cái chân nhỏ xíu của mình vào giữa hai chân của Frances.

"Chị Frances. Al akbar inshallah?"

"In fallah inti itsy-bitsy spider"

"Ya koosa gingerbread boy kibbeh?"

"Shalom bi’salami"

"Aladdin bi’sesame"

"Bezella ya aini Beirut"

"Te’berini"

"Te’berini"

"Tipperary"

Mỗi đêm, cho dù say hay tỉnh, Frances vẫn cất tiền vào một nơi bí mật để dành cho Lily.

 

 

 

Quý cô hào phóng

Mercedes đỗ tốt nghiệp đứng đầu lớp năm 1930, Ralph Luvovitz đứng nhì. Mercedes đọc bài phát biểu chia tay trong đó cô căn dặn các công dân trẻ phải biết rút ra bài học từ những lỗi lầm trong quá khứ và nắm bắt những thử thách ở hiện tại, đồng thời cũng phải đặt niềm tin vào Chúa và con trai của Người, Giêsu Christ, amen.

James ngồi phía gần cuối hội trường với Lily và nhà Luvovitz, không nên cho Frances xuất hiện đâu đó trong khuôn viên nhà trường do đó buổi tối nay cô vắng mặt. Mặc dù sáng sớm nay Mercedes bước vào phòng và thấy một bộ sách Ma-rốc đóng hộp "Tổng hợp truyện của Charlotte Bronte" trên tủ áo của mình. Ôi Frances! Một khoản chi lớn. Những khoản chi có nguồn gốc mập mờ. Sự hào phóng. Mercedes ôm lấy Frances khóc và nói với Frances rằng chị rất yêu cô. Còn Frances thì bảo Mercedes đừng có làm ướt hết cả bộ đồng phục của mình.

Sau buổi lễ phát bằng, Mercedes, Lily và James cùng đến nhà Luvovitz uống trà. Lily lại thắc mắc nhưng cô bé không hỏi tại sao tất cả gương trong nhà đều bị che lại. Mercedes và Ralph chơi những bản nhạc Klesmer vui buồn bằng piano và clarinet trong khi ông Luvovitz nhảy và hát theo, còn bà Luvovitz thì trông có vẻ hơi xấu hổ nhưng rất thích thú.

Khi Mercedes và Ralph hướng dần đến quyển sách nhạc Iđit cổ, ông bà Luvovitz trao cho nhau những ánh mắt khó hiểu về phía cửa tiệm. James không để ý - anh chỉ đang hưởng thụ âm nhạc, thoải mái một cách khác thường. Một đêm văn minh cùng những người bạn cũ, chúng ta nên làm như thế này thường xuyên hơn. Anh tận hưởng cảm giác của sự bình thường lần đầu tiên trong nhiều năm qua. Miễn là không có mặt Frances, từ giờ về sau James có thể cảm thấy mình là một người đàn ông tốt.

"Ăn một cái bánh ruggalech nữa đi James"

"Cám ơn, Ben, làm phiền quá. Nó ngon lắm đấy bà Luvovitz"

Ralph hộ tống họ về nhà và lang thang trước hiên với Mercedes, cậu nói với cô rằng cậu sắp sửa đi xa, cũng không có gì là không tốt, họ có thể viết thư cho nhau.

"Hãy hứa là sẽ viết thư nhé, Mercedes"

"Dĩ nhiên là em sẽ viết mà, Ralph"

Bố mẹ anh đã chắt bóp và dành dụm để cho anh đi học ở đại học McGill ở Montreal.

"Em nghĩ là anh sẽ học ở Saint F.X." Mercedes ráng giữ giọng đều đều. Đại học Saint Frances Xavier chỉ cách nhà có một ngày đi tàu,
cô định đến học ở đó khi gia đình cho cô chút rảnh rỗi,
nhưng Montreal thì...

"Đó là một cơ hội tuyệt vời"

"Đúng vậy, Ralph"

Tuần sau cậu sẽ đi, điều đó thật quá đột ngột. Cậu sẽ sống với nhà Weintraub, bạn của bà con phía bên mẹ cậu, họ mới chuyển đi khỏi Munich. Họ đã tìm được sẵn cho cậu một chỗ làm trong tiệm bánh. Ralph sẽ học thành bác sĩ. Cậu ấy là một chàng trai khá ngại ngùng và vì vậy mà không đưa ra bất kì lời đề nghị vội vàng nào nếu cảm thấy mình vẫn chưa xứng đáng. Cậu sẽ chờ đến khi cậu học xong đại học và sẽ hỏi cưới Mercedes làm vợ.

"Mercedes..."

"Sao Ralph?"

Trái tim Mercedes đập nhanh đến mức cô sợ rằng nó làm cho mấy cái tua trên chiếc áo lụa màu vàng của cô bị rung rinh. Ralph bất ngờ nghiêng sang và tô hồng đôi môi của Mercedes bằng môi mình, sau đó cậu ấy bỏ đi, còn Mercedes vẫn chưa thể thở nổi.

Lên gác, cô cố làm cho gò má mình bớt nóng bằng cách áp nó vào bìa của quyển Jane Ryre ấn phẩm hoàn toàn mới.

Mercedes và Ralph trao đổi những bức thư từ tha thiết tình cảm và cả tin tức trong suốt mùa hè và mùa thu. Mối liên lạc giữa họ đã cho Mercedes thêm sức mạnh để chịu đựng, để hoãn sự bắt đầu cuộc sống thực sự của cô lại. Cô đã từ chối học bổng của trường Saint Frances Xavier bởi vì làm sao cô có thể nghĩ đến chuyện rời khỏi nhà trong khi Lily vẫn còn là một đứa trẻ? Mercedes đã quá quen với việc làm mọi thứ vì cha cho nên sự hy sinh này cho ông cũng có vẻ rất bình thường. Nhưng tận sâu trong lòng cô là một mục đích khác: Frances cũng cần được chăm sóc. Còn hơn cả cha, hơn cả Lily nữa. Nếu như mình đang học ở một nơi xa tận Antigonish và một đêm nào đó Frances không về nhà thì sao?

Trong lúc đó Mercedes cũng không thiếu việc quan trọng để làm, cô có một kế hoạch mới: Lily. Đã không còn những dấu vết công khai của trận bệnh vừa mới tháng mười một vừa qua của Lily. Đó là Mercedes không tính - cố tình không chú ý tới - những lọn tóc màu đỏ bắt đầu xuất hiện trên tóc Lily từ lúc đó. Và cô cũng tự nhắc mình rằng chỉ những điều kì diệu thôi thì chưa đủ để thể hiện sự gần gũi đặc biệt với Chúa mà chỉ các vị thánh mới có, "cuộc sống" cũng được tính giống vậy. Cho tới lúc này thì cô đã tăng cường dìu dắt Lily làm các hoạt động từ thiện lên nhiều.

Mercedes đang dư dả thời gian rảnh rỗi và việc cô không còn đi học nữa trở thành chuyện nhỏ sau khi cô lên lịch cho tất cả những nhu cầu của cộng đồng. Cô đã học được một bài học quý giá: nếu bạn nghĩ rằng mình là người tốt thì hãy cố gắng làm việc tốt. Bạn sẽ sớm nhận ra sự tốt bụng của mình nhỏ bé đến mức nào, đặc biệt là trong một thị trấn mỏ, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng.

Mercedes oằn mình lại với sự quyết tâm mãnh liệt cho nhiệm vụ của mình - nếu bạn cảm thấy vui khi nhấn chìm ai đó vào sự đau khổ bốc mùi của những người kém may mắn thì đó không thể được coi là một sự hy sinh. Hãy hy sinh cho những người nghèo khổ bằng sự thành tâm, và hãy nhớ rằng thời gian là cần thiết vì hầu hết những vị thánh xuất hiện lúc còn nhỏ rất hiếm khi sống được tới lớn. Cuộc sống của Lily đã trải qua đau khổ và Mercedes mong là nó sẽ không kéo dài. Cô cầu nguyện, Lily chỉ cần sống để có thể chúc mừng sinh nhật lần thứ mười bốn, tính theo tiền của Lourdes thì nó khoảng ba mươi đô la.

Mercedes đã quan sát món quà mà Lily dành cho từng người cựu binh. Ở tầng trên cùng của khu tây bệnh viện trung tâm New Waterford có một số người đàn ông bị thương tật và mất hết gia đình đã đề nghị được ở lại lâu dài. Một số không có tay chân. Có ba người bị nhiễm khí độc, cơ thể hoàn toàn lành lặn và khỏe mạnh trừ phổi của họ. Họ ngồi im lặng bên cửa sổ và mang mặt nạ ôxi cho tới khi mặt trời lặn và đến giờ nằm yên trong lồng ôxi của mình. Đôi mắt họ to ra và những nếp nhăn xuất hiện quanh miệng, sau cái mặt nạ. Trông họ như những đứa bé to xác, có thể đó là lí do họ rất thích khi Lily đến. Họ là những người lớn không trưởng thành còn Lily là một đứa bé trưởng thành.

Lily không hề co rúm người lại khi cô bé gặp người đàn ông không có mặt, chỉ là một miếng da như da em bé căng ra với hai cái lỗ để thở và một cái miệng không có môi và hầu như không bao giờ ngậm lại. Ông ấy không bao giờ đeo mặt nạ để che mặt mình lại vì ông không bao giờ đi ra ngoài, những người trong cùng khu thì đã quá quen với ông, hơn nữa, ông ta cũng không thể tự làm mình sợ vì ông ta không có mắt. Niềm vui lớn nhất của ông là hút thuốc, và bây giờ thì là chạm vào khuôn mặt của Lily. Ông tìm thấy cục bướu trên trán cô bé và cảm thấy rất thích thú. Ông ta thề rằng trước đây mình còn xấu hơn và đưa cho Lily một tấm hình để chứng minh điều đó. Lily hưởng ứng rằng trông ông thật tệ và ông ấy cười lớn. Mercedes ghi chú lại rằng đây là một điều đáng giá khi kết luận cuộc đời của thánh Lily, bởi vì Mercedes chưa bao giờ thấy người đàn ông này làm gì khác ngoài việc lảm nhảm những lời tục tĩu chứ đừng nói đến việc cười lớn.

Lily không bị các cựu binh xua đuổi, cô cảm thấy tội nghiệp họ, họ đã bị thương quá khủng khiếp, nhưng nuối tiếc chỉ là một cách xát thuốc độc. Lily đã từng trải qua cảm giác nuối tiếc trước đây nhưng cô không biết gọi nó là gì, cô chỉ biết là nó làm cô sợ khủng khiếp, cứ như cô đã biến mất và đang là một con ma vậy. Tự trải nghiệm qua cảm giác bị biến mất nên cô bé rất chú ý đến việc người ta được nhìn thấy là quan trọng đến mức nào, do đó mỗi khi nhìn vào họ - kể cả người bị mù- cô luôn nhìn để thấy họ, chỉ để phòng khi họ lạc ở đâu đó và cần được tìm thấy.

Họ chơi bài rumi cho tới khi cô bé biết chơi bài poker, những người bị ngộ độc khí ga là những người duy nhất không cười, mặc dù họ cũng rất thích thú.

Trên đường về nhà Mercedes luôn hỏi cô bé nhưng Lily mơ hồ cảm thấy rằng mình đã làm chị mình buồn khi cô trả lời thành thật là "Em vui lắm".

Hàng đêm, khi sự chăm sóc của ban ngày đã kết thúc, Mercedes tự làm mình vui bằng những tờ giấy trắng lộng lẫy: "Ralph thân mến..."

Có những thứ mà nếu Lily nói với Mercedes thì nó sẽ đem lại một ảnh hưởng khác, nhưng cô bé không bao giờ làm vậy. Ví dụ như ông MacIsaac đã bỏ rượu, ông nói rằng cô bé đã chữa lành cho ông, nói rằng cô bé có một "năng lực". Nó xảy ra vào một ngày khi Lily hỏi xem ông trồng những cây thuốc của mình ở đâu, ông dắt Lily ra cái nhà kính phía sau.

Ông MacIsaac cũng là một cựu binh, sau cuộc chiến ở Bua, nó cũng là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Ông ấy từng nói không có gì gọi là chiến tranh tốt cả. Ông và Lily cùng bị đi khập khiễng cùng bên chân và ông thích nói với cô bé rằng họ sẽ cùng nhau chạy trong cuộc đua chạy ba chân. Ông kể cho cô bé nghe cô giống chị gái Kathleen của mình tới mức nào, "Chúa phù hộ cho linh hồn cô ấy", đặc biệt là bây giờ, khi mà tóc cô bé chuyển sang màu đỏ. "Tóc tiên", ông MacIsaac gọi vậy, có một nếp nhăn trên con mắt lờ mờ của ông. "Đừng lo, con gái, đó là một chuyện tốt".

Họ đi qua một cánh cửa bằng vải bạt để vào trong nhà kính, không khí ở đây thật tuyệt vời để hít thở, ẩm ướt như một cái hồ dưới lòng đất. Những cái hộp trồng cây ở khắp mọi nơi, mỗi cây có một khả năng đặc biệt khác nhau nhưng có vẻ như không cây nào có thể chữa khỏi cho ông.

Nhưng điều kì diệu ở ngay trên đầu, Lily ngẩng lên nhìn mái nhà đầy cỏ. Mặt trời ló ra khỏi một đám mây và chiếu qua những ô cửa bé xíu. Trước mắt cô một đám đông hiện ra. Những cái bóng màu xanh và xám, một đội quân ma quỷ trong màu đồng phục đang mỉm cười với cô. Mãi mãi tuổi thanh xuân.

Những khung ảnh bằng kính. Ông MacIsaac đã thu thập chúng, một số đã phá hủy trong chiến tranh, cũng chẳng cần thêm những bản in của mấy tấm hình đó nữa khi mà người trong ảnh đã chết.

"Đó là các con của ta", ông nói, "Chúng ta chưa bao giờ được yên ổn với các con của mình, vì vậy ta nghĩ đến những người đã bị mất con và ta cũng đã mất các con mình như thế nào, dù gì mọi chuyện cũng đã vậy rồi."

Bà MacIsaac đã mất hồi đầu năm đó và mọi người nghĩ rằng ông cũng sẽ sớm ra đi khi mà ông ngày càng nghiện rượu nặng.

Lily nói "Cháu sẽ làm con ông"

Ông cười khò khè sau đó cúi mặt xuống. Ông lấy tay con bé đặt lên cái đầu hói của mình, sau một lúc ông thả tay cô bé ra và lại nhìn lên rồi nhờ cô bé làm cho ông vài việc.

"Mỗi khi đi ngang qua cửa nhà ta, cháu hãy nói một lời chào Đức mẹ Mary nhé, cháu sẽ làm việc đó chứ?"

Lily hứa rằng cô sẽ làm, và cô đã làm, cho đến tận bây giờ. Cô bé không nói với ai vì chuyện đó có vẻ riêng tư, không lâu sau thì mọi người bắt đầu nói rằng đó là một điều kì diệu vì ông MacIsaac đã bỏ rượu. Mặc dù chỉ có một linh hồn duy nhất trong thị trấn không nợ tiền ông, không ai lại không muốn thấy ông nhanh nhẹn hoạt bát sau quầy tính tiền.

Ông MacIsaac đã sống đủ lâu để mở rộng mức tín dụng của mình ngay trong thời kì Đại suy thoái và chết với tư cách là một người giàu có được báo chí nhắc đến.

Lily không cảm thấy phản bội cha khi nói với ông MacIsaac rằng cô sẽ làm con ông, Frances thì sẽ nói "Tại vì cha không phải là cha thật của em" , nhưng Lily biết rằng ông ấy đúng là cha mình, cũng như cô biết rằng có thể yêu thương mọi người nhiều hơn và cô không thể cưỡng lại việc yêu thương Frances nhiều nhất.

  

Chàng Ginger

Jameel đã bắt đầu thu phí vào cửa, ông bắt Boutros đội một chiếc mũ đầu đuôi seo, thay thế tấm màn bạc màu làm từ chuỗi hạt. Đã có gạt tàn thuốc, có ly rượu, ông cũng nâng giá của "thuốc độc" lên nhưng vẫn chỉ trả cho Frances 5 xu một đêm. Đến tháng chín thì ông bắt đầu có suy nghĩ rằng phải cắt giảm bớt số tiền cô kiếm được từ các khách hàng riêng của mình. Những gì ông có được là một giao kèo mới.

"Này ông già, nhìn xem, tôi đã giúp biến cái đống rác này thành một trung tâm văn hóa Mecca, vậy sao ông không nói với tôi về việc cắt giảm bớt của ông mà lại cắt giảm của tôi. Ông bạn già, tôi sẽ có năm mươi phần trăm tiền vé vào cửa nếu không tôi sẽ bỏ đi và nói hết."

"Mẹ mày!"

"Sáu mươi"

"Bốn mươi"

"Tạm biệt"

Ông ta chụp lấy tay cô "Bốn mươi lăm"

"Hôn vào mông tôi này"

"Năm mươi"

"Cho tôi chút lửa đi nào"

Ông ta đốt thuốc cho cô. "Được rồi, giờ cô đã có phần, nếu cô mà giở trò thì tôi sẽ cắt cổ cô như với một thằng đàn ông đấy."

"Kiếm cho tôi một cây piano đàng hoàng đi."

Boutros không hề phản ứng hay ủng hộ cách cư xử của Jameel, anh ta chỉ đếm một nửa số tiền vé vào cửa mỗi đêm và đưa cho Frances.

"Này Boutros, tôi không biết là anh có thể đếm được đấy, chàng trai", cô nói, nháy mắt với anh và hướng về phía căn phòng phía sau để thay bộ đồ góa phụ vui vẻ của cô ra.

Ở chỗ như thế này thì tốt nhất là phải biết địa vị của một thằng đàn ông như thế nào - dọa cắt cổ và chỉ có cắt cổ mới có thể đơn giản hóa mạng sống của một người phụ nữ. Frances đổi tất cả tiền xu và những đồng hai đô la của mình để lấy tiền có mệnh giá lớn hơn, như vậy chúng mới nằm vừa trong chỗ cất giấu bí mật của cô.

Khi cục cưng của Whitney Pier được mười bảy tuổi, ở đó có bánh kem, quà tặng và tất cả mọi thứ. Những khách hàng đã thay đổi nhiều cùng với tiếng tăm của Frances đang hát bài "Chúc mừng sinh nhật". Một 2f95 người phụ nữ mà Frances gọi là "Nữ bá tước" bởi vì bà ấy trông giống người phụ nữ đồng tính trong vở "Chiếc hộp của Pandora" đã cho cô một cái vé một chiều đến Boston. Nữ bá tước học rất cao và đã có vài sự sắp xếp ở đó - bà ấy đã tả cho Frances nghe cả ngàn lần nhưng Frances, dù vẫn cố gắng giữ hai mắt nhìn về cùng một hướng cho dù có uống nhiều đến mức nào đi nữa, vẫn không thể nghĩ ra là người phụ nữ này đang điều hành một hộp đêm hay là một ổ gái. "Những ý định của ta hoàn toàn đáng trân trọng đấy Fanny", nữ bá tước nói và Frances ngáp một hơi dài rồi nháy mắt với bà ta. Một người thợ đốt lò tên Henry đã cho Frances đĩa nhạc mới nhất của Bessie Smith: "Black Mountain Blues". Cô tặng anh một nụ hôn ướt át, sau đó xòe tay ra chờ một đồng hai mươi lăm xen và mọi người cười ồ lên. Archie MacGillicuddy "vớ trắng" mà mọi người vẫn coi là một chàng trai ẻo lả, xuất hiện với "của quý" đong đưa bên ngoài quần được gói như một món quà với một cái nơ và một mảnh giấy ghi "Tặng Frances". Frances bảo Boutros mở nó ra cho cô "Coi nào chàng trai, những thứ xinh đẹp thường nằm trong những cái hộp nhỏ đấy" nhưng Boutros từ chối. Leo Taylor xuất hiện ở cửa với một cái dù trên vai vào lúc anh thấy ông Jameel đang chen lấn trong đám đông đang tung hô một con gái điếm được tô vẽ và bé xíu. Taylor ráng hét lên trong đám ầm ĩ "Ông Jameel, tôi mang thứ ông đã đặt đến này."

Jameel đặt Frances xuống và có vô số bàn tay đang che ngang mắt cô trước khi cô có thể quay lại, "Ai đã tắt hết đèn thế này?". Boutros đi với Taylor, ngay sau đó họ quay lại, gân cổ nổi lên trong khi họ lôi một cây đàn mở nắp gần như mới qua cửa.

Taylor luôn giao rượu vào các buổi chiều trong tuần nên không thấy được cảnh hoạt động của nơi này và anh cảm thấy dễ chịu vì điều đó. Anh không thích những tên say xỉn, còn mại dâm thì làm anh mất tinh thần - họ đều là con gái của ai đó. Cô bé này chắc chắn là còn nhỏ nhưng chắc chắn điều đó là không thể - anh chỉ cảm thấy vui vì khuôn mặt cô đã bị nhiều bàn tay che đi. Nhưng không thể không thấy đám tóc quăn giả màu đỏ quá khổ trên đầu cô, hay bàn tay cô đang xoay xoay cây dù - trắng ngần tới tận cổ tay, nơi hai ống tay áo bám bẩn. Bụi bẩn đã bám ở đó không do mối liên hệ với bất kì thứ gì khác ngoài thời gian. Và anh không thể không ngửi thấy cái mùi của cô khi anh hạ cây đàn xuống ngay trước cô. Cô bốc mùi như một đứa bé lang thang, mùi như của nước tiểu và sữa chua hòa với nhau. Anh rời khỏi đó và quay lại với một dụng cụ chỉnh đàn piano nhưng cô đã ngồi quay lưng về phía anh và bắt đầu từ tốn trình diễn bản "Let me call you sweetheart" , nó đã làm anh xao động, một giọng hát như trẻ con.

Frances không lỡ một nhịp nào trong khi Boutros đứng dậy và thay vào đó cái dụng cụ.

Leo Taylor bỏ đi và cảm thấy như bị ốm, cánh cửa thép đóng lại sau lưng anh và anh nghe thấy tiếng piano giờ trở thành một thứ tình cảm ủy mị ngọt ngào rồi lại biến hóa sang nhạc nhanh và vui vẻ. Anh bước lên xe và nổ máy, anh muốn về nhà hôn vợ và các con mình một lần nữa trước chuyến đi nhưng không còn thời gian. Bên cạnh rượu, anh còn chở tôm hùm sống đến New York để giao cho những gia đình giàu có và các băng đảng mới bộc phát, những người có đủ tiền để mua chúng.

Anh rẽ xe về phía nam, đường cao tốc số 4 và tưởng tượng ra hình ảnh và giọng nói của vợ mình cho có bạn. Anh vẽ ra tất cả những chi tiết nhỏ nhất: mái tóc màu thép hoen rỉ, những đốm tàn nhang màu nâu sậm rải rác trên khuôn mặt sáng sủa, đôi mắt như của thiện xạ. Gầy gò và tiều tụy,nghĩ đến đó làm anh bật cười. Họ đi đi về về dọc quãng đường đến Strait Canso, cho đến khi anh ra khỏi đảo và tưởng tượng rằng anh phải để cho cô ngủ một chút. "Chúc em ngủ ngon, Addy", anh nói và mỉm cười khi nghĩ đến cô sẽ cười vào sự phấn chấn của anh như thế nào nếu cô thấy anh tự nói chuyện với cô trong xe tải của mình lúc nó chạy lên phà. Anh nhìn thấy cô gượng cười khi cô chồm đến để hôn anh "Chúc ngủ ngon, Ginger, lái xe cẩn thận nhé anh yêu!"

Leo Taylor không được gọi là Ginger do anh có làn da hơi đen, anh đen y như chị gái mình, Teresa. Anh được gọi là Ginger do anh ủ bia gừng thật theo một công thức vùng Tây Ấn do mẹ anh, bà Clarisse để lại. Bà Clarisse thường đem bán nhưng Ginger có thể xoay xở để đem chúng đi tặng như một món quà. Anh thường đếm những lần mình được phù hộ và thắc mắc làm sao cuộc sống của mình có thể may mắn như vậy.Một công việc tốt, những đứa con xinh xắn khỏe mạnh và một người vợ mạnh mẽ.

Đêm hôm đó Frances bò vào giường nằm bên cạnh Lily như thường lệ nhưng không lâu sau đó cô thức dậy vì một cơn ác mộng nữa. Đó là những giấc mơ đã quen thuộc với Frances, giống như giấc mơ cô đã cắt cho Lily cái chân của mình nhưng không thể gắn vừa hai cái chân với nhau. Cũng có những giấc mơ mà cô không thể quen được, ví như giấc mơ cô vô tình cho Lily vào bếp và nướng chín cô bé nhưng mẹ dường như không để ý món nướng là Lily và những người khác trong bàn cũng vậy. Nhưng đêm nay Frances thức dậy và cổ họng đang nghẹn lại vì một tiếng thét - mẹ đang bị treo trên cây cọc bù nhìn trong vườn, đội chiếc nón phớt cũ và mặc chiếc váy hoa nhàu nát, bà đang cầm cây kéo cắt gan và bít tết với một ít xương
sụn màu hồng dính trên đó. Nhưng phần tồi tệ nhất là bà không có mặt. Mẹ! -

Frances đã quyết định không xem cho đến cuối bức tranh tĩnh lặng này vì cô sợ nó sẽ cất tiếng nói. Cô phải ngủ ở một nơi mà không thể mơ được, một nơi hoàn toàn trống trải và im lặng. Gác xép, là một nơi làm cô rất sợ.

Trixie đi theo khi Frances lôi cái mền và một đống gối qua hành lang và tiến về phía cánh cửa cầu thang đi lên gác xép. Cô mở cửa nhưng cả cô và Trixie đều do dự, vấn đề là mặc dù gác xép không bị nguyền rủa nhưng cầu thang dẫn lên đó thì có.

Frances đứng chân trần và nhìn lên lối đi hẹp, cô cảm thấy da đầu mình căng ra như thể cô vẫn còn các bím tóc. Trong bóng tối, cơ thể cô căng ra và rúm lại như thể cô là một đoạn dây cao su - thoắt cái đã cao tới ba mét với những đường nét rõ ràng, thoắt cái đã nhỏ xíu lại như một đứa trẻ. "Quên mặc cái áo khoác trong nhà của mình vào rồi" - Frances thấy chiếc áo carô màu xanh lá của mình hiện ra trong đầu "nhưng thật là ngốc nghếch vì mình đã không còn mặc chiếc áo đó từ khi mình và Mercedes còn nhỏ và mọi thứ đều có một cặp." Frances bước lên bậc đầu tiên. Một cảm giác ớn lạnh ướt át chạy dọc sống lưng và đưa cô về lại với hình dáng bình thường của mình, cô đang bị nỗi sợ hãi bao trùm bởi vì cô nghe thấy những giọng nói. Ngay dưới làn nước, chúng vẫn đang chỉ là tiếng nói của cá nhưng chúng vừa mới nổi bong bóng lên mặt nước và chẳng mấy chốc cô sẽ hiểu được chúng nói gì. Frances bắt đầu lẩm bẩm khẽ trong miệng, dùng tay bịt tai và cố ép mình bước lên bậc thứ hai. Những cái bóng lướt qua, Kathleen đang ở trên đó. Không, không phải, chỉ là mấy con mèo thôi, dừng lại - chúng phải được rửa tội - đừng - "ai là kẻ giết người?" - đừng - "mày là một con quỷ!" - đừng, đừng, đừng, đừng, trong suốt quãng đường lên cầu thang cho tới khi cô lên hết và mở cửa.

Bước vào gác xép cũng giống như bước vào một cái sa mạc sau khi mọi thứ đã chết đuối hết. Cô đóng cánh cửa sau lưng mình lại. Trixie lặng lẽ nhảy lên khung cửa sổ, Frances nằm xuống sàn, cô nhắm mắt ngủ thật sâu và hoàn toàn không mơ gì, không còn phải sợ cái chết trong những giấc mơ nữa.

Sáng hôm sau Frances thức dậy và tỉnh táo như chưa bao giờ tỉnh táo trong suốt một năm qua. Cô tìm thấy cái vé tàu đi Boston trong túi áo hướng đạo của mình nhưng không nhớ tại sao nó lại nằm ở đó. Cô đi đến nhà ga ở Sydney và bán nó lấy tiền, cô không định rời khỏi hòn đảo cho tới khi cô để dành đủ tiền cho Lily và đạt được một thứ gì khác nữa. Thứ gì Frances? Một thứ gì đó. Cô sẽ biết khi cô nhìn thấy nó. Cô là một chiến sĩ đặc công đang được huấn luyện cho một nhiệm vụ bí mật đến mức cô cũng không biết nó là gì. Nhưng cô đã sẵn sàng. Hàng đêm vẫn tập chạy vượt chướng ngại vật, tập vận động sau các chiến hào và tập hóa trang để có thể ẩn mình vào địa hình.

 

Giọng em rất buồn mỗi khi em nói...

Đêm trước khi chiến tranh kết thúc, Kathleen gỡ cái thắt lưng bằng ngọc lục bảo quanh eo chiếc áo mới bằng voan và lụa màu xanh ra, quấn nó quanh vành chiếc nón màu xám của người yêu cô. Cô đưa tay sờ vào chiếc áo đính kim cương ở phía trước và trượt hai bắp vế của mình vào giữa đôi chân đang mặc một chiếc quần màu đen rộng.

Có vài cái hộp đêm hỗn hợp mà họ có thể đến và một chỗ riêng tư trong Công viên trung tâm. Họ phải cẩn thận mặc dù điều đó rất khó. Họ còn quá trẻ và đã quên mất rằng thế giới này không yêu họ nhiều như họ yêu nó.

 

Và nước mắt đang làm nhòe đôi mắt em...

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86766


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận