Khu Vườn Bí Mật Chương 14


Chương 14
Vị tiểu vương trẻ tuổi

Vào buổi sáng, cánh đồng hoang vẫn còn chìm trong sương mù và mưa vẫn không ngừng trút xuống. Thực khó lòng ra khỏi nhà vào lúc này. Martha thì bận rộn đến nỗi Mary chẳng có dịp mà chuyện trò với chị, nhưng chiều hôm ấy nó gọi chị đến ngồi với nó trong phòng trẻ. Chị tới, mang theo chiếc bít tất chị vẫn đan mỗi khi không có việc gì khác để làm.

- Cô có chuyện gì đấy? - Chị hỏi ngay lúc cả hai vừa ngồi xuống. - Có vẻ cô đang có chuyện muốn nói thì phải.

- Đúng vậy. Tôi đã khám phá ra tiếng khóc ấy là gì. - Mary bảo.

Martha để mặc đồ đan của chị rơi xuống đầu gối, ngước nhìn con bé bằng đôi mắt hốt hoảng.

- Cô không thể! - Chị thốt lên - Không bao giờ!

- Tôi đã nghe thấy nó trong đêm, - Mary tiếp tục. - Tôi bèn ngồi dậy và đi xem nó vọng từ đâu tới. Thì ra là Colin. Tôi đã tìm ra cậu ấy.

Khuôn mặt Martha đỏ bừng vì sợ hãi.

- Ôi! Cô Mary! - Chị nói nửa như khóc. - Cô không nên làm điều ấy, cô không nên! Cô sẽ gây cho tôi bao rắc rối. Tôi chưa bao giờ nói gì với cô về cậu ấy... nhưng cô sẽ đẩy tôi vào rắc rối đấy. Tôi sẽ bị mất việc và rồi mẹ sẽ ra sao!

- Chị chẳng việc gì mà mất việc, - Mary bảo. - Cậu ấy còn mừng là đằng khác. Chúng tôi đã nói chuyện suốt, cậu ấy bảo cậu ấy rất mừng vì tôi đã đến.

- Cậu ấy mừng? - Martha kêu tướng lên. - Cô có chắc không đấy? Cô còn chưa biết cậu ấy sẽ như thế nào khi có điều gì làm cậu ấy bực mình. Lớn tướng rồi mà vẫn khóc lóc như con nít, thế nhưng vào những lúc kích động cậu ấy lại gào thét dễ sợ làm mọi người chết khiếp. Cậu ấy thừa biết mọi người không ai dám phàn nàn, ta thán.

- Cậu ấy không bực mình đâu. - Mary bảo. - Khi tôi hỏi xem liệu tôi đã đi được chưa, cậu ấy còn bảo tôi ở lại. Cậu ấy đã hỏi tôi rất nhiều, và tôi ngồi vào chỗ chiếc ghế đẩu lớn, kể cho cậu ấy nghe về Ấn Độ, về chim ức đỏ và khu vườn. Cậu ấy vẫn không chịu để tôi ra về. Cậu ấy còn cho tôi xem bức vẽ chân dung mẹ mình nữa. Trước khi đi, tôi còn hát ru cho cậu ấy ngủ.

Martha há hốc miệng vì kinh ngạc.

- Tôi khó mà tin nổi cô! - Chị phản đối. - Chẳng khác nào cô bước thẳng vào hang hùm. Gặp phải lúc cậu ấy nổi cơn tam bành và làm ầm ĩ cả nhà thì khốn. Cậu ấy không cho người lạ nhìn mình đâu.

- Vậy mà cậu ấy đã để tôi nhìn thấy đấy. Suốt thời gian ấy, tôi nhìn cậu và cậu cũng nhìn tôi. Chúng tôi cứ chằm chằm nhìn nhau! - Mary bảo.

- Tôi không còn biết phải làm gì đây! - Martha kêu lên vẻ kích động. - Nếu bà Medlock phát hiện ra, bà ấy sẽ cho rằng tôi đã vi phạm luật lệ và kể cho cô biết, và tôi sẽ được gửi trả lại cho mẹ tôi ngay tức khắc.

- Cậu ấy không có ý định kể cho bà Medlock bất cứ điều gì. Trước hết đây là một bí mật, - Mary nói như đinh đóng cột. - Và cậu ấy bảo mọi người buộc phải làm những gì cậu ấy muốn.

- Hừ, thế là đủ, cái cậu này đến tệ! - Martha thở dài và lấy tạp dề lau vầng trán.

- Cậu ấy bảo rằng bà Medlock phải nghe lời. Cậu ấy còn muốn tôi đến thăm hằng ngày và nói chuyện với cậu ấy. Chính chị sẽ là người báo cho tôi khi cậu ấy muốn tôi đến.

- Tôi ư! - Martha kêu. - Để rồi tôi sẽ mất việc... chắc chắn vậy!

- Chị chẳng can hệ gì nếu chị làm những gì cậu ấy muốn chị làm và mọi người đều có bổn phận vâng lời cậu ấy, - Mary lý sự.

- Ý cô muốn nói, - Martha kêu to với đôi mắt tròn xoe, - rằng cậu ấy đối xử tốt với cô!

- Tôi nghĩ cậu ấy gần như thích tôi.

- Hẳn cô đã bỏ bùa mê cho cậu ấy rồi! - Martha cả quyết nói và hít một hơi dài.

- Chị muốn nói đến Phép thuật hả? - Mary hỏi vặn - Tôi từng nghe về Phép thuật hồi ở Ấn Độ, nhưng tôi có biết làm đâu. Vừa mới bước vào phòng cậu ấy, tôi đã ngạc nhiên đến nỗi chỉ biết đứng ngây ra đó mà nhìn chòng chọc. Thế rồi cậu ấy quay lại nhìn tôi đăm đăm. Cậu ấy ngỡ tôi là một hồn ma hay một giấc mộng, còn tôi nghĩ có lẽ cậu ấy cũng thế. Và thật kỳ quặc là chúng tôi đã ở đó một mình với nhau giữa đêm khuya mà chưa từng biết gì về nhau. Chúng tôi bắt đầu hỏi nhau những chuyện khác, cho tới khi tôi bảo cậu ấy rằng đã đến lúc tôi phải đi thì cậu ấy ngăn lại.

- Vậy là sắp tới ngày tận thế rồi! - Martha hổn hển.

- Có chuyện gì với cậu ấy thế? - Mary hỏi.

- Không ai rõ nữa, - Martha đáp. - Ông Craven trở nên không bình thường từ khi cậu ấy chào đời. Bác sĩ cho rằng ông ấy có vấn đề về tâm lý. Chỉ vì bà Craven đã chết như tôi có kể với cô. Ông ấy không thèm để mắt tới đứa bé nữa. Ông ấy nói năng mê sảng, bảo lại thêm một thằng gù nữa giống ông ra đời và tốt hơn hết là nó chết đi cho rảnh nợ.

- Thì ra Colin là người gù? - Mary hỏi. - Cậu ấy chẳng giống một người gù tẹo nào.

- Cậu ấy đâu đến nỗi thế, - Martha bảo. - Nhưng cậu ấy bắt đầu hỏng rồi. Mẹ tôi bảo đã có quá nhiều buồn rầu và đau đớn trong ngôi nhà này, khiến bất kỳ đứa trẻ nào cũng phải hỏng. Họ sợ lưng cậu bé yếu ớt nên luôn luôn để tâm chăm sóc cái lưng, bắt cậu nằm, không cho đi lại. Có dạo họ còn bắt cậu mang một cái nẹp chống, nhưng cậu ấy khổ sở cáu kỉnh đến nỗi đâm ra đổ bệnh. Rồi một ông bác sĩ có tiếng đến thăm bệnh cho cậu, và bắt họ tháo cái nẹp ra. Ông ấy nói với các thầy thuốc khác khá thô bạo, dù vẫn theo kiểu lịch sự. Ông ấy bảo bây giờ có cơ man là thuốc chữa bệnh, cứ để ông ấy chữa theo cách của mình.

- Tôi cho rằng cậu ấy là một cậu bé hư hỏng do quá được nuông chiều. - Mary bảo.

- Cậu ấy là đứa trẻ hư nhất từ trước tới giờ! - Martha tiếp tục. - Tôi không định nói rằng cậu ấy không ốm yếu. Đã vài lần cậu ấy bị ho và cảm lạnh suýt chết. Một bận, cậu ấy sốt vì thấp khớp, bận khác thì bị thương hàn. Chà! Bà Medlock sợ xanh cả mặt. Lúc cậu ấy đương bất tỉnh, bà ấy nói với cô bảo mẫu, cứ tưởng cậu ấy không biết gì: “Chắc chắn nó sẽ không qua khỏi lần này, mà như thế lại tốt hơn cho nó và cho mọi người”. Nói xong bà nhìn cậu. Cậu ấy vẫn nằm đó, đôi mắt to liền mở ra, chằm chằm nhìn bà, tỉnh táo. Bà Medlock không biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ thấy cậu giương mắt nhìn mình và bảo: “Bà cho tôi ít nước và đừng nói nữa.”

- Chị có cho rằng cậu ấy sẽ chết không? - Mary hỏi.

- Mẹ tôi vẫn bảo rằng có lý nào một đứa trẻ lại sống được mà không cần tới khí trời trong lành, và chẳng làm gì ngoài việc nằm dài lưng, đọc truyện tranh và uống thuốc. Cậu ấy ốm đau quặt quẹo và căm ghét bị mang ra khỏi cửa. Cậu ấy cũng dễ nhiễm lạnh đến nỗi cậu bảo đó là nguyên do làm cho cậu ốm.

Mary ngồi nhìn ngọn lửa.

- Tôi vẫn tự hỏi, - con bé chậm rãi nói, - sao cậu ấy không ra ngoài vườn mà ngắm cây cối mọc lên có hơn không. Điều đó đã làm tôi khỏe ra đấy.

- Một trong những lần tồi tệ nhất của cậu ấy, - Martha nói, - là vào cái dịp họ đưa cậu ấy ra chỗ khóm hồng bên đài phun nước. Lúc đó, cậu đang đọc trong một tờ báo về những người mắc chứng bệnh mà cậu gọi là “sốt dị ứng do phấn hoa”, và thế là cậu bắt đầu hắt hơi và bảo cậu đã mắc bệnh đó. Ngay lúc ấy, một người làm vườn mới đi ngang qua, anh ta không biết luật lệ nơi đây nên cứ nhìn cậu hết sức hiếu kỳ. Cậu liền nổi giận đùng đùng và bảo rằng anh ta nhìn cậu vì cậu sắp trở thành một thằng gù. Cậu kêu thét lên, sốt đùng đùng rồi ốm suốt đêm.

- Cậu ấy mà tức giận với tôi, tôi sẽ chẳng đến thăm nữa đâu. - Mary nói.

- Cô sẽ phải đến nếu cậu ấy muốn, - Martha bảo. - Cô cũng nên biết đây mới chỉ là bắt đầu.

Ngay sau đấy có tiếng chuông rung, chị cuộn đám đồ đan dở lại.

- Tôi đoán chắc cô bảo mẫu muốn tôi ở bên cậu ấy một lát đây. Hy vọng cậu ấy đang dễ tính.

Chị ra khỏi phòng khoảng chừng mươi phút thì quay lại với vẻ bối rối.

- Chà, cô đã bỏ bùa cậu ấy hả, - chị nói. - Cậu đang ngồi trên ghế sofa với cuốn truyện tranh. Cậu bảo cô bảo mẫu có thể đi đâu đó cho tới sáu giờ. Tôi đợi ở phòng bên cạnh. Vào lúc cô ấy đi khỏi, cậu ấy gọi tôi tới và bảo: “Tôi muốn Mary Lennox tới đây nói chuyện với tôi, và nhớ là không được kể lại với bất kỳ ai đâu đấy.” Tốt nhất là cô nên đi ngay đi.

Mary cũng muốn đi ngay. Tuy không háo hức gặp Colin như gặp Dickon, nhưng nó cũng thích gặp lại Colin lắm.

Ngọn lửa cháy rừng rực trong lò sưởi khi nó tiến vào phòng thằng bé, và trong ánh sáng ban ngày con bé nhận thấy căn phòng quả là đẹp. Màu sắc rực rỡ trên các tấm thảm trải sàn, thảm treo tường, các bức tranh và sách trên tường khiến căn phòng trông thật vui tươi và dễ chịu, ngay cả giữa lúc bầu trời xám xịt và mưa rơi sụt sùi. Colin trông cũng khá giống một bức tranh. Nó được ủ kín trong chiếc áo khoác ngoài bằng nhung, ngồi tựa lưng vào một chiếc nệm bọc gấm thêu to tướng. Hai má nó đỏ lựng.

- Cậu vào đi. Tớ đã nghĩ về cậu suốt buổi sáng.

- Tớ cũng nghĩ về cậu, - Mary trả lời. - Cậu không thể hình dung được chị Martha đã sợ hãi đến mức nào đâu. Chị ấy bảo bà Medlock sẽ nghĩ chị ấy kể với tớ về cậu, rồi chị ấy sẽ bị đuổi việc.

Thằng bé cau mày.

- Cậu hãy đi ra bảo chị ấy vào đây. Chị ấy đang ở phòng bên.

Mary ra ngoài rồi đưa Martha vào. Chị Martha đáng thương đang run lẩy bẩy cả người. Colin vẫn cau mày.

- Chị có phải làm những việc để tôi hài lòng không? Hay là chị không phải làm vậy - Nó hỏi.

- Tôi phải làm những thứ khiến cậu hài lòng, thưa cậu. - Martha ngập ngừng, mặt đỏ lên.

- Thế bà Medlock có phải làm những điều khiến tôi hài lòng không?

- Mọi người đều phải thế, thưa cậu. - Martha nói.

- Hừ, vậy thì, nếu tôi ra lệnh cho chị đưa Mary tới cho tôi, thì làm sao bà Medlock dám đuổi chị nếu bà ta phát hiện ra việc này?

- Làm ơn đừng để bà ấy biết, thưa cậu. - Martha khẩn khoản.

- Tôi sẽ đuổi bà ấy ngay tức khắc nếu bà ấy dám nói một lời về chuyện này, - cậu chủ Craven đĩnh đạc tuyên bố. - Bà ấy chẳng muốn điều đó đâu, tôi có thể khẳng định với chị như vậy.

- Xin cảm ơn cậu, - chị khẽ nhún gối. - Tôi muốn được làm tròn phận sự của mình, thưa cậu.

- Những gì tôi muốn là phận sự của chị. - Colin nói, mỗi lúc một rành mạch đâu ra đấy. - Từ nay tôi sẽ để tâm đến chị. Bây giờ thì đi đi.

Khi cửa đã khép lại sau lưng Martha, Colin nhận thấy Mary đang nhìn nó chằm chằm như thể nó đã khiến con bé ngạc nhiên lắm.

- Tại sao cậu lại nhìn tớ như vậy? Cậu đang nghĩ gì?

- Tớ đang nghĩ về hai điều.

- Điều gì nào? Ngồi xuống kể tớ nghe đi.

- Điều thứ nhất là, - Mary vừa nói, vừa ngồi xuống chiếc ghế đẩu to. - Có lần ở Ấn Độ, tớ đã gặp một thằng bé vốn là một tiểu vương. Khắp người nó đính đầy ngọc rubi, ngọc lục bảo và kim cương. Nó nói với thần dân của nó y như cậu nói với Martha vậy. Ai ai cũng phải làm mọi việc mà nó bảo, ngay tức khắc. Tớ nghĩ họ sẽ bị giết, nếu họ dám trái lời.

- Tớ sẽ bắt cậu phải kể cho tớ nghe về các vị tiểu vương ngay, nhưng trước hết hãy nói cho tớ điều thứ hai là gì.

- Tớ đang nghĩ, cậu và Dickon mới khác nhau làm sao.

- Dickon là ai? Cái tên nghe kỳ thế!

Nó có thể kể cho thằng bé nghe về Dickon lắm chứ, con bé nghĩ. Nó có thể kể về Dickon mà không hề nhắc tới khu vườn bí mật. Chính nó cũng thích được nghe Martha kể về Dickon. Bên cạnh đó, nó thích nói về thằng bé. Điều ấy dường như mang Dickon lại gần nó hơn.

- Anh ấy là em trai chị Martha. Anh ấy mười hai tuổi, - nó giải thích, - anh ấy chẳng giống bất kỳ ai trên thế giới này. Anh ấy có thể mê hoặc các loài cáo, sóc và chim chóc chẳng khác gì những người dân bản xứ Ấn Độ mê hoặc lũ rắn của họ. Khi anh ấy cất tiếng sáo nhẹ nhàng thì chúng kéo tới lắng nghe.

Có mấy quyển sách to tướng trên bàn cạnh chỗ nó, thằng Colin đột ngột kéo một quyển lại phía mình.

- Trong sách này cũng có bức tranh một người dụ rắn. Đến mà xem này.

Cuốn sách quả là đẹp tuyệt vời, với những hình minh họa đủ các sắc màu và thằng bé chỉ vào một trong những hình minh họa đó.

- Anh ấy có thể làm được thế không? - Nó hỏi một cách háo hức.

- Lúc anh ấy thổi sáo, chúng đều lắng nghe, - Mary giải thích. Nhưng Dickon không gọi đó là ma thuật. Anh ấy bảo, sở dĩ được như vậy là vì anh ấy đã sống trên đồng hoang quá lâu nên hiểu rõ chúng. Anh ấy còn bảo có lúc anh ấy cảm thấy chính mình như một con chim hoặc con thỏ, anh ấy yêu chúng đến vậy đó. Tôi nghĩ anh ấy đã hỏi con chim ức đỏ vài điều. Dường như họ đã dùng những tiếng líu ríu thật nhẹ nhàng để nói chuyện cùng nhau.

Colin ngả lưng trên tấm nệm, đôi mắt nó mỗi lúc một mở rộng và hai má nó nóng bừng.

- Kể thêm cho tớ về anh ấy đi, - nó nói.

- Anh ấy biết tất thảy mọi điều về trứng chim và tổ chim, - Mary tiếp tục. - Anh ấy còn rõ bọn cáo, lửng(1) và rái cá(2) sống ở đâu. Anh ấy giữ bí mật về chỗ của bọn chúng ghê đến nỗi những cậu con trai khác không tài nào tìm ra tổ chúng để làm cho chúng sợ hãi. Anh ấy còn biết về mọi thứ đang mọc hoặc sống trên cánh đồng hoang.

- Anh ấy thích đồng hoang à? Làm sao anh ấy lại thích được khi đó chỉ là một nơi rộng lớn, trơ trụi và thê lương như vậy?

- Đó là nơi tươi đẹp nhất chứ, - Mary phản đối. - Hàng ngàn sinh vật đáng yêu đang mọc trên đó, cùng hàng ngàn con vật bé nhỏ suốt ngày suốt đêm bận rộn xây tổ, đào hang, ríu rít, ca hát và la lối với nhau. Lúc nào chúng cũng bận rộn đùa vui dưới mặt đất, trên cây hoặc trong bụi rậm. Đó là thế giới của chúng.

- Làm cách nào mà cậu biết được tất cả những chuyện ấy? - Colin hỏi, xoay mình trên khuỷu tay để nhìn con bé.

- Thực ra tớ chưa một lần tới đó, - Mary nói, rồi như chợt nhớ ra điều gì. - Tớ chỉ mới đi xe ngựa qua đó trong màn đêm. Lúc đó, tớ nghĩ nó thực gớm ghiếc. Martha đã kể với tớ về nơi ấy trước, rồi mới đến Dickon. Khi nghe Dickon kể về cánh đồng hoang, cậu cảm tưởng như được tận mắt nhìn thấy, nghe thấy mọi thứ, ngỡ như mình đang đứng giữa bụi thạch thảo dưới ánh nắng, trong khi cây kim tước dậy mùi hương mật ong, còn khắp quanh cậu, ong bướm rập rờn bay lượn.

- Người ta chẳng thể thấy gì khi đau yếu, - Colin nói vẻ bồn chồn. Trông nó như thể một người đang lắng nghe một âm thanh lạ vọng lại từ xa, lòng phân vân tự hỏi không hiểu đó là cái gì.

- Cậu không thể nếu cậu cứ ở lì trong một căn phòng, - Mary nói.

- Tớ không đủ sức đi trên đồng hoang, - thằng bé nói với giọng uất ức.

Mary im lặng giây lát, rồi nó nói bằng vẻ cả quyết.

- Lúc nào đó cậu sẽ có thể.

Thằng bé cử động như thể bị giật mình.

- Đi trên cánh đồng hoang! Làm sao được? Tớ sắp chết rồi.

- Sao cậu biết? - Mary đáp lại, vẻ không đồng tình. Nó không ưa cái lối thằng bé nói về cái chết. Nó thấy không đồng cảm cho lắm. Nó cảm tưởng thằng kia cứ thổi phồng mọi thứ thì đúng hơn.

- Ôi, tớ đã nghe điều đó từ khi tớ biết nhớ, - Colin trả lời vẻ cáu kỉnh. - Họ lúc nào cũng thì thì thầm thầm và nghĩ rằng tớ không để ý. Họ cũng mong tớ chết cho rảnh nợ.

Cô chủ Mary liền nổi cơn tam bành. Nó bặm môi, rồi bảo thằng Colin.

- Còn nếu họ mong tớ chết ấy à, thì đừng hòng. Vậy ai là người muốn cậu chết?

- Đám gia nhân ấy và, dĩ nhiên, cả bác sĩ Craven nữa, bởi ông ta sẽ có thể đoạt lấy Misselthwaite và trở nên giàu có chứ không nghèo xơ nghèo xác như bây giờ. Ông ta không dám nói ra, nhưng luôn có vẻ hả hê khi thấy tớ trong tình trạng tồi tệ. Dạo tớ bị sốt vì thương hàn, mặt ông ta tròn căng hẳn ra. Tớ cho rằng cha tớ cũng mong điều đó nữa.

- Tớ không tin ông ấy lại như thế, - Mary đáp lại khăng khăng.

Thế là Colin quay ra nhìn nó lần nữa.

- Cậu không tin ư? - Thằng bé nói.

Nói đoạn, nó nằm ngả người trên tấm nệm và im lặng, như đang bận suy nghĩ. Yên lặng hồi lâu. Cả hai đứa cùng suy nghĩ về những sự việc kỳ quặc mà lẽ ra bọn trẻ con chẳng mấy khi bận tâm.

- Tớ thích cái ông bác sĩ tốt bụng ở Luân Đôn hơn, bởi ông ấy bắt mọi người tháo cái nẹp sắt ra khỏi người cậu, - cuối cùng Mary nói. - Ông ấy có bảo cậu sắp chết không?

- Không.

- Ông ấy nói gì?

- Ông ấy không phải là loại người hay thì thào to nhỏ, - Colin trả lời. - Có lẽ ông ấy biết tớ ghét chuyện to nhỏ. Tớ đã nghe ông ấy nói thật rành rọt một câu: “Cậu chàng này có thể sống, nếu có quyết tâm. Hãy để cậu ta được vui vẻ.” Xem chừng ông ấy nói điều đó một cách giận dữ.

- Tớ sẽ cho cậu hay ai là người có thể khiến cậu vui, biết đâu đấy. - Mary nói, sau khi đã suy nghĩ kỹ. Nó cảm thấy chuyện này phải được giải quyết dứt điểm bằng cách này hay cách khác. - Tớ tin rằng Dickon có thể. Anh ấy luôn thích nói về những sinh vật sống. Anh ấy không nói về những chuyện chết chóc hoặc đau yếu bao giờ. Anh ấy thường ngước nhìn trời cao để ngắm chim chóc bay ngang qua... hoặc cúi xuống sát đất để nhìn những mầm chồi đang mọc. Anh ấy có đôi mắt xanh tròn xoe và chúng luôn mở to để nhìn ngắm xung quanh. Anh ấy còn hay cười phá lên với cái miệng thật rộng... và đôi má thì thật là hồng, cứ như hai quả anh đào vậy.

Con bé kéo chiếc ghế đẩu lại gần sofa, nét mặt nó hoàn toàn thay đổi khi nhớ đến cái miệng vừa rộng vừa cong và đôi mắt luôn mở to đó.

- Cậu thấy đấy, - con bé nói. - Đừng bao giờ nói về chết chóc nữa nhé, tớ không thích đâu. Chúng ta hãy nói về những thứ đang sống. Chúng ta hãy nói về Dickon. Và rồi chúng ta sẽ cùng xem những bức tranh của cậu.

Đấy quả là những điều tốt đẹp nhất mà con bé có thể nói ra. Nói về Dickon có nghĩa là nói về cánh đồng hoang, nói về mái nhà gianh có mười bốn con người với vẻn vẹn mười sáu đồng si-ling mỗi tuần. Và những đứa trẻ khỏe mạnh béo tốt trên những trảng cỏ của cánh đồng hoang như những chú ngựa non hoang dã. Và đó cũng là nói về bà mẹ của Dickon, về cuộn dây nhảy, về cánh đồng hoang với ánh nắng chan hòa, và cả những mầm non xanh đang nhú khỏi lớp đất đen mỗi ngày. Và nó sống động đến nỗi Mary đã kể một cách say sưa, hơn hẳn những lần nó kể trước đây, trong khi Colin cũng tiếp chuyện và lắng nghe như chưa từng bao giờ như thế trong đời nó. Hai đứa trẻ bắt đầu cười đùa về những chuyện không đâu, theo kiểu bọn trẻ vẫn thường biểu lộ mỗi khi chúng được vui vẻ bên nhau. Chúng cười mãi đến nỗi rốt cục chúng làm ầm ĩ lên như hai đứa con nít bình thường, tự nhiên và khỏe mạnh - thay vì một con nhóc khó chịu, đáng ghét cùng một thằng bé ốm o đang cho rằng mình sắp chết.

Chúng cùng nhau vui vẻ đến nỗi quên khuấy cả tranh ảnh lẫn thời gian. Hai đứa còn cười ầm lên vì lão Ben Weatherstaff và con chim ức đỏ của lão. Chợt nhớ ra điều gì, thằng Colin tự nhiên ngồi ngay dậy như thể đã quên béng cả cái lưng yếu ớt của nó:

- Cậu có biết có một điều chúng mình chưa hề nghĩ đến không? - Thằng bé nói. - Chúng mình là anh em họ.

Thật là kỳ lạ khi cả hai bàn tán không biết bao nhiêu là chuyện mà lại không nhớ nổi điều đơn giản này. Việc này khiến chúng càng cười như nắc nẻ. Chúng đã biết kiếm chuyện đùa để cười với nhau. Giữa lúc đang vui như vậy thì cánh cửa bật mở, bác sĩ Craven và bà Medlock bước vào.

Bác sĩ Craven giật mình sửng sốt, còn bà Medlock gần như ngã ra đằng sau bởi ông bác sĩ vô tình đụng vào người bà.

- Trời ơi! - Bà Medlock đáng thương thốt lên, hai tròng mắt gần như muốn nhảy ra ngoài. - Ôi trời ơi!

- Cái gì thế này? - Ông bác sĩ Craven lên tiếng và dấn bước về phía trước. - Chuyện này có nghĩa là thế nào?

Và Mary lại được phen trông thấy vị tiểu vương trẻ ra mặt. Colin đáp lại họ, như thể sự sửng sốt của bác sĩ và cơn kinh hãi của bà Medlock chẳng có gì là quan trọng. Nó giữ vẻ thản nhiên, như thể vừa vào trong phòng chỉ là một con mèo và một con chó già.

- Đây là em họ tôi, cô Mary Lennox. - Tôi đã mời cô ấy tới để chuyện trò với tôi. Tôi mến cô ấy. Cô ấy phải tới và nói chuyện với tôi bất kể khi nào tôi cho gọi.

Bác sĩ Craven quay sang bà Medlock với vẻ trách mắng.

- Ôi, thưa ngài, - bà thở hổn hển, - quả thực tôi không biết làm thế nào chuyện này lại xảy ra. Không một đứa gia nhân nào trong nhà dám mở mồm hết. Tất cả bọn chúng đều đã được dặn dò kỹ lưỡng.

- Không ai nói gì với cô ấy hết, - Colin bảo. - Cô ấy nghe tôi khóc nên tự tìm ra tôi đấy. Tôi lấy làm mừng vì cô ấy đã tới. Bà đừng có ngốc nghếch như vậy, bà Medlock.

Mary nhận thấy bác sĩ Craven có vẻ không được hài lòng cho lắm, nhưng rõ ràng ông ta chẳng dám phản đối bệnh nhân của mình. Ông ta ngồi xuống bên cạnh Colin và bắt mạch cho thằng bé.

- Chú e rằng cháu bị kích động quá đấy. Trạng thái kích động không tốt cho cháu đâu, cậu bé. - ông ta bảo.

- Cháu sẽ bị kích động, nếu cô ấy bỏ đi, - Colin trả lời, đôi mắt nó bắt đầu lóe lên giận dữ. - Cháu đã thấy khỏe hơn trước. Chính cô ấy giúp cháu khỏe hơn. Chị bảo mẫu phải mang trà của cô ấy cùng với trà của cháu tới đây. Chúng cháu sẽ dùng trà với nhau.

Bà Medlock và bác sĩ Craven nhìn nhau vẻ phiền muộn, nhưng rõ ràng chẳng làm gì nổi.

- Cậu nhà trông khá hơn đấy, thưa ngài, - bà Medlock đánh bạo nói. - Nhưng, - bà tỏ ra cân nhắc, - cậu nhà đã khá hơn vào sáng hôm nay từ trước khi cô ấy đến.

- Cô ấy đã đến đây từ đêm qua. Cô ấy ở đây với tôi một lúc lâu. Cô ấy còn hát một bài hát tiếng Hindu cho tôi nghe và ru tôi ngủ nữa. Hôm nay, khi tỉnh dậy, tôi thấy khỏe khoắn hơn nhiều. Tôi đã muốn dùng bữa sáng. Tôi muốn dùng trà ngay bây giờ. Nhắc cô bảo mẫu đi, bà Medlock.

Bác sĩ Craven không dám nán lại lâu hơn. Ông ta dặn dò người bảo mẫu dăm phút lúc cô này bước vào phòng, rồi nói vài lời căn dặn với Colin. Ông ta không được nói quá dông dài; ông ta không được phép quên chuyện nó ốm; cũng như chuyện nó rất dễ bị mệt. Mary nghĩ bụng hình như còn có một số điều không được dễ chịu cho lắm mà ông ta cũng không được phép quên.

Colin tỏ ra cáu kỉnh, đôi mắt viền mi đen nhánh kỳ lạ của nó nhìn như dán vào mặt bác sĩ Craven.

- Cháu muốn quên điều đó đi, - cuối 4c5 cùng, nó lên tiếng. - Cô ấy đã làm cho cháu quên. Đó là lý do tại sao cháu muốn có cô ấy bên cạnh.

Bác sĩ Craven trông không được vui khi ra khỏi căn phòng. Bối rối, ông ta liếc nhìn đứa bé gái đang ngồi trên chiếc ghế đẩu lớn. Nó đã trở lại là một đứa trẻ câm lặng và cứng nhắc ngay từ lúc ông ta bước vào, khiến ông ta chẳng nhận ra đâu là vẻ cuốn hút của nó. Thằng bé thì trông rõ ràng là sáng sủa, lanh lợi hơn mọi bữa. Ông ta thở dài vẻ nặng nề khi đi ra hành lang.

- Họ lúc nào cũng muốn tớ chén những gì tớ không thích, - Colin bảo, lúc cô bảo mẫu bưng trà vào và đặt lên chiếc bàn kê gần ghế sofa. - Nhưng hôm nay, nếu cậu chén thì tớ cũng chén. Những cái bánh nướng này trông nóng hổi và hấp dẫn nhỉ. Này, kể tiếp cho tớ nghe về các vị tiểu vương đi.

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/28457


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận