Không Lối Thoát Chương 6


Chương 6
Tổ chức thanh nữ anh

Đừng Thở Than

Vào tháng Năm 1931, Mercedes đang lo lắng không yên. Đã tám tuần rồi cô không nhận được thư của Ralph. Cô không hỏi bà Luvoviz anh đâu bởi con gái ai lại đi theo đuổi một chàng trai như thế, và Mercedes cũng không hề muốn bị coi là "dễ dãi" - đặc biệt là trong mắt mẹ chồng tương lai của mình. Và hơn nữa, nếu Ralph gặp rắc rối gì thì Bố mẹ anh ấy sẽ biết, nhưng họ vẫn đang hết sức bình thản. Dẫu vậy, Mercedes vẫn ghé tiệm Kosher Canadian của nhà Luvovitz đến vài lần trong một tuần, chỉ vì cô quên khuấy đi mất mấy thứ quái gở - "Ôi bà Luvovitz, bà tin nổi hay không cháu đã quên mua nửa ký dồi cho cha đấy."

Vào một chiều thứ Năm, Mercedes trở lại tiệm nhà Luvovitz để mua một hộp muối mà cô đã quên mua lúc sáng. Khi đã tính tiền xong xuôi, bà Luvovitz nở một nụ cười hơi kì quặc với Mercedes và hỏi, "Xong rồi. Cha cháu khỏe chứ, cháu yêu?"

"Ồ vâng, cha cháu khỏe ạ, thưa bà Luvovitz, cảm ơn bà."

Hai người họ gật đầu và cười với nhau nhưng không ai có ý định rời đi. Mercedes hỏi, "Còn Ông Luvovitz thì sao ạ?"

"Ồ cháu biết ông ấy mà, ông ấy khỏe, cháu ạ, rất khỏe."

Mercedes cười nhẹ và gật đầu.

Bà Luvovitz hỏi, "Các em cháu khỏe chứ?"

"Lily rất khỏe, cảm ơn bà, còn Frances thì có vẻ - ồ, cháu hơi lo lắng cho Frances một chút, con bé...vẫn đang đi tìm chính mình, bà biết đó..."

 

"Ai cũng lo lắng cho nó hết, cháu ạ, Nhưng nó là - cháu biết đấy, ẩn bên trong nó vẫn là một đứa trẻ ngoan."

"Cảm ơn bà, đúng vậy ạ."

Bà Luvovitz lấy một lon Ovaltine và đưa cho Mercedes. "Cháu uống thử cái này bao giờ chưa? Cái này là từ nước Anh đó."

"Ồ vậy ạ? Chưa ạ, cháu chưa được thử bao giờ."

"Đây, thử đi, cháu sẽ thích đó."

"Ồ" - Mercedes đỏ mặt và tìm cái bóp của mình, không chắc về - nhưng bà Luvovitz đặt một tay lên tay cô và nói với giọng trách mắng thân thiết khiến Mercedes thoải mái trở lại, "Nào-nào-nào, cháu nghĩ mình đang làm gì vậy, cất tiền ngay đi."

Mercedes nói, "Cháu cảm ơn bà nhiều, bà Luvovitz, bà tốt quá," và cảm thấy mình thật ngốc nghếch, thấy rằng chắc cô đã cảm ơn bà Luvovitz hơi rối rít quá vì mặt bà hơi ửng hồng. Thực sự Mercedes chưa bao giờ trông thấy người phụ nữ đáng mến đó cười lâu như vậy. Mercedes cũng cười, lòng chỉ mong được hỏi, "Bà có nhận được tin gì từ Ralph không ạ?" Nhưng thay vào đó cô cảm ơn bà Luvovitz và quay đi, bà Luvovitz cất lời, "Cháu có nhận được tin gì từ Ralph không?"

Mercedes quay lại. Giờ thì cô lo lắng thực sự. "Dạ không ạ,


ôi trời-"

"Nó ổn, nó ổn, những người bạn của ta viết thư báo là nó vẩn ổn, rất tốt, chỉ là -"

"Ồ, vâng, đó là tin tốt -"

"Chúng ta không nhận được một lá thư nào từ nó cả và ta tự hỏi "

"Ôi trời." Họ nhìn nhau mội lúc, rồi Mercedes lắc đầu. "Cháu e là lâu rồi cháu cũng không nhận được lá nào ạ."

Mercedes vừa thấy hoang mang vừa lúng túng trước những điều xảy ra sau đó. Bà Luvovitz xiết chặt hai tay cô và nói trong khi miệng cố cười ngăn dòng nước mắt, "Cháu là cô gái tốt, Mercedes, một cô gái tuyệt vời."

 

"Cảm ơn bà Luvovitz." Mercedes thả lon Ovaltine vào chiếc túi lưới và suýt quên mất hộp muối, cô nói thêm, "Cháu sẽ báo cho bà biết ngay khi cháu nhận được thư Ralph."

Nhưng bà Luvovitz đã quay lại chỗ mấy cái kệ và đang cẩn thận sắp xếp lại hộp bùi nhùi thép.

Ba tuần sau, lá thư được mong chờ đã đến. Mercedes mang nó lên phòng, bước hai bậc cầu thang một lúc liền không như mọi khi, ném mình xuống giường, hôn hít cái phong bì trước khi đầu chạm được xuống gối, và nằm yên hồi lâu chỉ để vuốt ve vết dán thư. Ralph thương yêu. Nét mặt anh đã in đậm và tiếng nói anh đã ghi sâu trong lòng cô suốt nhiều tháng qua. Cô thở dài, nhìn thấy hai má đỏ ửng của mình trong chiếc gương tủ và ra lệnh cho mình, "Đừng có mà vớ vẩn như con nít như vậy, bà Ralph Luvovitz" - việc đó khiến cô bật cười khúc khích, cô ôm lấy gối và rúc luôn mặt vào đó. Cuối cùng cô đã có thể lấy lại bình tĩnh để mở lá thư. "Mercedes thương mến" - Ralph thương mến - "Anh vẫn cảm thấy mình thật cao ngạo khi viết thư này cho em vì em là một cô gái rất tốt và dù sao cũng sẽ có thể đến với bất kỳ chàng trai nào em thích trên thế giới thay vì miễn cưỡng chấp nhận anh, nhưng anh thấy anh vẫn nên nói với em vì nếu anh không nói, có thể em sẽ nghĩ anh thật hèn nhát. Chuyện là thế này. Anh vô cùng xin lỗi nếu anh đã từng khiến em hy vọng..."

Khi Mercedes có thể đứng dậy, cô đi qua cái tủ và gỡ bỏ tấm hình của Ralph trên khung ra, để lộ ra bài thơ mà cô đã dùng để thay cho hình của Valentino gần năm năm trước. Cô quay trở lại giường và ngồi yên lặng, cố ép những mạch máu đang cuồn cuộn chảy trong người hạ thấp xuống cho đến khi, dù cố gắng thì cô vẫn không thể tạo nổi một nắm đấm. Thân nhiệt cô hạ xuống từng chút một khi cô nhìn chằm chằm vào những từ ngữ thông thái trong khung ảnh, cố quên Ralph.

Đến tối thì cô đã hoàn toàn bình tĩnh. Đúng hơn là tỉnh táo, sự tỉnh táo đầu tiên sau cái ngày cô bắt đầu phải lòng đứa con trai của cửa hàng bách hóa. Một người Do Thái. Chúa ơi. Trong lúc đó những người rất cần mình lại bị mình
bỏ rơi.

Mercedes đi xuống lầu với cái đầu đặt tuyệt đối cân bằng đối trên cổ và một tay lướt nhẹ trên tay vịn cầu thang. Tối nay Frances sẽ phải tắm, nhất định như vậy. Mercedes vào bếp, đi thẳng đến chỗ lon Lộ Đức và đếm tiền. Hừm, từ giờ chúng ta sẽ phải làm tốt hơn thế nữa, đúng không nào. Cô thắp một cây đèn trên cái lò và hóa kiếp cho bức ảnh nhàu nát của chàng trai có hai vành tai vểnh. Cô nấu một bữa tối thịnh soạn cho cha. Cô đau lòng khi nghĩ đến thời gian gần đây cô đã xao lãng việc bếp núc ra sao. Và cha thật tử tế, ông chỉ nói, "Ta sẽ mua vài miếng thịt nguội trên đường về, Mercedes, con đừng có vấn đề gì nhé." Từ giờ Mercedes sẽ giữ cho bàn bếp lúc nào cũng có tiếng động. Tội nghiệp cho cha.

Mercedes không nói với ai về lá thư, cho nên khi ông bà Luvovitz đến Sydney hân hoan gặp lại con trai vào đầu tháng Sáu, họ ngỡ ngàng khi gặp vợ của anh. Marie-Josée nhỏ nhắn, xinh xắn và phình to ở đúng chỗ nên phình to. Đen và đẹp. Đạo Công Giáo và đang mang thai. Cái tai nạn khủng khiếp này không thể nào che đậy được thực tế là cô ta và Ralph yêu nhau thắm thiết.

 

Đừng thở than

Hôm nay con đã trông thấy một cô gái xinh đẹp có mái tóc
vàng óng.

Con ganh tỵ với cô ta và con ước, phải chi con cũng xinh đẹp được như thế.

Khi cô đứng lên đi, bước chân cô khập khiễng trên đường.

Cô ấy chỉ có một cái chân, chống nạng và mỉm cười.

Ôi xin Chúa hãy tha thứ cho con khi con than thở

Con có hai bên chân, và thế giới là của con.

 

Sau đó con ngừng lại để mua một ít kẹo

Chàng trai bán kẹo thật quyến rũ

Con nói chuyện với anh ta - đến trễ một tí cũng chẳng hại gì.

Khi con đi anh ta nói rằng, "Cô thật tử tế. Cô thấy đấy," anh nói, "Tôi bị mù."

Ôi xin Chúa hãy tha thứ tội con khi con than thở

Con có hai mắt, và thế giới là của con.

Sau đó, con thấy những đứa trẻ có đôi mắt xanh.

Nhìn những đứa khác chơi đùa và chẳng biết làm gì.

"Này cháu ơi, sao cháu không chơi với các bạn."

Nó vẫn nhìn chăm chú về phía trước, nó không nghe được.

Chúa xin tha thứ tội con khi con than thở...

TÁC GIẢ VÔ DANH

 

Những Người Phụ Nữ Da Đen

Frances đang mặc lại bộ đồng phục Thanh Nữ Anh của cô trong cái kho lạnh cóng của nhà chứa vào một đêm tháng Ba năm 1932. Dù phải chịu lạnh hơn nhiều người khác, nhưng cô vẫn hoan nghênh cái lạnh vì nó làm cho bộ quần áo của cô trông thật mới. Tối nay cô hơi bị hoảng hồn một chút: một giọng nữ yếu đuối ập xuống người cô y như một con sứa, "Mày là đồ bỏ đi."

Frances nhìn lên. Miếng vá đen trong màn đêm đó rõ ràng là Camille.

"Ồ, chào dì Camille."

"Mày là đồ rác rưởi."

Frances kéo đôi vớ len khêu gợi của mình lên. "Dì cũng giống tôi trong lốt chồn thôi, dì yêu ạ."

"Sao mày không chết đi."

Frances phá lên cười và bỏ đi.

Khi nhìn Frances trong bộ đồng phục Thanh Nữ Anh lần đầu, thật khó mà tin được Frances đã mười tám tuổi chứ không phải là một đứa trẻ mười hai. Cái nhìn thứ hai, khó mà tin rằng Frances đã từng là một đứa trẻ. Camille nhìn con bé bỏ đi và tự hỏi, chị mình đã làm gì để phải chịu như vậy? Nhưng còn mình thì sao? Mình đã làm gì để phải sống như vầy chứ?

Khi người con gái đầu của Mahmoud Materia bỏ đi theo tên khốn enklese, Mahmoud gả người con gái thứ hai cho Tommy Jameel, nghĩ rằng hắn là người Libăng là đủ rồi. Đã không hề đủ,
giờ Mahmoud đã nhận ra điều đó. Jameel không phải con rể gì của ông cả.

May là ông vẫn còn đến ba người con gái nên vẫn có thể bù đắp cho phần hai người đầu. Tất cả họ đều hạnh phúc. Hai người có chồng là người Canada Libăng tử tế đến từ Sydney và người nhỏ nhất lấy một bác sĩ - enklese, nhưng tốt. Và con trai của ông đều hạnh phúc: họ lấy ba người vợ người Canada: một người Libăng, hai người Acadian. Một con trai của ông làm linh mục, Chúa cao quý. Đến giờ ông đã có đến bốn mươi đứa cháu, trong đó hai bốn đứa mang họ Mahmouds, mười lăm đứa trong số này là con trai. Lạy Thánh Ala.

Camille lẽ ra đã được chọn chồng. Thực sự cô là người đẹp nhất trong gia đình có nhiều con trai đó. Cô có thể đã là Camille MacNeil, Camille Shebib hay Camille Stubinski. Thay vào đó, cô là Camille Jameel. Cô không đổ lỗi cho cha - người mà cô tôn sùng. Và làm sao cô có thể đổ lỗi cho Materia, người cô đã thần tượng hóa? Vậy cho nên cô ghét Frances, đồ gái hư sống trên đời này chỉ để bôi nhọ hình ảnh của Materia tội nghiệp.

Camille là một phụ nữ đơn giản chỉ mong được sống một cuộc sống giản đơn. Thế nhưng cô lại có một cuộc đời đầy phức tạp. Cô cười rúc rích và chớp mắt và hãy xem mọi thứ đã đưa cô đến đâu? Nhà chứa hỗn tạp của Jameel. Cưới cô, James nhận được từ cha một khoản hồi môn hậu hĩnh, nhưng chỉ có Chúa mới biết được số tiền đó đã đi đâu. Camille không có tài. Cô đã có thể giỏi những thứ mà cô nên giỏi. Thế giới không nên được thiết lập để đòi hỏi nữ anh hùng, và khi một người được yêu cầu nhưng lại không thể trở thành nữ anh hùng thì ta không nên đánh giá họ. Chúng ta chỉ nên nói, tội nghiệp Camille, cô ta đã biến thành một con quỷ cái như nhiều người khác - và tránh xa cô ra.

Trong tim cô, dẫu vậy, vẫn còn chút hy vọng. Một nơi quang đãng trong rừng rậm. Không phải khi cô nhìn năm đứa con trai của cô, những đứa bám ngay lấy cha chúng khi vừa đủ lớn để vác một cái thùng hay đi đưa tin. Không phải khi cô nhìn chồng cô, người đã chẳng màng cạo râu ngay trong đêm tân hôn - người kiểm tra cơ thể cô và tấm trải giường ngay sau đó để chắc chắn mình không bị gạt. Nơi quang đãng trong tim cô là nơi Camille ngừng lại như một chú nai và chờ đợi được cha trông thấy.

Đêm sau đó, bóng đen hôm trước lại đứng đợi trong nhà kho. Frances thực sự thấy hơi lo lắng - Camille là loại phụ nữ chỉ ngồi yên một chỗ và xách búa lên lúc nào không ai biết.

"Chào dì Camille, cháu giúp gì được không?"

"Mày là đồ chết tiệt."

"Chao ôi, bộ đồ dì mặc xinh quá."

"Mày là một điều hổ thẹn của cha tao."

"Ông ấy sao rồi ạ? Cháu luôn muốn ghé sang chơi."

"Mày không xứng đáng bước chân vào nhà cha tao."

Frances gài khóa cái túi Thanh Nữ của mình lại và bỏ đi. Camille vừa cho nó một ý tưởng mới.

 

Địa chỉ có trong sổ điện thoại. Frances tìm đường đến một căn nhà trên đồi. Frances đu từ hàng rào qua bên cây. Rồi từ cây đu qua bức tường - chỉ có một ụ than nhỏ xíu để núp. Nhưng bên trong căn nhà của ông nó thì thực sự có khá nhiều nơi để núp. Và cả nhiều thứ để trộm nữa, khó mà biết phải bắt đầu từ đâu.

Có một cái lò sưởi ở trên bức tường trong căn phòng khách sang trọng. Người ta có thể thấy Frances ở trong phòng dễ dàng những ô nhỏ làm bằng sắt rèn, nhưng không ai nghĩ đến chuyện nhìn cô. Cái tủ nằm bên dưới cầu thang chứa đầy những thứ đen và mềm mại. Khi hé mở cánh tủ ra, rất dễ phát hiện một dải sọc trắng mỏng hiện rõ trên nền đen. Đó chính là Frances đang đứng trong tủ nhìn lén ra bên ngoài. Những bàn tay lần vào tủ tìm kiếm áo lông thú và khăn choàng đã vuốt qua những lọn tóc xoăn của cô và vẫn không ngừng tìm kiếm vì nghĩ đó chỉ là lông cừu đã qua xử lý. Và nếu như, một đêm nào đó, người chủ căn phòng ngủ lớn nhất trên lầu thức giấc và tự nhiên nhìn xuống gầm giường, ông ta có thể sẽ thấy cô nằm đó, hai tay bắt chéo ngực, mắt nhìn chằm chằm vào vị trí trái tim của ông đang ngủ yên. Đó là nếu cô không đang nhìn lén ông qua những thanh đồng ở chân giường.

Frances say sưa ngắm cái khung hình tựa dài ra của ông ngoại mình, da của ông mang màu sắc và sự mềm mại của một con chó săn luống tuổi. Cô không thể thấy được mẹ mình đâu ngoại trừ ở màu da, ở đôi mắt đen lay láy - dù mắt ông hơi sắc hơn - và mái tóc màu lam pha xám gợn sóng của ông. Cô nhói đau vì bỗng dưng cảm thấy mong muốn được gặp bà ngoại và tự hỏi làm sao người ta lại có thể nhớ thứ mà họ chưa hề có được kia chứ. Dẫu sao, cô cũng ngạc nhiên khi nhận ra một sự tương đồng của gia đình: có gì đó của Mercedes trong những góc độ của cơ thể ông Mahmoud, dáng người và xương sống thẳng tưng của ông. Frances kết luận rằng không phải lần đầu, cô là một đứa trẻ thay thế cho đứa trẻ đã bị bắt đi mất.

Cô bé luôn mang quà về cho Lily, khi thì là một cái lược dát bạc có răng làm từ mai rùa, khi là một chiếc nhẫn đá mặt trăng, và khi lại là một dải viền.

Lily vuốt ve dải viền đen nhánh như thể nó là một sinh vật bị chết đột ngột vì hoảng sợ.

"Cái đó của mẹ đó," Frances nói.

"Cho em được không?"

"Nó là của em đó."

"Chị lấy nó ở đâu vậy?"

"Chị tìm thấy một cánh cửa lật giống trong truyện Nghìn lẻ một đêm. Nó dẫn đến một khu vườn dưới lòng đất. Ở đó mọi thứ em có thể nghĩ ra đều mọc lủng lẳng trên cây. Nữ trang, tóc... Và cả những em bé chưa được sinh ra nữa."

Lily cho rằng đây là chỉ là cách Frances nói về cái mỏ than kiểu Pháp cũ. Nó không thích nghĩ đến việc Frances ở đó một mình, tìm kiếm kho báu. Cướp bóc những người đã chết. Lili nài nỉ xin theo nhưng Frances nói rằng khu vườn Ả Rập là một "nhiệm vụ đơn độc". Tuy nhiên khi Frances mang về cho Lily một hạt ngọc trai, Lily bắt đầu lo lắng vì điều này có nghĩa là Frances đã bắt đầu lặn xuống nước. Nó sợ rằng Frances có thể có ý định chết chìm dưới cái hồ trong mỏ than kiểu Pháp cũ. Lily biết việc uống nước dưới hồ có sức hút mạnh mẽ đến mức nào nên nó nhờ Ambrose canh chừng Frances. Làm ơn nhé, em trai, hãy cứu chị Frances thân thương nhất của chúng ta khỏi bị chết đuối như em đã cứu chị.

Lần đầu tiên Frances đi suốt đêm không về, Mercedes phát điên lên. Cô thay chiếc đầm ngủ ra rồi lại vào, vò đầu bứt tay và vài lần đi ra đến giữa phòng khách - nhưng vì không biết phải tìm ở đâu nên cô nhanh chóng quay trở lại chỗ cầu nguyện của cô ở bàn bếp. Hơn nữa, lỡ Frances gọi điện thoại về ngay lúc cô đi ra ngoài thì sao?

Mercedes giữ sự bất an của mình trong yên lặng để khỏi khiến cha phải lo lắng trong khi đang trong một giấc ngủ sâu khác thường và cần thiết trên chiếc ghế bành. Vào buổi sáng, Lily đi xuống và thấy Mercedes đang lột vỏ củ hành ở bàn bếp.

"Chị đang nấu món gì vậy, Mercedes?"

"Không gì cả, Lily, đi ngủ đi."

"Trời sáng rồi...Frances về chưa ạ?"

Mercedes vô tình quệt mắt bằng bàn tay dính hành và không thể làm gì khác ngoài nuốt nước bọt ừng ực.

"Mercedes -"

"Chị chỉ đang xắt hành thôi, Lily, đừng ngốc thế."

"Đừng lo lắng quá về Frances, Mercedes, em đã nhờ Ambrose trông chừng chị ấy rồi."

Mercedes kéo Lily vào và ôm nó. Lily cảm thấy có vật gì đó cứng đang cạ vào xương sống của nó - Mercedes quên bỏ con dao gọt vỏ xuống - nhưng Lily quá lễ phép nên không thể nói gì cả. James đi vào bếp, hai tay chà vào nhau, sảng khoái dù một đêm ngủ ngồi trên ghế vẫn còn ghi dấu lại trên quần áo ông, "Ai thích ăn thịt xông khói và trứng nào? Ta sẽ nấu."

"Ôi cha ơi," Mercedes nói, "đừng lo về Frances, con bé chắc chắn sẽ về thôi."

Và nó đã về, vào chiều hôm đó, với một diễn viên múa balê chạm khắc nhỏ xíu làm quà cho Lily.

Bây giờ thì Mercedes đã thôi lo lắng khi Frances biến mất như một con mèo vào ban ngày, tự tin rằng con bé đang được dõi theo qua sự can thiệp đặc biệt của Lily. Mercedes coi đó như là một dấu hiệu khác và thêm nó vào bản báo cáo đang ngày càng dài thêm mà nó sẽ đưa cho giám mục một ngày nào đó.

Mahmoud không bao giờ nhớ đến dải viền vì ông còn không biết đến sự tồn tại của nó sau khi Materia bị khai trừ. Frances đã tìm thấy nó bên dưới lớp vải lót bằng nhung đỏ ở đáy hộp nữ trang của Gisellse. Một sự thoát hiểm trong gang tấc.

Mahmoud nằm trên giường và ngủ thiếp đi ở bên kia căn phòng. Frances đứng cạnh bàn trang điểm của người bà quá cố của mình và ngắm nhìn những đồ đạc bày ra trước mắt. Bàn chải bạc, lược và gương cầm tay. Một chiếc hộp nữ trang bằng gỗ hồng sắc. Cô mở nắp hộp và lật lên một dàn nhạc quay và một vũ công balê váy hồng. Frances đậy nắp hộp lại ngay tức khắc và quay người lại nhìn ông Mahmoud rên ư ử, lăn qua và nhìn thẳng vào cô. Họ cứ ở yên như thế, trừng mắt nhìn nhau, cho đến khi cô nhận ra là ông vẫn đang ngủ. Cô vẫy vẫy ông. Cô đưa một ngón tay về phía ông. Cô quay lại chỗ cái hộp nữ trang và hơi hé mở nó ra một khoảng bằng sợi tóc - đúng vậy, giờ thì cô đã có thể nhìn thấy vũ công bé nhỏ đang nằm úp mặt. Frances luồn một ngón tay qua khe hở và giữ cô vũ công nằm im ở tư thế thiên nga chết trong khi từ từ mở nắp và bắt đầu cướp bóc. Cô kiểm tra cái đáy giả để tìm tiền sót lại, lật tấm lót nhung đỏ lên, và cô đã tình cờ tìm thấy dải viền màu đen cuộn tròn trong cái tổ nạm ngọc như thế. Chắc chắn đây là đồ của mẹ rồi vì nếu không vậy thì tại sao nó lại bị giấu đi chứ? Đồ dùng của những cô gái thất lạc thì luôn bị cấm tiệt mà. Frances nhét dải viền và mấy món trang sức vào chiếc túi Thanh Nữ Anh của mình, chỉ để lại một sợi dây ngọc trai thật. Cô tách con búp bê vũ công balê ra khỏi đế, đôi chân nhọn của cô ta kéo theo một mảng nhung đỏ. Con bé đã tính đặt nó lên gối của ông Mahmoud như một món quà kỳ quái của bà tiên răng, nhưng đã nghĩ lại rằng Lily có thể thích nó. Cuối cùng, cô cầm sợi dây ngọc trai lên và cẩn thận cắn đứt. Cô lấy ra một viên ngọc, sau đó cuộn phần còn lại vào chiếc hộp gỗ hồng sắc đáng ra đã trống rỗng và nhẹ nhàng nhón chân ra khỏi phòng với chiến lợi phẩm
của mình.

Tuy nhiên, thứ Frances thực sự muốn trộm hay bị trộm lại chính là Teresa, người vẫn đang làm việc cho Mahmoud. Teresa của cây kẹo trắng và đen. Nữ hoàng Teresa, trong lốt một cô hầu gái. Frances không hề bị gạt bởi cái ví nhiều tiền và cái đầm giản dị của cô. Với người có khuôn mặt giống như Teresa, việc mặc những trang phục tầm thường đến nỗi chỉ có thể làm tôn lên nét đẹp của người mặc thì cũng hầu như vô ích. Khi nhìn thấy Teresa dùng chìa khóa riêng mở cửa bếp vào nhà lần đầu tiên, Frances chắc chắn một điều kì quặc là giờ Teresa đã trở thành bà Mahmoud - bà ngoại kế của mình! Nhưng Teresa về nhà lúc sáu giờ tối hôm đó, sau khi đã dọn xong bữa tối cho ông Mahmoud, và Frances nhận ra rằng cô ấy có nhà riêng để về - với những đứa trẻ may mắn trong đó nữa, chắc chắn là vậy.

Có một cánh cửa bếp dẫn xuống hầm và Frances rất thích ngồi sau những đốm sáng của cánh cửa để nhìn Teresa làm việc. Cô cứ nhìn như vậy hàng giờ, đến khi mắt cô chuyển sang nhìn cục bột Teresa đang nhào, hay cái ly Teresa đổ sữa vào, hay cái tạp dề Teresa chùi tay lên. Một lần cảnh tượng đó yên bình đến nỗi Frances thiếp đi và lăn cù mèo trên những bậc thang dẫn xuống tầng hầm. Cô trốn đi khi Teresa đi xuống để xem tiếng ồn ào đó là gì, và mặc dù Frances khát khao được nói, "Là con, con tự làm đau con đó." thì tất cả những gì nó có thể nói chỉ là,
"Meo meo."

Một ngày nọ, một người đàn ông đến và ăn trưa tại bàn bếp trong khi Teresa làm việc. Tên cậu ta là Ginger - "Lại đây nào, Ginger cưng." Anh ta là cưng của cô nhưng không phải chồng cô - Teresa gọi ông Mahmoud trong phòng khách, "Em trai của tôi đang ở đây, thưa ông." Ginger mặc bộ đồ liền nhưng không phải là một thợ mỏ, anh ta trông quá khỏe mạnh. Frances nhận ra anh ta ngay lập tức - anh ta là người từng đưa đón Kathleen đi học bằng chiếc Ford mô-đen T màu đen. Anh ta đã chở Kathleen về vào ngày Teresa cho Frances cây kẹo sọc trắng đen. Anh ta gọi Teresa và họ cùng nhau lái xe đi và Kathleen đã lấy mất cây kẹo của Frances và quăng nó xuống sông. Thậm chí Frances còn nhớ tối hôm đó họ đã ăn gì nữa - bánh pa-tê thịt nướng và bầu dục. Frances tự hỏi tại sao những chi tiết ngu ngốc như bữa ăn tối lại dính chặt trong đầu mình khi mà có những chuyện khác cô sẵn sàng đánh đổi bất cứ gì để có thể nhớ thì lại không, như lần cuối cô cảm nhận sự vuốt ve của mẹ chẳng hạn.

Ông Mahmoud đi vào khi Leo ở đó và nói, "Chào Leo" - và Frances gần như mất thăng thằng trên mấy bậc thang lần nữa vì giật mình bởi hình ảnh của hai người đàn ông vừa va mạnh vào nhau trong đầu nó. Frances thấy cái tên in phía sau chiếc xe tải chở rượu đậu trước lò nấu rượu của James, sau đó chiếc xe tải biến thành chiếc Ford Mô-đen T nhưng những chữ in thì vẫn còn rất rõ: "Vận tải Leo Taylor."

Anh ta nói, "Xin chào, ông Mahmoud."

Mahmoud hỏi với giọng nặng nề của mình, "Anh đã nhận được yêu cầu đặc biệt của tôi chưa?"

"Chắc chắn là rồi ạ, thưa ông Mahmoud, và mạnh như ông thích."

Sự ngạc nhiên khi nhận ra Leo Taylor ảnh hưởng đến cô bé còn mạnh hơn sự sửng sốt của cô khi thấy ông ngoại tu ừng ực thứ chất lỏng đựng trong một cái chai màu nâu theo "yêu cầu đặc biệt". Frances có thể đã không bao giờ coi ông là một bợm rượu. Ông ấy không phải bợm rượu, hẳn rồi, đó chỉ là bia gừng mà thôi. Và khi Teresa rót rượu ra ly cho mình và em trai, Frances mới nhận ra rằng bên cạnh sự thật cô vừa phát hiện ra thì cô còn đang khát nước nữa. Khi nhìn thứ nước vàng óng sủi bọt trượt qua môi Teresa rồi chảy róc rách xuống cổ họng cô, Frances thấy thèm vô hạn. Leo Taylor nhấm nháp ly của mình thật chậm rãi, từ tốn.

Frances nhìn và nhớ lại lúc cô nói với Lily rằng bố ruột của con bé là một người da đen ở vùng Coke Ovens. Người cô nghĩ đến chính là Leo Taylor, sau khi gặp anh ta ở lò nấu rượu của James. Cô kể chuyện này với Lily để tìm xem sự thật có đúng vậy hay không. Như chuyện con mèo-màu cam ngày xưa - nó đã làm Ambrose ngạt thở ra sao, và cha đã chôn nó trong vườn. Như câu chuyện về mẹ đã dìm chết Ambrose dưới sông như thế nào, và câu chuyện về cái mỏ than kiểu Pháp cũ. Frances cần phải nói ra một câu chuyện để phỏng đoán xem có bao nhiêu sự thật bị che giấu bên dưới bề mặt của nó.

Trên những quãng đường chật hẹp lên căn gác xép vào đêm, Frances đã thấy một bức tranh mà cô không hề biết cô đang sở hữu: Kathleen với cái bụng thẫm màu đỏ và đen, tóc bết dính, hai em bé nhỏ xíu còn sống nằm giữa hai gối của chị ấy. Không còn ai trong bức tranh nữa ngoại trừ một người đang nhìn nó - người đó chắc là mình. Có một giọng nói nằm sâu trong trí óc Frances, kêu la xin được cất lên. Nhưng cô vẫn chưa để giọng nói đó phát ra được, nó chỉ mới là một tiếng thở dài, thở ra một câu hỏi. Câu hỏi là, những đứa trẻ xuống được dưới sông bằng cách nào vậy, Frances? Giọng nói đang đến gần hơn. Cô đến bậc thang đầu tiên. Vừa muốn nhấn chìm giọng nói đó xuống lại vừa muốn được giúp để gặp nó, Frances tự kể một câu chuyện khác.

Đứng ở đỉnh cầu thang dẫn xuống tầng hầm nhà ông ngoại, ngay sau khe cửa, nhìn ngắm Teresa và em trai cô uống bia gừng, Frances lầm rầm trong cổ họng to và nhanh như Mercedes đang cầu nguyện: Kathleen là mẹ của Lily, tại sao Ambrose chết chìm thì chúng ta không biết được, Kathleen không kết hôn, chị ấy có một khối u trong bụng nhưng thực sự không phải vậy, có một người cha bí ẩn, đó là Ginger - anh ta là tái xế của chị và họ đã yêu nhau trên đường đến trường, chính vì vậy mà cha không cho chơi thứ nhạc da màu trong chiếc rương đó - ông gửi Kathleen đến thị trấn New York nhưng Ginger lái xe tải đi theo, cha lại đưa chị về, nhưng đã quá trễ, chị đã qua đời vì hai đứa trẻ song sinh - các cháu có biết Ông Ginger không, Ông Ginger, Ông Ginger, các cháu có biết Ông Ginger không, ông ta sống ở Đường Ginger. Amen Lily và Ambrose.

"Về nhé Ginger yêu", Teresa nói vọng ra từ cửa bếp, "lái xe cẩn thận nhé."

Teresa rửa ly và Frances nhẹ nhàng đi xuống hầm. Phần nào câu chuyện cô kể là thật. Và có phần thì thật vừa đủ. Frances sẽ tìm ra nơi anh ta sống và sẽ tự mua cho mình một thùng bia gừng.

Cô bò lên đống than và nhảy ra ngoài, hòa vào ánh nắng chói chang.

 

Ginger nhìn thấy một cô gái nhỏ đi trên Đường Biển giữa New Waterford và Sydney. Cô bé đi lang thang trên mép đường ngó nghiêng khắp hướng trừ hướng nó đang đi. Sao cô bé lại được phép đi lang thang trên xa lộ một mình như thế thay vì ngồi trong lớp học chứ? Cha cô là ai? Mẹ cô đâu? Lạ ở chỗ lúc nào cô bé cũng mặc bộ đồng phục Thanh Nữ Anh trong khi trông con bé chỉ ở tuổi Chim Non chứ chưa đủ lớn để là một thành viên Thanh Nữ Anh.

Lần thứ ba Ginger đi qua, họ cùng đi về một hướng và anh chạy chậm lại một tí, nghĩ về việc cho cô bé đi nhờ một đoạn, nhưng lại quyết định không làm vậy vì sợ sẽ làm cô hoảng hốt. Tuy nhiên, cô ngẩng đầu lên nhìn chiếc xe tải chạy phía trước, và anh thấy mặt cô bé qua kính chiếu hậu. Nó làm anh thấy đau lòng quá đỗi. Ai lại có thể để cô con gái nhỏ của mình một mình tha thẩn trên Đường Shore hết ngày này qua ngày khác vậy chứ? Anh sẽ không làm thế đâu. Anh có ba cô con gái: hai đứa tuổi Chim Non và một đứa tuổi Thanh Nữ.

Anh rùng mình và lái xe đi. Anh liếc nhìn chiếc huân chương Thánh Christopher đang đung đưa trên kính hậu. Ginger chưa bao giờ gặp tai nạn khi lái xe, anh là một tài xế giỏi, nhưng gần đây anh lại thấy đường đi thật kỳ quặc. Trước đây tự nhiên mà anh nhìn vào con đường và lái xe một cách thản nhiên như chớp mắt, như hít thở, nhưng giờ giống như anh thấy con đường tách rời từng mảng khi bánh xe anh lăn qua. Hai bên đường, mỗi hòn đá, mỗi cái cây đứng tách biệt, và anh đã mất luôn thói quen mong chờ thấy con đường trải rộng ra quanh khúc cua. Lái xe là cuộc sống của anh - anh không thể để mình hoảng sợ được.

Ginger bắt đầu thấy bất ổn kể từ chuyển đi cuối cùng đến New York. Chưa bao giờ anh thực sự thoải mái, hay thực sự tỉnh táo kể từ lúc đó. Cứ như có một cánh cửa sổ mở toang trong đầu anh, để mặc cho gió lùa vào. Anh không thể với ra để đóng nó lại được. Nhưng anh lại có thể nhìn ra ngoài cửa, dù rằng tất cả những gì anh thấy là sương mù dày đặc. Nó tràn vào đầu óc anh, vây kín sự thoải mái và khiến cho anh run rẩy. Tuy vậy, anh vẫn cứ nhìn mãi. Bởi vì ở đâu đó trong sương mù, anh cảm nhận được có thứ gì đó đang nhìn lại anh.

Vợ anh, Adelaide, biết rằng có gì đó không ổn nhưng làm sao Ginger có thể giải thích cho vợ điều mà chính bản thân anh cũng không rõ? Anh nghe loáng thoáng tiếng nhạc từ New York. Điều đó nghe thật điên rồ, anh biết vậy, nên ít nhất anh đã giữ kín điều đó cho riêng mình. Âm nhạc có thể mê hoặc người ta không nhỉ? Có. Mọi người đều biết vậy. Và họ sẽ cười nhạo anh nếu anh nói ra điều đó.

Khi đó anh ở trong một hộp đêm ở Harlem. Anh có khá nhiều thời gian rảnh trong lúc chờ đợi chở một kiện áo váy về cửa hàng tạp hóa Mahmoud trên đường Pitt. Bất cứ lúc nào Ginger ở một nơi có đầy người da đen, anh lại thấy như trút khỏi gánh nặng mà anh chỉ nhận ra khi nó không còn đè nặng lên anh nữa. Anh đi lên đại lộ Lenox lòng nhẹ nhõm. Ở Harlem này Ginger thấy thật hạnh phúc nhưng không kém phần cô độc. Ở nhà và xa nhà trong cùng một lúc. Anh vào một hộp đêm trên đường số 135, là một nơi đón chào người da đen cả ở hàng ghế khán giả chứ không chỉ trên sân khấu. Một bộ ba đang biểu diễn thứ âm nhạc yên tĩnh cho một đám đông yên tĩnh. Khung cảnh chung cực kỳ không bình thường. Không có trò vui trên sàn diễn, không có tiếng kèn hay tiếng hi-de-ho. Chỉ có piano, ca sĩ hát tông trầm và sáo. Ginger đứng yên lắng nghe.

Người chơi piano là người chơi chính của nhóm. Một người đàn ông gầy nhom với những ngón tay đẹp và cổ tay điêu luyện. Thật tốt là anh ta đã chọn chơi giữa dàn nhạc. Chương trình này không dành cho tất cả mọi người và người nghệ sĩ piano kia đã không mặc một bộ trang phục mới từ rất lâu rồi. Cái quần mòn chỉ, cái áo hở ra để lộ một cần cổ dài đẹp đẽ. Cái mũ phớt màu xám đậm chếch xuống, và quanh chân nón là dải lụa màu xanh lục bảo.

Ba phút hay ba giờ sau gì đó, Ginger nhận ra bài hát đó là "Honeysuckle Rose", nhưng vẫn chưa thể phân biệt được tay trái với tay phải khi cầm ly bia của mình lên. Điều kì lạ là khi nghe nhạc Ginger cảm thấy thật thân thuộc, đầm ấm. Nếu như bài hát này là để hát tập thể thì chỉ mình anh ta cũng đã hát quá hay rồi. Đương nhiên anh ta không hề tuyên bố là mình am hiểu âm nhạc hay gì cả. Nhưng khi người nghệ sĩ kia lướt tay trên phím đàn chơi giai điệu giữa các vì sao tiếp theo, Ginger đã phải dừng lại và lắng nghe.

Vào đêm lái xe về lại Cape Breton anh mới nhận ra có vết nứt đang xuất hiện trong đầu, và đến hai lần anh phải tự nhắc mình ngừng xe khi hết đường đi: một lần vì đã đến lúc xuống phà, và lần thứ hai là vì đã đến nhà anh. Anh ôm Adelaide chặt như thể cô là thức ăn cứng đầu tiên anh được ăn sau nhiều tuần.

Tuy nhiên, anh vẫn chưa thể rũ bỏ sự lo lắng, và những hình ảnh như cô gái Thanh Nữ Anh nhỏ bé đi lạc đang làm anh phiền muộn thậm chí còn nhiều hơn bình thường. Lần thứ ba nhìn thấy cô bé, Ginger định kể cho Adelaide nghe, nhưng anh quên khuấy đi và vào ngay đêm hôm đó anh đã mơ thấy cô. Anh thấy gương mặt trắng gầy guộc đến gần trong kính hậu - đôi mắt xanh nâu nghiêm nghị, một vết tàn nhang trên mũi. Gương mặt đó giống một đứa trẻ, nhưng lại già dặn một cách vô cùng khó hiểu. Đó là gương mặt buồn nhất anh từng thấy. Ginger bật dậy dù rằng đó không phải một cơn ác mộng. Lần đầu tiên anh có ý nghĩ cô bé Thanh Nữ Anh là một con ma. Cô đang nói gì với anh qua ánh mắt đó? "Tôi đã chết như vầy nè... Hãy cầu nguyện cho tôi." Ginger vuốt mặt - nó ướt nhưng toàn thân anh lại không nên đó chắc chắn không phải mồ hôi trộm. Lạ quá. Anh sang kiểm tra những đứa con đang say ngủ của mình. Khi quay trở lại giường anh nhìn ngắm người vợ với mái tóc nhuộm đã phai màu của mình đang ngủ trong tư thế sẵn sàng đánh nhau. Cảm ơn Chúa vì Adelaide.

Ginger dự định bữa trưa ngày hôm sau sẽ kể cho chị gái Teresa nghe về cô bé Thanh Nữ và về giấc mơ của anh khi anh mang bia gừng đến thết đãi Mahmoud, nhưng anh lại quên mất.

 

Jameel liếc nhìn Frances. "Chi vậy?"

"Cứ cho tôi biết đi."

Frances đã đánh thức ông vào giữa trưa, da ông ta vàng như
mặt trời.

"Tại sao?"

"Vì nếu ông không nói thì tôi sẽ đốt trụi căn nhà khốn kiếp này của ông."

Jameel nhổ toẹt chất nicotine còn vương lại của tối qua. "Cô nên cẩn thận, tôi chỉ nói vậy thôi, vợ của Leo Taylor xấu tính lắm đó."

"Tôi không quan tâm đến vợ anh ta."

"Hắn sống trong một căn nhà màu tím trên đường Tupper."

 

Frances quay người đi; Jameel lắc đầu cảnh báo, "Đừng có mà khóc với tôi nghe chưa."

Nhưng cô không đếm xỉa đến ông ta.

Ginger giật bắn người khi anh rời mắt khỏi vỏ sò trong tay đứa con nhỏ nhất của mình và nhìn thấy cô gái Thanh Nữ Anh đang đứng trong sân sau nhìn chằm chằm vào anh. Cô ta là ma. Cô ta muốn gì chứ?

"Cho tôi một ít bia gừng được không?"

Adelaide đi ra cửa sau. "Cô muốn gì?"

Frances nhìn cô. Mái tóc hung đỏ của người phụ nữ cho Frances thấy khả năng nhìn thấu tâm can người khác. Tốt nhất không nên
trả lời.

Adelaide không rời mắt khỏi Frances. "Ginger à, nó là ai vậy?"

"Anh không biết, em yêu." Nói rồi anh ta quay sang Frances, "Cô tên gì, cô bé?"

Frances bỏ đi. Đứa trẻ đi theo cô nhưng Ginger đã bế nó lên.

Adelaide và Ginger nhìn Frances đi ra khỏi con hẻm, sau đó Adelaide nói, "Nó không phải một cô bé." Và đi vào nhà.

 

Muối

Thứ đầu tiên Mahmoud chú ý là một trong những chiếc lược bạc đã biến mất. Điều đó dẫn ông đến chỗ chiếc hộp đựng nữ trang bằng gỗ hồng sắc. Ông mở nó ra. Một cái cây kim loại trơ trụi bật thẳng lên và xoay theo giai điệu bài "Điệu Valse Kỷ Niệm". Chiếc hộp chẳng còn gì ngoài chuỗi ngọc trai. Lắc đầu bàng hoàng, ông chụp lấy những hạt ngọc - chúng trượt ra khỏi sợi dây chắc chắn và văng tung tóe trên sàn nhà.

"Teresa!" Ông gào lên.

Cô lên ngay lập tức, chùi hai tay, những hạt burghul màu trắng bám chặt hai tay cô - cô đang nấu món kibbeh - và khoảnh khắc sau đó cô vẫn còn may là ông vẫn chưa gọi cảnh sát: "Cuốn gói đi đi."

Mahmoud liên lạc với con gái út của ông và cô lập danh sách những người thay thế từ những người phụ nữ trong họ. Dù người trong gia đình rất nhiệt tình chu đáo, nhưng dọn dẹp chăm sóc một ông già cả ngày lại là chuyện khác. Họ sẽ phải trả lương cho những người bà con này bởi đại gia đình Mahmoud thành công đến nỗi không có người phụ nữ nào rảnh rỗi, loanh quanh làm việc không công cả.

Cả hàng người gồm những cô gái Ai-len và những cô gái da màu và những cô gái quê diễu qua trước mặt ông nhưng dường như Mahmoud không thể chọn được một Teresa mới, thành ra chỉ còn Camille có thể thế vào chỗ trống đó. Cô bây giờ thực sự rất giống một góa phụ.

Điều làm Mahmoud tức giận chính là đã để mình bị ảo tưởng vì quá tin vào Teresa - nghĩ rằng cô ta khác. Đó là lúc con rắn độc tấn công. Lẽ ra ông không bao giờ được quên màu da của cô ta. Họ có thể là những người tử tế, tốt bụng nhất thế gian, nhưng cũng như trẻ con, họ không nên được giao quá nhiều trọng trách. Theo cách đó thì họ là loại phụ nữ thậm chí còn tệ hơn đàn ông nữa - điều này nhắc ta nhớ, không biết liệu người em trai của cô ta có móc nối với chị hắn
không nữa.

Ở tuổi Mahmoud lúc này thì việc giảng giải từng chuyện nhỏ nhặt cho những người họ hàng nữ mà nhiệm vụ chăm sóc ông là chuyện khó chịu vô cùng. Họ đều đã cố hết sức nhưng thực tế đáng nguyền rủa ở đây chính là không ai có thể hiểu ông bằng Teresa. Và - đây mới là điều kinh khủng nhất - không ai có thể nấu món Li Băng tuyệt như cô ấy. Hơn cả vợ của ông, Xin Chúa phù hộ cho linh hồn bà ấy, và Xin Chúa tha thứ cho con. Teresa dường như đọc được ý nghĩ của ông. Cô làm mọi thứ thật dễ dàng. Và Mahmoud biết rằng, khi đến lúc thích hợp, ông có thể đã chấp nhận sự chăm sóc nhiệt tình của cô mà không mảy may màng đến phẩm giá của mình nữa. Giờ cô ta là một phụ nữ tốt. Và giá cô ta là bao nhiêu? Hơn cả hồng ngọc. Quỷ tha ma bắt. Đổi lại chỉ là vài món nữ trang rẻ tiền thì làm được gì chứ? Ông đã sẵn sàng cho cô ta tất cả của cải nữ trang và - ta đang nghĩ gì vậy chứ? Ta đúng là một ông già ngu ngốc. Và ta được gì chứ? Một cái mông nếu ta không cẩn thận. Ta cần con gái mình trong lúc như thế này, máu mủ ruột rà của ta, chuyện này đã minh chứng cho điều đó.

Mahnoud đau lòng khi thấy rằng những vụ trộm vẫn tiếp diễn sau khi Teresa đã ra đi. Chúng xuất hiện trở lại theo sau sự săn sóc ngày càng thường xuyên của Camille con gái ông.

Mahmoud tự trách mình. Nếu ở Old Country thì ông sẽ không bao giờ gả con gái mình cho Jameel, bởi vì ở đó sự khác biệt chủ yếu giữa hai gia đình sẽ rất rõ ràng. Nhà Jameel là người Ả Rập. Còn nhà Mahmoud ta thật ra là mang gốc Địa Trung Hải nhiều hơn. Gần cái gốc người Châu Âu hơn. Những sự phân biệt như vậy thường dễ bị mờ nhạt đi ở nước mới, nơi bạn mở rộng vòng tay với người anh em từ quê nhà nói cùng một ngôn ngữ đẹp đẽ với mình. Thứ ngôn ngữ hài hước một cách quyến rũ có cả đất và nước trong đó. Thật nhẹ nhõm biết bao khi được ngồi xuống ăn cơm hay chơi bài cùng ai đó, một Jameel chẳng hạn, mà cùng nói tiếng giống ta. Thật là một sự giải thoát khỏi thứ tiếng Anh lạnh lùng đó, thứ tiếng không khác gì việc ngâm giọng mình trong nước đá khi nói. Và rốt cuộc thì, bạn cũng chỉ là "những người Syria da đen" trong mắt người enklese. Chỉ khi đã quá muộn màng Mahmoud mới nhận ra rằng những tiêu chuẩn Old Country của ông đã bị bào mòn đến mức ông đã gả đưa con gái xinh đẹp nhất của mình cho một tên Ả Rập bán văn minh dơ bẩn. Thật tội cho Camille, một đứa con gái ngoan chỉ sinh toàn con trai, và sinh tận năm đứa - thật lãng phí. Và ông đã mất Teresa.

Mahmoud ngồi cạnh giường ngủ của mình, để mặc nước mắt tuôn rơi. Ông đã lên tận đây để khỏi phải gặp một đứa cháu gái làm việc cẩu thả. Ông ngồi trên chiếc ghế được bọc vải cùng loại với tấm trải giường - theo thị hiếu của Giselle, theo kiểu nhà quê ở Pháp, Xin Chúa phù hộ linh hồn bà ấy - và mắt ông hạ xuống bản sao chép của tác phẩm Đôi tay cầu nguyện của Dürer được khắc trên gỗ dái ngựa treo trên tường. Vợ ta đã mua nó. Một cơn rùng mình xa xăm dành cho Giselle lại khiến nước mắt trào dâng bởi vì đó là bàn tay của Teresa.

Cứ khóc đi, khóc cho hết một lần. Rồi hãy quỳ xuống và tạ ơn Chúa vì con gái Camille của ông đã bị thằng chồng vô dụng của nó đầu độc để trở thành một kẻ trộm vặt, và vì ông đã đuổi việc Teresa vì tội của Camille. Hãy tạ ơn Chúa, vì ông biết rằng nếu không thế thì ông đã sớm cầu hôn Teresa.

Mahmoud trượt khỏi ghế và quỳ phịch xuống sàn nhà. Chắc chắn là Chúa đã can thiệp vào khi những hạt ngọc trai biến mất, vì nếu tự Mahmoud nghĩ thì ông đã không bao giờ tin được rằng tên trộm lại có thể là một phụ nữ mà ông đã giao phó tiền bạc trong nhà trong suốt mười lăm năm qua. Chính Chúa đã khiến những lời đó thốt ra từ miệng ông. Tạ ơn Chúa. Uyên thâm vô cùng, nhân từ vô cùng, con không xứng đáng với điều đó.

Mahmoud quỳ gối và úp mặt vào hai bàn tay cầu nguyện của mình mà khóc. Dưới gầm giường, Frances lắng nghe với sự thích thú.

Teresa cũng đang khóc, nhưng là khóc vì tức giận. Cô ngồi trên chiếc ghế tình nhân của nhà mình bên dưới bức ảnh Bridgetown vẽ tay và tự hỏi sẽ làm gì sắp tới. Tệ hơn việc mất việc làm là việc thanh danh của cô bị hủy hoại. Và giá của nó là gì chứ? Bị buộc tội oan. Và là vì điều gì đó ẩn sâu bên dưới cô và cái xuất xứ của cô. Sao ông ta dám chứ? Ông già đáng ghét. Cũng chỉ như những người khác thôi, thậm chí còn tệ hơn nữa. Tên Syria độc ác, ti tiện, bẩn thỉu - ôi Chúa kính yêu, con đang cố gắng nhưng Người lại làm mọi chuyện khó khăn thêm. Làm sao có thể vừa sống vừa tha thứ cho được chứ?

Sự việc luôn kết thúc theo cách này: người không da màu không thể chịu đựng được khi một người da màu quá giỏi việc gì đó. Teresa tự trách bản thân đã quá tin rằng Mahmoud không thể thiếu cô được. Sự kiêu hãnh dâng lên cao trước khi rơi tòm xuống đáy. Cô đã làm cho ông ta mọi thứ. Cô nhớ tất cả tên và tất cả ngày sinh nhật của mọi đứa cháu của ông, và mua tặng hàng đống món quà dưới tên ông. Cô nhớ người con trai nào thích món gì và nấu đúng món đó khi họ đến nhà ăn tối. Cô biết khi nào nên vá một chiếc vớ và khi nào thì nên quăng nó đi, cô biết chỗ ông để cái kẹp cà vạt kim cương và cặp mắt kính đọc sách của mình, cô gửi tiền của ông vào ngân hàng, chi trả các hóa đơn và làm mềm vết chai ở chân ông. Nếu cô không làm công việc của mình quá tốt như vậy thì Mahmoud đã không bực bội với cô và sa thải cô với lời bịa đặt ác ý. Ông ta sẽ làm vậy. Ông ta đã đuổi việc cô vì lười biếng "giống như tất cả bọn người như cô". Dù thế nào thì chuyện cũng sẽ kết thúc y như vậy, để cho bạn phải liếm muối và cầu xin Đức Chúa Giêsu giúp xóa đi lòng thù hận.

Hector đưa tay ra lau đi giọt nước mắt vương trên má cô, việc này làm cô òa khóc lần nữa. Họ cưới nhau đã mười ba năm rồi. Suốt cả ngày Hector chỉ ngồi yên dưới tấm mền đợi cô về. Tạ ơn Chúa về Ginger, Adelaide và những đứa con của họ, tạ ơn Chúa về những người hàng xóm tốt bụng, nếu không có họ chắc Hector đã chết vì cô đơn từ lâu rồi.

Hector đã không bị đuổi việc, chưa từng bị buộc tội oan và, không giống như Ginger, anh không bao giờ phải kiếm sống bằng những cách thức bất hợp pháp. Hector đã có một công việc tốt tại một nhà máy thép. Anh và Teresa lấy nhau được mười bốn tháng thì một thanh xà lỏng lẻo rơi xuống trúng đầu anh. Giờ anh chỉ đi được vài bước nếu có người vịn tay, nhưng hầu hết là anh được đẩy đi bằng xe lăn.

Hector và Teresa đã hoãn lại việc có con vì lúc đó anh sắp trở thành một bộ trưởng và họ sắp chuyển đến New York, có những đứa con quốc tịch Mỹ và một cuộc sống tốt đẹp hơn. Teresa vỗ nhẹ tay Hector, rồi đi lấy một cái tả mới cho anh trong cái tủ bằng vải lanh. Đã từ lâu cô không còn nghĩ đến chuyện những đứa con của họ sẽ trông như thế nào.

Jameel xông vào phòng ngủ của Boutros ở tầng hai và nói, "Bảo Leo Taylor tối nay đến đây và mang theo một thùng bia gừng."

Boutros đang đứng cạnh cánh cửa sổ đang mở quay người lại đáp, "Con sẽ tự đi lấy, cha."

"Câm miệng lại và làm điều tao nói đi."

"Tại sao chứ?"

Jameel bước đến và nện một cái rõ đau vào sau đầu Boutros, "Tại như vầy đây."

"Ui da."

Jameel cười và giải thích, "Em họ của mày muốn hắn, nhóc ạ."

Boutros không nói gì. Jameel lắc đầu, Chúa ơi, tôi phải giải thích mọi thứ thật cặn kẽ cho đứa trẻ này, y như mẹ nó vậy - Nữ hoàng nhà chứa, Frances chết tiệt đó, nhóc ạ, nó thích tên da đen đó."

Boutros run rẩy. Nhưng với một người đồ sộ như Boutros, thật khó mà nhận ra điều đó. Nó mười chín tuổi. Nó sắp hết kiềm chế nổi ý định dùng dây nịt quật vào bố nó nữa rồi. Jameel cười nhạo Boutros, hai tay ôm lấy mặt nó, ép chặt hai má nó và tát yêu nó, "Làm như bố nói đi, mau lên."

Jameel ra khỏi phòng và Boutros quay trở lại bên cánh cửa sổ mở toang. Nó cầm một cái thùng dầu cũ kỹ để trên gờ cửa và tưới cho xong những cây cúc vạn thọ và dã yên thảo của mình.

Cái tên Boutros có nghĩa là Peter. Và Peter có nghĩa là tảng đá. Và trên tảng đá này, Jameel đã dựng nên bình rượu của mình. Làm con trai đầu là vận rủi của Boutros. Nó có đến bốn đứa em trai. Hầu hết bọn chúng đều giống y như Jameel và vì vậy rất thích hợp để làm con đầu, ngoại trừ đứa giữa rõ ràng đang có ý định trở thành một linh mục. Boutros mơ ước có thể dành dụm đủ tiền để mua một nông trại; cưới được chị họ Frances và đưa cô và mẹ nó, Camille, về một miền quê, nơi họ sẽ sống thật hạnh phúc. Họ sẽ có thật nhiều con và nó sẽ yêu tất cả bọn họ, nhưng đặc biệt nó sẽ yêu vợ nó, và làm cho những năm tháng cuối đời của mẹ nó trở thành thời gian hạnh phúc nhất. Về bề ngoài Frances chỉ là một con điếm say xỉn ăn mặc lòe loẹt, nhưng Boutros thấu hiểu được điều đó vì nó yêu cô và dự định sẽ cứu lấy cô một ngày thật gần.

 

"Cha muốn ông tối nay đến và mang theo một thùng bia gừng."

Ginger ngước lên nhìn Boutros đang đứng choán hết cả cánh cửa. Adelaide nói vọng ra từ trong bếp, "Tự lấy đi, anh bạn."

"Cha muốn ông đến."

"Được rồi Addy, anh sẽ về ngay thôi." Ginger đi lấy áo khoác.

"Không phải bây giờ," Boutros nói, "sau nửa đêm hãy đến."

"Chi vậy?" Adelaide thắc mắc.

"Tôi không biết, bà Taylor, cha tôi nói vậy."

"Em sẽ bắt ông ta trả tiền," Adelaide nói và chế thêm nước sôi vào tách Teresa - Adelaide đang làm bánh nhân thịt băm và đề nghị hãy lấy thùng đập lão già Mahmoud một trận.

Ginger nói với Boutros, "Nói với ông ấy ta sẽ đến." Nhưng Boutros không đi ngay. Nó đứng đó nhìn xuống Ginger một lát. Cuối cùng nó quay đi không nói một lời.

"Hai người có thấy không?" Ginger 10000 hỏi những người phụ nữ trong lúc quay lại bàn ăn. "Trố mắt nhìn tôi cứ như tôi là ma vậy?"

"Cái nhà đó đúng là điên rồ," Adelaide nói, không chỉ nghĩ đến ông già tham lam đã đuổi việc Teresa mà còn nghĩ đến Camille xấu xa - đã sống cả hai mươi năm ở vùng Coke Oven này nhưng cô ta chưa bao giờ chào hỏi bất cứ một ai. Rồi cả nhánh của nhà đó ở New Waterford nữa. Thật tệ khi Ginger phải dính líu đến bất cứ ai trong mấy người đó.

"Xin Chúa bao dung với họ," Teresa vòng hai tay quanh tách trà và nói.

"Bao dung cái chân của em này," Adelaide đáp, "lại đây cưng." Adelaide đặt một dĩa bánh Muffin Nellie trước mặt Ginger. Anh tặng cô một nụ hôn rồi ngồi xuống và đưa cái bánh ngon nhất cho Hector, Hector nhận chiếc bánh vui cười thích thú.

Adelaide đã nấu tất cả những món Nova Scotia đơn giản nhưng ngon lành đó. Cô là người của một cộng đồng có tên là Africville ở Halifax. Cô rất tự hào về dòng máu tôi trung với Liên Minh Đế Chế Ai-len Châu Phi của mình. Tự hào vì được rửa tội ở Vịnh Badford, và không bao giờ chán kể chuyện về vụ nổ năm 1917 - tôi đã không chết là vì một lý do: để đấm vào mũi anh đấy, anh bạn - để nhảy với anh đêm nay, cưng ạ - để thấy con cái của tôi lớn lên.

Sau đó, khi vợ chồng Teresa và Hector đã về và đã cho bọn trẻ đi ngủ, Adelaide nói mà không nhìn anh, "Đừng đến đó, Leo."

"Anh phải đến, cưng ạ."

"Vậy thì quay về ngay, nhớ đừng la cà ở đó."

"Anh không muốn làm thế đâu."

"Lại đây nào," cô nói và nhìn anh say đắm.

Anh mỉm cười và tuân lệnh cô.

 

Ginger mang thùng rượu tới trước cửa nhà chứa của Jameel. Anh ghét nơi này. Anh có thể nghe thấy âm thanh phát ra từ buổi tiệc bất thường đang diễn ra bên trong. Ở ngoài này anh có thể ngửi được cả mùi say xỉn trong đó, nó y như mùi đồ ăn sống khiến người ta buồn nôn. Anh thấy thương cho vợ của Jameel.

Sau khi nghĩ thật kỹ, anh quyết định đi vòng cửa sau. Ginger không hề thích việc dùng cửa hậu tí nào, nhưng trong trường hợp này thì anh thà làm vậy còn hơn đi vào từ cửa trước và bị chú ý bởi đám đông mà hễ khi có ai đi vào lại quay ra nhìn như một con thú hung tợn - đừng quan tâm đến ả điếm có mùi trẻ con bệnh hoạn bên đàn piano. Mình nên bỏ cái nghề này cho rồi - để xem mình có thể tìm được việc gì ở nhà máy thép hay không. Nhưng Ginger biết chắc rằng anh sẽ không bao giờ tìm được việc gì ở đó hay là ở nơi khác. Cả người da trắng cũng khó mà tìm được việc.

Bụng anh thắt lại khi anh bước vào kho lạnh và nhìn thấy bộ đồng phục Thanh Nữ Anh dơ dáy vắt bừa trên những cái thùng nhỏ cùng với vớ, nón bê-rê, và cái túi nhỏ. Theo bản năng anh đợi trông thấy một cơ thể trần truồng - đây là điều thường xảy ra với những bé gái không được coi sóc, lẽ ra mình nên điều tra xem con bé là con ai, lẽ ra nên cho nó đi nhờ... Khi không thấy cô bé đâu, anh mới bình tĩnh lại một chút. Nhưng như vậy đâu có nghĩa con bé chưa từng bị một tên say xỉn nào đó trong quán Jameel lôi ra ngoài và cưỡng hiếp. Ginger bỗng thấy tức giận - vì đang làm việc cho một kẻ như Jameel và vì đang giúp một nơi như vậy tồn tại và hoạt động trong vùng anh sinh sống, nơi hai cô con gái nhỏ của anh đang lớn lên từng ngày. Ginger đập cửa. Boutros mở cửa và nói: "Cha đang ở đằng kia."

Ginger vác thùng chen qua đám đông, đi ngang qua cô gái điếm đang chơi đàn piano - "Jeepers creepers, where’dya got those peepers?" - và đưa mắt tìm Jameel. "Jameel, chuyện gì xảy ra với cô bé mặc bộ đồng phục Thanh Nữ Anh đó rồi?"

"Cậu nên gọi ta là ông Jameel đó chàng trai ạ."

Ginger bỏ cái thùng xuống và túm lấy cổ áo Jameel.

"Cô bé đâu rồi, đồ độc ác?"

Ginger nhận thấy hơi đau sau cổ và thứ mà mắt anh đang nhìn là đôi giày của Boutros. Jameel cúi xuống nhìn anh và cười. "Hắn muốn mọi chuyện thật-tệ!"

Một giọt nước mát lạnh nhỏ trên trán Ginger. Anh ngẩng lên nhìn. Cô gái điếm trong bộ tóc giả màu cam đang nốc ừng ựng một chai bia gừng. Anh nhìn thấy phần dưới cằm trắng ngần và cái cổ áo đầy ghét của cô.

"Cô ta ở ngay đây nè, chàng Leo," Jameel cười khẩy, "Mời cậu thưởng thức. Phải trả bằng tiền mặt đó nhé."

Con bé nhìn xuống Ginger với đôi mắt nâu xanh nghiêm nghị. Bọt bia vàng óng còn vương trên khóe miệng đỏ tươi dơ bẩn của cô. Anh lấy hai tay bịt mắt mình.

 

"Anh nghỉ việc, anh không lái xe nữa đâu," là tất cả những gì Adelaide nghe được từ miệng anh hai mươi phút sau đó.

 

Anh cần phải khóc nên cô để anh khóc. "Anh đã làm việc quá sức rồi, nghỉ ngơi một chút đi nhé, được không anh?"

Anh chỉ có thể gật đầu và khóc nức nở với cô cho đến khi ngủ thiếp đi.

Adelaide ôm anh. Tính từ chuyến đi New York cuối đã được năm tuần rồi. Có gì đó không ổn.

Đến sáng, mọi chuyện cứ như một cơn ác mộng. Anh kể với Adelaide, "Jameel có một cô bé đang làm gái ở quán của hắn." Adelaide lắng nghe. "Và điều đó làm anh liên tưởng đến những đứa trẻ nhà chúng ta và chuyện gì sẽ xảy đến nếu -"

"Em hiểu, anh yêu." Anh ấy quá nhạy cảm rồi. "Sao hôm nay anh không nghỉ ngơi đi?"

"Anh không sao, Addy, anh ổn mà."

Nói rồi anh chui vào xe tải.

Anh lái đi và nhận ra rằng mình đã quên kể cho Adelaide điểm mấu chốt của câu chuyện - đó là đứa trẻ làm gái chính là cô bé mặc bộ đồng phục Thanh Nữ Anh đã đến nhà họ hôm nọ, và anh đã thấy nó trên đường và trong kính chiếu hậu trong giấc mơ đêm nọ. Nhưng anh đã quên. Và Adelaide đã nói gì về cô bé Thanh Nữ Anh hôm nọ nhỉ? "Nó không phải một cô bé." Ừ rõ ràng là không phải thật, giờ thì anh đã biết.

Tối về mình sẽ kể Adelaide nghe, anh nghĩ, và rẽ vào đường Shore.

 

Harem Scarem

Thoạt đầu, Frances thắc mắc không biết bao giờ Teresa mới quay trở lại làm việc sau kì nghỉ lễ, hay sau bệnh hay bất cứ gì đi nữa. Nhưng chiều nay khi đang đi trên đường Shore để về New Waterford, Frances nghĩ đến một điều khủng khiếp. Lỡ Teresa bị đuổi việc thì sao? Lỡ Mahmoud gán tội ăn trộm cho cô ấy thì sao? Ông ấy chắc phải điên lắm mới làm vậy - tại sao chứ, mới hôm qua Frances còn lấy đi một cô gái chăn cừu Doulton Hoàng gia và một ngư dân Trung Hoa từ cây đàn piano, và Teresa đã nghỉ cách đó ba ngày rồi.

Ngồi trong xe tải, Ginger nhận thấy mình đang tìm kiếm cô bé Thanh Nữ Anh trên khắp đường Shore. Anh muốn nói chuyện với cô, chỉ vậy thôi, nhưng ở một nơi khác với nhà chứa. Anh muốn hỏi xem bố cô là ai, gia đình cô ở đâu nếu cô còn gia đình. Và nếu không, có thể anh và Adelaide sẽ giúp được cô.

Dù nghe thấy tiếng xe tải thắng lại ngay sau lưng mình nhưng Frances không ngoái nhìn mà vẫn đi tiếp.

"Này."

Cô ngừng lại nhưng không quay lại.

"Này cô bé, cảm phiền."

Cô quay lại và ngước nhìn anh đang nghiêng ra trên cửa sổ cabin. Mình đã đoán đúng, Ginger nghĩ bụng, cao lắm là mười hai tuổi thôi. Cô đi về phía chiếc xe, leo lên bậc thang và ngồi vào ghế cạnh anh. Cô đã coi anh là một người tốt... điều này có thể hơi lâu một chút.

"Em tên gì vậy, và bố em là ai?" anh hỏi khi cho xe quay lại đường.

"Tôi là Frances Eupharasia Piper. Bố tôi là James Hiram Piper, ông ngoại tôi là Ibrahim Mahmoud. Tôi không biết tên đệm của
ông ấy."

Mắt Ginger không rời khỏi con đường. Anh bị sốc, không biết phải nói gì.

"Có thật vậy không?" anh nói, "Anh biết chị Kathleen của em."

"Tôi biết."

Anh liếc nhìn cô. Cô đang nhìn anh.

"Ngày trước anh là tài xế của cô ấy, em biết đấy, anh là Leo Taylor."

"Tôi biết."

Ginger thấy một cái cây vụt qua bên trái anh. Rồi một tảng đá. Một tảng đá khác. Anh nói những điều thật bình thường nhưng lại cảm thấy như đang nói dối mặc dù hoàn toàn không phải vậy. "Thật tiếc là cô ấy đã qua đời khi còn quá trẻ như vậy, cô ấy đẹp lắm."

"Tôi biết, tôi đã thấy chị ấy."

"Anh đoán là em thấy qua ảnh chụp, đúng không?"

"Tôi nhớ rất rõ về chị ấy."

"Nhưng lúc đó em đã ra đời đâu." Anh cười thầm, một nụ cười giả tạo.

"Lúc đó tôi lên sáu tuổi," cô nói. "Tôi nhớ tất cả mọi thứ."

Ginger thắng lại và tấp vô lề, trượt lên những viên đá cuội.

"Có chuyện gì vậy?"

"Anh nghĩ em còn rất nhỏ."

"Anh là em trai của Teresa, hử?"

"Đúng vậy." Anh thấy hơi chóng mặt. Đó là do lái xe, anh không thể lái tiếp được nữa.

"Tại sao cô ấy không làm ở nhà ông tôi nữa?"

"Chị ấy bị đuổi việc rồi. Ông ấy nói chị ấy ăn trộm đồ nhưng chị ấy thực sự không làm."

"Ông ấy sẽ phải hối hận."

Anh ngồi thẳng lên. "Nhìn em kìa, bố em có biết em đang làm gì và tại sao em lại làm vậy khi mà em đang có một ngôi nhà đàng hoàng và cả một gia đình không?"

"Tại vì em hư."

Anh nhìn cô bé. "Không, em đâu có hư."

"Sao anh biết?"

Ginger lấy hơi. Mắt anh ngấn nước và anh nói, "Anh nhìn là biết ngay. Nhìn vào mắt em anh biết. Em không hư... em chỉ lạc lối thôi."

"Em biết chính xác mình đang ở đâu."

"Vậy đâu có nghĩa em không bị lạc chứ."

Anh đưa tay ra ôm lấy một bên mặt con bé. Nó có đôi mắt thật thông minh. Chúng đem đến cho anh một nỗi buồn sâu thẳm đến nỗi anh quyết định phải làm gì đó. "Anh muốn em cùng đi về nhà anh và nói chuyện với vợ anh, cô ấy tốt lắm."

"Anh có muốn làm bạn em không?"

"Anh muốn giúp em, cưng ạ."

"Vậy cho em đi theo mỗi khi anh chạy xe."

"Anh không làm vậy được."

"Anh làm cho chị em được đó thôi."

"Anh chưa bao giờ đưa chị em đi qua gần nửa châu lục."

"Vậy anh đưa chị ấy đi đâu?"

"Đến trường và về nhà, em nghĩ sao?"

"Bánh Gừng bé nhỏ... em cần ai đó chăm sóc em. Em đã lớn thật rồi, nhưng bên trong em vẫn chỉ là một cô bé mà thôi. Em muốn anh tìm kiếm em bởi vì em bị lạc, lạc ở một nơi tối tăm sâu thẳm, xin anh đó, xin anh, xin anh, xin anh đó, ôi anh thật là thơm."

Anh lấy tay cô bé ra khỏi người và đẩy nó, không quá mạnh, sang bên kia ghế. "Em muốn xuống chỗ nào?"

"Rạp Empire."

Anh phóng về hướng New Waterford và Frances nhảy xuống khi xe đến trước rạp chiếu phim. Hôm nay chỉ có phim nói, nhưng Frances vẫn cứ mua một vé. Cô cần phải suy nghĩ. Giờ thì cô đã biết cô muốn làm gì cho Lily. Tuy nhiên, vẫn còn một mảnh ghép của công việc chưa hoàn tất.

Camille hay tưởng tượng lúc mình là một góa phụ. Cô sẽ về nhà chăm sóc cha và ông sẽ nhận ra rằng cô là đứa con gái duy nhất thực sự yêu thương ông. Cô cảm thấy nặng nề khi mà cha ở trong ngôi nhà to lớn đó một mình kể từ khi mẹ mất, và chỉ có một người hầu gái da đen hầu hạ ông. Cô đã khóc thật nhiều về điều đó. Đó là thứ duy nhất làm cô khóc kể từ những ngày đầu lấy chồng, khi cô vẫn còn sức lực để khóc cho bản thân. Giờ thì Teresa đi rồi, Camille ở đúng trong môi trường của mình. Cô chỉ tiếc một điều là cô buộc phải về nhà
mỗi tối.

Camille biết Teresa không phải ăn trộm. Những món nữ trang bị lấy cắp từ chiếc hộp gỗ hồng sắc của mẹ lại xuất hiện ở nhà chứa, trang hoàng những ngón tay, đong đưa trên tai và lấp lánh trên cần cổ gầy trơ xương của Frances. Cái đuôi bạc của một chiếc lược thò ra bên ngoài túi của Frances. Nếu Camille có thể dùng mắt để đốt Frances ra tro thì có lẽ giờ này nó đã bị thổi bay hết rồi, nhưng Camille có lý do để giữ chuyện về những món nữ trang trong im lặng.

Cô lục soát từ mái đến sàn trong nhà cha cô để tìm lỗ hổng mà con vật phá hoại đã chui vào. Bên dưới tầng hầm, cô thoáng thấy tia sáng tội lỗi giăng hình một cái bẫy đung đưa trên đỉnh ụ than. Cô đóng một tấm ván che chỗ đó lại rồi leo lên cầu thang để ra phòng khách và gọi cho cửa hàng phần cứng.

Frances kiên nhẫn đứng trong tủ đợi, đến khi Cammile cúp máy và đi vào bếp, cô liền nhẹ nhàng nhảy lên cầu thang hai bậc một vào căn phòng ngủ lớn nhất, nơi cô chuẩn bị cho màn trình diễn tối nay. Buổi diễn cuối cùng của cô trên sân khấu này.

Camille đã lấp lỗ chuột lại nhưng không hé một lời về con chuột. Nếu cha phát hiện ra kẻ trộm không phải là Teresa, ông sẽ thuê cô ta vào làm trở lại và trả cô về với chồng cô.

Mahmoud vẫn ngồi ở cửa hàng cả ngày như thường lệ. Ông ngồi ngoài tiệm, khắc bánh xà phòng và chơi cờ vây với mấy ông bạn già trong khi con trai ông lo liệu mọi việc. Họ đã mở rộng kinh doanh và giờ họ là một công ty xuất nhập khẩu về hàng hải lớn với một kho hàng lớn ở Sydney và trụ sở đặt tại Halifax. Vận tải hàng hóa biển là mục tiêu kế tiếp. Mahmoud không bao giờ chơi chứng khoán hay mua hàng tín dụng, và công ty đã trả hết nợ. Nền kinh tế thế giới bị suy thoái, nhưng kinh tế gia đình thì vẫn mở rộng. Những người con trai của Mahmoud đề cao bố mình bằng cách làm ông cảm thấy ông vẫn là chủ, cho nên vẫn nói "Chắc rồi cha, bất cứ điều gì cha nói," trước khi tiếp tục làm việc đó theo ý họ.

Mahmoud đã trải qua một ngày tạm chấp nhận được với việc càu nhàu mấy đứa cháu nội và nhìn ngắm xe cộ qua lại. Ai cũng biết ông, và ai cũng tôn trọng ông. Ông mặc một cái áo kẻ sọc, một áo khoác xám pha xanh và thắt cà vạt y như lúc ông vẫn còn làm việc. Hôm nay là thứ Tư, nên trên đường về ông mong được ăn món koosa nhồi của Teresa. Gần đây ông hay quên như vậy. Sẽ không là quá tệ nếu ông nhớ lại trước khi mở cửa bước vào nhà, vì khi đó ông có thể chuẩn bị sẵn sàng cho sự vắng mặt của Teresa. Nhưng nếu ông đi thẳng luôn vào bếp, băng qua lò nướng để nếm thử món ăn được đậy cẩn thận - "Teresa!" Ông kêu lên bàng hoàng vì không thể tin được cô ta đã hủy hoại món đặc sản của mình với muối - rồi quay người và chỉ thấy Camille đứng ở đầu cầu thang dẫn xuống hầm.

"Chuyện gì vậy, Cha?"

"Không có gì."

Ông không trách Camille. Đến người đầu bếp giỏi nhất nhà này còn không thể nấu được như Teresa thì huống hồ chi một đầu bếp tồi như Camille. Một sự ảnh hưởng khác từ cuộc hôn nhân sai lầm của cô - một phụ nữ không hạnh phúc trong hôn nhân cần phải là một đầu bếp tồi - và do đó lỗi này lại thuộc về chính ông, theo như ông biết. Vì lỗi của ông mà Camille trở thành kẻ trộm. Ờ, mà tại sao con bé lại không nên có những món đồ đẹp đẽ của mẹ nó chứ? Những thứ khác nó cũng hầu như không có, kể cả tài năng ẩm thực. Ông tha thứ cho cô.

"Cha đói chưa Cha?"

Ông lầm bầm và lê bước đi. Ông không muốn nhìn thấy nụ cười nhạt thếch của cô, cô làm ông thấy mệt mỏi. Ông sẽ chỉ chợp mắt một tí trước khi cố ăn cho qua một bữa tối mà như mọi khi, sẽ có vị không khác gì Biển Chết. Ông tha thứ cho cô bởi vì ông không yêu cô.

Ông tự an ủi mình bằng cách nghĩ về những đứa con gái khác mà ông yêu thương - xin Chúa phù hộ cho đứa con gái có con đã lớn của con sớm trở thành góa phụ và xin giải thoát cho con khỏi Camille, xin Chúa tha tội con không có ý đó.

Sau bữa tối, Mahmoud uống một ly nước thật to và ngủ thiếp đi trên ghế sa-tanh màu hoa cà trong phòng khách. Không gì có thể giúp ông hết khát và hết mệt mỏi trong những ngày qua. Ông nghĩ nhiều về Giselle, không phải theo cách bình thường như một người thân yêu đã xa, mà cứ như bà ấy mới bước ra khỏi căn phòng. Và lần đầu tiên trong suốt ba mươi hai năm qua, ông thừa nhận ký ức về Materia. Cô xuất hiện với hai bím tóc đen nhánh và nụ cười tinh quái. Ông không nhận thấy môi mình đang nở nụ cười - la hown, ya Helwi. Cô trông giống mẹ cô và nó xuất hiện ở độ tuổi gần bằng tuổi của Giselle khi ông cưới bà, nhưng điều đó khác, ồ, rất khác. Lúc đó là ở Old Country nơi mà họ có chung với nhau mọi thứ.

Vùng Old Country là một bộ phận của Syria lúc đó và mọi người đang di cư sang Hoa Kỳ. Ông và Giselle phải ngừng lại ở Cape Breton do một tên thuyền trưởng dối trá chó chết đã lấy hết tiền bạc của họ rồi bỏ họ lại vùng núi cằn cỗi này. Nhiều ngày chăm chú nhìn về phía chân trời mong được trông thấy đất liền và cuối cùng - đất liền! Mong đợi để thấy tượng Nữ Thần Tự Do hiện lên, được cập bến tại Đảo Ellis trước khi đi phà qua hòn đảo Mahattan tươi đẹp. Họ thả neo ở Sydney và tay thuyền trưởng tống họ xuống thuyền - "Có gì khác đâu, ở đây cũng là đảo, không phải sao?"

Bố của Jameel cũng đi trên con tàu đó. Mahmoud đã không tài nào biết được bố của Jameel đang trốn nợ ở Syria, bởi ông ta nói mình cũng đang chạy trốn bọn Thổ Nhĩ Kỳ và bọn Druse như những người khác. Và khi được hỏi về mình, Mahmoud trả lời, "trốn bọn Hồi Giáo độc ác chết tiệt." Nhưng trên thực tế, ông và Giselle bỏ trốn vì gia đình bà ấy có ý bắt giữ ông và giam bà ấy vào một nữ tu viện. Nhưng việc đó không giống trường hợp Materia và tên khốn enklese - khác ở chỗ, ông và Giselle đều cùng chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng. Mặc dù gia đình Giselle không nhìn nhận sự việc theo cách đó. Họ là bác sĩ và luật sư, nói tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Ả Rập, tự cho mình có dòng máu vùng Địa Trung Hải nhiều hơn, thậm chí là dòng máu Châu Âu. Họ là người Beirut, ở miền Tây Li-Băng, trong khi ông là người Ả Rập đến từ miền Nam. Ông đã quay về Li-Băng, quê hương của ông, trải qua thời niên thiếu với việc nhặt bông gòn ở Ai Cập. Đừng nói với tôi làm việc để làm gì.

Ông đưa Giselle đến một nơi tốt hơn bên kia đại dương và cho bà mọi thứ gia đình bà có thể cho và còn nhiều hơn thế nữa. Ngay khi có thể, ông không để bà đi làm nữa, dù ban đầu vì là một phụ nữ tốt nên bà đã nằng nặc từ chối. Ông tôn trọng bà, không bao giờ động chạm tay chân khi tức giận - chưa bao giờ ông phải làm vậy. Ông tặng cho bà một căn nhà xinh đẹp, những người hầu và những món nữ trang vào mỗi dịp kỷ niệm. Một bộ áo ngủ bằng lụa từ Beirut để bù đắp cho việc chưa bao giờ bà được mặc váy cưới; ba lớp vải màu xanh Địa Trung Hải và một tấm khăn che mặt viền ngọc trai thật. Đương nhiên tấm khăn thực ra chỉ là để cho vui, một trò đùa lãng mạn. Nhìn bà trong bộ đồ này thực sự thú vị không thể tưởng.

Giá như cái gia đình kiêu căng, ngạo mạn của bà thấy được những gì Mahmoud đã làm được ở New York.

"Cha?...Cha?"

Ông tỉnh dậy hơi nhăn nhó một tí và nhìn thấy Camille. Cô mặc áo khoác và căn phòng tối đen như mực.

"Con về nhà đây, cha à."

"Mẹ con đâu rồi?"

Ông nói tiếng Ả Rập, nhưng cô đáp lại bằng tiếng Anh để làm ông tỉnh táo lại, "Tỉnh dậy đi cha, cha có muốn uống gì trước khi con đi không? Một tách trà thật ngon nhé?"

Ôi!. Gì chứ? Đã đến giờ ngủ rồi, có Ter - ? Ôi! "Không, không, không, Ta đi ngủ đây."

Camille đến đỡ ông nhưng ông vô tình đẩy cô ra khi đứng dậy.

"Con sẽ mở đèn cho cha."

"Không, không, về đi Camille." Ôi, cuộc đời ông - Cuộc đời ông đã trở thành cái gì vậy?

Không có gì cho Camille làm nữa cả, cô đã lấy sẵn bộ đồ ngủ cho ông, ông không muốn bật đèn. Mahmoud đi đến chân cầu thang và vẫy nhẹ tay nói mà không quay người lại, "Cảm ơn con Camille."

Những cô con gái khác của ông chưa bao giờ được nghe cha mình nói cảm ơn - "Cha không bao giờ nói lời cảm ơn với em." "Với chị cũng không, em ạ." "Ông không bao giờ nói gì khác với em ngoài câu "Khép chân lại." Mahmoud cảm ơn Camille vì ông không thương cô.

Camille đứng đó nhìn ông chậm chạp leo lên cầu thang cho đến khi ông biến mất vào bóng đêm nơi đầu cầu thang. Sau đó cô đi về, dù biết rằng thật tội lỗi khi để một ông già ở một mình trong căn nhà rộng lớn đó cả đêm, dù là ông khăng khăng muốn vậy đi nữa. "Chỉ có mình mình quan tâm hay sao chứ?" cô tự hỏi.

Nhưng ông đâu có một mình. Còn có ai đó đang quan tâm ông đủ nhiều để làm bạn đồng hành với ông qua đêm dài cô độc.

 

Mahmoud thức dậy với một nụ cười vài giờ sau đó vì âm thanh của một vở hài kịch Ả Rập. Hai vợ chồng nhà nọ trách nhau vì không chung thủy. Rồi họ cùng hát một bài tình ca. Ông đã mua đĩa này và nhiều đĩa khác nữa từ Beirut. Ông và Giselle hay ngồi cạnh nhau trên sô pha và không bao giờ thấy chán những trò cười giống hệt nhau. Rồi bà sẽ nhảy cho ông xem, và ông nhảy cho bà xem . Chuyện như vậy chỉ xảy ra khi bọn trẻ đã đi hết. Chỉ thỉnh thoảng thôi. Nhưng đó quả là những giây phút đáng quý...

Nụ cười vụt tắt trên môi khi ông chợt bàng hoàng nhận ra sự bất khả thi của thứ ông đang nghe thấy. Gì chứ, ông đã chết rồi sao? Hay nhà có trộm? Tên trộm đó đang nghe những đĩa nhạc cũ trầy xước của ông? Tại sao?

Ông khoác lên mình chiếc áo choàng nhung, thắt dây quanh eo và rón rén đi xuống lầu. Ông chết rồi. Ông hẳn phải chết rồi. Có Giselle ở đó nữa.

Phía bên kia cổng vòm, căn phòng sáng bừng trong ánh nến và ba lớp vải xanh Địa Trung Hải. Chiếc váy xoay tít, bềnh bồng tung sang bên này rồi lại hất về bên kia, cặp mông mời gọi, những ngón tay cuộn tròn trong không khí, trên hai cánh tay giơ cao, cổ tay này đang ve vuốt cổ tay kia, những viên ngọc trai trên chiếc mạng che mặt của bà cũng chuyển động nhịp nhàng theo tiếng sáo, tiếng trống và tiếng ca ai oán của những bài tình ca.

Lòng Mahmoud ngập tràn nỗi khao khát, và tim ông lại nhói đau vì lại bị kích động lần nữa sau một thời gian quá dài sống trong trạng thái ù lì, không vận động. Bà đã thấy ông và đang ra sức quyến rũ ông vào điệu nhảy. Ông đã qua khỏi cổng vòm mà không biết mình đã đi ra được đến đó bằng cách nào. Đứng giữa vòng tròn lửa, bà cúi người về phía trước, lớp lụa xanh phập phồng trên khuôn ngực bà - đến gần nữa đi, để nhìn rõ em hơn, Haibibi. Bên trên tấm mạng che mặt, đôi mắt bà rạng ngời niềm vui và những ngón tay chuyển động nhịp nhàng trong khoảng không ngăn cách bà và người bà yêu thương, gần hơn nữa, gần nữa. "Giselle," ông thì thầm, đưa tay với lấy bà. Bà cười khúc khích và ông cũng cười thật to, không hiểu có chuyện gì đáng cười, "Giselle," ông khẽ nói, "Haibibti."

Nhưng bà lỉnh ra khỏi vòng lửa và biến mất. Ông gọi theo nhưng bà không trả lời. Ông cầm cây nến lên, vì biết rằng đi tìm một cái bóng thì nến có ích hơn đèn điện nhiều, và đi kiếm khắp tầng trệt lẫn tầng hầm. Ông quay trở lại phòng khách. Ông thổi tắt nến và mở đèn chùm lên vì ông cảm thấy được là bà đã đi rồi. Bài hát đã kết thúc, chỉ còn lại tiếng thở dài liên tục ở chính giữa đĩa - ông gỡ kim máy hát ra và đi về phòng. Ông mở chiếc tủ làm bằng gỗ sồi của vợ ra, những bộ quần áo lộng lẫy của bà vẫn còn treo nguyên ở đó. Ở trong cùng là chiếc đầm màu xanh lơ cùng tấm mạng che mặt đang đong đưa của nó. Chắc là nãy giờ ông đang mơ rồi. Nhưng còn ánh nến? Cái đĩa hát? Mất trí rồi. Nếu không thì chắc có kẻ nào đó đã giả mạo. Ta không quan tâm. Ông chạm vào lớp vải lụa, nhưng không cảm nhận được liệu mình có đang cầm trên tay một công trình dài cả đời người hay không. Ông chạm vào nó nhưng không cảm nhận được nó - cũng như ông đã thấy cái không thể thấy. Ta không quan tâm em là gì, nhưng hãy quay về với ta, Xin em! Xin em! Xin em! Ôiii!!!....

Đó chính là sự rung động cuối cùng và day dứt cuối cùng của tình yêu trong ông, nó mới và nhức nhối như tuổi thanh xuân vừa quay về xuyên qua không gian và thời gian. Giờ thì ông chẳng còn gì để làm nữa ngoài việc chết đi, nhưng lúc đó còn lâu lắm mới đến bởi ông là một sinh vật sống dựa trên thói quen, và sống đã trở thành một thói quen cố hữu trong ông.

 

Tên Trộm Trong Đêm

Nếu Ginger có là một gã đàn ông độc ác đi nữa thì cũng chẳng vấn đề gì với Frances. Cô cũng vẫn sẽ làm như vậy. Tốt hay xấu, tất cả đều là ngẫu nhiên và tóm lại thì cái nào tồi tệ hơn nhỉ? Người ta chịu đựng sự độc ác dễ hơn, nên có lẽ sự tử tế là thứ tệ nhất. Một câu hỏi duy nhất đặt ra là, làm sao có thể khiến một người đàn ông tốt làm một việc xấu xa?

Cô ngưng uống rượu. Cô muốn tập trung trí tuệ để suy nghĩ về những điều sắp tới. Frances khi không có rượu hơi đáng sợ đối với khách hàng của mình. Không còn những lời ngọt ngào có cánh, hay những cái hôn tiếp rượu mà thay vào đó là việc lấy tiền trước và phục vụ khách hàng một cách hờ hững với chiếc bao tay luôn đi liền. Đeo đầy những món nữ trang của bà ngoại, cô chẳng màng đến việc thay bộ đồng phục Thanh Nữ dính đầy than ra, và ngồi bên đàn Piano, cô chơi nhạc của Sô-panh và đọc những lời nhạc buồn bã, thiểu não với giọng lớn nhưng ngang phè mặc cho khán giả la hét phản đối. Khi thoát y, cô chẳng còn hát hay nhảy điệu simmi nữa, cô thoát y như một người máy và gào thét bằng giọng thật nặng nề: "IRENE NGỦ NGON. IRENE NGỦ NGON. NGỦ NGON IRENE. NGỦ NGON IRENE. TA SẼ RU EM TRONG GIẤC MƠ."

Cô không còn thú vị nữa, nên khách hàng nhanh chóng nhìn đi nơi khác. Khi Frances tỉnh táo, gần như cô đang khinh miệt khách hàng của mình, và nếu vậy thì thật là một sự sỉ nhục vô cùng cho họ, vì một đứa như cô thì có quyền gì chứ?

Frances muốn kiếm ba ngàn đô cho Lily trước khi giải nghệ như một diva biến mất nên cô tự tăng giá. Việc này cũng không được hoan nghênh cho lắm - vài người đàn ông cố tranh thủ tận dụng cô trong khi những người khác tỏ thái độ khinh bỉ cô ra mặt. Boutros đã đập gãy cổ tay một tên và đập nát xương má của một tên khác, nhưng Frances không quan tâm mình có bị đánh không mà chỉ lo việc mình có bị cưỡng hiếp hay không - cô không muốn có bất cứ gì cản trở kế hoạch của mình.

Ginger Taylor đã lái xe tải đi được một tuần rưỡi rồi. Căn nhà màu tím của anh luôn nằm trong tầm ngắm của Frances. Cô biết mai anh sẽ về vì cô tiếp cận đủ gần để nghe ngóng thông tin. Cô bé có động lực. Cô có cách. Cô ngắm trăng và đợi thời cơ đến.

Đêm nay Boutros lại đi theo Frances về nhà như mọi khi. Cậu từ bỏ việc đi cùng với cô vì lần nào cô cũng kêu cậu đi đâu đó. Vậy nên cậu bí mật hộ tống cô suốt đường về New Waterford và nhìn cô biến mất quanh phía sau căn nhà trên đường Water. Cậu đứng trước căn nhà chờ đợi ánh nến hắt ra từ cánh cửa sổ chống mở trên đỉnh ngôi nhà. Tối nay khi cậu đang đợi, ánh đèn pha của một chiếc xe chạy ngang qua rọi thẳng vào hai tia sáng vàng vọt chiếu xuống từ căn gác mái - có một con quái vật trên đó, nó thu người lại và đang chờ đợi Frances! Boutros đã chạy nửa đường đến hành lang thì trông thấy ánh đèn của Frances và bóng của một đám lông đen vây quanh hai con mắt màu vàng. Cậu nhìn cô đi về phía cửa sổ, ngồi trên mép cửa và vuốt ve con mèo. Mặt cậu dịu đi. Cậu mừng vì biết rằng cô bé không chỉ có mình cậu là bạn.

Đến giờ thì Boutros vẫn chưa phát hiện ra bất cứ ai cố gắng mai phục Frances trên đường về. Nhưng nếu có thì tên đó sẽ chết chắc. Tách. Chỉ đơn giản nhẹ nhàng vậy thôi.

Ngày hôm sau khi Ginger trở về, anh đặt Giáng Sinh Tháng Tám trên bàn ăn. Những cuộn dây ren trắng và ruy băng màu cùng cả đống vải. Một bộ sưu tập mặt trời, mặt trăng, và sao hiện trên nền màu xanh đen như khói, một súc vải chấm bi hồng trên nền đen ánh, những bông hoa mùa xuân cho con gái, vải flanen xám cho con trai. Kẹo, thơm và cả một con nai đông lạnh ở phía sau xe tải.

Adelaide rớt nước mắt khi nhìn thấy vải. Những người phụ nữ khách hàng may đồ của cô đều mua những miếng vải thật đẹp nhưng chưa có gì sặc sỡ như vậy. Cô may đầm cho hầu hết các đám cưới trắng ở Sydney. Cô dùng lụa, satin và vải bông mịn để may cho khách hàng của mình, và may đồ cho gia đình mình trong tưởng tượng. Thường thì đều có vải thừa sau khi hoàn tất một bộ quần áo, nhưng nếu những người phụ nữ đó không đòi lại vải thì Adelaide cũng mang đi cho hàng xóm vì sẽ trái với quy tắc nghề nghiệp của cô khi cho con mình mặc những bộ quần áo may từ vải còn thừa.

Cô đã từng may được những chiếc tạp dề tuyệt đẹp từ những bao tải đựng bột mì và cô...Tính đến lúc Teresa bị đuổi việc thì gia đình Mahmoud chính là khách hàng lớn nhất của Adelaide, và khi nói thêm rằng đó là những lúc tồi tệ hơn bao giờ hết thì Leo không có lý do gì để ném tiền qua cửa sổ để mua những thứ vớ vẩn này.

Madeleine, Sarah, Josephine, Cleo, Evan, Frederick và Carvery vây quanh mớ kẹo, chúng la ó, chia phần, tranh giành, còn Adelaide thì lại muốn biết, "Những thứ này là cái quái gì vậy, thưa Ngài?"

Ginger tươi cười. "Nó là một đống những thứ chẳng có gì chẳng vì lý do gì."

Tay cô sờ vào vải. "Anh đã làm gì vậy? Cướp ngân hàng sao? Tốt hơn là anh nên làm thế." Họ đang dành dụm tiền bạc cho lũ trẻ ăn học, sao anh lại có thể?

Anh đánh trống lảng. "Anh thấy mình hạnh phúc quá, Addy à, anh đã phải ra ngoài và phung phí một ít tiền nếu không anh sẽ nổ tung, chính bởi vì anh yêu em. Vì em là người phụ nữ tuyệt vời nhất, em là người cứng đầu nhất, khó ưa nhất, xinh đẹp nhất và không thể tin được là anh lại có được em!" Anh nâng cô lên bằng một cú ôm xoay người thật chặt.

"Anh điên rồi, anh biết không? Anh đúng là đồ điên, và bỏ em xuống nào, anh bạn!" Bàn tay xương xẩu của cô vỗ bốp trên bờ vai mềm của anh. "Thả em xuống ngay, trước khi em đánh anh bằng cái bình!"

Và anh làm theo. "Đánh thử xem nào," anh vừa nói vừa giả vờ đấm cô bằng tay phải, cô đáp trả bằng một cú đấm móc bằng tay trái, cô mảnh khảnh nhưng lại khá dẻo dai - đấm, đấm vào cẳng tay giơ cao và nắm đấm đang nhấp nhô, thụi một cái rõ mạnh vào bụng anh, cho đến khi cô cúi gập người lại vì nếu cười quá nhiều cô sẽ tè cả ra quần, và vì mắt cô đã nhòe đi vì nước mắt nên không thấy đường để đấm anh nữa.

"Mời hàng xóm sang cùng ăn đi," anh bảo cô. "Anh sẽ đi gọi Trese và Hector. Evan yêu quý, nhóm một đống lửa lớn ở sân sau cho bố nhé."

Evan chạy đi ngay. Nó mười hai tuổi, là đứa lớn nhất.

Nai nướng và bắp luộc, đủ cho cả xóm, và cả xóm đang tụ tập ở sân sau. Mặt trời xuống núi, lửa bốc lên cao, mặt trăng cũng lên cao. Hector ngồi dưới cái mền, mắt mở to và miệng mỉm cười, chân gõ nhịp nhàng theo tiếng đàn violon của Prince Crawley già nua. Lần đầu tiên từ khi bị đuổi việc Teresa thấy vui vẻ trở lại. Cô đã quên mất những niềm vui ngọt ngào của xã hội, của việc huyên thuyên trò chuyện với mọi người, xung quanh là những đứa trẻ, thức ăn và tiếng nhạc. Cô đã nấu món cà ri cá thích hợp để cứu sống người chết - khẳng định lại lần nữa danh hiệu đầu bếp hàng đầu khu vực Tây Ấn - và một bình kem để làm dịu đi cái nóng. Cô đi xa đến mức để mình bị Adelaide thuyết phục đứng lên hát - "Bài này dành cho em thôi đó, Addy, và chỉ lần này thôi đó." Teresa hát bài hát mà mẹ cô, Clarisse vẫn hay hát cho cô và Ginger nghe:

"Cầy mangut tinh quái, dù tinh quái nhưng con chó vẫn biết lối mày đi. Cầy mangut tinh quái, tinh quái vậy nhưng con mèo đang đứng trên đường mày đi -"

Và bài hát nào có hay ho gì nếu bạn không nhảy theo nó? Teresa là một vũ công tài ba khi lũ ngựa hoang đã đặt cô trên lưng và chuyển động. Khi đã chuyển động, cô chỉ còn cảm nhận được hạnh phúc.

"Cầy mangut đi vào bếp của quý bà, bắt lấy hai trong số những con gà nhanh nhất của bà, bỏ chúng vào túi áo vest của mình, Cầy Mangut tinh quái -"

Đám đông cùng hòa vào cuộc vui, say mê, Hector ngồi cười và vỗ tay, những bé gái đều đứng lên nhảy nhót với Teresa. Miệng cô cười hết cỡ, cặp mông đã trở nên ngông cuồng, những ngón tay bật kêu tanh tách, hai tay vỗ vào nhau, "Nhảy đi các cô gái!"

"Em thấy như anh đang cách xa hơn một dặm, em thấy như anh đang cần uống nước, em thấy như máu anh đang ngừng chảy, uống trà đi nào, uống trà đi nào -"

Cô bắt đầu tự sáng tác lời nhạc, và chuyện bắt đầu trở nên hài hước hơn vì cô chế ra mọi kiểu chuyện phiếm theo nhạc về tất cả mọi người ở đó, và mọi người cũng tự sáng tác để đáp trả lại cô. Cuối cùng Teresa bắt nhịp đoạn điệp khúc và mọi người hát cùng cô, sau đó cùng lắc lư trong ánh lửa. Teresa vẫn chưa lấy lại hơi thở khi cô để ý thấy Adelaide với cái nhìn cảnh giác như của một con mèo đang hướng về phía hàng rào sân sau. Trước khi cô kịp hỏi, "Có chuyện gì vậy em?" thì Adelaide đã nhào đi - qua hàng rào và lao xuống
ngõ hẻm.

Adelaide hộc tốc chạy theo bóng người nhỏ bé đang bỏ trốn và dễ dàng tóm được cổ áo của nó.

"Có chuyện gì, hử? Tại sao mày cứ lảng vảng quanh gia đình
tao vậy?"

"Xéo đi - ui da."

Adelaide biết sử dụng chiêu vặn tay.

"Mày tên gì, con nhóc?"

"Harriet Beecher Stowe, ha ha - ui da!"

Teresa đã đuổi kịp. Frances nhìn thấy cô. Và nó không thể không nói chuyện với cô.

"Chào Teresa."

Adelaide nhìn Teresa. "Nó là ai vậy, Trese?"

"Chị không biết, Addy."

"Teresa," Frances ngước nhìn cô. "Cô không nhớ cháu sao?"

Frances quên việc nói dối. Cô bé quên cả việc Adelaide đang giữ chặt cổ tay nó đằng sau. Cô muốn kể cho Teresa nghe mọi chuyện. Vì Teresa sẽ hiểu cho cô. Teresa sẽ sờ trán cô và mọi thứ sẽ tan biến hết, sức nặng của mọi thứ Frances biết và không biết, sức nặng khủng khiếp của cái đầu đang chất chứa hàng đống vấn đề của cô.

"Lạy Chúa tôi," Teresa thốt lên. Cô vừa nhìn thấy hai hàng đá quý trên tay Frances. "Cháu lấy những chiếc nhẫn đó ở đâu ra vậy,
cô bé?"

"Cháu nhặt được." Ngọt như sữa - cô ấy gọi mình là "cô bé".

Ginger chạy đến nhưng ngừng lại cách đó một quãng. Adelaide quay về phía anh, "Lại là con bé đó, em không biết nó là ai và nó muốn cái quái gì nữa."

Vừa nói xong Adelaide đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi thứ hai của mình: liếc xuống tù nhân của mình, cô nhìn thấy Frances đang nhìn Ginger chằm chằm, vẻ thanh thản hiện rõ trên gương mặt nó.

"Nó là ai vậy, Leo?" Adelaide đanh giọng nói, mắt dõi theo chuyển biến trên mặt anh.

Anh nhìn lại con bé Thanh Nữ Anh giả mạo lần nữa và Adelaide biết rằng điều anh sắp nói sẽ là lời dối trá.

"Anh không biết, Addy."

Chưa bao giờ Leo nói dối cô. Khả năng phát hiện nói dối của Adelaide có thể gọi là giác quan thứ sáu, nhưng cô không thấy gì đáng sợ trong chuyện này. Phân biệt thật giả thì dễ như phân biệt giữa muối và đường.

"Thôi bỏ đi," cô nói với chồng và chị chồng. "Quay vào và vui chơi tiếp đi, em sẽ vào ngay." Nhưng họ nán lại. "Đi đi, hai người hãy làm ơn làm phước đi vào giùm cho." Và họ đi. Adelaide nâng cổ tay Frances lên một tí, làm cho nó hoàn toàn tập trung. Rồi cô nghiêng người qua thật gần cho đến khi bốn mắt họ nhìn nhau. Cô nói thật khẽ, thật chăm chú: "Mày mà lảng vảng quanh nhà tao, đụng đến con tao hay chồng tao là tao giết
mày đó."

"Vâng, thưa bà."

Adelaide buông cổ tay Frances ra và quay lại sân sau nhà mình.

Teresa và Leo đã nói với mọi người rằng Adelaide đã tóm được một tên nhìn trộm, một gã da trắng. Và đã hù cho hắn sợ phát khiếp rồi. Mọi người cười lớn vì tội nghiệp cho kẻ nào gặp phải Adelaide. Và khi cô bước qua cánh cổng với gương mặt dữ tợn, họ càng cười lớn hơn. Adelaide đi thẳng vào nhà và quay trở ra với cây đàn organ thổi miệng của mình ra. Cô thổi bài "The Old Rugged Cross". Tiếng đàn khiến cho bản nhạc trở nên thật hay, nhưng lại man mác một nỗi buồn da diết. Teresa luôn xúc động đến rơi lệ mỗi khi nghe bản nhạc này, như cách bài "Ave Maria" khiến cho một tín đồ Công Giáo thấy mỏi mệt. Cười đó rồi khóc đó trong chỉ một đêm, đây quả là một bữa tiệc tuyệt vời.

Ngoại trừ chuyện đứa bé Thanh Nữ Anh dơ dáy có những chiếc nhẫn của bà Mahmoud. Làm thế nào mà nó có được chúng vậy chứ? Ở chợ đen? Hay trong ống thoát nước? Tên trộm thật chắc giờ đã đi xa lắm rồi. Lúc đó Teresa bàng hoàng đến độ không thể nghĩ được phải làm gì, nhưng giờ cô cũng đành chấp nhận sự thật là cô không thể làm được gì. Lấy lại mấy chiếc nhẫn hay nói cho Mahmoud nghe cũng chẳng ích gì, ông ta sẽ chẳng tin cô đâu, rõ ràng là ông ta không hề tin cô. Và ông ta cũng không xứng đáng được biết sự thật - Xin Chúa tha tội cho con, chỉ Người mới có thể biết mỗi người trong chúng con xứng đáng với điều gì - dù sao đi nữa, tại sao phải làm Adelaide khó chịu vì những thứ không cải thiện được? Bài "The Old Rugged Cross" nhắc nhở Teresa nên quay mặt đi và đừng nhìn lại, chuyện gì qua đã qua rồi. Prince Crawley góp thêm tiếng đàn viôlông, vài người góp giọng còn Hector thì ngân nga ậm ừ. Buổi tối kết thúc đúng cách của nó.

Trong lúc chở Hector về, Teresa bỗng nghĩ đến một vấn đề đáng lo ngại. Sao đứa trẻ lang thang đó lại biết được tên mình?

Ginger cố gắng đi ngủ trước Adelaide. Anh thấy xấu hổ khi giả vờ ngáy khi Adelaide cởi đồ và bò vào cạnh anh. Anh không làm gì sai cả, nhưng anh biết lý giải cách nào đây? Một lời nói dối vô hại không vì lý do gì. Không có vấn đề gì.

Cô ngắm nhìn anh một lúc rồi khẽ gọi tên bí mật của anh, không phải "Ginger" mà là tên khác. Tên chỉ hai người họ mới biết. Anh cựa nhẹ nhưng mắt vẫn nhắm nghiền. Cô hôn vai anh rồi nằm xuống cạnh anh. Để gìn giữ gia đình này, cô có thể làm mọi thứ.

Ngày hôm sau.

Adelaide về nhà từ tiệm tạp hóa Beel, cầm theo một phong bì đựng những hạt nút còn mới tinh.

"Josephine, Evan, xuống đây ngay trước khi mẹ đập chết hai đứa, cái gì đây hả?"

"Con xin lỗi mẹ - Xin lỗi, thưa mẹ."

Hai vành tai mềm bị nhéo không thương tiếc giữa ngón trỏ và ngón cái sắc nhọn.

"Mẹ sẽ nói chuyện gì xảy ra, em trai Carvery của hai đứa đang chơi đùa với lò nấu!"

"Dạ! Mẹ - Dạ! Mẹ."

Thả hai vành tai ra!

"Nó là em các con. Các con phải có trách nhiệm với nó và với nhau chứ!"

"Dạ mẹ - Dạ mẹ"

"Các con không bao giờ để gia đình mình bị nguy hiểm."

"Dạ không, mẹ - Dạ không, mẹ."

Sau đó cô dọa sẽ méc lại khi bố chúng về, và hai đứa trẻ thở phào nhẹ nhõm, vì những gì bố chúng sẽ làm là hỏi, "Xem nào, chuyện xảy ra thế nào?" và cho chúng ngồi vào lòng ông.

Tại bàn bếp.

Adelaide ngồi với những hạt nút và mấy súc vải quý của mình. Quần chẽn gối kiểu hoàng tử cho Frederick, quần tây lịch lãm cho Evan, sơmi trắng có cổ cho cả hai đứa. Váy đầm kiểu viền ruybăng cho mấy đứa con gái, chiếc áo sơmi bụi bặm hình mặt trời, mặt trăng, và sao cho Leo, và một cái y như vậy dành cho nhóc tì Carvery. Và cuối cùng thì dù miễn cưỡng dành thời gian để may - "chỉ để làm vừa lòng Ngài thôi đó, thưa Ngài" - cô đã may cho mình một một cái đầm không tay, ôm sát, dài chấm gót bằng vải satanh đen chấm bi xanh nhiệt đới. Khi nhìn thấy Adelaide trong bộ đầm này, bạn buộc sẽ phải mời cô nhảy chỉ để được thấy cô trượt qua tay bạn như một con cá lộng lẫy.

 

Tại xuất chiếu buổi trưa.

"Phim bắt đầu chưa ạ?"

"Gần hết rồi."

"Làm ơn cho tôi một vé."

Ginger trả năm xu và tiến vào rạp Empire. Trong rạp thật yên ắng, trên màn hình là cảnh trong phim Diary of a Lost Girl do Louise Brooks đóng. Không có nhiều người lắm. Nếu Frances có ở đây thì sẽ khá dễ tìm ra. Anh đứng ở trên cùng lối đi thoáng đãng và đợi đến khi mắt đã quen dần với bóng tối. Hình dáng cái nón bêrê của nó. Ở chính giữa hàng đầu tiên, nhưng con bé đi cùng ai đó.

Bộ phim kết thúc, "NẾU TRÊN ĐỜI NÀY CÓ NHIỀU TÌNH YÊU HƠN, THÌ CÓ LẼ CHẲNG CÓ AI LẠC BƯỚC." Đèn bật lên, anh nhìn thấy Frances đứng dậy. Người đi cùng nó còn khá nhỏ, dù anh đã cố thận trọng tránh đi đến kết luận quá sớm. Nhưng không, chắc chắn đó là một cô bé còn nhỏ, anh nhận ra điều đó khi cô bé đứng lên và quay người lấy chiếc áo len đằng sau ghế ngồi. Một đứa trẻ thực sự xinh đẹp với mái tóc hung đỏ dài qua eo, có gì đó rất quen. Bây giờ khi thấy Frances đi cạnh một đứa trẻ đúng nghĩa, anh không thể tưởng tượng nổi anh đã từng nhầm nó là một đứa trẻ. Thực sự thì mặt nó khá già dặn. Anh quan sát. Hai đứa bắt đầu đi hết dãy ghế để ra đến lối đi chính giữa và dáng đi của đứa trẻ tóc dài hình như hơi lệch về một bên. Và điều đó lặp lại, sau mỗi bước chân. Chắc nó bị đau sao đó, anh nghĩ, và đến khi nó đi vòng qua chiếc ghế cuối cùng trong hàng và đi dọc lối đi lên chỗ anh đứng thì anh đã hiểu. Cô bé nhỏ xinh đẹp, thật đáng tiếc thay. Đứa nhỏ nhất nhà Piper, hẳn rồi, và người mà nó gợi mình nhớ đến chính là chị gái Kathleen của nó. Nhìn càng gần càng thấy con bé giống cô ấy đến kỳ lạ.

Ginger đợi lúc Frances nhìn thấy mình. Nhưng dù có thấy thì Frances cũng dửng dưng như không. Nó đang nói chuyện với em mình, "Thứ Bảy tới sẽ chiếu phim The Wind" do Lillian Gish đóng, cô nói về một cô gái đẹp đi về phía tây nhưng khi đến đó thì bị gió làm đảo điên đầu óc."

"Sao gió làm hư đầu óc cô được?"

"Đừng nói ‘làm hư’, phải nói là làm đảo điên, Lily."

"Làm đảo điên."

Frances choàng tay qua người Lily và đi ngang qua Ginger.

"Chào, Frances."

Đứa trẻ tóc dài quay lại nhìn anh bằng cặp mắt xanh biếc - thật giống với Kathleen, nhưng cũng rất không giống vì Kathleen có nhìn anh bao giờ đâu. Frances không nhìn lại mà chỉ lôi mạnh em gái mình đi, suýt nữa thì làm cho nó ngã sấp xuống đường. Ginger bối rối. Đây có phải một cái tát vào mặt không? Nếu đúng vậy thì với mục đích gì chứ? Anh thấy mình giống như một bí mật dơ bẩn của ai đó. Mình không phải. Mình chưa làm điều gì sai trái và cũng không có ý định sẽ làm. Không muốn làm!

Nhưng anh phải nói chuyện với cô bé. Để nói rằng nó không được lẩn trốn quanh nhà anh như vậy, và không được cứ đến gần anh như một gái điếm, anh không phải loại đàn ông đó. Đúng, anh phải nói chuyện với nó càng sớm càng tốt. Cuộc trò chuyện đó có nghĩa như vậy. Tối nay, thứ Bảy.

Ginger không có ý định bước vào chiếc hộp Pandora đó lần nào nữa, nên đến ba giờ sáng anh mới rời khỏi nhà vì anh biết nó sẽ về nhà lúc đó.

"Xin lỗi em, Addy, anh quên nói với em là Jameel kêu anh đến quán lúc đóng cửa."

Nói dối lần hai. Làm sao Adelaide có thể bảo vệ được gia đình mình khi cô không biết chuyện bắt đầu từ đâu? Cô đã lo sợ khi thấy rằng đứa Thanh Nữ Anh giả mạo đó không có ý gì tốt đẹp với chồng cô cả. Nó nhìn anh như một kẻ yêu ma: thèm khát nhưng kiên nhẫn.

Adelaide nghe tiếng cửa đóng lại sau lưng Ginger. Cô cuộn mình trong chăn tự vấn, nó muốn gì ở anh ấy? Và Leo thấy gì ở thứ da trắng nhỏ bé và dơ bẩn đó chứ? Con điên, con yêu tinh hư đốn, con hoang... Adelaide ngồi dậy vì thấy nhói đau: anh ấy thương hại nó. Ôi không! Ôi không, không, không, không, không!

 

Ginger đứng đợi đằng sau cột gỗ bên dưới cầu tàu khi những người khách ùa ra từ quán của Jameel. Tiếng đàn piano đang vang lên thật chậm - "The Funeral March". Đợi khi những người khách cuối cùng rời khỏi quán, Ginger mới đi vòng lại. Anh dự tính sẽ túm lấy cô bé trước khi cô kịp leo lên chiếc xe nào đó về nhà. Anh đứng ở góc tòa nhà quan sát khi cô đi ra. Trong bóng tối anh thấy cô đã mặc lại bộ đồng phục nhưng vẫn còn trang điểm và đeo trang sức hóa trang. Ở trong đó, nhiều gã đàn ông, và cả đàn bà nữa đều cười nhạo cô như một con hề. Làm gái điếm thôi cũng đã quá tệ rồi, nhưng có ai đã từng nghe đến một con hề làm điếm chưa? Ginger thắc mắc không biết sẽ như thấy thế nào khi nhìn qua đôi mắt của những kẻ có thể thấy sự gợi cảm hay buồn cười ở con bé. Cô khóa cửa nhà kho lại và khi Ginger sắp lộ diện thì con bé biến mất trong bóng tối - cái gì? Cô bé đi đâu rồi?

Anh không la lên vì không muốn lôi Jameel vào việc này. Anh đi vòng ra đằng trước. Không có chiếc xe nào đang đợi, nãy giờ anh cũng không nghe thấy tiếng xe chạy.

Trên đầu có tiếng lộc cộc phát ra từ một cây gậy dọc theo những thanh ngang trên đường tàu. Anh ngước nhìn qua trụ cầu và thấy đôi chân bay qua những thanh gỗ mỏng và chạy hết tốc lực đuổi theo. Mặt đất cao dần lên đến lúc ngang hàng với đường tàu và khi chạy lên đến mép đường, anh thở không ra hơi nữa trong khi con bé vẫn chạy nhanh về phía trước, nhảy qua ba thanh tà vẹt một, hai tay dang rộng. Giờ họ đã ở rìa thị trấn, cô quẳng cây gậy đi. Anh gập người cố hít thở - anh không phải tuýp người giỏi thể thao. Khi đứng thẳng lên anh thấy cô đã đi trước anh một đoạn trong ánh trăng, nhìn như cô chỉ đang nhảy lên nhảy xuống cùng một chỗ trong một điệu khiêu vũ biểu diễn hoang dã, nhưng thực tế thì dáng cô đang nhỏ d 20000 ần, nhỏ dần. Anh hộc tốc đuổi theo.

Bên tay trái anh, mặt nước lấp lánh ánh bạc phía xa xa vách đá. Tiếng trống ngực và tiếng thở của anh át cả tiếng bước chân, và tiếng dế lẫn tiếng ếch kêu trong đám cỏ cao ven đường. Họ đang đi song song về đường Shore. Cô chạy suốt quãng đường, đây là cách cô về nhà mỗi ngày. Chúa ơi! Họ đã ở khá xa thị trấn, an toàn để gọi rồi, "Fra -" và anh nằm úp mặt trên mặt đất nồng nặc mùi nước tiểu, ruột anh không còn tí không khí nào, lưng anh chỉ còn cảm nhận được cú va chạm đẩy anh bay về phía trước - cái gì đó túm lấy tóc anh và nện anh xuống sỏi liên tiếp hết lần này đến lần khác, và bóng tối.

 

Tối nay, Frances thổi tắt nến trước khi bước vào căn gác mái. Ánh trăng. Bốn khoảng sáng hình chữ nhật tắt dần khi những tấm màn cửa sổ được bung ra. Ánh trăng có thể khiến đàn ông phát điên nhưng nó lại làm một cô gái hoang dại trở nên bình tĩnh, bởi vì nó dịu mát, rõ ràng, nó thật minh bạch. Đặc biệt là trong một căn phòng trống như vầy. Frances ngừng lại và thư giãn đầu óc. Rồi nó đến bên cửa sổ. Một buổi tối thích hợp để ngắm nhìn.

Ở tầng dưới, phía sau ngôi nhà, Lily đang ở bên cửa sổ phòng ngủ của mình nhìn ra nhánh sông. Môi nó khẽ động đậy như đang thì thầm với ai dưới đó, nhưng không thấy một linh hồn nào cả, chỉ có ánh sáng lung linh của mặt trăng trên mặt nước. James đang ngủ ở bên kia phòng khách, ngay dưới cửa sổ căn gác mái chỗ Frances vừa ngồi xuống, anh mơ thật nhiều, anh vẫn hay như vậy từ khi Frances dần bước khỏi cuộc sống của mình. Anh lại là một cậu bé, chỉ có anh và mẹ trên cánh đồng hoa dại. Mercedes cũng đang ngủ trong phòng riêng, hai mí mắt khép hờ để lộ tròng trắng. Cô mơ về thép, về màu xám, về những cuộn tóc màu xám trong khung cửi.

Frances vuốt ve Trixie đang nằm gọn trong lòng và phát hiện ra mình bị theo dõi. Cô thấy Boutros bên dưới và hắn chẳng thể thấy cô. Hắn đang nhìn lên, đợi ánh nến của cô sáng lên và sưởi ấm căn phòng. Hắn đang dán mắt vào ô cửa kính, nhưng chỉ nhìn thấy mỗi mặt trăng.

Frances không gìn giữ sự trinh tiết căn bản của mình để rồi bị cưỡng hiếp bởi một thứ to như vậy - và hắn còn theo mình về nhà vì lý do gì nữa? Đầu cô nghĩ đến Người Vợ Công Giáo. Nhiều năm trước cô vơ vét căn phòng của Ralph Luvovitz khi tất cả họ có lẽ đang chơi nhạc Klesmer dưới lầu, và cướp đi Thứ mà mọi con trai nên biết của cậu ta. Người Vợ Công Giáo đã không còn dễ kiếm nữa mà phức tạp hơn rất nhiều. Người vợ Công Giáo phải luôn nghĩ đến một đồ thị trong đầu, vẽ sơ đồ hành trình chậm chạp của trứng, dửng dưng như một cái đập đá, đi đến điểm giao của nó với một chiếc xuồng máy cao tốc. Trung bình cứ sáu hay bảy ngày trong một tháng thì việc này có khá nhiều khả năng xảy ra, và những ngày khác thì ngược lại. Đó là phương pháp nhịp nhàng. Cũng như trong hài kịch, cái quan trọng là việc canh thời gian. Tránh thai bằng phương pháp nhịp nhàng là có tội nhưng tội này có thể tha thứ được và được Đức Giáo Hoàng ở La Mã phê chuẩn, miễn là khi thực hiện hành động tạo sinh bạn không ham mê nhục dục và không mong muốn không có thai. (Trừ phi bạn thực hiện hành động tạo sinh nhằm tránh việc chồng bạn có ham muốn với phụ nữ khác, trong trường hợp đó, bạn đã phạm tội vì nhượng bộ ham muốn của chồng, nhưng tội được giảm nhẹ vì ý định của bạn là nhằm ngăn cản anh ta phạm phải một tội lớn hơn với một phụ nữ không phải vợ mình. Hãy đi xưng tội, bạn sẽ ổn thôi.) Mọi biện pháp kiểm soát sinh đẻ khác đều là trọng tội sẽ đẩy bạn thẳng xuống địa ngục nếu không được xưng tội trong giờ lâm tử.

Frances gần như hoàn toàn không thấy kinh, chỉ đều đặn có vài giọt ít ỏi vào mỗi tháng mà thôi. Hôm nay là ngày đầu tiên của thời gian năm hay sáu ngày có khả năng thụ thai cao. Và điều này khiến cô rùng mình khi nghĩ đến Boutros đang lảng vảng dưới sân, bởi vì thật kinh khủng khi nghĩ đến việc hắn leo lên trên nó và chín tháng sau một mảnh bé xíu của cái khối to bự đó chui ra từ người cô. Cô phải nhanh lên mới được. Cô tức tối. Tại sao Ginger Taylor lại phải biến thành người tốt kia chứ?

 

Via Dolorosa Con Đường Thương Khó

"Vài tên bợm nhậu đã tấn công anh ở ngoài quán Jameel."

Nói dối lần ba.

"Ui, Addy, nhẹ thôi!"

Adelaide lấy ra thêm một mảnh gỗ vụn và xịt thêm axít các-bô-lích vào cái trán dập nát của Ginger. Thật may vì đó là phần cứng nhất hộp sọ. Và cũng thật may là khi đầu anh đập xuống thanh tà vẹt đường ray thì mũi và răng anh chỉ sượt trên sỏi. Và điều may mắn nhất là nhờ có tiếng rì rầm ấm áp của những thanh ray bên dưới mà anh đã tỉnh dậy vừa kịp lúc để lăn vào lề, để đoàn tàu chở than lúc giữa trưa chạy qua. Ai là thiên thần hộ mệnh của anh nhỉ?

"Em muốn biết nó là ai và đừng nói những điều vớ vẩn nữa."

"Sao chứ?" Nhưng có giả vờ cũng vô ích. Làm sao mà đã có lúc anh nghĩ rằng cô có thể tin lời nói dối của anh chứ? "Nó là một trong những đứa con nhà Piper ở New Waterford."

Adelaide thấy ớn lạnh, nhưng cô gật đầu nói, "Frances." Cô biết đứa bé hư nhà đó có tên là Frances.

"Anh không biết nó muốn gì. Tối qua anh đi theo nó nhưng anh bị tấn công bất thình lình trước khi kịp nói lời nào, anh không biết ai và bao nhiêu người đã đánh anh."

Adelaide nhìn anh. Đợi phần sau câu chuyện.

"Anh xin lỗi, Addy. Anh đã cho nó đi nhờ một lần, anh không biết tại sao trước đây anh lại nói dối em nữa." Bỗng dưng anh thấy thật mệt mỏi. "Nó là cô bé nhỏ ở nhà chứa và anh muốn giúp đỡ nó. Anh nghĩ mình có thể giúp."

Adelaide xếp một lớp băng trắng mềm trên chân mày anh. "Nhà đó rắc rối lắm, Leo. Đầu óc con bé đó không ổn lắm. Nó sẽ hại anh phải vào tù vì tội cưỡng hiếp."

Ginger bị sốc, "Anh sẽ không bao giờ, không bao giờ -"

"Nhà Piper có tiền. Anh là một gã da màu, và con bé đó đang đeo theo anh."

Với băng quấn đầy đầu và mặt đang đóng mài sắp lành khá nhanh, anh gõ gõ cánh cửa thép.

"Mày muốn được lên lương, phải không nhóc?"

"Không, thưa ông Jameel, tôi muốn nghỉ việc, nhắn giùm với ông Piper là tôi cũng nghỉ làm chỗ ông ta."

"Mày tự nói đi."

Ginger quay đi và nói, "Vậy chắc ông ấy sẽ tự biết khi không thấy tôi đến lấy rượu mà ông đặt." Ginger muốn tạo một khoảng cách giữa ông với mọi thứ liên quan đến nhà Piper.

"Tên da đen khốn kiếp, biến ngay ra khỏi chỗ của tao - Boutros!"

Ginger đã bỏ đi nhưng sẽ không chạy. Liếc ra sau, anh thấy đứa con trai to xác đã đến ngay cửa. Ginger không sợ Boutros, dù vết thương trên cổ anh có được khi túm lấy Jameel hôm nọ vẫn chưa lành - thằng nhóc chỉ đang bảo vệ cha mình. Ginger biết những người như thế sẽ trở thành những người tử tế hơn là những kẻ hiếu chiến.

"Tên da đen chết tiệt," Jameel lầm bầm chửi. "Lấy xe đi, nhóc," ông bảo Boutros mà không màng nhìn cậu.

"Bố, con sẽ lấy vợ."

Jameel quay lại đập mạnh vào mặt Boutros, "Đem cái xe chết tiệt đến đây."

Lúc đó tầm năm giờ chiều.

 

"Vấn đề gì?" Ginger hỏi.

Ginger biết những điều cơ bản về nhà Piper - những điều mọi người đều biết và những điều anh biết được từ nhiều năm lái xe đưa đón cho nhà họ. Giờ thì anh chở rượu cho Piper, nhưng việc đó cũng chỉ đưa anh đến lò rượu ở trong rừng và tất cả những gì Piper nói là "Cảm ơn, Leo, lái xe cẩn thận."

Nhưng Adelaide lại biết những điều Teresa đã kể. Teresa không bao giờ nghĩ đến việc kể cho em trai mình nghe những chuyện như vậy. Ginger là một đứa trẻ đáng yêu, và giữ anh khỏi những điều không hay là bản năng thứ hai của cô. Bên cạnh đó, có những điều sẽ là đúng đắn khi kể cho một người bạn gái nghe, nhưng sẽ thành mất lịch sự nếu lặp lại. Có vài chuyện nếu kể cho người chồng yêu quý hay em trai sẽ trở thành thuốc độc. Những người phụ nữ tốt thảo luận với nhau nhiều việc theo cách những nhà nghiên cứu bệnh dịch xác định và lần ra bệnh mà không báo cho dân chúng biết. Đây là việc của phụ nữ với nhau.

Đàn ông sinh ra đã không thích hợp với việc này và nên được bảo vệ khỏi những chuyện này, cũng như là phụ nữ thì không cần phải xuống mỏ. Đàn ông quá ngây thơ để tiếp cận với những chuyện
như vậy.

"Nói anh nghe đi, Addy."

Đã đến lúc tiêm chủng. Adelaide hít một hơi thật sâu.

"Người mẹ đã tự tử. Đó chính là con gái ông Mahmoud, người đã bỏ nhà đi theo Piper. Mahmoud đã từ bà ta. Con gái của họ, đứa có giọng hát hay mà anh chở -"

"Kathleen -"

"Cô ta có con ngoài giá thú, một cô bé bị tật ở chân. Piper giết con gái của mình bằng cách không gọi bác sĩ khi con ông ta đang hấp hối trên giường sinh. Pearleen Campbell ở dịch vụ tang lễ đã tắm cho thi thể, có một vết tự cắt ở ngay bụng, Pearleen và Teresa cùng là chị em bạn gái với nhau nên Teresa đã được biết chuyện. Nhiều năm trước, Teresa giúp ông già Mahmoud đưa cho Piper một tờ chi phiếu nhiều tiền. Tiếp theo thì anh biết đó, cô ca sĩ đi đến New York, trong khi mẹ cô ta ở nhà thì ăn mặc rách rưới tả tơi. Cô ca sĩ đó là một ả lẳng lơ. Người mẹ chết ngay sau hôm cô ta được an táng, không có vết tích gì trên người bà ta nhưng mùi gas vẫn còn nồng nặc tỏa ra từ tóc bà ta khi bà ấy được mang đến chỗ Ferguson. Teresa đi dự đám tang người mẹ và thấy Frances cười ở đó. Đó là những gì em biết, nên chỉ có Chúa mới biết còn chuyện gì nữa hay không, hay con bé Frances đó đã lớn lên cùng những chuyện gì. Có lý do khiến cho nó bị điên, anh bạn ạ, nhưng không phải vì vậy mà nó thành vô tội."

Lúc đó đã qua bữa tối. Khi ăn Ginger đã thay chiếc áo sơmi hình mặt trời, mặt trăng và sao để đánh dấu việc anh rũ bỏ mọi điều không hay. Bánh bắp dẹt và mật đường, đậu và bít tết Cape Breton - lấy bảy lạng rưỡi xúc xích hun khói; xắt mỏng; giờ thì chiên vàng lên. Một bữa tiệc mừng, dù việc ngừng chở rượu lậu cũng đồng nghĩa với việc thu nhập lại ít đi. Ginger chỉ nhận ra tầm quan trọng của nhà Mahmoud đối với gia đình anh khi Teresa mất việc, Adelaide mất khách, còn anh thì gần như mất hết phần hợp pháp trong công việc lái xe tải của mình. Và giờ đến phần bất hợp pháp của cô bé đó. Mọi chuyện gần đây tệ hơn bình thường đối với tất cả mọi người; nhưng so ra thì nhà Taylor có phần khá hơn. Ít nhất họ có một khoản riêng để dành cho con cái đi học sau này. Họ có thể bắt đầu sống bằng tiền đó.

Bọn trẻ đang ngủ. Teresa vừa đến cùng Hector, người đưa cho Adelaide một ổ bánh mì chà là với nụ cười nhểu nhão nước miếng.

"Cảm ơn, cưng!"

"Chồng em đâu, Addy?" Teresa hỏi.

"Đi New Waterford để nói với Piper chuyện thôi việc."

"Nó nghỉ việc để làm gì?"

"Ngồi đi đã, em sẽ rót trà cho chị."

Tạ ơn Chúa đã cho trà, và cho Teresa để con có người cùng trò chuyện. Hector ngồi trên xe lăn gật gù khi Adelaide kể Teresa nghe toàn bộ câu chuyện về Frances và kết thúc với câu: "Em đã nói anh ấy đừng đến đó, nhưng anh ấy nói thật chẳng ‘đáng mặt đàn ông’ nếu không dám nhìn thẳng vào mắt người ta thông báo mình nghỉ việc sau chừng đó năm." Cô hớp một ngụm trà. "Ít nhất thì bây giờ mọi chuyện đã qua và đã kết thúc."

Teresa không nói một lời.

"Trese?"

"Đúng đó em, con bé đó điên quá, tất cả họ đều dở hơi." Nhưng Teresa hơi xao lãng và cô đứng dậy. "Chị muốn ngắm Carvery một tí trước khi về."

Teresa thích ngắm nhìn Carvery ngủ.Thằng bé giống hệt Ginger lúc nhỏ và khi đó Teresa đã chăm sóc anh. Khi cưới Hector, cô đã mong muốn sinh một đứa con đáng yêu như Ginger. Carvery cũng đã thừa hưởng những nét của bố nó. Say ngủ trong chiếc áo sơmi mặt trời, mặt trăng và sao bé xíu của nó. Cậu nhóc đáng yêu, đáng yêu quá.

"Cô Teresa?" Evan thì thầm.

"Sao nào cháu yêu?"

"Thằng Leary khó ưa lẻn vào phòng giữ đồ và lấy mất cơm trưa của cháu, nó gọi đó là thức ăn da đen."

"Rồi nó làm gì với thức ăn?"

"Nó nói nó quăng đi rồi, nhưng cháu thấy nó ăn hết."

"Nó đói bụng đó."

"Mẹ nói cháu nên lấy cái thùng đập cho nó một trận. Cô nghĩ cháu làm vậy được không?"

"Cô nghĩ nó không có đủ thức ăn để ăn."

"Vậy tại sao nó không xin cháu mà lại gọi cháu bằng những từ bậy bạ chứ?"

"Nó xấu hổ nên nó cố làm cháu xấu hổ."

"Cháu chẳng có gì phải xấu hổ hết. Hay cháu đập cho nó một trận te tua nhé cô?"

"Nếu cháu muốn làm một tín đồ Cơ Đốc thực thụ, thì mỗi ngày hãy bí mật để nửa phần cơm trưa của cháu vào túi nó. Những lúc khác cháu hãy quên nó và tập trung vào việc của mình. Cháu to lớn và khỏe mạnh. Cháu có thể đánh bất kỳ đứa con trai cùng tuổi nào cháu muốn, nhưng khi cháu làm vậy thì trò chơi trong trường sẽ là ‘Ai đánh thắng được Evan’? Rồi những đứa lớn hơn sẽ tìm đến cháu và khi thầy cô đến thì cháu sẽ là người bị phạt. Lớn lên cháu có muốn làm một võ sĩ quyền Anh không?"

"Không ạ, cháu muốn làm bác sĩ thú y cơ."

"Vậy thì hãy quên việc đấm đá và tập trung học hành đi. Cháu sẽ thắng nhiều đứa trong bọn chúng, bởi vì, cháu yêu à, hầu hết bọn chúng sẽ không đi được đâu ngoài lòng đất đâu."

"Hoặc vào nhà máy thép."

"Đúng vậy."

Teresa quay xuống lầu. "Chị đã bảo Evan đừng đánh nhau, nó hỏi chị."

"Tốt lắm, em kêu nó hỏi chị đó." Adelaide tin rằng mọi trẻ em nên có đủ những người lớn yêu thương chúng xung quanh để một người có thể khuyên chúng nên đánh nhau, một người can ngăn chúng và một người khuyên chúng đừng quá lo.

Teresa cùng Hector ra về. Vẫn còn sớm, họ còn chưa chơi bài nữa. Adelaide đứng ngay cánh cửa đang mở và nhìn họ đi về. Nói đến bất cứ chuyện gì dù là một nhánh nhỏ của nhà Mahmoud cũng làm cho Teresa đau khổ. Mình phải làm gì đó thú vị cho Trese mới được. Mình sẽ đan cho chị ấy một cái khăn choàng. Tuy nhiên việc đó hơi khó một chút vì Teresa chỉ luôn muốn cho đi. Chị ấy thấy ngại khi nhận lấy bất cứ thứ gì về mình.

Teresa đẩy Hector xuống con hẻm về nhà để được hoàn toàn yên tĩnh một mình. Cô bị sốc vì đó là Frances Piper. Đứa cháu gái không được công nhận của Mahmoud. Một nữ quái có nét mặt thanh tú cùng những lọn tóc rối bù và những chiếc nhẫn của bà Mahmoud. Bằng cách nào đó nó đã chui vào nhà - nó đủ nhỏ con để làm vậy - và ăn trộm giữa thanh thiên bạch nhật để trả thù. Nó đã lấy đi công việc của mình. Danh dự của mình. Danh dự của em trai mình. Nó lấy đi miếng ăn của gia đình em mình. Và giờ nó đang cố lấy cả em mình.

Giờ Teresa chưa thể nói cho Adelaide nghe chuyện về những món nữ trang được. Nói ra chuyện đó cô bạn gái thân nhất của cô khi chuyện về Ginger đang khiến cô ấy đau đầu ư? Không. Làm vậy sẽ giống như đổ tất cả mọi vị đắng vào một chiếc cốc để bạn thấy mình phải uống nhiều bao nhiêu. Teresa thấy chóng mặt khi nghĩ về chuyện đó, tức giận sẽ làm cô mất lí trí mất - Ôi Chúa ơi, Chúa kính yêu, làm ơn đừng bắt con phải căm thù. Xin Người cai trị những kẻ độc ác và điên rồ để con có thể an tâm chăm sóc gia đình con, amen.

Ngay khi đang cầu nguyện, Teresa cũng nhận ra một điều thật ghê tởm. Đêm hôm nọ cùng với Adelaide trong hẻm, Frances đã nhận ra cô. Vậy nghĩa là nó đang theo dõi mình. Trong suốt thời gian ở nhà Mahmoud mà mình nghĩ chỉ có mình mình. Đứa con gái đã cười trong đám tang của chính mẹ nó. Teresa rùng mình. Và nó cũng theo dõi mình khi mình nhảy và hát bài hát của mẹ.

Tên trộm đáng sợ nhất không phải là tên lấy cắp những thứ tầm thường.

Ginger vẫn chưa về. Đã mười một giờ đêm. Adelaide cứ cố dối lòng mình. "Anh ấy ghé quán Beel để đánh một ván bài, anh ấy thua nhẵn túi nên quyết định chạy một chuyến cuối cho Piper với giá gấp đôi, anh sẽ gọi về ngay thôi." Dẫu vậy cô vẫn rất lo sợ vì cô biết thực sự là "Nó đã có được anh ấy." Sau giai đoạn dối lòng là đến giai đoạn bực tức, "Mình ngu quá, mình là đồ ngốc chẳng biết gì cả, anh ta có thể sắp xếp và qua đêm với con nhỏ da trắng dâm đãng chết tiệt đó," khi cô biết rằng "Nó bệnh hoạn, nó nguy hiểm, giờ nó đang ở cùng anh ấy."

Lúc sáu giờ tối hôm đó, Jameel và Boutros chạy đến chỗ Piper làm rượu lậu trong rừng.

"Tên khốn da đen đến và bảo nghỉ việc rồi," Jameel nói khi đang bước ra bên cửa khách của xe.

James khinh thường những kẻ dùng từ "da đen". Một người văn minh không nên dùng đến những tiếng lóng của nhà chứa khi muốn nhấn mạnh việc gì.

Tất cả những gì James nói trong suốt quá trình chuyền rượu cho Jameel hết thùng lớn đến thùng nhỏ và Jameel lại chuyền tiếp cho Boutros. Boutros lại ném chúng vào sau chiếc Kissel Brougham tám xilanh mới cứng đã bỏ hết ghế và kéo hết màn lên chỉ vỏn vẹn mấy từ, "ở chỗ nó có nhiều lắm."

James nhìn Jameel càng ít càng tốt. Anh tiếc rằng công việc làm ăn của anh lại cần phải liên lạc với loại người này. Chòm râu đen ngắn ngủn tương phản với nước da vàng nhợt nhạt, mái tóc đen bóng loáng và mùi mốc của bánh mì chiên. James khinh bỉ Jameel cứ hết "da đen này" đến "da đen nọ" vì anh thừa biết tên Jameel sợ phát khiếp việc bị coi là người da màu. Đàn ông mà để nỗi sợ hiện rõ ra ngoài là một kẻ ngốc. Hơn nữa, James nghĩ, dù Jameel không đen, nhưng chắc chắn hắn là người da màu, vì rõ ràng là hắn không trắng. James biết ơn vì mấy đứa con gái của anh đều rất đẹp. Nhưng rõ ràng chúng đã thừa hưởng một xu hướng bệnh tật từ mẹ chúng, Materia, cho nên Kathleen mới giống người da màu hơn. James vừa nhận được thêm một thùng sách nữa. Anh đang miệt mài đọc sách của Tiến Sĩ Freud để cố tìm ra nguyên nhân của sự trái khoáy ở trường hợp của Kathleen. Freud gọi phụ nữ là "châu lục đen". James hoàn toàn đồng ý với cách gọi đó. Anh không ghét những người da đen, anh chỉ không muốn họ ở gần dòng dõi huyết thống của anh.

"Ông sẽ phải đi ba đến bốn chuyến đó," James nói khi đang
đếm tiền.

"Này Jimmy, ta nên mua một chiếc xe tải riêng và để một trong mấy thằng con trai tôi lái." James để Jameel gọi anh "Jimmy" vì thà như vậy còn hơn nghe tên "James" thốt ra từ cái miệng đầy mỡ của hắn. Ngoài ra, khi để ai đó gọi bạn không-phải-bằng-tên-thật thì mỗi khi hắn ta gọi bạn lại nhớ đến hắn khốn kiếp
ra sao.

"Tôi không cần có đối tác, Jameel, anh mua đi, tôi sẽ thuê."

Rượu đã chất đầy hết phía sau xe và Boutros đóng cửa thùng xe lại. James nhìn thấy hình bóng Materia ở thằng nhóc đó. Cùng một sự trống rỗng - đứng đó nhìn mình chằm chằm như thể có gì muốn nói, rồi lại thôi. Bởi vì không có gì để nói, đầu nó không hề có một ý nghĩ nào. Chứng ngu dần của gia đình đó, đó lại là chuyện khác.

Boutros nổ máy xe. James leo vào bên cạnh. "Hẹn gặp anh vài tuần nữa nhé, Jimmy."

"Tốt hơn là nên gặp nhau sau một giờ nữa."

"Để làm gì?"

James cúi xuống cửa sổ đang mở bên phía hành khách. "Tôi đã thuê Leo Taylor vì tôi biết tôi có thể tin tưởng được anh ta trong việc mua bán, và trước khi tìm được một người khác đáng tin cậy tôi muốn cá nhân ông phải chịu trách nhiệm."

"Anh nói gì vậy anh bạn? Boutros sẽ làm việc đó."

"Ông sẽ phải đi cùng cậu ta."

"Anh tin một thằng da đen hơn tin con trai tôi, phải vậy không?"

"Đây là chuyện làm ăn, Jameel. Tôi mong sẽ gặp lại ông ở đây sau một tiếng nữa hoặc chấm hết." James đứng thẳng lên khỏi khung
cửa sổ.

Jameel thò đầu ra, "Mẹ kiếp mày Piper, đồ khốn tự cao tự đại chết tiệt, mày có biết mày đang cung cấp gái điếm họ Piper cho quán tao không? Và cả chuyện nó đang ăn nằm với cái đuôi quý báu của mày, Leo Taylor nữa?"

James liếc qua tấm kính chắn gió nhìn Boutros nãy giờ cứ nhìn anh. Jameel cười khẩy. James không thể nào đụng đến hắn khi một tên to lớn đang ngồi ở đó.

"Anh đang nói về ai vậy, Jameel?" anh điềm tĩnh hỏi.

"Frances con gái mày đó," hắn đáp với một nụ cười bạn tốt.

"Tôi không có đứa con gái nào tên như vậy hết."

Trời ạ, hắn bình tĩnh thật.

"Nếu một giờ nữa anh không quay lại đây, Jameel, tôi sẽ coi như chuyện buôn bán của chúng ta đã kết thúc."

Anh quay người và bước thật điềm tĩnh về phía cái lều.

Jameel tức giận, hắn nhô cả đầu lẫn vai ra khỏi cửa sổ, "Ai cũng đều chơi nó hết rồi, anh bạn ạ! Theo tao đoán thì chỉ còn mỗi mày là chưa chơi nó thôi, hay có khi mày chơi nó rồi cũng nên?"

Boutros rồ ga làm đầu của Jameel đập mạnh vào thành xe sơn vàng bên ngoài. "Mẹ kiếp!" Boutros lãnh đủ một loạt cú nhéo đau điếng vào tai nhưng cậu dường như không để ý, cậu đang bận quan sát James đang khuất dần vào trong cái lều qua kính hậu.

Bên trong lều, James uống rượu trở lại sau mười ba năm. Chuyện làm ăn giữa anh và tên Jameel này sẽ kết thúc sau vài giờ tới. Sau đó anh sẽ cầm một khẩu súng trường và đi đến chỗ Leo Taylor để nói chuyện.

"Chậm thôi, mày sẽ khiến cho mấy tay cảnh sát cưỡi ngựa rượt theo cho xem."

Boutros không thèm phản ứng.

"Tao nói chạy chậm lại."

Nhưng Boutros vẫn cứ chạy đều đều bảy mươi cây số trên giờ trên Low Point. Boutros không nói một lời trong ba chuyến chở hàng tiếp theo, việc này khiến Jameel không vui chút nào vì đã quen được nghe "Dạ cha, đúng vậy thưa cha" mỗi khi hắn ngừng nói. Jameel giận dỗi nên ngồi lại trong xe để mình Boutros đi lấy rượu từ Piper, người lúc nào cũng say và câm như hến. Đó là cách một kẻ enklese có được mày, Jameel nghĩ, bằng sự im lặng. Họ dùng sự lạnh lùng như băng, họ thông minh nhưng không giống con người cho lắm. Không có cảm xúc. Nhưng khi chuyện tương tự xảy đến cho Boutros con trai hắn, hắn lại không nghĩ đến "im lặng" mà là "đần độn".

Boutros bình tĩnh được là vì cậu đã quyết định tối nay sẽ hành động. Cậu sẽ lấy tiền mà cậu đáng được nhận từ két sắt của ba cậu, và cậu sẽ đi đón Frances và hai đứa sẽ lái xe đi. Đến bất cứ nơi nào con bé muốn đến. Quên cái nông trại đi, quên mẹ cậu đi, đó chỉ là mơ ước trẻ con, người trưởng thành trong cậu cho biết rằng cậu cần phải nhanh chóng đưa Frances ra khỏi nơi này. Ở đây có rất nhiều gã cần phải bị giết, và kẻ đầu tiên trong số đó là cha ruột của cô ấy. Thứ đàn ông gì lại ruồng bỏ chính con gái mình kia chứ? Frances là một viên kim cương, dù đã trao qua nhiều bàn tay dơ dáy, bẩn thỉu nhưng vẫn không bao giờ bị lu mờ. Những kẻ đã có cô không thể nào để lại tì vết gì bởi giá trị của cô cao hơn bọn chúng rất nhiều. Cứng rắn, vô vọng, bị lãng quên. Những điều này hiện rõ trong giọng nói và trong đôi mắt của cô, cô đang chờ đợi một người thợ mỏ mạnh mẽ và ngoan cường tìm xuống bên dưới đó và kéo cô lên mặt đất nơi mọi giá trị của cô có thể được tỏa sáng.

Ngay trong tối nay Boutros phải đón được cô, trước khi có chuyện gì xảy ra, chuyện gì thì anh vẫn chưa biết. Cậu thấy khó chịu kinh khủng khi nghe cha cậu nói lời cay độc với Piper về chuyện đã ngủ với con gái của ông ta. Boutros biết rằng chuyện đó có thể có thật. Bởi vì Frances dám làm mọi thứ cô ấy muốn ngay dưới mũi cha cô, nên chắc Piper biết cô đã bị hại, và ông ta biết được là vì chính ông ta đã hại cô ấy. Nhưng Boutros biết rằng thứ mà Chúa đã âu yếm tạo ra thì không dễ gì có ai có khả năng hủy hoại. Job đã chứng minh được điều đó. Ác quỷ có thể thử, nhưng hắn sẽ chẳng thành công.

 

Tại sao Adelaide lại tin Ginger khi anh nói anh phải đi nói chuyện rõ ràng giữa đàn ông với nhau với Piper? Bởi vì cô đã quá mệt mỏi việc không tin anh. Khi đã mệt mỏi thì con người ta thỉnh thoảng làm điều mà bình thường họ không làm. Materia chợp mắt ngủ với cái đầu đút vào trong lò nấu. Đó không phải kiểu của Adelaide. Khi đã mệt, cô thôi không gặm nhấm sự thật nữa mà thầm ước chưa bao giờ làm gì đúng đắn. Đây là chuyện xảy ra khi Adelaide ngừng khó khăn trong một giây.

Nếu không quá vội như vậy thì có lẽ cô sẽ chạy ra ngoài và đổ hết bữa tối vào nhà vệ sinh, nhưng cô không có thời gian, nên cô run rẩy bước đến tiệm tạp hóa Beel ở góc đường. "Tối giờ bà có nhìn thấy chồng tôi đâu không ạ?" là một câu hỏi tu từ. Bà Beel đi ngay đến nhà Adelaide để trông chừng lũ trẻ trong lúc cô đi lo giải quyết vấn đề. Wilfrid Beel ở đó với mái đầu bạc trắng rất triết học. Ông đề nghị chở cô đi bất cứ đâu cô cần đi.

"Tôi sẽ báo ông biết sau, Wilf."

Cô đi ra và cuốc bộ đến nhà Teresa.

Đầu đêm hôm đó, Ginger nhìn thấy có ánh sáng dưới gara sau khi đặt Carvery vào trong cũi. Anh ra ngoài và mở hai cánh cửa lên trên cặp đèn pha xe tải sáng rực. Anh đứng yên một lúc, nhất thời không nhìn thấy gì, và rồi nghe thấy tiếng khóc thút thít.

"Xin chào?" anh nói.

Lại tiếng thút thít khe khẽ.

Tiếng đó phát ra từ cabin. Ginger mở cửa tài xế và nhìn thấy một bóng đen ngồi rúc vào cánh cửa còn lại. Một giọng nói khẽ cất lên, "Đừng nói với ai em ở đây."

Cổ họng anh giật lên vì sợ hãi. Là cô. Theo bản năng anh tắt đèn và chúng chậm rãi mất dần ánh sáng.

"Em sợ lắm," cô nói, giọng nghẹn lại sau hai bàn tay ôm lấy mặt.

"Anh sẽ không làm hại em đâu."

Cô nói gì đó anh không hiểu, chỉ vừa đủ nghe và biến âm bởi nỗi buồn.

"Em không ở lại đây được, Frances."

Tiếng khóc lại vang lên - yên lặng, đều đều theo nhịp, không còn đam mê gì nữa. Như tiếng một đứa trẻ thường xuyên khóc cho đến khi ngủ thiếp đi, và tỉnh giấc và giờ không còn khóc thành tiếng nữa vì không còn sức lực gì.

"Chuyện gì vậy?"

Tiếng nấc nhẹ, giọng nói nhão nhẹt và yếu ớt, "...đánh em."

"Cái gì?" anh nói, chân bước lên bậc thang. Cô sợ hãi lùi lại khỏi anh.

 

"Suỵt suỵt, Anh không đánh em đâu, có chuyện gì vậy?"

"Em bị đánh rồi."

"Chuyện gì xảy ra vậy?"

"Em không kể được."

"Em kể được. Nhưng Frances, em không ở đây được, đi vào
nhà nào."

"Không-g-g" Nỗi kinh hoàng mới, những giọt nước mắt mới.

"Làm sao anh giúp em được nếu em không chịu vào nhà?"

"Hãy đưa em đến một nơi an toàn."

"Nơi nào."

"Một nơi mà ông ấy không bắt được em."

"Ai?"

"Cha em."

"Frances. Cha em đánh em hả?"

Không có câu trả lời. Chỉ có tiếng bàn tay lau nước mũi.

"Ông ta đã làm gì?"

Giờ cô nói hơi chín chắn hơn một tí. Dũng cảm. "Em đã khiến ông phát điên lên."

"Nói anh nghe ông ta đã làm gì em."

Giọng cô đanh lại. "Là lỗi của em." - khịt mũi - "Em không ngoan, cha nói đúng. Sao mọi người, sao anh lại phải quan tâm đến em, em là đứa hư đốn trong mắt mọi người."

Ginger tìm được một que diêm trong túi áo. Khi anh đốt diêm lên, cô lùi lại và lấy tay che mặt, "Không!"

Anh nhìn cô, co rúc trong góc, thật quá mong manh. Anh đưa tay ra, nhẹ nhàng kéo một tay ra khỏi mặt cô và, ngay trước khi que diêm tắt ngấm, "Ôi Chúa Ơi." Anh kinh hoàng. Ai có thể làm được một chuyện như vậy chứ?

"Đừng nhìn, em xấu lắm."

"Em không xấu."

 

"Em xấu, anh đi đi."

"Em bị đánh. Anh sẽ giúp em, để anh đi gọi vợ anh."

"Đừng!" Nó rít lên.

Cuộc đời cô phụ thuộc vào chuyện này. "Không ai được biết. Em đến đây tối nay là vì em chỉ có thể tin mỗi anh. Nếu có ai khác biết, nếu ông ấy biết em ở đâu, ông ấy sẽ tìm đến và giết em." Nó hít thở thật sâu. "Nếu anh không muốn giúp em cũng không sao đâu, em hiểu mà, anh đã có đủ rắc rối rồi, dù sao cũng cảm ơn anh." Cửa hành khách lộc cộc mở trong bóng tối.

"Đợi đã, đợi đã -"

Cô ngừng lại, hai chân buông thõng.

"- em cần đi đâu?"

"Cách New Waterford khoảng năm dặm. Không ai biết nơi đó hết, nó là một cái mỏ than cũ. Em đã có tiền và thức ăn rồi. Nếu em có thể ở lại đó vài ngày, ông ấy sẽ nghĩ em đã rời khỏi hòn đảo này. Sau đó em có thể đi nhờ đến bến phà và ra đi một cách an toàn."

"Đi đâu?"

"Chỉ đi thôi."

Anh lưỡng lự.

"Quên chuyện đó đi," cô nói. "Xin lỗi đã quấy rầy, ông Taylor."

"Anh sẽ đưa em đi."

Im lặng.

"Anh nói anh sẽ đưa em đến đó, Frances."

"...Chúa phù hộ cho anh."

"Đợi anh một chút thôi."

 

Boutros bình thản ngồi sau tay lái. Họ đang đi về hướng Sydney, đó là chuyến cuối cùng của đêm hôm đó, mặt trời đã lặn từ rất lâu rồi, một ngày nóng không chịu được. Nếu Frances đồng ý, hai đứa sẽ đi đến tận British Columbia. Anh muốn trồng cây. Cây anh đào. Và nho, để làm rượu. Ý nghĩ về vườn cây ăn quả của riêng cậu, và Frances tự do đi tung tăng giữa những hàng cây có nhiều cành đang cho hoa, cho trái, những giàn nho trĩu nặng - cậu tưởng tượng cảnh nhét gạo và thịt cừu vào lá nho trong vườn của chúng, cậu thích được nấu ăn, nấu bất cứ món gì có thứ này bọc trong thứ kia. Lái xe là một nơi tuyệt vời cho việc mơ tưởng.

Boutros không thích bạo lực. Những việc cậu vẫn làm cho cha cậu chỉ là vì công việc. Hầu hết bao gồm việc đi vào đám nhốn nháo bạo lực của những gã khác và dập tắt chúng, giống như lần tìm cái công tắc trong một cái hầm lộn xộn và tối tăm. Thường cậu phải đánh họ thì mới làm được việc đó. Rất hiếm khi cậu nổi giận. Dù mới hôm qua cậu vừa nổi giận với Taylor trên đường xe lửa xong. Boutros tha cho hắn là vì nghĩ cho bà Taylor. Bà ta là người chăm chỉ và không đáng trở thành một góa phụ. Và Taylor có vẻ đã học được một bài học và đã rút lui.

"Chúa ơi, chạy chậm lại đi, cái thằng ngu!" Jameel đã mất hết dũng khí.

Phía trước họ xuất hiện chiếc xe tải của Leo Taylor. Nó phóng vèo qua họ bên phía gần đất liền của đường Shore. Cú nhá sáng dài một giây của đèn pha đã chụp cho Boutros một hình ảnh mà giờ đang chuyển thành hình trắng đen qua lớp phim trên mắt cậu: Frances đang ngồi trong cabin nhìn thẳng vào cậu, mặt đầy những vết bị đánh đập. Taylor ngồi sau tay lái, cười với cô.

"Mày đang làm cái quái gì thế hả!" Jameel chụp lấy bảng đồng hồ và bị dội lại vào ghế hành khách đau điếng như bị kính đập vào lưng - "Mẹ kiếp!" - và chiếc Kissel lạng ra khỏi cú vòng ngược và đuổi theo chiếc xe tải khiến cho những thùng rượu phía sau xe chao mạnh.

"Leo Taylor bắt được Frances rồi."

Jameel hét to, "Vậy thì mắc quái gì chứ?" và bắt đầu tát Boutros.

Boutros giơ một tay lên để giữ được tầm nhìn, họ đang gần đuổi kịp chiếc xe tải.

"Cô ấy là chị họ của con."

"Nó là một con điếm!"

"Đừng nói về cô ấy như vậy."

Jameel phá lên cười. Boutros run lên.

"Mày kết nó hả nhóc con? Hử? Mày kết con điếm đó? Mày chết mê chết mệt nó à? Ha ha."

Boutros chớp mạnh mắt.

"Giờ mày sắp khóc đúng không, hả đồ khóc nhè?" Nước mắt đã đọng trên mi Boutros. "Ê thằng nhóc yếu ớt, đồ nhóc con hèn nhát, ê, bé trai của mẹ sẽ khóc bây giờ sao, hử? Khóc đi nào, khóc đi -"

Đầu Jameel làm bể tung tấm kính chắn gió, che mất tầm nhìn của Boutros. Cậu ngó ra cửa sổ để nhìn đường vừa đúng lúc để lách ra khỏi đường đi của một chiếc xe chở các nữ tu đang đi đến. Một tay cậu vẫn đang nắm phía sau cổ của cha mình khi chiếc Kissel lao ra khỏi đường, lao qua những con đường mòn và chạy dọc vách đá ở tốc độ tám mươi cây số trên giờ cho đến khi địa hình đột ngột chuyển sang không khí yên lặng. Jameel đã chết trước khi họ va xuống đá
bên dưới.

Các nữ tu quay đầu và rồi chạy ngược lại, để ba người ở lại để kiểm tra tình hình trong khi ba người còn lại chạy về New Waterford để gọi xe cấp cứu. Khi vị nữ tu chơi bóng bầu dục vừa đặt chân xuống mép nước, chỉ thấy có một người đàn ông, cổ ông ta còn nguyên tuy nhiên tình trạng vết thương của ông rất nghiêm trọng. Xác người đàn ông còn lại được tìm thấy vào ngày kế tiếp. Máy trưởng đã không xoay xở để kịp thời dừng đoàn tàu lại, tuy nhiên gã đàn ông to con nằm chắn ngang trên đường ray đã chết từ trước đó rồi.

"Anh vừa mới nói chuyện với Piper xong và đã vòng sang phải về nhà" Ginger nói với Adeline vào khoảng hơn chín giờ.

"Em yêu anh..."

Anh cảm thấy không thoải mái khi nghe cô gọi tên riêng của mình như thế, tuy nhiên anh không nói dối vì mục đích của cá nhân anh, và lúc này đây anh có lý do của riêng mình - để bảo vệ cô gái bị đánh đập đang đợi anh trong xe tải. Mấy ngày nay, cô ấy đang dự định đi khỏi vùng núi đá này, anh lờ mờ cảm thấy mình như đang nói dối vậy.

Đó là một đêm đầy sương mù bao phủ, tuy nhiên Ginger lại nhìn thấy rất rõ Frances trong khi họ cố gắng vượt qua các đống lửa tại nhà máy thép. Máu trào ra từ mũi cô gái, tràn xuống nhân trung và môi trên của cô. Môi cô rách toạc và vẹo sang phía bên trái. Mắt trái của cô sưng húp và bầm đen. Lão Piper đó còn tồi tệ hơn cả một ông bố khắc nghiệt. Điều này đã giải thích cho mọi chuyện.

"Có chuyện gì với anh vậy?" cô hỏi, và trong một vài giây kế tiếp anh không thể bắt kịp câu chuyện cô đang nói đến vì mải tập trung xem các vết thương của cô.

"Tối hôm qua" anh ngập ngừng, "anh không biết phải nói sao nữa". Anh bỗng cảm thấy đỏ bừng mặt. "Anh đã đi theo em về nhà, dọc theo con đường mòn. Vì anh có vài điều muốn hỏi em."

"Điều gì vậy anh?"

"Ừ bây giờ thì anh biết câu trả lời rồi, anh chỉ muốn biết em tại sao em lại cứ quanh quẩn bên anh suốt ngày như thế thôi."

"Bởi vì anh là người đàn ông tử tế duy nhất mà em từng quen biết."

 Ginger cảm thấy xấu hổ. Hiện giờ Sydney đang ở sát ngay đằng sau họ. Anh nhấn ga tăng tốc trên con đường Shore.

"Em xin lỗi vì đã phớt lờ anh trong phòng tranh", cô nói. Sẽ tốt hơn cho Lily nếu nó không biết gì về chuyện này".

"Đó là em gái của em à?"

Anh quay đi. Trời tối, đủ để nuốt chửng đi những vết thương và rọi sáng đôi mắt cô. Cô nhìn anh bằng cái nhìn bình tĩnh và tinh khôn. Đó giống như một lời đề nghị yên bình - anh đừng tiếp tục cố gắng và cũng đừng tiếp tục chiến đấu nữa. Em biết. Em hiểu có một điều gì đó sâu sắc ở phía sau anh. Nhưng dường như cũng không phải. Nó ẩn sâu bên trong con người anh. Hãy để cho em chạm vào nó.

"Lily", anh lẩm bẩm. "Cái tên thật đẹp", anh tự nói với chính mình một cách ngu ngốc. Bao tử anh cồn cào cứ như vừa uống cạn một ly rượu nồng và giờ này đang nó lan tỏa ra khắp cơ thể anh. Anh lắc đầu. "Chúng ta cùng một phe mà, phải vậy không?", anh cười tủm tỉm.

"Anh đang nghĩ gì vậy?"

Giọng cô lớn đến nỗi anh cảm thấy thẹn tuy nhiên anh vẫn giữ được vẻ bình thản. "Ý của anh là hai đứa mình với hai khuôn mặt bầm dập như vầy, thật là một cảnh tượng." Anh quay đầu lại, cười với cô, và cô cũng mỉm cười, khi đó anh nhìn thấy tín hiệu một chiếc xe khác đang muốn vượt qua. Frances để ý ngoài đường hiện lên một luồng sáng do đèn pha của một chiếc xe tải xoáy vào chiếc Kissel.

"Thứ này có thể đi nhanh hơn nữa có được không?" Cô tò mò muốn biết.

 

Tại nhà của Teresa, Hetor khẽ lắc lư người theo nhịp nhạc rock bên cạnh lò sưởi ở gian bếp và lặng lẽ quan sát cuộc trò chuyện. Adelaide đang lo lắng điên cuồng.

"Em phải đến đó thôi, Teresa, con bé đó đã chiếm được anh ấy mất rồi, ôi Chúa ơi!" Cô khom người xuống và ôm lấy bụng.

"Bình tĩnh nào, bây giờ hãy nghe anh nói những việc chúng ta phải làm, Addy. Đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu xem cô ta có ở nhà hay không bởi vì nếu ả vẫn ở nhà thì chúng ta không có gì phải lo lắng cả - Chúng ta sẽ nhờ Wilf Beel chở đi, và bây giờ là những việc chúng ta sẽ phải làm tiếp theo, nghe nhé: Anh sẽ đi đến cửa và nói rằng lão Madmoud đang hấp hối và rất muốn gặp các cháu gái của mình trước khi nhắm mắt, và nếu Piper bảo hãy quên chuyện đó đi, anh sẽ nói với hắn là có thể sẽ có liên quan đến một số của cải trong bản di chúc. Rồi anh sẽ lại bảo rằng Madmoud muốn hết thảy mọi người cùng đến hoặc không ai cả, nhờ đó chúng ta sẽ biết được nếu Frances không có ở nhà - và bây giờ, việc các em phải làm, các cô gái, là ngồi xuống đây.

"Khẩu súng của Hector đâu rồi?"

"Em định làm gì với nó?"

"Đừng có đặt những hỏi ngớ ngẩn nữa và bỏ những ý nghĩ ngu ngốc của em ngay lập tức."

Hector trừng mắt với Adelaide rồi chỉ tay về hướng đầu tủ. Adelaide trèo lên đầu tủ, Teresa đưa tay giữ chặt gối cô lại.

"Chị cảnh cáo em, Trese."

"Addy, đi nhanh lên nào "

Ái da, một chân đạp ngược lại đúng ngay bụng cô. "Ôi trời, em xin lỗi". Adelaide kéo khẩu súng trường trên đầu tủ xuống. "Cảm ơn, anh Hector."

"Khẩu súng đó không còn sử dụng được nữa đâu" Teresa kêu lên, trong lúc vẫn đứng yên trên sàn nhà.

Adelaide bắn thử lên trần nhà, Teresa thét lên.

"Vẫn còn tốt" Adelaide nhảy xuống khỏi tủ, cũng bình tĩnh như mọi người trong tình thế khó khăn này.

Teresa nói nhanh. "Được rồi, Addy, chúng ta sẽ gọi Wilf và nhờ anh ấy lái xe chở tụi mình đi tìm cho đến khi nào tìm được họ mới thôi, không cần phải đến nhà họ đâu, anh nói đúng, ả không có ở đó, ả đang ở cùng với anh ấy, cho nên bây giờ hãy bình tĩnh và lên xe nào.

 

Trong lúc Jameels dỡ lô hàng cuối cùng đi khỏi, Jame đang uống stone - cold. Anh trèo vào chiếc Buick mui trần close-coupled 1932 không một chút tì vết và cho nổ máy xe. Chiếc xe màu nâu vàng. Những tên găng-xtơ thường hay đi xe màu đen. Anh chạy xe với tốc độ trung bình về New Waterford.Anh đã quyết định không tìm một khẩu súng trường. Cách giết người xáp lá cà tốt nhất là dùng lưỡi lê. Súng trường chẳng qua chỉ là dụng cụ hỗ trợ mà thôi, nó chỉ hữu dụng khi nào lưỡi dao bị mắc kẹt vào nòng súng và trong trường hợp đó anh sẽ phải nổ súng tự do. Tuy nhiên một thời gian sau khi bạn đã quen dùng nó, bạn sẽ phải tự biết cách để không gây ra tiếng động. Cả phía dưới lẫn bên trên.

 

"Dừng lại."

Một cành thông cong sà xuống chắn ngang và cạ sát vào xe tải của Ginger. Đây thậm chí còn không thể gọi là đường nữa. Anh tắt máy xe.

"Chúng ta phải đi bộ từ đoạn này rồi." Frances nói. "Nắm tay
em với."

Anh làm theo. Phải vậy thôi, xét cho cùng thì chỉ có cô biết đường đi còn anh thì không và đó là một đêm tối mịt mù. Quả là một bàn tay gầy guộc và mềm mại.

Mercedes đang lau dọn cây piano. Cô vừa lấy hết các bức tượng nhỏ, khăn lót xuống và đang chuẩn bị tra dầu chanh thì cha cô bước vào, "Đưa cho ta chìa khóa của cái rương nào, Mercedes".

Ông nồng nặc mùi rượu. Mercedes cảm thấy bất an.

"Có chuyện gì vậy cha?" Mặc dù hỏi như vậy nhưng cô biết cô chỉ cần đưa cho ông chìa khóa là đủ rồi.

"Đừng lo con yêu, sẽ không lâu đâu."

Ông bước một lúc hai bậc thang một cách từ tốn. Mercedes đóng nắp chai dầu chanh lại, chùi tay và theo ông leo lên căn gác xép phía trên. Ông đang quỳ cạnh những món đựng trong rương bị rơi tung tóe trên sàn.

"Cô-Gái-Nhà-Quê này bị làm sao vậy?" Ông nhẹ nhàng hỏi, trong lúc cầm nó lên tay.

"Con lỡ tay làm hỏng nó trong lúc lau dọn, cha à, con không cố ý làm như vậy đâu ạ."

"Ta sẽ cho con một con búp bê khác, Mercedes." Ông tiếp tục tìm kiếm. "Ta xin lỗi đã làm mọi thứ lộn xộn."

Trixie nhảy xuống từ mép cửa sổ và đụng phải bức tường khi đến bên ngoài. Mercedes cảm thấy lạnh cả người. Giọng của ông rất lạ, chỉ khác với con người bình thường của ông khoảng chừng hai inch, bằng cách nào mà nó lại tăng lên khi ông uống say? Mùi hương này lại làm cô nhớ đến những đau khổ luôn luôn hiện hữu trong mình, trong cả những khoảng thời gian được xem như là tốt đẹp nhất của cô.

Ông tìm thấy thứ mà ông muốn tìm ở sâu dưới đáy rương, "Á". Ông đã chuẩn bị để tìm thấy nó khi cần thiết một cách nhanh chóng, nhưng nó sắc như dao cạo, tuy vậy ông nhớ đã đặt nó bên trong rương vào thời kỳ chiến tranh. Được lắm, ông nghĩ thầm trong lúc mút mấy giọt máu ở đầu ngón tay.

"Cha định đi đâu vậy?"

Ông ấn mạnh đầu cô xuống, trước đây ông chưa bao giờ từng chạm đến cô. "Con phải ở nhà và coi chừng em."

"Mọi người làm gì trên đó vậy?" Lily ở ngay dưới chân cầu thang gác xép.

"Quay trở về giường ngay" Mercedes ra lệnh.

James chạy nước kiệu xuống cầu thang gác xép, với lên gọi Mercedes, "Cha phải đi tìm Frances".

"Không!" Mercedes thét lên.

Lily ngạc nhiên - âm thanh vừa nghe thấy còn quái lạ hơn cả việc cha hôn lên đầu nó với con dao dài đang cầm trong tay. Mercedes nhảy vào ống thông hơi của cầu thang gác xép, dùng lòng bàn tay của mình bám vào thành tường đẩy người tới trước. James tóm lấy cổ tay cô khi cô vừa xuống đến hành lang, ông suýt nữa để rơi lưỡi lê, và bây giờ nó đang nằm ở một góc. Lily không thể rời mắt khỏi nó.

"Cha sẽ không làm gì Frances đâu. Ta chỉ theo dõi cái thằng đang đi cùng với nó, chỉ có vậy thôi." Ông bắt đầu cảm thấy hơi men bốc lên. "Ôi, đứa con gái bé bỏng của tôi..."

Ông ngước nhìn lên phía đầu cầu thang dẫn ở sảnh trước và ông đặt lưỡi lê của mình trên tay vịn. "Ta sẽ quay lại ngay."

Mercedes dùng một cánh tay che mắt Lily lại. Sau đó cô đẩy cha mình xuống dưới cầu thang.

 

Mặt đất dốc đứng. Họ vừa leo lên đỉnh đồi nơi có hầm mỏ cắt vào bên trong ngọn đồi.

"Cần phải trèo lên thôi," Frances nói.

"Anh sẽ đi phía trước," hắn rẽ về phía ngọn đồi và bọn họ bắt đầu.

Cô thở hổn hển và tay cô tuột khỏi tay anh, anh đưa tay tóm lấy ống tay áo đồng phục của cô, "Em có sao không?"

"Không sao.". Cô tăng tốc. "...Ôi"

"Đợi đã." Anh dùng tay nhấc bổng cô lên. Nhẹ tênh như một sợi lông vũ. Cô quàng tay qua cổ anh, và nói với vẻ trịnh trọng: "Cám ơn anh." Anh bế cô lên đồi.

"Kia rồi." Anh nhẹ nhàng đặt cô lên mặt đất trước một khung cửa tối mù mịt.

"Giờ thì ông có thể đi được rồi, thưa ông Taylor."

Anh do dự. Anh không thể bỏ mặc cô gái này tại đây một mình trong đêm tối, anh có nỡ nào làm như vậy hay không?

"Chờ đã, Frances, em không có một cái đèn pin nào à, hay là em có mang theo một cái chăn hoặc thứ gì khác vào đó không?

"Anh đừng lo cho em, em sẽ ổn thôi. Tạm biệt anh nhé."

Cô quay đi, hình bóng cô nhạt dần rồi bị nuốt chửng ở cửa khu hầm mỏ.

"Frances?"

Nhưng cô không đáp lời anh. Anh thu người lại, chồm người xuống dưới chỗ tối đen: "Frances!"

Ngập ngừng. Anh nhảy xuống cái hố.

Anh dùng một bàn tay lần dọc theo bức tường ẩm ướt, tay còn lại duỗi thẳng, anh đi chầm chậm, chầm chậm, lắng nghe từng bước chân của cô, "Frances?" Tại sao anh kêu thật khẽ, và tại sao cô không trả lời? Từng bước, từng bước, từng bước một trên sàn gập ghềnh. Anh rời tay khỏi bức tường và đốt một que diêm lên - không có gì khác ngoài một bên đang được bóng tối bao trùm và phía bên dưới, đôi giày bụi bặm của anh đang nhìn lên một cách đầy tin cậy. Ánh sáng vụt tắt. Từng bước. Từng bước. Bây giờ thì anh dang rộng cả hai tay, tiếp tục bước đi trong chừng hai phút dài dằng dặc. Chân anh vấp phải một hòn đá làm cho nó lăn đi một đoạn, sau đó là ba khoảnh khắc im lặng trước khi có một tiếng đánh sầm chát chúa xuống mặt nước. Âm thanh nghe như ai đó vừa cắt cổ họng Quỷ Sứ - không chỉ là một rãnh nước nhỏ, mà là nước sâu. Tim anh đập mạnh, anh vội chộp lấy vách tường nhưng nó xa hơn anh nghĩ, và bị ném mạnh về phía khoảng trống trước mặt - anh bị trượt chân, và cảm thấy đau rát ở vai. Mặt sàn gần hơn anh tưởng tượng. Anh nằm cuộn lại một lúc cho cơn đau dịu lại. Chỉ có Chúa mới biết được một cái hồ nước nằm trong căn hầm tối tăm này sâu thăm thẳm như thế nào - đầu tiên là chìm sâu xuống dưới nước, kế đó là sự hoảng loạn cùng cực, lịm dần từ dưới lên, đó là những gì bạn phải trải qua khi bị chết chìm cho dù bạn có là một tay bơi cự phách đi chăng nữa.

Anh hít một hơi sâu và hoàn hồn trở lại ngay, vẫn còn tốt hơn là "Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ấy cũng rơi vào đây?" Anh không nghe tiếng quẫy nước, nhưng lúc đó cô rơi xuống quá nhanh, việc này có thể xảy ra trước khi anh bước vào khu mỏ, có nhiều khả năng là như vậy lắm hoặc cũng có thể là - anh đốt que diêm cuối cùng lên, đúng là có một cái hồ lớn, mặt nước đen ngòm. Có thể cô ấy đã nhảy xuống hồ với ý định trầm mình tự sát tối nay. Que diêm tắt. Anh cẩn thận hạ thấp người xuống sàn, duỗi người ra và cho một cánh tay sâu xuống bên dưới mặt nước, trong đầu anh thầm cầu nguyện, tim anh tràn ngập nỗi sợ hãi, cố gắng cảm nhận xung quanh. Lạnh buốt. Chẳng có gì. Có vật gì đó mềm mại. Ôi lạy Chúa Giêsu! Anh lần lượt thét lên như đứng trên xỉ than, giật phắt lên cùng với một vật gì đó thình lình tóm chặt lấy cổ tay anh, dưới mặt nước, đầu và vai ngập sâu, eo, đầu gối bám chặt mép hồ trong lúc anh giữ chặt một cánh tay vô hình bằng cả hai cánh tay mình, kéo cô gái trồi lên cùng với anh và xé toạc bề mặt hồ với một âm thanh mạnh mẽ và đau đớn.

Cô gái không mảnh vải trên người. Anh tìm nách cô và cho cô nằm trên nền đất gồ ghề, cô không trả lời, mắt nhắm nghiền, anh cảm thấy điều đó, anh tìm miệng cô, bóp mạnh miệng, hít một hơi dài - những người chết đuối vẫn thường kéo theo vị cứu tinh của họ cùng chết chìm với mình - luồn một tay đỡ dưới đầu cô và ấn mạnh miệng anh lên miệng cô, mở vết thương ở miệng cô, anh nếm được mùi máu và chính điều này làm anh cảm nhận được sự sống, vẫn còn âm ấm, anh hà hơi vào cô, cô phun nước ra và bắt đầu nức nở.

"Em có sao không, Frances, anh không cố ý làm em đau đâu, bé cưng, đây rồi." Anh muốn cởi áo khoác của mình đắp lên người cô nhưng quần áo của anh ướt sũng nên thay vào đó anh ôm cô trong vòng tay.

"Em xin lỗi," cô khóc nấc lên, "Em xin lỗi," và dựa vào người anh.

"Không sao đâu, không sao mà," Anh vỗ nhẹ lên vai cô.

Một lúc sau cơn run rẩy dịu lại, cô mân mê gáy anh, hôn đôi má anh rồi phớt nhẹ qua tai anh, "Cảm ơn anh", cô tựa đùi mình giữa hai cẳng chân anh rồi bất giác đưa lưỡi lướt qua miệng anh, "em xin lỗi."

"Đã ổn cả rồi em".

"Xin anh đừng bỏ lại em, xin anh đó, em rất sợ bóng đêm", cô tựa sát hơn.

"Không phải anh bỏ rơi em, chỉ là __" anh cảm thấy xấu hổ khi nhận ra điều này thật khó khăn, cho đến giờ anh vẫn chưa biết rằng anh khao khát cô, vẫn không hay biết, "xin lỗi," và anh buông cô ra.

"Rồi sẽ ổn thôi mà," cô thì thầm, hôn lên môi anh, di chuyển sát bên người anh "Ôi...", cô rên lên và đưa mấy ngón tay bấu thật chặt vào vai anh. Anh kéo cô vào sát người thêm nữa tuy không có ý định gì khác, cô lại thở dài và cúi xuống, "sẽ ổn cả thôi mà Bánh Gừng bé nhỏ", giọng cô thật êm ái, cô nhẹ nhàng kéo quần anh xuống. Anh rên lên. Đau khổ và khao khát, bởi vì như vậy cô đang ở trên anh và anh chỉ có thể cựa quậy ở phía bên trong cô mà thôi.

Không được phép nhắc đến tên riêng của Ginger ở đây. Frances biết được tên anh đã là một điều tồi tệ lắm rồi.

 

Khi Mercedes rời tay ra khỏi mắt Lily, Lily nhìn thấy cha đang nằm sóng sượt dưới chân cầu thang. Lưỡi lê cũng đáp xuống một cách an toàn phía trên cách ông sáu nấc thang. Nghĩ lại, Mercedes dự tính khả năng ông không rơi xuống ngay bất kỳ vị trí nào cạnh lưỡi dao là rất cao, xét về vị trí tay ông trên thanh vịn cầu thang và cả khả năng ông có thể trượt lên món vũ khí lúc đang rơi xuống. Hơn nữa, ông đã chỉ ngà say nên cú ngã có vẻ không nguy hiểm. Tuy nhiên Mercedes phải đối mặt với sự thật là chính cô đã chỉ đẩy ông xuống. Rồi sau đó mới tính toán. Cô đã không đọc quyển Dr. Freud. Cô không tìm sự an ủi trong tiềm thức. Cô dám nhận lãnh trách nhiệm. Trong phút chốc cô quyết định chấm dứt sự ăn năn của mình trong mỏ than. Nó đột ngột xuất hiện trong cô khi cô gào khóc. Đúng rồi, cô sẽ thú nhận tội lỗi đã đẩy cha mình. Nhưng bây giờ cô đã hiểu được rằng trên thế gian này chưa từng có việc làm tốt đẹp nào mà không được đồng hành bởi tội ác. Đó là căn nguyên tội lỗi đã giáng xuống chúng ta. Chính vì vậy mà chúng ta mới được gọi là con người. Bản thân hoàn cảnh gây nên lỗi lầm chính là nỗi thống khổ mà con người chúng ta phải gánh chịu.

Chúa Trời không đưa cô đến thế gian này để làm ngơ trong khi đứa em gái Frances của cô sẽ bị giết. Nản chí là một chuyện. Nhận thức sai lầm là một chuyện. Và bị đâm bằng lưỡi lê lại là một chuyện khác. Dám vượt qua. Đủ mạnh mẽ để gánh lấy tội lỗi mình gây ra khi ta phải làm việc cần thiết phải làm. Đó chính là vị thánh trong gia đình này nhưng mình lại không phải là người như thế.

Chúa trời đã tạo ra Mercedes để trở thành một vị quan tòa. Không ai yêu mến bạn vì lẽ đó. Không giống như đứa trẻ tật nguyền vẫn hằng ảo tưởng. Người mà Mercedes yêu thương. Không giống như người phụ nữ vẫn tận tụy giúp vui cho mọi người. Người mà Mercedes quý trọng.

Mercedes đang đứng như trời trồng, nhìn chằm chằm vào James. Những người có đôi mắt nâu thường mang lại sự ôn hòa đến khắp mọi nơi. Và ấm áp. Hãy ngẫm lại mà xem.

Lily cẩn thận đi xuống cầu thang bằng chân trần, cả hai tay vịn lấy thanh tay cầm. Nó cúi người xuống chỗ James. Một hàng nước bọt trào ra từ khóe miệng ông. Nó vuốt tóc ông và hôn lên má ông. Hai hàng mi ông khẽ run lên. Cô ngước lên nhìn Mercedes và nói: "Cha vẫn chưa chết."

"Tốt rồi. Bây giờ thì đi ngủ đi."

 

Nằm cuộn tròn trong cái rương vừa được James mở ra, Trixie nghe tiếng Frances gọi tên mình và trườn ra ngoài, bước se sẽ xuống cầu thang, băng qua hành lang và đi vào căn phòng của Frances dùng chung với Lily. Nhưng Frances không có trong đó. Chỉ có mình Lily đang quỳ ngay cạnh cửa sổ, tay chống vào khung cửa nhìn ra ngoài. Trong khi Trixie vừa chạm vào lòng bàn chân của Lily thì Mercedes đi vùn vụt băng qua phòng ngủ, lưỡi lê lóe sáng lên trong tay cô. Phía bên trên ngay trong bóng tối của căn gác mái, Mercedes vội vã dồn mọi thứ vào bên trong rương rồi đậy nắp rương lại để tránh cho chúng bị ẩm ướt và tránh bướm đêm.

 

Frances mở choàng mắt ra. Cô vừa có một giấc mơ về Trixie. Frances gọi mãi gọi mãi nhưng Trixie đã bị nhốt trong một cái rương và ngạt thở dần. Nó chỉ là một giấc mơ. Không được cử động. Không được đánh thức anh chàng đang mê mệt này của mình.

Frances không muốn đứng dậy và đánh mất đi cảm giác tuyệt diệu phía bên dưới chân mình. Và cô sẽ phải đứng lên khi anh tỉnh dậy bởi vì anh sẽ làm ầm lên để rời khỏi nơi này, tự hỏi không biết anh đã làm điều quái quỷ gì, và nếu anh bỏ đi, cô sẽ phải bám theo anh, vì cơn đau của cô không có ý định đi bộ năm dặm để trở về nhà. Những gì cô hy vọng không phải là tình trạng nhạy cảm của chính mình. Cô sẽ nằm yên như thế thêm một vài giờ đồng hồ nữa.

 

"Ngọ ngoạy ngón chân nào."

James lầm bầm và đưa đầu ra. Mercedes đổ thêm nhiều nước đá nữa lên mặt ông và ông giật ngược trở lại theo phản xạ.

"Tốt rồi," cô nói. Cô vòng ra phía sau ông, quàng hai tay qua nách ông, kéo ông lên ngồi trên ghế.

"Giúp chị với", cô ra lệnh. Ông khuỵu gối xuống. Cô đỡ ông đứng dậy, sau đó lôi mạnh ông như kéo một khúc cây vào tiền sảnh, rồi ông ngả xuống tràng kỷ và tiếp tục mê man. Cô khoanh tay nhìn ông một lát, sau đó cô chạy ra ngoài và quay lại với một cái mền. Cô trải nó lên người ông.

Đều đều hiện về trong tâm trí cô là những mảnh ký ức mà cô và Frances không thể chứng kiến cùng một lúc. Cô đã lưu giữ ký ức này ở phía trên hàng tá những sự kiện còn đọng lại trong tâm trí của mình. Không thể chôn vùi. Ngay chỗ kia là nơi mà cô sẽ lại phải nhìn thấy nó mỗi khi đi ngang qua cánh cửa đang mở. Nhưng khi cất nó vào căn phòng phía sau nhà, cô vẫn có thể tin rằng nó thuộc về một trong những thứ lặt vặt cũ kỹ. Miễn là cô đừng nhắc đến nó, nó cũng sẽ không bị chú ý đến bởi những tay nghiệp dư và cả những chuyên gia theo cùng một cách thức tương tự theo kiểu: một cái khung sơn son thiếp vàng phủ đầy bụi, một bức họa bị quên lãng - ai mà có thể nghĩ ra nổi tại đây ẩn giấu cả một kiệt tác bên trong.

Nhưng nó vừa chuyển mình. Nó đang tự giằng co để thoát ra khỏi cái khung ảnh, và giờ đây nó đang đến gần hơn, gần hơn nữa - dừng lại đi. Quá xa như vậy đã đủ lắm rồi.

Mercedes mở nắp chai dầu chanh và nhặt miếng giẻ lau bụi lên. Nếu cô cứ phải nhìn thấy những thứ đã hiện ra trước mắt cô, cô cần phải cầm một thứ gì đó trong tay.

Nó ở đây ngay trong phòng khách này. Bức tranh được nhặt ra từ đống lặt vặt mang tên "Cha và Frances trên Chiếc-ghế-bập-bênh". Nhưng ở đây chưa từng hiện hữu chiếc ghế bập bênh nào cả, cả phòng này hay những phòng khác cũng vậy. Chỉ có mỗi chiếc ghế tựa màu xanh nhạt. Mercedes dùng miếng giẻ trắng lau đi lau lại, mang đến một vẻ sáng bóng cho cây đàn piano bằng gỗ dụ.

 

Đó là vào cái đêm Kathleen mất. Tôi bị đánh thức khi Frances bước ra khỏi giường. Bạn có thể nhìn thấy dấu chân của con bé in trên tấm trải giường và cái gối trắng như tuyết. Tôi nhìn ra ngoài con sông nhưng con bé cũng không có ở đó. Tốt. Có thể nó đã xuống dưới nhà tìm thức ăn. Đến giờ có lẽ con bé đã đói lắm rồi, đến bây giờ nó vẫn chưa có gì bỏ bụng, chỉ ăn trong tưởng tượng suốt hai ngày nay. Mình cũng sẽ đi xuống đó, và làm món bánh mì quế. Tôi hình dung ra cảnh mình và Frances cùng ăn bánh mì quế và uống Coca ở bàn ăn trong nhà bếp, nhưng tôi chưa mặc áo khoác hoặc mang dép, đó là nguyên cớ vì sao tôi biết tôi không chắc chắn lắm về món bánh mì quế. Có chuyện gì đó tồi tệ đang xảy ra khi Frances rời khỏi giường. Tôi không sợ bóng tối. Tôi có hai bím tóc dài tết theo kiểu Pháp. Trong khi đang đi xuống cầu thang, tôi nghe một âm thanh giống hệt như tiếng kêu của một chú chó con. Tôi bước xuống cầu thang, đi theo hướng có đèn đến hành lang bên phải trước nhà. Phía bên trái là gian bếp tối om và một cái mùi nghe cứ như mùi nội tạng của một ai đó. Trong phòng khách có một cái đèn đọc sách đang được bật sáng, ánh đèn màu vàng, chụp đèn có nếp gấp đứng đằng sau chiếc ghế tựa. Tôi bước đến lối đi. Tôi đã đúng, chính là cái đèn đọc sách. Frances ở đó và đang nhìn tôi. Tôi tự hỏi không biết nó đã chờ tôi ở đó bao lâu rồi. Khi đó mái tóc vàng của nó xoăn tít và không có nếp nhăn. Nó đang ngồi trên đùi cha, nghiêng nghiêng, đối diện với tôi. Đong đưa. Cha đang đong đưa dỗ dành cho nó ngủ. Nhưng vô ích, nó vẫn còn thức. Cha không nhìn thấy tôi vì ông vẫn đang nhìn mái tóc của nó. Miệng cha khẽ hé ra, có dạng trăng khuyết ngược. Gương mặt cha trông cứ như ông đang bị sóng biển kéo giật lùi về sau, đầu rướn về phía trước để tránh bị nhận chìm. Tay phải cha thả lỏng, hầu như không chạm đến mái tóc vàng tơ của Frances lúc nó trở mình trên cái gối, và tay trái xoa lên xoa xuống áo ngủ của nó cứ như một con rối. Cha nói gì đó tôi không nghe rõ, sau đó thở dài, rồi lại "con gái bé bỏng của tôi", và nhai đi nhai lại từ "xinh đẹp", rồi ông lại đẩy nó xuống kẹp vào giữa hai chân và dùng một tay chặn trên ngực nó, tay còn lại vẫn còn ở dưới, hai cha con lúc này cùng hướng về một phía nhưng Frances quay mặt lại cố giữ liên lạc với tôi bằng mắt. Đầu cha giật ngược lại và ông lại dùng hai chân kẹp nó lại lần nữa, một lần nữa, ba lần và một nửa, cho đến khi cha run lên dữ dội. Đó là khi nỗi sợ hãi rời bỏ ông và ông làu nhàu gì đó với nó rồi nức nở trên mái tóc của nó. Frances và tôi nhìn nhau cho đến khi cha thiếp đi như thế, rồi sau đó nó trườn ra khỏi tay cha và đi đến chỗ tôi. "Không đau chút nào đâu," nó nói. Rồi tôi chợt nhìn thấy một phần da thịt của cha xuyên qua lỗ thủng nhỏ trên chiếc quần của ông. Tôi lấy chiếc khăn quàng cổ được móc bằng tay trên tràng kỷ và tôi đặt nó lên người ông mà không dám quay nhìn lại, thật khiếm nhã khi nhìn chằm chằm như vậy. Có tiếng kêu xèo xèo từ gian bếp. Tôi không thích mùi nấu bầu dục. "Em cũng không thích" Frances nói. Chúng tôi quay trở lên trên lầu và tôi cất giọng hát ru đến khi tôi cũng ngủ thiếp đi. Ngày kế tiếp, Frances mút bột rồi đến mẹ qua đời trong gian nhà bếp.

Đàn piano bóng loáng như một cái gương nhưng Mercedes không nhìn vào hình bóng mình trong gương, cô đang nhìn trân trân vào cha đang mê man dưới cái chăn.

"Mercedes?"

"Em đang làm gì vậy Lily?"

"Frances có ở nhà không?"

"Không có."

"Dạo này chị có gì lo lắng à?"

"Ừ."

"Em biết chị ấy ở đâu rồi. Ambrose đã kể cho em nghe."

Lily không thể cho Mercedes biết bằng cách nào mà nó biết được nơi mà Frances đã đến những lúc không về nhà. Bởi vì như vậy nghĩa là nó đang ba hoa chuyện của nó với Frances về việc nó sợ đến tè ra quần vào cái ngày chúng đến khu mỏ cũ kiểu Pháp khi mà hai đứa vẫn còn là Chim Non và Thanh Nữ. Đó cũng có nghĩa là nó sẽ để lộ ra chính Frances là người đã kể cho Lily về Ambrose tại nơi chốn đầu tiên, cả nơi ở của thằng bé hiện giờ, và cả việc thằng bé đã làm những gì vào ban đêm. Nếu Mercedes khám phá ra chuyện đó, nó sẽ bắt đầu đối xử với Frances như thể một nhân vật vô cùng đặc biệt đối với Chúa trời. Frances không phải như vậy. Nó có thể chạy trốn. Hay tồi tệ hơn, nếu Mercedes biết được Ambrose chính là món quà từ Frances, cô có thể nghĩ rằng Ambrose chính là tội lỗi.

Mercedes biết Frances hư hỏng, nhưng cô vẫn yêu quý Frances, bởi vì thật khó để mà trở thành một đứa con ngoan trong gia đình, và lại càng khó hơn nữa khi vẫn cứ mãi là một đứa con hư hỏng. Lily hiểu điều đó. Còn có ai trên thế giới này mà Lily yêu quý hơn Frances? Thậm chí không phải là cha. Còn có ai trên cõi đời này mà nó sợ hơn Mercedes, người mà ly ca cao của chị ấy đã được rót đầy gấp hai mươi lần ly ca cao dành cho Lily trong buổi sinh mười bốn tuổi của nó, khi mà chuyến đi của họ đến Lourdes cùng với một đám người đặc biệt khác đến để tắm tại con sông của chị em chúng ta và để lại mọi thứ đặc biệt của họ tại dòng sông này mãi mãi? Lily tự hứa với lòng mình, với cái chân nhỏ bé của nó, rằng - điều thứ nhất - nó sẽ không bao giờ để cho nó bị cắt bỏ. Và - điều thứ hai - nó sẽ không bao giờ để nó biến mất ngay cả với bất kỳ phép màu nào. Cái suy nghĩ phản bội lại một phần thân thể kiên cường của mình, phần thân thể lúc nào cũng gắn kết và đồng hành cùng sải bước ngay cả khi nó bị tàn phế. Có thể nói rằng, đây chính là phần thưởng của bạn: không ngừng trở thành - trở thành, thay vì, một cặp song sinh giả tạo cho một cái chân lành lặn. Cái chân hỏng của nó trở nên đặc biệt bởi vì nó quá mạnh mẽ. Tuy nhiên, Lily cũng hiểu rằng đối với những người khác thì nó đặc biệt chỉ vì nó yếu. Không một ai, kể cả các chị em trong gia đình này, lại để mặc cho họ vẩy nước thánh lên đôi chân nhỏ bé của nó.

Mình không thể cho Mercedes biết sự thật về Ambrose, Lily nghĩ thầm. Mercedes yêu quý mình vì mình đặc biệt với Đức Chúa Trời. Nếu chị ấy nghĩ mình rất gần với Quỷ sứ, mình có lẽ sẽ bỏ chạy mất thôi. Mình có thể nhìn thấy điều đó từ cái móng tay bị gãy của Mercedes cách mà cha đã bị thương ở ngay dưới chân cầu thang.

"Ở đâu?" gương mặt Mercedes không biểu hiện chút gì cảm xúc.

Lily ngước nhìn Mercedes và nhìn thấy vết sưng trên thấp thoáng hiện ra trên trán của cô. "Ambrose bảo là đừng có lo lắng. Chị ấy đang đi với một gã không tệ chút nào đâu."

Công bằng mà nói Lily chắc chắn rằng ít ra phần sau đúng với sự thật. Hôm nay cha đang đi làm, Mercedes đã xin nghỉ phép để lau dọn phòng cầu nguyện ở nhà thờ Mount Carmel và Lily đang viết nhật ký trong phòng riêng của nó - "Nhật ký thân yêu, cho phép chị tự giới thiệu nhé" - khi Frances chạy xuống khỏi gác xép và băng ngang qua cánh cửa phòng ngủ, Lily thoáng thấy cô và gào lên, "Frances!"

Nhưng Frances vẫn lọc cọc chạy xuống cầu thang tiền sảnh, năm bước cuối cùng nó phóng nhanh, nhảy mạnh xuống sàn và phóng cái vèo qua cửa. Lily chạy xuống cầu thang một cách nhanh nhất mà nó dám chạy, "Frances, có chuyện gì vậy?", nó suýt trượt ngã và phải bám lấy thành cầu thang. "Frances!", Lily thét lên.

"Frances!", cô chế giễu, kéo mạnh cửa và ngẩng lên cười toe toét với Lily, nửa gương mặt bên trái đẫm máu, chiếc khăn quàng cổ cũng ướt sũng. Nước mắt Lily rơi lã chã nhưng Frances đã cho Lily biết sự thật, "Đừng có lo, Lily, không phải máu thật đâu."

Và cô bỏ đi.

Lily quay trở lên gác xép nhưng ở đó chỉ có một cái thùng than đá rỗng. Nó chạm vào mép thùng và trên ngón tay bỗng xuất hiện màu đỏ. Nó nếm thử. Muối và sắt. Cô rửa thùng than trong phòng tắm và mang trả nó về hầm rượu.

Lily không thể kể với Mercedes là Frances đã tự đánh mình. Mercedes có thể sẽ nghĩ rằng Frances đang mất trí. Đó có thể là nguyên cớ của sự đặc biệt của nó với Đức Chúa Trời.

"Mặc áo vào đi, Lily."

 

Trước đây Mercedes chưa từng cầm lái. James luôn đỗ xe ở thì thứ hai nên luôn phải giữ thì thứ hai trên suốt cả đoạn đường, Mercedes ghìm chặt tay lái và chạy băng băng vào trong bóng đêm.

"Gương mặt chị ấy vừa bị đánh, nhưng không phải do người đàn ông kia làm"

"Chị biết, Lily."

Lily liếc ngang qua Mercedes và nói một cách thận trọng: "Em đã nhìn thấy nó xảy ra như thế nào nè"

Mercedes nhìn lại: "Vậy hắn có thấy em chứng kiến chuyện đó không?"

"Em không nghĩ vậy đâu"

"Đừng có lo, Lily, hắn sẽ không bao giờ đụng đến con bé nữa đâu" - Lily suýt nữa buộc miệng nói, "Không phải cha làm đâu", nhưng nó đã kịp thời dừng lại. Sương mù ngưng đọng và họ đang ở giữa một khoảng trống êm ái - có vẻ như là họ đã không hề di chuyển về phía trước, và cái xe giống như đang lắc lư qua lại tại chỗ. Mercedes lại nhìn bâng quơ về hướng kính chắn gió. "Mình sẽ không để cho
hắn ta..."

Họ lặng lẽ di chuyển trong bóng tối một lúc. Bạn có thể chỉ ra mép đường ở đâu bằng cách nhìn ra cửa sổ cho đến khi bạn thấy một rặng thông chạy qua. Lily không thể hoàn thành nhiệm vụ này cho đến khi có một vật gì đó lạnh lẽo đặt xuống bàn tay kia của cô.

"Hãy cùng chị cầu nguyện cho cha nào, Lily." Và Mercedes nắm chặt tay Lily.

"Hãy cầu xin Chúa tha thứ cho cha."

"Bởi vì cha không biết ông đã làm những gì..." Lily nói.

"Hãy cầu nguyện một thập kỷ cho chuỗi tràng hạt nào."

"Chị có mang chuỗi tràng hạt theo không?"

"Chúng ta không có chuỗi tràng hạt, chúng ta có niềm tin."

Nhưng Mercedes cần phải có gì đó để đếm, vì thế cô đếm những nấc nhỏ trên cái vô lăng gỗ, mỗi nấc là một lời khấn nguyện, cho phép chúng lần giữa các ngón tay cô. Một nấc. Từng nấc. Từng nấc một.

Khi mà tay trái của Mercedes lần ba vòng trên cái vô lăng, tay phải của cô cảm thấy hơi ấm từ tay của Lily, cả hai đều lạnh lẽo.

Lưng của họ càng lúc càng đè nặng lên ghế tựa phía sau cho thấy con đường đang dốc lên. Từng gợn sương mù vuốt ve chiếc xe, và bỏ mặc nó cùng với thời gian, không gian và bóng đêm.

"Vẻ vang thay cho người cha, và Con Trai, và cho những Linh Hồn, vì chỉ mới bắt đầu, bây giờ và cũng có thể sẽ là__"

"Quẹo ở đây."

"Đó đâu phải là đường, Lily."

"Em biết."

Họ lảo đảo và gầm thét vượt qua những nhánh cây đang gào thét cho đến khi đuôi của một chiếc xe tải xuất hiện trong ánh đèn pha của họ. Mercedes cảm thấy mắt và bụng của cô ướt đẫm. Cô đọc dòng chữ in trên đó "Vận tải Leo Taylor".

"Anh ta không phải là người xấu đâu Mercedes."

Ánh sáng chiếu trên chiếc xe tải mờ dần. Họ ra khỏi xe. Mercedes đã mang theo một cái đèn dùng trong hầm mỏ của cha. Cô bật nó lên.

Lily cảm thấy thật tội lỗi khi để cho Mercedes nghĩ rằng cha đã đánh Frances. Nhưng ngày xưa ông đã từng làm như vậy. Những sự thật không nghi ngờ trong quá khứ vẫn có thể được nhắc lại và không hề tàn lụi theo thời gian. Đó là vòng đời, có thể nói như vậy. Mặc dù Lily biết rằng người đàn ông ở cùng với Frances trong hầm mỏ đã không hành hạ chị nó, nó không mảy may lo lắng về điều đó. Trong các bộ phim, khi một cô gái để ý đến một anh chàng nào đó cô nàng sẽ trang điểm cẩn thận, nhấn lại phần mũi và tô điểm thêm một tí son. Nhưng anh ta là loại đàn ông nào mà đến mức độ một cô gái để làm cho mình quyến rũ hơn phải tự đấm mạnh vào mặt mình chứ?

Lily và Mercedes đi từ từ, dọn dẹp đường băng qua những thân cây, ghìm chặt lại cho người sau đi qua. Lily căng thẳng khi phải chỉ ra dấu vết của Mercedes đã đánh dấu vào một ngày tháng Mười Một khoảng ba năm về trước. Cô không chỉ những dấu vết đó ra cho Mercedes thấy. Vì suy cho cùng, bạn không thể để ý thấy những dấu vết đó trừ khi bạn đã được biết trước là chúng hiện diện ở đó. Frances khắc lên mỗi thân cây bằng cái kéo làm bếp. Cây kéo chẳng bao giờ thay đổi trong lịch sử cổ đại. Người Ai Cập cũng đã từng dùng kéo, màu mắt, nữ trang và cả thú cưng như mèo cũng hệt như chúng ta đang sử dụng, trong một quyển sách mạ vàng lộng lẫy mà Lily được Bố tặng vào dịp Giáng Sinh, quyển Bí Mật Của Vua Tút. Tuy nhiên họ vẫn chưa có vô lăng xe.

"Chị có nghĩ là người Ai Cập đã có vô lăng xe không, Mercedes?"

"Chị chắc rằng chị chưa từng biết hoặc cũng chưa bao giờ quá bận tâm về điều đó."

"Em nghĩ họ có sử dụng nhưng nó quá linh thiêng nên họ không vẽ nó ra. Hoặc giả là họ muốn giữ cho nó thành bí mật của riêng họ."

Mercedes dừng lại. "Còn bao xa nữa?"

"Chúng ta đã đi được khoảng phân nửa đường rồi." Họ vừa mới đi qua khỏi cây có đánh dấu "R" - chữ thứ tư trong tổng số cả thảy bảy chữ, mỗi chữ được đánh dấu cách nhau bảy cây.

"Suy cho cùng thì," Lily tiếp tục, "họ thờ phụng mặt trời và mặt trời thì tròn.". Lily đếm bảy cây và sau đó lại dừng lại.

Mercedes hướng ánh đèn lên một cái rãnh ở vỏ cây nơi mà Lily đang nhìn.

"Em đang nhìn gì vậy?"

"O" Lily đọc. Sau đó quay sang Mercedes. "Chúng ta sắp đến rồi."

Mercedes biết chắc rằng em cô đã được hướng dẫn trước. Cô nhìn vào mắt Lily, và Lily cảm thấy lưng cô bỗng trở thành một quyển sách được mở ra từ giữa sống lưng, vào một hành lang tối đen và dài vô tận tràn ngập những điều mà Mercedes khẩn cầu. Đây là cái nhìn của sự Tôn Kính. Cũng như cái nhìn của Lòng Trắc Ẩn, thật đáng sợ. Nhưng Lily đã học được cách để vẫn cứ là Lily khi phải đối diện với một cái nhìn như thế. Chị ấy giữ đôi mắt của mình theo cái cách mà bạn có thể khoanh tay khi đối diện với một ai đó đang gặp nguy hiểm như ngã xuống từ trên cao chẳng hạn: đứng yên lặng, điềm tĩnh . Con người hèn nhát này từ việc tự mình nhảy xuống và cả việc tự giết mình, vì một lẽ rằng họ chỉ muốn biết có thể có một ai đó ở bên dưới đang chờ đợi để đón lấy họ hay không. Cái cách mà Lily nhìn khi mà đôi mắt của nó điềm tĩnh theo kiểu này chính là cái nhìn của Lòng Trắc Ẩn và sự Tôn Kính, có thể được gọi là "ban phúc lành."

"Em có mệt không Lily?" Mercedes hỏi nhỏ, và để cho lưng của Lily tựa sát vào.

"Em không sao. Chúng ta sắp đến rồi."

Và họ tiếp tục đi. "S." Và cuối cùng là "E."

"Trên kia." Lily chỉ.

Mercedes rọi ngọn đèn đến chỗ mặt dốc đột ngột của ngọn đồi. "Tốt hơn em nên chờ ở đây, Lily."

"Không. Em nên đi."

Họ nắm tay và đi ngang qua ngọn đồi. Không như Frances, Mercedes thường để tâm đến các nhóm Hướng Đạo và đã học được cách để trèo lên một ngọn đồi dốc mà không bị té, và cách lội ngược dòng an toàn.

Mercedes biết rằng Frances không xa lạ gì bọn đàn ông, cô chỉ tự hỏi tại sao Frances có thể tránh thai trong một thời gian dài. Nhưng đêm nay thì khác. Để cha phải giận dữ, thì phải làm như vậy. "Khác nhau như thế nào ? " Mercedes tự hỏi, miễn là James vẫn còn nằm sóng xoài dưới chân cầu thang. Cô nảy ra nghi vấn và dần dần tìm ra câu trả lời. Chính Lily đã nói rằng Frances không đi với một "gã tồi" đã gợi ý cho Mercedes. Chắc hẳn rằng Frances đang yêu. Lên kế hoạch chạy trốn với một người đàn ông, cho dù hắn ta có là ai đi chăng nữa. Nhưng tại sao lại phải chạy trốn ? Chắc chắn phải có trở ngại nào đó. Người đàn ông đó chắc hẳn đã lập gia đình rồi.

Như vậy mới là Frances, chạy trốn với một người đàn ông không bị ràng buộc và anh ta sẽ chăm sóc cho nó ? Một người nào đó, bất kể là đàn ông hay phụ nữ có thể chịu đựng Frances được trong bao lâu? Ai mà có thể yêu thương Frances ngoài Mercedes? Frances và người tình của nó sẽ sống ở đâu khi mà hắn ta đã có được mọi thứ? Hàng trăm, có lẽ sẽ là cách đây hàng ngàn dặm, cũng có thể ở một đất nước xa xôi nào khác? Frances cạn kiệt, không tiền cũng không có tình yêu, sẽ chết ở một nơi tha hương nào đó. Mercedes không thể chịu đựng ý nghĩ này. Điều này như đốt cháy cổ họng và sát muối vào mắt cô. Frances yêu quý. Frances bé bỏng, cô đơn, sẽ chết dần chết mòn mà không có ai ở đó để yêu thương nó vì chẳng có ai nhớ đến nó cả.

Mercedes đi lên ngọn đồi, họ gần như đã đến nơi. "Nhanh lên, Lily." Cảm ơn Chúa Trời, cảm ơn chúa Giêsu, Mery và Joseph và tất cả các vị Thánh Thần, vì đã ban cho Lily khả năng tuyệt diệu này. Nếu linh cảm của Lily là đúng, và ngăn chặn Frances chạy trốn, đó sẽ là một kỳ tích thật sự. Vẫn còn đủ thời gian để đi gặp Tổng Giám Mục khi Frances an toàn trở về nhà.

Ngọn đèn cũ rọi sáng mép vòm - một rãnh nứt dài trên mặt đất, một cành cỏ dại, một vệt đá vôi và bên trong là bức tường mục rỗng. Những tác phẩm điêu khắc sẽ chẳng bao giờ tồn tại nổi ở một cái nơi như thế này, quá ẩm ướt.

Mercedes khẽ gọi: "Frances."

Lily thì thầm, "Đường hầm có một khúc quanh, rồi đến một cái hồ sâu."

Cầu xin Chúa, xin người hãy cho đó là một người đàn ông tốt.

Họ đi vào.

"Frances"

Frances nhất định sẽ chạy trốn, Mercedes nghĩ, vì thế cô thật từ từ, chầm chậm, hướng ngọn đèn từ nơi này đến nơi khác, kiểm tra mọi ngóc ngách và mọi vết nứt. Lily vẫn nhìn xuống dưới chân, chờ đợi sự sợ hãi kéo đến khi Mercedes nhìn vào khu mỏ chết chóc, cái xác người lính. Nhưng nó đã không đến. Với quá nhiều sự khác biệt so với những gì nó nghĩ, Lily nghi ngờ, liệu khi đó chỉ là một giấc mơ hay không? Nó đã xảy ra thật sao? Liệu đó có phải là mình hay không?

Hành lang bắt đầu chuyển hướng sang phải.

Frances đã nghe thấy tên mình và đẩy Ginger đi khỏi đó. Anh thức dậy, lạnh người vì xấu hổ, và tràn ngập hối hận.

"Im lặng," Frances kêu. "Có ai đó đang đến."

Cô mò tìm xung quanh tảng đá nơi cô đã giấu bộ đồng phục.

"Ngồi yên ở đây, Frances, anh sẽ ra xem đó là ai."

"Đó là chị của em và có trời mới biết được còn có người nào khác," nó vội vã mặc quần áo vào.

Anh vô cùng bối rối. Ngay cả nước trong hồ còn chưa lạnh như thế này.

"Frances, anh không có ý lợi dụng em."

Cô cười trong lúc kéo mạnh đôi giày.

Lần này cả hai đều nghe tiếng gọi cô.

"Ôi lạy Chúa". Anh cảm thấy tỉnh táo và cài cúc áo vào. Anh nghe tiếng bước chân nó bắt đầu bước đi. Ginger chạy vụt ra và bắt lấy cánh tay cô, thật mỏng manh.

"Ôi". Cô dằn ra nhưng anh không để cho cô đi.

"Em sẽ đi đâu?"

"Về nhà."

"Em làm sao vậy, cô bé?"

"Bỏ tay ra khỏi người em."

"Anh xin lỗi đã chạm vào em, nếu anh mang lại phiền phức cho em, và nếu anh đã làm em tổn thương__"

Cô cười. Anh để cho cô đi khỏi đó.

"Xem kìa"- cô kêu lên -" Hãy quên chuyện này đi. Cả hai chúng ta đều đã có được điều mình muốn rồi."

"Em muốn anh giúp em."

"Anh đã làm, cảm ơn anh. Nếu chuyện đó không thành công thì có lẽ em đã sinh con, bởi vì rõ ràng anh không thể."

Khi anh bắt được cô lần nữa, anh kẹp khuỷu tay cô về phía xương sườn. "Nhưng vậy là ý gì?" Anh bị sốc vì chính cơn giận của mình.

"Bình tĩnh nào, anh bạn, em sẽ không cần thứ gì khác từ anh. Và em sẽ không kể cho bất kỳ người nào khác nếu anh không muốn."

Nhưng anh không để cho cô đi. Hơi thở nóng hổi của anh phả thẳng vào mặt cô. Anh cảm thấy mình có thể xé cô ra làm hai mảnh ngay lập tức, như vậy đó, và điều này làm anh thấy sợ. Frances thì hiểu rõ hơn. Nếu một người đàn ông muốn đánh bạn, thì đòn đầu tiên sẽ đến trong vòng ba giây. Đã hơn mười giây rồi, mà anh vẫn còn đứng yên trong bầu không khí nặng nề.

"Thôi nào, Leo. Anh thích như thế, em có thể nói như vậy đó."

"Anh đã cứu sống em."

"Cái mông của em, anh đã làm như vậy đó."

Anh chùn bước, không muống tiếp nhận điều nay ngay.

"Vậy còn cha em thì sao, em có thể về nhà không, ông ấy sẽ giết em mất."

Cô bắt đầu ra vẻ ngạo mạn và quý phái. "Cha em chưa bao giờ động đến em". Anh để cho cô đi. Có ánh sáng xuất hiện ở ngay khúc quanh. Frances đi về hướng đó.

Anh chưa bao giờ thật sự thấy có bao nhiêu người đến với cô. Trong tất cả mọi chuyện, có lẽ điều anh xấu hổ nhất vẫn là ẩn nấp đằng sau, sợ hãi vì phải dựa dẫm vào lời hứa của Frances không kể ra sự việc. Nhưng điều gì sẽ xảy đến với gia đình anh nếu tối nay anh bị giết. Hổ thẹn và cơ cực.

Cùng với suy nghĩ về gia đình, Ginger chìm đắm trong những suy tưởng mà dường như đó là khói thuốc phiện đối với anh. Ở đó trong khu mỏ ẩm ướt, đầu óc anh lần đầu tiên thấy rõ ràng và thông suốt toàn bộ những điều mà anh không được biết trong một quãng thời gian dài. Kể từ ngày ở New York. Trái tim anh nặng nề, rỉ máu và đấu tranh dữ dội, nhưng đó là trái tim của anh. Anh cảm thấy rõ ràng sự hiện diện của con người mình trong từng phần tử nhỏ của cơ thể và cơ thể anh rõ ràng trông kiệt sức hơn so với hình dáng lần trước - hệt như cơ thể của người yêu dấu, một người tưởng chừng như đã chết từ lâu, bỗng trở về với dáng vẻ dãi dầu sương gió hơn xưa nhưng rất gần với bản ngã của anh ta hơn bất kỳ hình ảnh nào lưu lại trong ký ức hoặc trong tấm ảnh nào khác.

Anh tràn ngập niềm vui và phiền muộn khi lại được sum họp với chình mình. Lòng khoan dung.

 

Mặt trời sắp ló dạng. Đầu gối Adelaide khẽ run lên và cô không thể nén lại một cái ngáp dài. Teresa nhìn Wilfrid Beel đầy ngụ ý. Wilf nói, "Có một cái buồng đi săn trước đây tôi thường dùng ở ngay cuối con đường này, nếu nó vẫn còn tồn tại thì rất có thể chính là điểm đó__"

"Đừng lo, Wilf," Adelaide nói. "Hãy về nhà, có lẽ anh ấy đang đợi em ở nhà."

Teresa cảm thấy nhẹ nhõm. Họ đã chở Addy đi vòng vòng suốt đêm và phủ lên người cô một lớp bụi đường, họ đã lái xe nửa đoạn đường đến Meat Cove, và cuối cùng cũng có kết quả. Teresa không lo lắng nhiều về cuộc tìm kiếm của họ rốt cuộc sẽ dẫn đến điều gì. Cô chỉ muốn giữ Adelaide tránh xa khỏi ngôi nhà của Piper nơi có khẩu súng trường kia thôi. Cô đã thông minh đột xuất, em dâu cô, Chúa trời đã phù hộ cho nó. Chẳng tốt đẹp gì khi phải nói rằng Ginger sẽ không chạm đến con quỷ cái đó khi bị nó mê hoặc.

Adelaide nói đúng. Khi họ đi vào trước ngôi nhà của cô, bên trong đủ sáng để họ nhìn thấu qua mấy ô cửa sổ của cửa cái hai lớp đã bị khóa chặt và thấy Ginger đang ở bên trong gara an toàn.

 

Khi Frances chào Lily và Mercedes trong khu mỏ cô chỉ nói, "Chị có mang theo xe hơi không?"

Mercedes cảm thấy nhẹ nhõm và không hề chú ý lúc đầu Lily lạc mất ở khúc quanh nơi Frances xuất hiện. "Lily, chúng ta đi về nhà nào."

"Còn người đàn ông thì sao?"

"Hắn đã có xe riêng rồi," Mercedes trả lời. Cô không hy vọng sẽ nhìn thấy những gì đang nằm nơi gần khúc quanh. Việc Frances bằng lòng bỏ nó lại đối với Mercedes là đủ
lắm rồi.

Về đến nhà, Frances nhất định không chịu đi tắm, "Em đã tắm tối hôm qua rồi." Khi Mercedes dùng đôi tay khỏe khoắn để ép cô, Frances phản kháng lại như một con mèo, bám chặt tay và chân vào bồn tắm cho đến khi Mercedes bỏ cuộc. Sau đó Frances rửa tay, mặt và chân trong khi Mercedes đứng chờ với một cái khăn sạch.

"Em yêu anh ta à?"

Frances chỉ khịt mũi.

"Em có định gặp hắn nữa không?"

"Cái gì, chị đang ghen tị hả, Mercedes?"

"Chị chỉ không muốn em bị tổn thương mà thôi."

"Chị có đồng tính không đó, Mercedes, chị có bao giờ nghĩ về điều đó chưa? Có muốn không? Chúng ta có thể thử." Frances cười nhưng cô chẳng thấy vui vẻ gì, chẳng có thứ gì khác có thể vui hơn, cô vừa trải qua cái cảm giác kiệt sức và tuyệt vời.

"Em có đói không?" Mercedes hỏi.

"Có."

"Chị sẽ đi nướng bánh mì quế". Và cô quay đi.

"Mercedes?"

Mercedes ngập ngừng ở cửa phòng tắm nhưng không quay đầu lại. Frances tiếp tục, "Từ nay em sẽ cố gắng tốt hơn. Em sẽ có một em bé khỏe mạnh."

Mercedes thở mạnh và cúi đầu.

"Mercedes?"

"Ừ?"

"Chúng ta có uống ca cao nhé?"

"Ừ, tất nhiên rồi."

 

"Vào uống tách trà nhé?"

Wilf và Teresa lịch sự từ chối. Adelaide vào nhà, mệt lử.

Ginger đã pha sẵn trà và bánh quy, và anh đã tắm sạch sẽ và thay quần áo. Anh nói với vợ, "Addy, anh sẽ kể với em mọi chuyện, rồi em có thể nói với anh rằng em muốn anh đi khỏi đây."

"Cho em một tách trà trước đã, Leo." Cô chìm vào chiếc ghế trong nhà bếp để nghỉ ngơi và điều đó có ý nghĩa cô đã đi dạo thay vì lái xe suốt đêm.

Đến cuối câu chuyện, những đốm tàn nhang của Adelaide nổi rõ hơn bao giờ hết, nhưng cũng có thể do cô ấy quá mệt mỏi. Anh phá vỡ sự im lặng bằng một câu hỏi "Em có muốn anh rời khỏi đây hay không?"

"Không"

"Anh chỉ có thể ở lại nếu em tha thứ cho anh, nếu không, anh sẽ không thể"

Cô nhìn anh qua ly nước trà. Có vẻ như sự ảm đạm đã không còn trên gương mặt anh. Anh đã quay trở lại vẻ thường ngày. Cô rùng mình nghĩ lại việc anh ấy đã từng lạc mất chính mình và quanh quẩn ở một nơi hoang vu.

"Anh có thể tự tha thứ cho mình không?" cô hỏi.

"Anh nghĩ anh có thể. Bởi vì, em thấy đó, cô ta đã đi khỏi cuộc đời anh rồi."

"Em tin anh."

"Nhưng em có tha thứ cho anh không?"

"Em đã nói rồi."

"Em nói __"

"Em tha thứ cho anh." Cô ít khi khóc. Vì thế khi cô khóc, những giọt nước mắt cay sè như hạt tiêu.

"Anh xin lỗi," anh nói.

"Đừng bao giờ rời xa em."

"Không bao giờ, anh hứa."

"Em yêu anh"

"Anh yêu em"

Cô cho một tay vào mái tóc mềm mại chỉ dài khoảng nửa inch của anh, ôm chặt vai anh, chìm đắm vào cái ôm của eo anh và cảm nhận được đôi cánh tay rắn chắc của anh trên lưng mình, cái ôm cũng mạnh như hình dáng bên ngoài của nó vậy. Họ ôm nhau, nghĩ đến những đứa con và hòa vào nhau với những ý nghĩ không bờ bến về những việc họ có thể làm cùng nhau, và những gì họ có thể dành cho nhau. Cô đưa tay vào hông anh. Trên lầu đứa bé đang thức dậy. Bình minh.

Một ngày mới tươi đẹp.

Phía bên kia thành phố, Camille pha ấm trà đầu tiên trong ngày hệt như một bà góa phụ. Vẫn chưa có tin tức gì về con trai nhưng bà đã được biết về việc mất tích của chồng mình. Một anh chàng trẻ tuổi có tên là Mountie đập mạnh cửa lúc gần nửa đêm. Bà đã không ra mở cửa cho anh, vì nghĩ rằng có thể đó là một vụ tấn công; rồi thì bà nghĩ, vậy thì có gì khác biệt nào? Dường như không phải vì chồng bà đã từng giữ rịt lấy bà theo lề lối kiểu như vợ của một gã đánh bẫy thành đạt xem việc ngóng chờ đã trở thành một thói quen chính đáng. Vì vậy bà đã mở cửa và Mountie nói với vẻ mặt dài thường thượt," Tôi rất lấy làm tiếc, thưa Bà nhưng tôi có vài tin xấu muốn thông báo bà." Sau đó anh rời đi bỏ lại nỗi cùng cực của cuộc đời.

Đứa con trai đầu của Camille đã về đến nhà và rất khó khăn mới mở được cái cửa cái trước sức nặng của thân hình như tủ kéo kềnh càng.

"Mẹ, chuyện gì xảy ra vậy?"

Bà kéo lê mình xuống cầu thang cùng với cái hộp đựng mũ bên tay này và rương đựng bộ đầm cưới của bà ở tay bên kia. "Cha con mất rồi, mẹ về nhà đây."

Giờ đây Camille sửa lại tách trà theo kiểu mà cha bọn trẻ yêu thích và mang nó để lên phòng ngủ của ông trên lầu. Trời vừa rạng sáng. Ông không biết rằng bà đang ở đó. Bà sắp sửa gây cho ông một sự ngạc nhiên.

Mercedes ngồi xuống ghế của cây đàn piano và ngồi nhìn James cho tới khi ông bật mở mắt vào lúc bình minh. Đó là thói quen có từ thời chiến tranh. Cô đã học được điều đó từ ông.

"Cha còn nhớ chuyện gì đã xảy ra vào đêm qua không?"

James chớp mắt, đôi mắt pha lê xanh và có vẻ không còn nhớ chuyện gì đã xảy ra.

"Dậy đi nào" cô nói. Điều cuối cùng mà Mercedes muốn bây giờ là xem ông như một đứa bé trai đầu tóc rối bù. Ông quăng mình xuống ghế trong khi ông cảm thấy cơn nhức đầu chuẩn bị hành hạ ông. Nó xiết chặt da đầu ông và kéo ông trở về thực tại ngay tại cái tuổi bốn mươi.

"Đã xảy ra chuyện gì?" Ông hỏi.

"Bố say rượu và bị ngã "

Ông cau mày và nhìn xuống sàn. Rồi bỗng nhớ lại, "Frances
đâu rồi?"

"Frances đang ngủ, hãy ngồi xuống cái đã!"

Bây giờ thì ông hoàn toàn tỉnh ngủ và nhận thấy vẻ khác thường trong giọng điệu của Mercedes. Ông nhìn cô, và chậm rãi ngồi xuống. "Ta đã làm gì sao?"

"Cha đã định đánh Lily."

Ông vươn đôi bàn tay ra cố giữ cho khuôn mặt đang choáng váng khỏi tràn xuống thảm, có tiếng rên rỉ bật lên qua kẽ tay. Mercedes cảm thấy sự hối hận đang dày vò, rồi nhấn mạnh câu chuyện dối gian của mình bằng giọng điệu trầm bổng, "Con phải kéo cha ra khỏi nó."

Ông gập người lại vì đau khổ, bóp mạnh vào cạnh sườn, tiếng rên rỉ bỗng trở nên the thé. Mercedes thông báo. "Nó vẫn chưa thức dậy."

Đầu ông bắt đầu run lên không phải đàng sau hai bàn tay, ông rời ghế bành mà không thể đứng thẳng người lên được, vì nếu làm vậy ông sẽ mất hết ý chí rồi ông lảo đảo bước ra khỏi phòng và ra khỏi nhà trong hình dáng như vậy. Mercedes nghe tiếng động cơ ôtô nổ máy. Nếu cha cô chọn cách tự lái xe vòng ra vách đá thì sẽ là như vậy. Và nếu Mercedes thiêu đốt thêm hàng thiên niên kỷ nữa trong sự ăn năn sám hối thì kết quả vẫn đơn giản là cái giá phải trả với Chúa trời. Điểm mấu chốt là cô vừa cứu nguy cho Frances. Rốt cuộc thì Mercedes không phải là vị thánh cũng không phải là một tên tội đồ. Cô ở đâu đó chính giữa cả hai. Sự ăn năn sám hối đã được bịa ra mà lý do chính lại nằm ở cô.

 

Sau bữa sáng muộn màng và thịnh soạn khác thường, Frances đọc bản tin về tai nạn trên báo Cape Breton Post. Dù sao chăng nữa thì đối với Jameel, đó chẳng phải là vấn đề gì lớn lao. Những ngày sống như một nữ hoàng say xỉn túy lúy của cô đã qua nhưng với đối với Bourtros - thì lại cảm thấy nhẹ nhõm. Cái cách nó nhìn cô không giống những gã khác. Nghiền ngẫm cô cứ như nó muốn đạt được một thứ gì đó mà cô có để đổi chác. Đó có thể là cái gì, cô chỉ có thể hình dung ra một vụ cưỡng hiếp.

"Chị chắc là muốn ăn thêm một ít cháo yến mạch nữa chứ, Frances?"

"Hãy nhìn này Lily, đó là đứa em họ và chú rể của chúng ta
kia mà."

Lily cho thêm cháo vào tô của Frances và đọc dòng tiêu đề, "Cái chết của một vị anh hùng để cứu lấy Whitney Pier man." Bài viết ghi lại rằng chiếc Kissel 8-xylanh mới coóng mang biển số 1932, đột ngột chuyển hướng để tránh toa xe chở Giáo đoàn các nữ tu sĩ truyền giáo từ Nhà thờ Notre Dame đang trên đường trở về Holy Angels sau một buổi tối tập dượt ca đoàn đại chúng.

"Mercedes đã ở đó!"

"Vậy thì sao, Lily?"

"Chị ấy nói là Xơ Saint Monica đề nghị đưa chị ấy về nhà nhưng chị lại bảo rằng chị muốn đi tản bộ, nếu như chị ấy nhận lời thì các Xơ đã không vượt qua chiếc ôtô của đứa em họ cùng ông chú và họ đã không đâm vào nhau."

"Phải rồi, Lily, nếu vô khối những kẻ nhu nhược quanh đây không chết cách nay hàng nghìn tỉ năm ngớ ngẩn thì chúng ta cũng chẳng có con đường lái xe bằng sỏi như thế này đây."

Lily đọc to. "Ở đây nói rằng hai cha con nhà Mounties lên xe và đã thấy một người khác đang lái xe bởi vì ‘Ông Jameel bị văng vào vị trí ghế dành cho khách trong xe. Boutros Jameel được tìm thấy ngay trên đường ray xe lửa. Sau khi xảy ra vụ va chạm vì tránh xe các Xơ, anh ấy đã đi bộ hai dặm về hướng New Waterforld trong cơn đau dữ dội, có lẽ để tìm bác sĩ cho bố anh.’"

Frances hoàn toàn sởn tóc gáy. Tưởng tượng ra cảnh một xác chết khổng lồ còn sống và bước đi xiêu vẹo về phía New Waterford, gắng sức lê thân mình với hơi thở chết chóc về phía cô. Chỉ là hắn ta giẫy chết khó khăn như thế nào chính là chừng mực những gì mà cô sẽ phải lâm vào nếu hắn chạm đôi găng tay đồ sộ của hắn vào cô.

 

Anh chàng trẻ tuổi Mountie hướng dẫn cho đội tuần tra của anh băng qua lối mòn dơ bẩn và xuyên qua cánh rừng theo chỉ dẫn của một tấm bản đồ vẽ bằng tay sơ sài. Jameel đã từng là một gã thương gia ma mãnh giả vờ đứng đắn. Ông giữ một bản kê khai chi tiết về tất cả những vụ giao dịch mua bán trong một quyển sổ tay nhỏ được viền bằng da mà Mountie đã tìm thấy bên trong túi áo sát ngực nạn nhân nơi xảy ra vụ tai nạn. Dù vậy Jameel đã cẩn thận không dùng bất cứ tên thật nào. Tên bằng mật mã ông ta ghi cho James: kẻ lai căng Enklese. Tấm bản đồ bằng bút chì chỉ dẫn đến một nhà máy chưng cất rượu của bọn lai căng Enklese tuy có nhiều thiếu sót nhưng đó là chỉ dẫn tạm thời, ông đã vẽ nó theo chỉ dẫn của James qua điện thoại lúc Taylor bỏ đi.

Chữ X đánh dấu vị trí nhưng khi anh chàng Mountie kéo lê cả buổi sáng để chờ đợi thộp cổ gã đàn ông kia hoặc là nằm đó chờ đợi, toàn bộ những dấu X còn lại chỉ còn là mảnh vụn đã cháy thành than trên mặt đất và những tấm ván ám đầy khói. Quá nhiều để có được một Bằng chứng. Anh chàng Mountie quay lại và đầu hướng ra sau về phía Sydney. Anh không nhìn thấy chiếc Buick mui trần màu nâu vàng nhạt đậu ở một cái mương gần đó.

 

"Cô ta sẽ hét toán lên về vụ cưỡng hiếp chứ?"

"Không đâu"

Tờ The Cape Breton Post đang nằm trên bàn bếp của Teresa. Cô và Adelaide đã thống nhất rằng Ginger sẽ chọn thời điểm tốt nhất để 1144b thoát khỏi Jameel. Hector đang ở nơi quen thuộc của hắn, đang nhún nhảy theo nhịp Rock. Teresa châm thêm trà cho Adelaide.

"Điều gì làm em chắc chắn đến thế?" Teresa hỏi.

"Bởi vì cô ta đã có những gì cô ta cần, cô ấy nói thế đấy."

"Là gì vậy?"

"Một đứa con"

Teresa bị cảm thấy choáng váng nhưng cô cố giấu nó đi. Cô chậm rãi ngồi xuống và bắt đầu khuấy rồi lại khuấy trà lần nữa, rồi hỏi, "Em có tin chuyện đó không?"

"Nếu cô ta tính toán đúng thời gian, thì chắc chắn là vậy. Cô thư thả kể lại, cô biết đó, tôi luôn đúng trong lần đầu tiên."

Adelaide thình lình có dự cảm chẳng lành bởi vì lúc nơi này cô đang trò chuyện với Teresa về chuyện làm sao một phụ nữ biết cô ấy đang mang thai trong khi chính Teresa không bao giờ làm vậy, mặc dù đó là điều cô mong muốn nhất.

Adelaide luôn tự hỏi làm thế nào một vết thương trên đầu lại có thể làm tổn thương đến khả năng tình dục của một người đàn ông. Thanh thép đó chưa từng rơi trúng lên vùng kín của Hector, tinh dịch của anh tốt hơn bao giờ và anh ta không hoàn toàn tê liệt chỉ là bị suy giảm khá mạnh. Nếu đó là Adelaide, cô sẽ xem là anh ta vẫn còn khả năng hay không rồi mới quyết định chuyện có con với anh ta. Hector yêu trẻ con. Họ đã có thể cố gắng. Cô và Ginger sẽ thay phiên nhau chăm sóc chúng. Nhưng Adelaide biết rằng Teresa thì khác, chị ta rất đảm đang. Chị ấy thích sự vương giả, một cách thực sự chứ không phải thói học đòi trưởng giả, mà phải là sự cao quý bẩm sinh. Bạn không thể hình dung ra cảnh Teresa vắt ngang qua người một gã đàn ông suy nhược chỉ để có con. Thế nên nếu như Hector vẫn cứ hành động theo cách ấy thì Adelaide tin chắc rằng Teresa đã không thử nghiệm anh ta. Teresa đang trong độ tuổi bốn mươi. Sớm muộn rồi cô ấy cũng trở nên quá già nếu cô ấy không chịu chuẩn bị sẵn sàng cho việc đó.

"Addy, sẽ ra sao nếu đó là sự thật?"

" Đừng lo lắng, Trese, tôi đã có ý này trong đầu rồi"

"Addy___"

"Trese, đừng có hỏi bởi vì tôi sẽ không nói cho bất kỳ ai quá sớm đâu, tôi không muốn ai đó thay đổi quan điểm của tôi bây giờ hay tìm cách lái cho tôi sang bên nửa kia cánh đồng địa ngục. Adelaide vỗ nhẹ lên đầu Hector và trở về nhà dùng bữa tối. "Cám ơn về tách trà nhé, cô bé"

Teresa tiễn cô ra tới cửa và trở về gian bếp nơi Hector đang nhìn chăm chú lên nóc tủ bếp với vẻ đầy lo lắng hiện lên trong mắt.

"Đừng lo, anh yêu," cô nói với Hector, "nó vẫn ở đó."

Tuy vậy cô vẫn đi tới gian nhà sau lấy cái thang dự định là sẽ xem lại cho chắc chắn. Teresa không phải là người leo lên trên tủ bếp.

 

Adelaide không kể với ai về ý định của mình. Cô đã tha thứ cho Ginger. Cô đã tha thứ cho việc Teresa đã ngăn cản cô tối qua. Nhưng điều đó lại chứng minh một điều, về việc này, cô chỉ có thể tin vào bản thân mình. Cô sẽ lập kế hoạch một cách cẩn thận và lúc này không ai có thể ngăn cản cô.

Ngay sau bữa tối, cô lên xe đạp với mấy cái giỏ đan bằng liễu gai gài bên hông xe. Khi việc kinh doanh phát đạt lên cô có thể chở cả một chồng vải cao trong giỏ xe. Hôm nay cô bỏ thêm một vài món khác vào giỏ xe. Cô chạy từ đường Shore đến New Waterford. Một buổi hoàng hôn tươi đẹp bắt đầu.

Adelaide đã có thể chờ đợi trong ba tháng và tìm hiểu xem có phải Frances thật sự có thai hay không trước khi làm điều mà cô dự định làm. Tuy vậy mấu chốt ở đây là gì? Nếu cô ta không có thai thì cô ta lại rất có thể quấy rối anh ấy lần nữa. Thay đổi quan điểm xem. Cái phần rối rắm nhất trong câu chuyện rối rắm của Leo là Frances biết được tên riêng của Adelaide đặt cho anh ta. Thực tế thì cô ta chỉ có thể ngủ cùng giường với họ thì mới biết được điều đó. Và rồi một đứa con gái có thể sẽ dùng khổ nhục kế hay liều mình chết đuối để có được những gì cô ả muốn - một đứa con gái như vậy mà để yên không dùng thư tống tiền hay sao? Hay là buộc tội Leo cưỡng hiếp nếu anh ta không cho cô ả những gì ả muốn? Adelaide nhấn mạnh bàn đạp, không hề chú ý đến bầu trời rực rỡ phía bên phải và dảy nước lấp lánh bên trái.

 

Mercedes trở về nhà sau cuộc nói chuyện với vị giáo sĩ. Ông đã đồng ý trình lên Giám mục. Lời cầu nguyện của ông sẽ quyết định nó có thích hợp để phỏng vấn Lily về chuyện nó có liên quan đến một loạt các sự kiện khác thường - dĩ nhiên là không để cho Lily biết nguyên do của việc thẩm vấn này. Mercedes ngước mặt nhìn về hướng mặt trời đang chiếu rọi. Mọi vật được bao phủ bởi màu vàng hung đỏ, phước lành của Chúa ngự trị trong từng tia nắng ôn hòa, "Mọi lẽ phải đều nằm ở nhân gian". Tai ương của Frances đã lên tới đỉnh điểm và rõ ràng chỉ vì sự thánh thiện của Lily và Mercedes thấy dễ chịu khi bản thân xử trí được cả hai việc. Ngày mai cô ấy sẽ đi xưng tội và nhận được lời xá tội vì đã làm điều sai quấy với cha mình.

Khi trở về nhà, cô thật sự lo lắng khi thấy chiếc ôtô biến mất và cố chịu đựng nỗi khiếp sợ dâng trào khi gặp cảnh Xơ Saint Monica đang đợi ở phòng khách. Mercedes biết rằng Xơ Saint Monica qua đội xướng ca quần chúng, nơi mà ngay lập tức họ tạo lập được mối thân tình, nếu họ sử xự trang trọng và hòa đồng. Tuy nhiên "tin xấu" là tất cả những gì Mercedes có thể nghĩ được vào thời khắc đặc biệt này là hình ảnh chiếc áo choàng dài và khăn trùm của nữ tu sĩ.
Lily đưa vị Xơ vào và thết đãi bằng một tách trà và bánh Date Square. Mercedes ngồi xuống chiếc ghế tựa, nhẹ nhàng bảo Lily ra ngoài, cố tỏ ra cứng rắn để đón nhận tin tức về cái chết của Bố cô.

Nhưng không! Nhìn chung còn một điều gì đó khác nữa. Xơ Saint Monica đã cầm lái khi Boutros lao nhanh xuyên qua đường của họ và dẫn đến cái chết của hắn ta, và rồi bà đã nhìn thấy, trong một khoảnh khắc trước đó, Frances đang ở trong chiếc xe tải cùng với một người đàn ông da màu.

"Thật sự là ta muốn kể cho con nghe ngay lập tức, Mercedes ạ, nhưng vụ tai nạn nhất thời đã làm nó biến mất khỏi suy nghĩ của ta"

Mercedes giãi bày tâm sự với Xơ Saint Monica về tình thế khó khăn có thể xảy đến với Frances.

"Xin Chúa tha thứ cho con"

"Thưa Xơ, Xơ vô tội trong hoàn cảnh này"

Tuy vậy cả hai người phụ nữ đều biết rằng chẳng ai vô tội cả.

"Nếu ta kịp thời ngăn chặn, thì có lẽ Frances đã không bước chân vào con đường cám dỗ."

"Thưa Xơ, lẽ ra con không nên trút gánh nặng này lên Xơ nhưng vì con cần phải vạch ra kế hoạch cho Frances và con không biết có thể xin ở đâu một lời khuyên hữu ích"

"Dĩ nhiên rồi."

Ít ra đó là điều Xơ Saint Monica có thể làm. Còn rất nhiều điều cần thảo luận. Đó là khi nào Frances nên rời khỏi New Waterford, cô ấy sẽ sinh ở đâu... "Ta sẽ sắp xếp cho cô ấy ở tại một nữ tu viện ở Mabou. Họ có một bệnh xá tuyệt vời."

Việc biết rằng đó sẽ là một đứa trẻ da màu chính là điều hữu ích nhất để xác định tương lai của nó. Trước mắt thì hiện giờ không có vấn đề gì trong chuyện giữ lấy nó. Tình trạng có chửa hoang thật kinh khủng cứ như là một vết nhơ vô hình, trong khi đó hôn nhân giữa hai người khác chủng tộc là chuyện không thể che giấu được. Cả người mẹ và đứa bé đều không đáng phải sống một cách ô nhục. Đó chính là sự khoan dung. Cho nên, vấn đề thứ hai là việc chọn lựa một trại trẻ mồ côi phù hợp, phải biết rằng việc nhận nuôi một đứa trẻ không có trường hợp nào giống trường hợp nào, có bao nhiêu gia đình người da trắng tốt bụng theo đạo Thiên Chúa giáo sẽ sẵn lòng nhận nuôi một đứa trẻ da màu? Đặc biệt nếu nó lại là một đứa bé trai. Còn về những gia đình da màu tốt bụng theo đạo Thiên chúa, có rất ít cộng đồng, phần lớn thuộc về Anh giáo trên đảo và người theo phái Tin Lành trên đất liền. Có lẽ điều đó cũng không sao, Mercedes nghĩ, bởi vì tổ tiên của các gia đình loài người thông thường không gặp khó khăn nào trong việc nuôi lớn con cái của chính họ, kể cả con cái của người khác hay sao?

"Cám ơn Xơ"

Xơ Saint Monica chạy lướt xuống đường trong trang phục trắng đen, chạy ngang qua Adelaide đang ngồi trên xe đạp. Adelaide không thể tưởng tượng nổi trong cuộc đời mình làm thế nào mà ai đó có thể mang lời thề nguyện đồng trinh, rồi cô liếc nhìn Teresa và không khó khăn gì khi hình dung bà ấy ra một nữ tu. Cô nhấc cái nắp ra khỏi giỏ bằng liễu gai để kiểm hàng trước khi khuân nó xuống ngay trước nhà Piper.

Trở lại với câu chuyện của Teresa và Hector, cây súng trường đã biến mất khỏi nóc tủ bếp. Hector cố kiềm chế bản thân, bật ra tiếng the thé làm văng tia nước bọt nhỏ xuống cằm, tất cả những gì anh muốn nói đã được thể hiện ra bằng ánh mắt. Đâu đó ở trong đầu, anh ta vẫn còn nguyên đó, nhưng đã chuyển vào trong một căn hộ chật hẹp phía đằng sau và đang nhìn xuống bộ não già nua. Teresa cố an ủi anh ta. "Hector anh yêu, nào hãy bình tĩnh lại, mọi việc sẽ đâu vào
đấy thôi"

"Mercedes," Lily gọi vọng ra từ cửa sổ phòng khách, "có một người phụ nữ đang đi bộ tới"

"Đừng la hét nữa Lily, mà người đó là ai vậy?"

Mercedes mở cửa chính và định giải thích rằng hàng hóa phải được giao ở cửa sau thì nhận thấy người phụ nữ kia có vẻ đến đây không phải để bán hàng.

"Tôi có thể gặp cô Frances Piper được không ạ?"

Bây giờ thì Mercedes đã biết chính xác đây là ai rồi.

"Em gái tôi đang không được khỏe, bà vẫn vào chứ?"

Adelaide ném một cái nhìn về phía sau chỗ chiếc xe đạp và Mercedes nói thêm, "Tôi có thể bảo đảm với bà rằng để nó ở đây rất an toàn, nhưng chúng tôi sẽ không phiền nếu bà mang nó đến mái vòm nếu bà muốn."

"Vâng, tôi muốn như thế"

Trong căn phòng khách, Adelaide chọn một chỗ trên chiếc ghế sofa mà Xơ Saint Monica vừa mới ngồi khi nãy.

Frances nhận ra Adelaide từ cửa sổ gác mái. Bao tử trào lên một nỗi sợ hãi trong lúc cô đi rón rén lên lối đi trên lầu. Cô có thể trèo qua từ cửa sổ lầu hai nhưng cô không dám làm gì có hại đến sinh linh vừa mới hình thành trong cơ thể mình. Frances không còn ăn mặc như một Thanh Nữ nữa. Cô đang mặc một chiếc áo váy cũ của mẹ đựng trong cái rương. Quái dị và rộng thùng thình. Mặc dù chỉ mới mang thai có một ngày nhưng Frances cho rằng không quá sớm để mặc nó lên người. Những hình hoa văn hoa cỏ bạc màu trong sắc đỏ và xanh của vùng nhiệt đới. Nó mang mùi của mẹ - tiền bạc, nước hoa hồng, làn da ẩm ướt và cây tuyết tùng. Để trốn khỏi nhà, Frances cần phải xuống cầu thang và đi ngang qua lối đi có mái vòm của phòng khách.

Mercedes không rời mắt khỏi vị khách.

"Lily hãy đi pha một ấm trà mới đi nào"

Lily miễn cưỡng bỏ đi. Nó hiếm khi nào nhìn thấy một người da đen gần đến thế. Nó bị thu hút bởi những đốm tàn nhang của Adelaide. Adelaide cũng có một cái nhìn thiện cảm đối với Lily, đứa bé ra đời từ vết rạch trên bụng của Kathleen Piper.

Khi Lily rời phòng khách nó va đầu vào Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi. Nó đến gặp Frances ở đầu cầu thang điệu bộ như có một cái dây phec-mơ-tuya vắt ngang qua miệng. Lily nhặt Hoa-Lan-Chuông-Tả-Tơi lên và lặng lẽ đi lên cầu thang.

Trong phòng khách, trà không được pha như đã định nhưng Mercedes quên khuấy đi vì bị mê hoặc bởi những gì bà Taylor đang nói, "Chúng tôi nhận đứa bé đến với gia đình như con ruột của mình". Sẽ không một ai biết điều này cũng như không một người nào khác nữa được biết đến. "Đôi mắt Adelaide sắc sảo hơn bao giờ hết nhưng lại trở nên yếu đuối khi cô nói thêm, "Nhưng cô phải chịu trách nhiệm về phía em gái của cô nữa, thưa cô."

Với lời nhận xét cuối cùng, Mercedes cảm thấy bị xúc phạm bởi cảm giác kinh sợ ập đến khi nghe lời đề nghị đáng kinh ngạc của người phụ nữ kia - nó đã vượt ra ngoài những hoài nghi có thể nghĩ đến, tất nhiên rồi, tuy nhiên đối với Đạo cơ Đốc thì nó mang một ý nghĩa riêng, tuy vậy lại làm cho người ta cảm thấy lạc lối. Một chút hơi ẩm từ Mercedes bốc lên và ngưng đọng lại thành một cơn mưa ở một nơi nào khác.

"Bà Taylor. Trong bất cứ ai có thể trở thành người giám hộ em gái tôi, người đó chính là tôi. Bởi vì khả năng sẽ có một đứa trẻ - và vì nó cũng chưa được xác nhận một cách chắc chắn - nên tôi cũng sẽ nhận trách nhiệm tương tự về khoản chăm sóc cho nó nữa."

"Cô có thể yêu thương nó không?"

Mercedes lại một lần nữa ngạc nhiên. Cơn tức giận di chuyển đến hệt như đám mây tích mưa giông trong một ngày quang đãng. Adelaide không sợ hãi. Cô chờ đợi câu trả lời.

"Bà có thể đi được rồi, Bà Taylor"

Mercedes đứng dậy nhưng Adelaide vẫn ngồi đó và nói, "Cô thấy đó, tôi có thể yêu nó. Và tôi có ít lý do để làm như vậy hơn là cô,
cưng à."

Không có gì thể hiện sự yêu mến trong chữ "cưng" này cả.

"Tôi không cần bà phải chỉ ra cho tôi thấy bổn phận của tôi nằm ở đâu, bà Taylor ạ"

"Này cô gái, bổn phận chính là công việc của cô đấy" Giờ thì Adelaide ngồi dậy và đi, nói thêm, "Hãy bảo em cô tránh xa chồng tôi ra nếu không tôi sẽ bắn cô ta, cho dù nó có thai hay không."

Và bà bỏ đi. Mercedes bắt đầu run lên. May mắn thay, có sẵn rượu Sherry bên trong tủ thuốc.

Trên đường qua New Waterforld, Adelaide suy ngẫm về sự kỳ lạ của gia đình Piper. Cứ như thể không có bất kỳ biểu hiện nào, lúc đi ra khỏi phòng khách bà chạm mặt Lily đang đẩy một xe đựng búp bê to cũ, đầy búp bê chặt cứng và một con mèo còn sống, phía bên ngoài cửa chính. Nó phải chừng mười ba hay mười bốn tuổi và vẫn còn chơi nhà chòi. Adelaide dõi theo khi con bé khập khiễng vác cái xe đựng búp bê nghe lộc cộc khi bước xuống các bậc hành lang ở mái vòm, cái nhíp bánh xe đầy bụi căng ra dưới một sức nặng tưởng như to lớn. Nó còn cái quái gì khác nữa ở đó, Adelaide tự hỏi - nhà tù hay chuyện tưởng tượng?

Teresa cũng có một chiếc xe đạp. Đó là cái xe cũ của Hector. Nó có một cái thanh tà vẹt, dĩ nhiên là vậy và Teresa thì không hài lòng lắm khi mặc váy ngồi dang chân lên nó nhưng cũng chẳng sao. Ít ra thì cô cũng khá cao nên trông có vẻ không quá lố bịch. Hồi xưa cô cũng đã từng ngồi trên chiếc xe đạp này, nhưng khi đó cô ngồi vắt vẻo trên thanh ngang của xe ở vị trí ngay trước mặt Hector, anh ta đạp xe và thình lình bẻ ngoặt hướng làm cho cô kêu thét lên và khúc khích cười. Khi cô lắc lư mình trên yên xe rồi cô bỗng tự hỏi, mình đã từng dịu dàng như vậy sao? Cô đã từng là một cô gái dịu dàng thật sự. Một nàng công chúa. Mọi thứ khi đó đều phải thật quý phái, bữa tối cũng đã được chuẩn bị sẵn sàng khi anh ta đến nhà mẹ cô để dùng bữa. Thật là hoàn hảo vì Hector cũng là một quý ông lịch thiệp hay ít ra thì anh cũng được nuôi dạy để trở thành một con người như thế vì khi đó anh ấy vẫn còn là một cậu bé tinh nghịch. Mặc dù họ không còn quá trẻ để xây dựng kế hoạch cho tương lai. Anh có sự hiểu biết và đã được sắp đặt để trở thành một vị mục sư thuộc Anh giáo. Chuyển đến vùng phía nam của biên giới. Họ muốn có thật nhiều con cái. Những người như chúng ta nên có con cái, họ đã thống nhất với nhau như vậy. Teresa có một giấc mơ là sáng lập ra một vương triều bao gồm tất cả những con người xuất sắc tiêu biểu không chỉ đối với dòng dõi của họ mà đối với tất cả những ai biết đến họ.

Con đường tiến về mục đích cao quý này, nằm ở sâu dưới đáy tận cùng của cái thiện, đâu đó một giọng nói chực bật lên mà không cần đấu tranh hay bệ đỡ nào cả, nó gào lên: "Mình sẽ cho họ thấy, sẽ cho bọn họ thấy tất cả". Hoan hỉ, hồ hởi; cái tàn bạo của nó chính là sức mạnh đằng sau vẻ nghiêm trang quý phái và sự quyết đoán. Dù cô chỉ vừa mới nghe thấy nó mà thôi. Cô hoàn toàn không nhận thức được sức mạnh của cơn thịnh nộ đầy hứa hẹn bên trong, sức mạnh đó có khả năng dời núi, và trèo ra khỏi giếng trong niềm hân hoan của một kẻ chiến thắng. Cô không nhận biết được sức mạnh của bản thân mình. Khi Hector gặp nạn, giọng nói ấy càng trở nên to hơn nhưng nó vẫn bị bóp nghẹt bởi sự quyết tâm chịu đựng tất cả mọi thứ một cách kiên nhẫn với sự cứu giúp của Chúa. Việc bị mất đi công ăn việc làm một cách vô lý của cô đã kết thúc sự cạnh tranh của tất cả các giọng nói khác và rồi cô mới có thể nghe thấy nó thật rõ ràng. Nó không còn nói "Mình sẽ cho họ thấy" mà khẳng định rằng "Mình sẽ đạt được điều đó." Nó đã chuyển thành lòng căm hận. Chính sự căm hận đó mà cô vẫn cầu xin Chúa Giêsu hãy mang nó đi. Tuy vậy nó chính là một phần của điều đã giữ cho cô tiếp tục kiên cường nên cô có thể làm gì mà không có nó bây giờ? Sự căm hận kiểu ấy cứ như kiểu những mảnh kim loại nhảy múa. Gỉ sét, ăn mòn từ bên trong, rồi thấm dần qua các cơ quan sống. Chính vì nó mà Teresa lên cơn ốm. Nó có khả năng giết người.

 

Adelaide dừng lại trước tiệm thuốc và bánh kẹo của MacIsaac . Lão MacIsaac vừa mới đóng cửa vào tối, cô vừa đuổi kịp lão khi ông ta đang trên đường về.

"Ông MacIsaac, tôi là Addy Talor đến từ gia đình Pier."

"Chào Bà Taylor."

Ông chìa bàn tay già cỗi đỏ lựng ra và cô bắt tay ông. Khi đó đôi mắt vẫn sáng, vẫn ân cần.

Adelaide thọc tay sâu vào giỏ liễu gai. "Uống một ngụm rượu đi, ông Mac."

Cô mở nút chai màu nâu. MacIsaac lắc đầu, ông đã kiêng rượu được hai năm.

"Đây là loại rượu gừng ngon nhất mà ông được nếm đó nha," Adelaide nói.

Ông mỉm cười. Đón lấy và uống. Đúng thật. Đầu tiên bạn cảm thấy là vị ngọt rồi sau đó mới có cảm giác như xé toạc sau cuống họng đến khi ráy tai rung lên bần bật.

"Bà gọi nó là loại rượu gì vậy?"

"Mẻ rượu trên đảo của Clarisse."

"Bà đến từ miệt Đảo phải không bà Taylor?"

Adelaide cười to, "Tôi đến từ Halifax cách đây một trăm năm mươi sáu năm rồi, thưa ông, thế ông đến từ đâu?"

"Cách đây tám mươi hay chín mươi năm và cũng lâu như là tôi biết trước đó nó có tên là Đảo Skype, đảo Man và bây giờ, để xem nào, Đảo Wight."

"Người dân nơi ông ở có sở thích mang hương vị của biển đảo."

"Cô có nghĩ là chúng ta nên học hỏi điều đó từ bây giờ hay không?"

Ông thở khò khè và cô cười to. Ông đưa ra ba khả năng cho cửa hiệu và xem xem nó tiến triển thế nào.

Frances được nuôi lớn từ cái xe nôi và bây giờ thì Adelaide đã ngồi trên chiếc xe đạp. "Trông cứ như mụ phù thủy trên cán chổi vậy.", Frances rùng mình suy nghĩ. Cô đã cho Lily về nhà , và nói rằng cô cần "được gần gũi với thiên nhiên."

 

Một trong những chế độ tập luyện sức khỏe mới của Frances là bài tập thể dục điều độ. Thật khó để biết là phải tin vào điều gì trong thời điểm mang thai, trong đó ở trên phim ảnh, việc sảy thai là một điều phù hợp với tình tiết của câu chuyện cũng gần giống như những bậc thang sát nhau của cầu thang, mặc dù trong quyển sách Những người phụ nữ tiên phong vĩ đại, thì rõ ràng hết thảy phụ nữ đều chiến đấu với gian khổ và thu hoạch ngô ngay sau khi sinh xong. Frances quyết định đón nhận hạnh phúc này bằng việc dạo bộ dọc bờ biển hàng ngày. Những nữ anh hùng lãng mạn luôn biết cách thu xếp để có thể đón lấy không khí trong lành từ biển. Trừ khi họ mắc bệnh lao phổi, trong trường hợp đó có lẽ họ đã bị đày đi tới vùng đất nơi đó trồng loại cam máu đỏ. Frances nhận thấy tình trạng mình không có khả năng bị lao phổi. Thật ra, với việc bị kết tội vì đã có thai, cô cũng tự nhận biết được rằng bản thân mình đã nhận thức được một cách sâu rộng hơn như một người phụ nữ trưởng thành. Chậm chạp và tròn trịa với khuôn ngực của phụ nữ thay cho bộ ngực của đàn ông như trước đây.

Trixie đã đi theo cô suốt buổi đi dạo. Có điều gì đó trong cách cư xử ân cần của nó, cũng như cái dáng mà nó phải có khi phi nước đại do thiếu mất mấy cái móng vuốt, làm cho Trixie trông giống như chó hơn là mèo. Rồi nó theo thói quen, ném một cái nhìn lên Frances, kiểm tra theo kiểu loài chó hay làm. Họ đi đến chỗ rìa vách đá. Trixie bám theo Frances đi ngang qua con đường dốc đầy đá, tránh thói quen trước kia là lao nhanh xuống dốc bằng chân trước và gót chân. Xuống đến cuối đường, Frances dừng lại và hít một hơi thở sâu và mạnh.

Cô chuyển hướng sang phía bắc và bắt đầu đi tản bộ như thể đang băng qua vùng nước ấm, hoặc nhịp nhàng lướt nhẹ qua bãi cát trải dài vô cùng tận của một bãi biển nào đó mà cô chưa từng đặt chân tới, tuy vậy cô vẫn có thể đi đến đó theo bản năng của mình. Kiểu đi bộ này phù hợp với cái hông mới của cô, điều này thường được mô tả là như là quá trình "mang thai."

Họ tiếp tục tản bộ. Đây là thời điểm đẹp nhất của mùa hè. Vẫn chưa đến tám giờ tối, mặt trời đã mang đi màu xanh lục của biển và nhuộm chúng bằng một màu đỏ êm dịu. Những buổi như thế này thì thật quý giá biết bao. Frances dừng lại và nhìn ra biển, và khẽ run lên vì sự vuốt ve trìu mến của ánh mặt trời. Cô cảm thấy mẹ đang ở gần bên mình như thể bà chưa bao giờ đi xa. Frances cảm nhận được một cảm giác thân thuộc ngày xưa mà cô vẫn chưa thể gọi được thành tên. Một thứ gì đó cô chưa từng biết đến đó chính là những gì thuộc về cô mà cô đã từng lãng quên. Hạnh phúc. Không giống như cơ thể mới trong trí tưởng tượng của cô, cái cảm giác này là có thực.

Trixie nhìn lên và thấy Teresa đang đứng trên đỉnh đồi ở phía trên. Do ngược sáng, Teresa trở nên tối và sáng hơn bình thường nhưng lại lộng lẫy hơn bao giờ hết. Nhìn xa từ phía dưới lên là như thế, cô đã khá cao và bây giờ còn cao hơn nữa. Trong ánh sáng này, từ độ cao này, mọi thứ đều trở nên một đường màu xám đậm rõ ràng. Cơ thể của Teresa là một nét thẳng đứng in đậm. Cắt ngang giữa người cô là một đường nằm ngang có chiều dài bằng một nửa chiều cao của cô. Tương phản với màu sắc vàng đỏ rực rỡ của buổi tối. Frances nhìn lên và cảm thấy như có một mũi tên xuyên qua trái tim mình. Mũi tên chính là tình yêu, cơn đau lan rộng ra bên ngoài và sự đau đớn đó như là niềm tin, điểm xuất phát của mũi tên lại là sự bất hạnh. "Teresa," Frances nghĩ thầm, môi mấp máy cái tên trong khi duỗi cánh tay lên cao và dang ra xa về phía người phụ nữ đang đứng xa xa trên đó.

Đường thẳng bắt ngang qua Teresa quay tròn giống như cây kim của một cái la bàn cho đến khi nó biến mất khỏi nét thẳng đứng từ cơ thể cô, và lát sau có một tiếng nổ vang lên. Frances bật lên trong không khí và lưng cô tựa dọc nằm trên bãi biển đầy sỏi.

 

Giọt máu quý giá

Không ai biết Hector hiểu những được gì, ngay cả Teresa cũng vậy. Cô ấy đã từ lâu không còn tìm kiếm những dấu hiệu của Hector thân yêu. Điều duy nhất cô ấy có thể làm là quen với sự mất tích của Hector. Và bên cạnh đó, bác sĩ nói rằng Hector bị hư não và phải sống một cuộc sống thực vật. Mặc dù những kỷ niệm duy nhất của anh từ trước khi tai nạn xảy ra chính là những cảm giác về mùi, anh đã phải học để hiểu tiếng Anh một lần nữa theo cái cách mà một đứa trẻ học chữ, từ danh từ và động từ và các khái niệm. Anh ấy cũng có thể học cách đọc lại nếu ai đó nghĩ ra cách chỉ dạy cho anh. Tuy nhiên, không giống như một đứa trẻ, anh sẽ không bao giờ có thể tự nói những ngôn ngữ của chính mình. Những gì còn lại với anh ta cũng giống như tiếng sủa của một con chó.

"Này, này, Hector, có chuyện gì thế?"

Lão già Wilf Beel đã bắt kịp chiếc xe lăn của Hector và kéo anh ta vào lề đường. Hector la lên và cào vào áo vét của Wilf, miệng đầy nước bọt với vẻ hoảng sợ, và Wilf hỏi: "Anh lạc đuờng hả, Hector?"

Hector rên rỉ trong thất vọng, sau đó bùng nổ thành cơn giận dữ khi Wilf quay chiếc xe lăn trở lại và bắt đầu đẩy anh trở về nhà.

"Này, này, này b'y -" nói với Wilf. Nhưng Hector vẫn chống mạnh vào thanh tay vịn và cố gắng ngoái đầu lại để nhìn cho được Wilf.

"Anh có muốn đi thăm Leo và Adelaide không, Heck?"

 Và Hector chỉ có thể lắc nhẹ đầu và lặng lẽ để đưa ra thông điệp bằng âm thanh to và rõ ràng, ĐÚNG RỒI! CHÚA GIÊSU toàn năng, ĐÚNG RỒI!

" Ồ, được rồi, tôi sẽ dẫn anh tới đó."

Wilf lại quay chiếc xe lần nữa và đẩy Hector theo cùng, nếu không chậm hơn Hector tự mình đẩy xe đi, thì ít nhất cũng di chuyển một cách ngay ngắn hơn.

"Này Hector, Teresa ở đâu vậy?"

Hector phớt lờ câu hỏi nhưng Wilf không để ý.

 

Teresa ở trong trạng thái của sự nghi ngờ. Ít phút trước cô đã đạp xe dọc theo đường bờ biển, trèo lên mặt dốc trên con đường vòng khoảng chừng tám dặm. Cô bắt gặp một hình bóng trên bãi biển bên dưới vì những màu sắc tươi sáng của bộ đồ mà nó đang mặc, ánh lên dưới ánh sáng mặt trời đang tắt dần. Bộ đầm trông rất quen thuộc. Teresa xuống xe và đi bộ đến rìa vách đá để nhìn rõ hơn. Hình ảnh quen thuộc của chiếc váy đã thức tỉnh một cảm xúc khác ngoài bối cảnh hiện tại. Cảm thông - và... thương hại. Đúng vậy. Cô cảm thấy tiếc cho bà ấy. Người phụ nữ ra đón cô ở bục cửa cũng trong bộ trang phục đó, à, cách đây đã lâu, có một đứa bé tóc vàng đứng bên cạnh. Bà ấy đã kết hôn - đó là chiếc váy của Materia Piper. Một chút sởn gai ốc trên cánh tay trái của cô khi nhận ra bộ áo và cả người mặc bộ áo ấy, cả động tác bâng quơ và ngay cả dáng điệu cũng có thể làm cô liên tưởng đến Materia. Có một con chó nhỏ màu đen cũng ở dưới đó, chạy nước kiệu vào gót chân của người phụ nữ. Khi đó nhà Pipers cũng có một con chó nhỏ màu đen thì phải, Teresa đã cố gắng nhớ lại khi cô chậm rãi đi song song cùng họ dọc theo các vách đá, cây súng trường đang được luồn vào trong cánh tay đang gập lại của cô.

Đó là một người phụ nữ đáng thuơng .... Teresa luôn luôn mơ ước làm một số điều tốt đẹp cho Materia, vì bà ấy là người duy nhất mà Teresa đã từng gặp có hoàn cảnh có lẽ thực sự tồi tệ hơn mình.

Teresa không tin vào ma quỷ, tuy nhiên lúc nào cô cũng mong đợi hình ảnh đó mờ dần và tan biến vào ánh sáng của đại dương.

 "Có lẽ đây là một dấu hiệu", bà nghĩ, "yêu cầu mình không được làm hại con gái của bà ta."

Và Teresa cảm thấy xót thương cho người phụ nữ không đủ sức mạnh để sống, nhưng đủ mạnh để xuyên qua cái chết để bảo vệ
con mình.

Teresa đã giải quyết để đi trong hòa bình khi hình bóng đó dừng lại, và ngước lên nhìn cô dò xét. Trên gương mặt của Ác Quỷ hiện lên vẻ thương hại. Teresa nhìn Frances giương cao tay trong chiến thắng, một nụ cười chế nhạo nhảy múa trên đôi môi nó, và huýt tên "Teresa", Teresa xoay khẩu súng trường một trăm tám mươi độ, đeo nó vào vai, và khai hỏa. Con ác quỷ ngừng lại và đổ gục xuống như một con búp bê rách nát.

Hiện giờ Teresa vẫn đang quay cuồng với khói thuốc súng đang lơ lửng trước mặt cô, cố gắng để biết được cụ thể những gì mà mình đã gây ra.

 

Hector kiệt sức trong thời gian anh ở tại nhà bếp của Adelaide và Ginger.

 "Hector thân yêu, bây giờ anh chỉ cần ngồi đây, bọn em sẽ đi tìm Teresa, được không?"

Ginger đã ghé đầu vô bên trong để kiểm tra nhà của Teresa. Thật đáng nghi ngại. Hector không đi những nơi không cần thiết phải đi tìm. Nhưng anh cũng sẽ không chịu ngồi yên.

"Hector, có chuyện gì đó xảy ra với Teresa phải không?"

Hector lắc đầu ra dấu hiệu "không", một cách biểu hiện mà là chỉ những người biết anh mới hiểu được. Sau đó, anh ta gật đầu "có" hai lần khẩn trương cho đến khi cuối cùng anh ta cảm thấy sáng suốt. Hector chỉ lên nóc tủ bếp nhà Adelaide.

 "Gì thế, Hector? Anh muốn cái gì? Không có gì trên đó, bây giờ, anh muốn gì?"

Anh ta phát ra một loạt tiếng rên rỉ thất vọng nhưng vẫn không thấp hơn cánh tay đang chỉ của mình, mặc dù nó đã bắt đầu lung lay, Adelaide nhún vai. Đi đến quầy bếp và khi leo đến nửa chừng khi cô như bị đóng băng khi nhận thấy một điều.

"Ôi lạy Chúa Giêsu, Hector ơi".

Cô quay và anh gật đầu vui vẻ, "Có. Có. Có. Có. Có."

"Tốt lắm ông anh Hector ạ", cô nói trong lúc lấy áo len của mình, "ở lại đây trông chừng lũ trẻ nhé", và cô ra khỏi cửa.

 

Teresa bắt đầu hít thở trở lại và cầm khẩu súng trường trong tay để cho sức nặng của nó tựa vào vai mình. Điều đó được thực hiện. Trái tim của cô bắt đầu loạn nhịp trong một nỗ lực để đánh thức tâm trí cô. Cô vươn ra, nắm lấy nòng súng trong cả hai bàn tay và ném mạnh nó xuống bãi biển phía bên dưới, ở đó nó lại nổ một tràng dài đá sỏi. Cô đã nghe thấy phát súng thứ hai, và nó làm cho cô chạy nước rút hệt như viên đạn được bắn lên từ khẩu súng lục. Cô đạp mạnh lên vách đá, chỉ có chạy và chạy, chạy không nghĩ cho đến khi cô nhảy qua tay vịn của đường sắt mới dẫn đến Waterford, và tất cả những gì cô được biết là những gì cô nhìn thấy lóe lên trước mắt, không phải những gì cô dự định làm. Số 12 Colliery, khổng lồ phía bên phải của cô, những ngôi nhà liên hợp nhỏ bé, vụt qua ngắn gọn như những cột điện thoại lướt ngang qua một tàu hỏa đang chạy. Cô ấy không phải chạy như một người phụ nữ, mà cô chạy hệt như một nhà vô địch. Điều kế tiếp cô để ý đến là cô đã nhảy lên các nấc thang của Bệnh viện đa khoa New Waterford; và từ đó cô đoán chừng rằng cô đã đến đó để nhờ người cứu giúp cho các cô gái mà cô đã giết.

 

Sấm chớp nổi lên ở New Waterford bên cạnh Ginger đang ngồi trong chiếc xe tải của mình, Adelaide hét lên, "Dừng lại!"

Đó là chiếc xe đạp của Hector nằm ở gần đường ray trên con đường ngay phía bên bờ biển. Adelaide nhảy xuống khỏi xe tải trước khi nó dừng hẳn và quẹo ngang qua. Ginger theo sau và cũng đứng trên vách nhìn xuống bên dưới cùng với cô.

"Ôi! lạy Chúa!"

Trixie đang nằm cuộn tròn quanh đầu của Frances. Trong mười phút đầu sau khi súng nổ nó đã dùng những móng vuốt không bao giờ được cắt tỉa của mình đau đớn cào vào da đầu Frances. Hai người khi nãy đã trượt xuống đồi và bây giờ họ đang lào xào bước xung quanh nó và Frances.

Khi họ đến. Frances lặp lại những lời mà cô ấy đã lầm bầm, "Ôi! Trixie! Ngăn nó lại."

Mắt Frances đã sụp xuống giờ chỉ còn một đường nhỏ. Màu sắc duy nhất trên trên khuôn mặt cô là những nốt ruồi nhỏ ở mũi, cô lúc này đã trở nên gầy gò hơn, một phụ nữ nhỏ bé trong một chiếc váy rộng thùng thình.

Hai tay nặng cứ như đeo chì. Đã đến lúc phải ngủ rồi.

"Chúng ta có nên chuyển cô ấy đi không?"

"Chúng tôi không có nhiều sự lựa chọn". Adelaide trả lời.

Thật khó để xác định được vết thương và chỗ để nâng người cô lên vì có quá nhiều máu, Trixie liên tục đào bới và nó không ngừng kêu gào. Ginger luồn cánh tay của mình dưới Frances và cẩn thận nhấc cô lên. Lần này rõ ràng cô không dối trá và anh một lần nữa tự hỏi bằng cách nào anh có thể có được diễn xuất của cô trước đây. Anh quyết định tự làm cho mình bớt căng thẳng và thừa nhận rằng cô là một diễn viên tuyệt vời. Adelaide nhặt khẩu súng trường lên và họ bắt đầu quay trở lại dốc. Trixie theo sau, đôi mắt chứa đầy sự nài nỉ van xin. Nó đưa mắt nhìn chiếc xe tải kéo đi sau đó đánh hơi tìm đường trở về nhà.

 

Máu Frances chảy thấm vào áo của Adelaide và bàn chân cô gác ngang qua đầu gối của Ginger. Anh cố gắng cho xe chạy sao cho nó đạt tốc độ nhanh nhất đồng thời cũng ít dằn xóc nhất.

 

Teresa được mang đến cho một tách trà trong sảnh trước của Bệnh viện đa khoa New Waterford. Y tá trưởng là người đầu tiên đi ngang qua của cô. Nếu như cô bác sĩ thực tập trẻ đẹp ấy không có ở đây, người phụ nữ kích động kia có lẽ đã bị bắn vào tĩnh mạch thay vì được cho một tách trà. Tuy nhiên y tá trưởng đã nhận thấy rằng, cho dù họ uống trà hay không, thì chỉ riêng hành động với ra để đón nhận một vật gì đó để nó không bị đổ dường như có tác dụng xoa dịu tất cả mọi việc, nhưng không phải là một kẻ điên cuồng.

"Nếu cô ta đã chết, tại sao cô lại cần xe cứu thương?"

Teresa giữ tách trà trong cả hai bàn tay và lần đầu tiên mở miệng từ sau khi nổ súng, "Cô ấy vẫn còn cơ hội được cứu sống. Cô ấy quỵ xuống bờ biển. Cô ấy bị bắn."

Đây là một ví dụ điển hình về việc trà có thể có tác dụng tốt hơn ma túy hay sự lãng quên.

Cô y tá trưởng ngay lập tức vụt dậy và vun vút chạy đi để lấy băng ca. Teresa nói thêm, "Tôi đã bắn cô ấy."

 Cô y tá nghe xong và nghĩ , "Chuyện gì quan trọng thì phải được làm trước" và tiếp tục đi về Phòng cấp cứu.

Chiềc xe cứu thương tồi tàn được điều đi nhanh chóng để tránh va chạm với xe tải của Ginger, Ginger phóng đi rất nhanh. Mắt của Frances đã bắt đầu đờ đi mặc dù Adelaide và Ginger đã cố gắng lay gọi cô, Adelaide không thể biết được rằng cách châm vào da đầu của Frances có thể giữ cho cô khỏi lịm đi.

Teresa nâng tách trà lên môi và hớp ngụm đầu tiên khi Adelaide bước vào cửa trước và hỏi lớn, "Chúng tôi có thể sử dụng một số dịch vụ ở đây không?" Hai y tá trẻ chạy lại để hỗ trợ Adelaide, người cô dính đầy máu và cô nói một cách ngắn gọn, "Không phải tôi!". Cô xoay ra hướng cửa và chỉ vào Ginger lúc này đang bồng Frances vào, và bắt gặp Teresa đang gập người trên chiếc ghế đối diện với bức tường, đang uống trà. Cô y tá trưởng quay trở lại và bước đi rất khẽ. Cô có một đôi mắt nhà nghề vì vậy cô đi lướt qua Adelaide mà không cần quay nhìn cô, đi đến đỡ Frances từ đôi tay ướt đẫm của Ginger và mang cô đặt vào băng ca đang được hai cô điều dưỡng trẻ nhanh chóng đẩy đến. Cô y tá đặt Frances xuống băng ca trong khi di chuyển và biến mất vào trong phòng mổ.

May mắn là y tá trưởng đã từng trải qua chiến tranh. Cô biết cách để xử trí với các vết thương do súng đạn.

Lần này, Lily không biết gì về chỗ mà Frances đang ở. Ambrose cũng thế. Mercedes đuổi Trixie ra khỏi ghế tựa để tìm vết máu tại chỗ của cô. Vệt máu vẫn còn ướt.

"Trixie, trở lại đây."

Nhưng mọi người đều biết loài mèo đều không đến như vậy. Mercedes lục soát ngôi nhà cho đến khi cô tìm thấy Trixie trong căn hầm ngay giữa lò sưởi và bức tường. Nếu có điều gì đó đã xảy ra với con mèo, Frances sẽ gặp nguy hiểm.

"Đến đây, Trixie."

Không đến.

Mercedes bắt lấy nó nhưng Trixie chạy ngược trở ra xa. Mercedes đi lên nhà bếp và trở lại với một chiếc đĩa cá trích muối, nhưng đó chính là miếng mồi nhử mà Frances hay sử dụng để chọc phá Trixie.

 Lily cũng tham gia dụ dỗ nó. "Nó có thể chịu đến nếu chị gọi bằng tiếng Ả Rập."

Mercedes như bị mắc nghẹn trong cổ họng. "Ồ, vì lợi ích của Chúa trời, Lily - " "Trixie. lnshallah".

Trixie thò móng vuốt ra.

"Trixie", Mercedes gọi, "taa'i la houm, Habibti ... ya Helwi"

Trixie rón rén bước về phía trước.

Mercedes đặt Trixie lên trên quầy bếp để kiểm tra - "Te'berini" - lau chùi máu với một miếng vải ẩm cho đến khi sạch sẽ "Không có vết thương nào hết".

 Lily nhặt cái khăn dính đầy máu lên và dùng lưỡi liếm. Mercedes liếc Lily. Lily nếm thử và nói, "Em nghĩ rằng chị Frances đang gặp nguy hiểm."

"Ôi! Chúa ơi!", Mercedes thổn thức và thầm nghĩ: "Mình sẽ cố hết sức, thưa Đức Chúa trời, đến khi nào Người sẽ cho con được phép nghỉ ngơi?"

Mercedes gọi đến bệnh viện, sau đó với lấy cái mũ và nói, " Ở đây nhé, Lily"

"Khi nào cha mới về nhà ?"

Tuy nhiên, Mercedes đã đi ra khỏi cửa.

Mercedes chùng bước khi nhìn thấy chiếc xe tải Taylor đậu phía trước cửa bệnh viện. Cô bước vào mặt đối mặt với bà Taylor và một người đàn ông chắc hẳn là chồng bà ấy, cùng với một phụ nữ xa lạ đang cầm tách trà bằng cả hai tay.

"Chuyện gì đã xảy ra vậy?" Mercedes hỏi, đứng quay lưng vào bức tường buồn bã màu xanh. Teresa chìm đắm trong một thế giới cầu nguyện của riêng mình. Mercedes ghìm lại để cư xử một người phụ nữ đàng hoàng. Chỉ có duy nhất một người không bị dính máu. Máu của em gái tôi.

"Cô ấy bị thương", Adelaide trả lời. "Chúng tôi tìm thấy và đưa cô ấy tới đây. Đáng lẽ ra tôi nên gọi cho bà nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian để nghĩ đến." Mercedes quay sang Adelaide, chiếc váy bằng cotton của cô vấy đầy màu đỏ máu tội lỗi. "Bà có thể kể câu chuyện này cho cảnh sát", cô nói bằng giọng run run, "một khi bà đã thông suốt".

Teresa bắt đầu cầu nguyện thành tiếng. Mercedes nhắm mắt và cùng cầu nguyện. Cô không cho phép bản thân mình phung phí nước mắt. Nước mắt sẽ không giữ Frances ở lại. Dạ dày Mercedes sôi sục, cổ họng cô co lại từng cơn. Cô rút lui khỏi trạng thái rối loạn của cơ thể, hướng đến một nơi không ô uế ở ngay phía trên trán cô, nơi đó chỉ có cầu nguyện là trên hết. Cầu nguyện sẽ giữ Frances ở lại đây.

Một cô y tá trẻ xuất hiện từ quầy tiếp nhận.

"Em gái của cô vẫn còn đang phẫu thuật, cô Piper à. Cô có muốn dùng một tách trà không?"

Khi cô y tá trẻ quay trở lại với ba ly trà nóng, Mercedes đang ngồi cạnh Teresa. Họ nắm tay nhau, cùng nhau cầu nguyện trong im lặng, mắt họ nhắm nghiền lại và đầu cúi xuống. Adelaide nhận cái khay từ cô y tá và nghĩ đến mình, "Mình có thể viết sách. Mình thực sự có thể làm được."

Lily đến mang theo một túi dệt. Ginger chú ý tới cái đuôi màu đen đang ló ra giữa quai xách bằng gỗ của cái giỏ. Anh đứng dậy và đưa cho nó cái ghế của mình.

"Cám ơn, thưa ông."

Lily đặt cái túi dệt trên sàn nhà bên dưới ghế của nó. Cái túi động đậy một chút. Ginger và Adelaide nhìn nhau. Lily không hỏi gì về vết máu của họ. Nó sẽ biết ngay nếu cô ấy có hai người chị, hoặc chỉ một người. Mercedes đã nghe tiếng đi vào lách cách không thể nhầm lẫn vào đâu được của Lily nhưng cô không buồn mở mắt. Cô ấy không muốn rời bỏ ngang việc cầu nguyện cùng với người bạn mới không quen biết. Đây quả là một phụ nữ mạnh mẽ. Bạn có thể cảm thấy sức mạnh của niềm tin nơi cô ấy.

Vết thương ở bụng là do nguyên nhân mất máu. Y tá trưởng đã thực hiện một số phẫu thuật cho Frances nhưng bây giờ là vấn đề thời gian và nó qua đi như tên bắn. Cô y tá đi ra đến chỗ đoàn người sặc sỡ đang chờ đợi ở khu tiếp nhận và hỏi Mercedes ", Nhóm máu của cô loại gì, thưa cô?"

 

Ở phía xa cuối dãy phòng hồi sức, Lily có một ống truyền tĩnh mạch được cắm vào khuỷu tay phải, chuyền vào một túi căng phồng được treo vào một cái giá đỡ bằng kim loại và nối vào ống thứ hai dẫn vào tay của Frances. Mercedes đang đứng thẳng như một tân binh bên dưới chân giường không rời mắt khỏi các em cô. Các màn cửa màu trắng được kéo lùi lại giường do căn phòng không có bệnh nhân.

Frances không cử động, mí mắt cô không nhấp nháy trong suốt thời gian cô bất tỉnh trong vũng máu. Mercedes đang cố gắng nghĩ ra những thứ khác mà cô có thể dùng để cầu xin Đức Chúa đổi lấy cuộc sống của Frances, cô chợt nghĩ rằng phép màu thứ ba của Lily có thể không khả thi. Nhưng không được, không được nghĩ về điều đó. Không được thừa nhận niềm tự hào và tham vọng ở trong phòng bệnh, chỉ có thể cầu nguyện mà thôi. Mercedes nhẹ nhàng bước năm mươi bước tới cửa phòng và cố gắng không làm nhiễu loạn nhiệm vụ Lily.

 

Trong phòng tiếp nhận, Mercedes và Teresa đang chấp tay cùng nhau cầu nguyện lần nữa. Một cô y tá trẻ đặt tay lên vai Mercedes vì đã hai lần cô không nghe thấy tiếng gọi tên mình. Teresa nhìn lên và nhìn thấy cái chạm vai.

Cô tá nói, "Em gái của cô đã tỉnh lại rồi, cô Piper."

Mercedes giật nảy mình nhưng cô y tá vẫn tiếp tục nói, "Cô ấy yêu cầu được gặp người phụ nữ tên là Teresa."

Teresa đứng dậy, và đi theo cô y tá lên cầu thang. Mercedes nhìn Teresa bước lên cầu thang và tự hỏi làm thế nào mà Frances biết cô ấy.

"Cô ấy là ai?" Mercedes hỏi y tá tại bàn làm việc.

"Đó là chị gái của tôi", Ginger trả lời.

Chắc hẳn phải có phúc lành trong tất cả chuyện này, Mercedes nghĩ, rồi nhìn vào anh ta. Nếu Frances đang mang thai, thì chắc chắn vết thương sẽ làm nó sẩy thai. Anh ta trông không giống như một người đàn ông xấu. Nhưng người vợ thì trông giống như một người phụ nữ có khả năng giết người. Đến mắng nhiếc mình nhân danh lòng khoan dung của đạo cơ đốc, rời khỏi nhà mình, săn tìm em gái mình rồi bắn nó như một con chó. Cô ta sẽ phải trả giá. Cô ta sẽ bị treo cổ.

Adelaide nhìn đi chỗ khác.

Mercedes lên giọng "Chị?"

Y tá trẻ nhìn lên từ bàn làm việc của mình; "Cô có muốn dùng thêm trà không, cô Piper?

"Tôi có thể sự dụng điện thoại được không"

 "Tất nhiên rồi."

Adelaide và Ginger chờ đợi và nhìn trong khi Mercedes gọi
cảnh sát.

 

Y tá trưởng thắt túi máu lại rồi nói với Teresa, "Nói ngắn gọn thôi nhé," và đóng màn cửa lại theo yêu cầu của Frances. Cô lặng lẽ kéo ghế ngồi xuống trong tầm nghe và tầm với, nghiền ngẫm biểu mẫu theo dõi của mình.

Teresa ngạc nhiên khi nhìn thấy một con mèo cuộn tròn dưới chân giường.

"Frances. Teresa đến rồi."

Cô gái tật nguyền có đôi mắt màu xanh biển đang thì thầm vào tai trái của Frances quay lại và nhìn chằm chằm vào Teresa. Frances mở mắt ra nhưng không quay đầu lại.

"Bà nên đi vòng qua nơi chị tôi có thể nhìn thấy bà, thưa bà,"
Lily nói.

Teresa đi vòng qua phía bên phải giường, nghĩ xem Lily giống với mẹ của nó - con bé ca sĩ đến mức nào.

"Teresa." Frances thì thào.

"Tôi đây?"

Teresa miễn cưỡng cúi xuống cho đến khi cô ngồi xổm bên cạnh giường -cô không có ý định quỳ xuống, mặc cho cô đã làm những gì. Cô ấy nhìn vào đôi mắt đang nhắm nghiền của Frances. Màu nâu đỏ. Đúng hơn là, màu nâu với những mảng màu xanh nằm yên hoặc di chuyển.

"Teresa. Hãy kể về mẹ tôi"

"...Tôi không biết mẹ cô."

"Cô đã đến đám tang của bà."

"Đúng vậy."

"Cô phải biết chút ít về bà ấy chứ. "

"Có một chút."

"Vậy cô đã biết điều gì?"

Teresa thở dài. "Tôi cảm thấy tiếc cho bà ấy, chỉ có vậy thôi," và cô ngạc nhiên khi nhận thấy nỗi phiền muộn đang nghẹn lại trong cổ họng. Tiếc cho ai? Cho một người nào đó thậm chí cô còn chưa biết.

"Cô đã cho tôi một viên kẹo."

"Tôi à?"

"Mùi bạc hà cam thảo."

"Tôi không nhớ cô."

"Khi đó tôi có mái tóc vàng."

Teresa cứ cho rằng cô bé tóc vàng là một người khác, cái người mà cô vừa mới cùng cầu nguyện khi nãy. "Cô còn quá bé để nhớ những chuyện đó."

"Tôi nhớ rõ mọi chuyện."

 Frances nhắm mắt lại một chút, nhớ lại bên trong hàng mi của mình khuôn mặt tuyệt đẹp của Teresa. Teresa chờ đợi. Cô ấy chờ đợi cô gái nhỏ mà cô đã cho kẹo. Frances lại mở mắt ra lần nữa.

"Và tôi nhớ là cô đã đến đứng ngay bên giường tôi và chạm vào đầu tôi để tôi không phải sợ hãi."

"Tôi không làm điều đó."

"Vậy ai đã làm?"

Và Teresa làm một điều tốt đẹp theo cách mà cô luôn muốn làm nhưng không bao giờ làm. "Mẹ của con đã làm đấy, con gái ạ"

"Frances nhắm mắt cho đến khi có vẻ như cô lại chìm vào giấc ngủ, rồi cô mỉm cười và nói, "Cảm ơn, Teresa."

Và ngủ thiếp đi.

 

Bên dưới nhà, Mercedes bước từng bước với dáng vẻ chỉ ít nghiêm chỉnh hơn một đoàn quân đang diễu hành một chút. Bộ môn bóng đá vững vàng của đội cảnh sát kỵ mã hoàng gia Canada đã cắt đứt lời rên rỉ kéo dài như tiếng kèn túi trong đầu cô.

"Cô Piper?" Anh ấy còn quá trẻ, phải không nào? "Có gì rắc rối ở đây nào?"

Mercedes uốn cong đôi lông mày, có thể thấy trước cung cách của một nhà giáo mà cô vẫn luôn mong muốn trở thành.

"Em gái tôi đang trong tình trạng nguy kịch khi bị thương do đạn bắn ra bởi người phụ nữ mà anh thấy đang ngồi ở kia." Cô nói mà không thèm nhìn lại.

Mountie nhìn Adelaide và hỏi, trong lúc lấy quyển sổ tay ra ngoài, "Điều này có đúng không, thưa bà?"

Mercedes nhanh nhẩu đáp, "Dĩ nhiên là đúng rồi, hãy nhìn vào quần áo của họ kìa!"

Và lúc quay đầu lại cuối cùng cô nhận ra vết máu của họ và đối chiếu chúng với tình trạng không có vết bẩn nào của người phụ nữ ở trên lầu "Ôi! lạy Chúa tôi!" Sự cao ngạo của cô sụp đổ và khuôn mặt của cô chảy dài đến mức ngay cả Adelaide cũng bắt đầu có thể tha thứ cho cô, nhưng không có đủ thời gian để làm điều đó vì Mercedes đang đi lên cầu thang, bỏ Mountie lại với một chút hụt hẫng. Anh ta quay sang Adelaide, "Thưa bà, tôi sẽ phải yêu cầu bà đi với tôi đến _"

"Xin hãy đợi một phút, chàng trai", cô nói, lướt ngang anh ta và đi thẳng lên cầu thang.

Ginger đi theo sau, sau đó đến lượt Mountie. Đó là một ít những ngày khó khăn đối với tân binh. Đêm hôm qua anh vừa báo tin cho một người phụ nữ về cái chết của chồng bà ta trong một tai nạn xe hơi và bà ấy đón nhận nó như bản tin thời tiết. Hôm nay anh lại thất bại khi không thể có được bằng chứng về việc sản xuất rượu bất hợp pháp và bây giờ anh gần như ngất xỉu - anh có thể xử trí tình huống khi nhìn thấy máu, miễn là anh ta không bị bất ngờ bởi nó. Anh theo đám người lên cầu thang, quyết định tự mình hoàn thành trách nhiệm thực hiện lệnh bắt giữ.

Mercedes đang chạy lên, chân trượt lên trên sáp ong, cô vươn tay nắm lấy mép cửa của phòng hồi sức, đẩy mình qua, nhìn thấy cái giường có phủ rèm ở phía xa cuối phòng trong giống như một cái chén kiểu. Cô vội vã hướng về phía đó cầu nguyện. Có âm thanh phát từ bên trong. Y tá trưởng đã thấy cái nhìn từ ánh mắt của Mercedes hiện lên cách hai mươi feet, đặt biểu mẫu theo dõi qua một bên và chộp lấy cổ tay Mercedes ngay trước khi vừa cô định xé toạc màn cửa. Mercedes bắt đầu thở lại dưới cái nhìn cứng cỏi của cô y tá và lắng nghe. Có ai đó đang hát. Y tá trưởng bỏ tay Mercedes ra và nhẹ nhàng vén màn.

Teresa ở phía trên Frances, khẽ hát, một khúc hát ru của vùng Tây Ấn. Một tay đặt nhẹ lên trán Frances. Frances và Lily và cả Trixie đều đã ngủ. Cô y tá và Mercedes cùng nhìn vào và giờ có cả Adelaide, kế đó là Ginger, rồi Mountie. "Bây giờ, dường như __" Mercedes ra hiệu cho anh giữ yên lặng bằng một cái nhìn.

Teresa kết thúc bài hát ru. Cô quay sang phía anh cảnh sát. "Tôi đã sẵn sàng đi rồi."

Lily và Trixie mở mắt. Teresa bước đi khỏi giường nhưng bị Frances giữ chặt tay lại. Frances, trên gương mặt cô vẫn còn dấu vết của việc tự đánh mình ngày hôm trước, hướng về phía các khán giả đang đứng đầy quanh cái màn được vén ra và nói, "Mercedes?"

"Tại sao Frances đột nhiên nói giọng Anh vậy?" Lily ngạc nhiên.

"Em thực sự hối hận đã mang lại sự ô nhục và nỗi đau khổ cho gia đình mình. Anh cảnh sát, hãy bắt tôi đi, hãy trừng phạt tôi đi, vì tôi tự nhận thấy mình có con nhưng lại không có chồng. Tôi đã dấn thân đến bên bờ vực sâu nơi mà tôi đã tự bắn mình. Vâng, vậy là tôi đã chết rồi."

Frances thay đổi khuôn mặt trịch thượng và bật khóc nức nở. Sau đó, cô y tá lau dọn phòng bệnh nhân. "Màn kịch đã kết thúc rồi, các bạn ạ"

 

 Và đó là cái cách Frances làm tiêu tan sự căm hận của Teresa.

 

Chín tháng rưỡi sau, Teresa hạ sinh một bé gái tuyệt vời cô đặt tên là Adele Claire. Adelaide đã đúng. Hector vẫn còn hoạt động tốt.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86767


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận