Dù sao thì anh cũng thấy không khỏe chút nào. Cơn nhức đầu sau khi chè chén để lại cảm giác chua chát trong bao tử anh. Thẩm phán là một anh chàng khá trẻ, khoảng bốn mươi, trông anh ta cũng có vẻ bị nhức đầu sau khi uống rượu. Mà có lẽ không phải vậy. Koch đằng hắng giọng.
“Thưa quý tòa, tôi ở đây để đại diện cho cô Alexandra Burnet không thể đích thân đến đây được.”
“Phiên tòa này đã tống đạt lệnh yêu cầu cô ta trình diện trước tòa,” thẩm phán nói. “Đích thân trình diện trước tòa.”
“Tôi ý thức được như vậy, thưa quý tòa, nhưng cô ấy và đứa con của mình hiện đang bị một kẻ săn tiền thưởng săn đuổi. Người này định lấy mô từ cơ thể mẹ con họ, và do đó cô phải chạy trốn để không bị lấy mô.”
“Tên săn tiền thưởng nào?” thẩm phán nói. “Tại sao có tên săn tiền thưởng nào đó dính líu trong vụ này?”
“Chúng tôi muốn biết chính điều đó đấy, thưa quý tòa,” Bob Koch nói.
Vị thẩm phán quay người sang hướng khác. “Ông Rodriguez?”
“Thưa quý tòa,” Rodriguez đứng lên nói, “không hẳn có tay săn tiền thưởng.”
“Chậc, vậy có gì chứ?”
“Có một chuyên gia truy bắt đào phạm đang làm việc.”
“Với ủy quyền nào?”
“Anh ta không hẳn được ủy quyền. Trong trường hợp này anh ta đang thực hiện quyền bắt giữ của công dân, thưa quý tòa.”
“Bắt giữ ai cơ?”
“Bắt giữ cô Burnet và con trai cô ta.”
“Dựa trên cơ sở nào?”
“Sở hữu tài sản bị đánh cắp, thưa quý tòa.”
“Để thực hiện quyền bắt giữ của công dân, hành vi sở hữu tài sản lấy cắp phải được người bắt giữ chứng kiến.”
“Vâng, thưa quý tòa.”
“Vậy người ta đã chứng kiến được gì?”
“Chứng kiến hành vi sở hữu tài sản lấy cắp đang nói đến, thưa quý tòa.”
“Anh đang nói tới hệ tế bào Burnet,” thẩm phán nói.
“Vâng, thưa quý tòa. Như đã trình bày trong hồ sơ trước phiên tòa này, hệ tế bào đó do UCLA sở hữu và cấp phép cho BioGen ở Westview. Quyền sở hữu này đã được nhiều phán quyết trước đó của tòa chứng thực.”
“Vậy thì làm cách nào mà nó bị đánh cắp?”
“Thưa quý tòa, chúng tôi có bằng chứng cho thấy ông Burnet đã âm mưu loại bỏ hệ tế bào thuộc sở hữu của BioGen. Nhưng dù chuyện đó có xác thực hay không thì BioGen vẫn có quyền phục hồi những hệ tế bào mà công ty sở hữu.”
“Công ty ấy có thể phục hồi tế bào từ ông Burnet ư?”
“Vâng, thưa quý tòa. Giả định là như vậy, bởi vì tòa đã phán quyết rằng tế bào của ông Burnet thuộc sở hữu của BioGen, nên lúc nào họ cũng có thể lấy thêm tế bào. Tài sản này có thật sự tồn tại bên trong cơ thể của ông Burnet hay không không quan trọng. BioGen sở hữu những tế bào này.”
“Anh đang phủ nhận quyền bảo vệ toàn vẹn cơ thể của ông Burnet ư?” thẩm phán chau mày nói.
“Xin lỗi, thưa quý tòa, không có quyền nào như vậy cả. Giả sử ai đó lấy nhẫn kim cương của vợ ngài rồi nuốt nó vào bụng. Chiếc nhẫn vẫn là tài sản của ngài.”
“Phải,” thẩm phán nói, “nhưng có lẽ người ta sẽ yêu cầu tôi kiên nhẫn chờ cho đến khi chiếc nhẫn xuất hiện trở lại.”
“Vâng, thưa quý tòa. Nhưng giả sử vì một lý do nào đó chiếc nhẫn bị kẹt trong ruột. Ngài có quyền lấy nó ra không? Nhất định là có. Nó không thể tách rời khỏi ngài được. Nó ở đâu thì cũng là tài sản của ngài. Bất cứ ai nuốt nó đều phải chấp nhận rủi ro nó sẽ bị lấy ra khỏi cơ thể người đó.”
Koch nghĩ anh nên vào cuộc. “Thưa quý tòa,” anh nói, “nếu tôi nhớ không sai kiến thức sinh học ở phổ thông thì bất cứ thứ gì nuốt vào bụng chưa hẳn nằm trong cơ thể, cũng như một thứ nằm giữa chỗ hổng của bánh vòng không phải nằm bên trong cái bánh vòng đó. Chiếc nhẫn nằm bên ngoài cơ thể.”
Rodriguez bắt đầu lắp bắp. “Thưa quý tòa...”
“Thưa quý tòa,” Koch cất cao giọng nói, “tôi tin tất cả chúng ta đều đồng ý rằng chúng ta không phải đang nói về những chiếc nhẫn kim cương bị đánh cắp. Chúng ta đang nói về tế bào nằm trong cơ thể người. Cái ý niệm rằng những tế bào này có thể được người khác sở hữu - mặc dù tòa thượng thẩm đã ủng hộ một phán quyết từ ban hội thẩm - dẫn đến những kết luận vô lý, như ngài thấy đấy. Nếu BioGen không còn sở hữu tế bào của ông Burnet nữa, vậy thì họ đã đánh mất chúng bởi chính hành động ngu ngốc của họ. Họ không có quyền trở lại và lấy thêm. Nếu ngài mất chiếc nhẫn kim cương, ngài không thể quay trở lại mỏ kim cương và tìm cái thay thế.”
Rodriguez nói, “So sánh này không chính xác.”
“Thưa quý tòa, mọi so sánh đều không chính xác.”
“Trong trường hợp này,” Rodriguez nói, “tôi sẽ yêu cầu tòa chỉ chú trọng kỹ lưỡng đến vấn đề đang bàn, và xem xét những kết luận của những phiên tòa trước có liên quan tới vấn đề này. Tòa đã phán quyết rằng BioGen sở hữu những tế bào này. Chúng có nguồn gốc từ ông Burnet nhưng chúng là tài sản của BioGen. Chúng tôi cho rằng chúng tôi có quyền lấy lại tế bào bất cứ lúc nào.”
“Thưa quý tòa, lập luận này mâu thuẫn trực tiếp với điểm sửa đổi thứ Mười ba của Hiến Pháp Mỹ, nghiêm cấm hành vi chiếm hữu nô lệ. BioGen có thể sở hữu tế bào của ông Burnet. Nhưng họ không thể sở hữu ông Burnet được. Không thể.”
“Chúng tôi chưa bao giờ nói là mình sở hữu ông Burnet cả, chỉ là tế bào của ông ta thôi. Và đó là tất cả những gì chúng tôi đòi hỏi ngay lúc này,” Rodriguez nói.
“Nhưng hệ quả thực tế của phát biểu ấy nghĩa là các ông trên thực tế đã sở hữu ông Burnet, bởi lẽ các ông cho rằng mình có quyền xâm nhập cơ thể của ông ta bất cứ lúc nào...”
Vị thẩm phán trông có vẻ mệt mỏi. “Này hai vị, tôi hiểu vấn đề rồi,” anh nói, “nhưng tất cả những chuyện này có liên quan gì đến mẹ con cô Burnet?”
Bob Koch lùi lại. Cứ để Rodriguez tự chôn mình với chuyện này vậy, anh nghĩ. Kết luận mà hắn yêu cầu tòa rút ra hoàn toàn không thể tưởng tượng được.
“Thưa quý tòa,” Rodriguez nói, “nếu tòa chấp nhận tế bào của ông Burnet là tài sản của thân chủ tôi, như tôi đây tin là vậy, thì tế bào đã nói đến ấy là tài sản của thân chủ tôi cho dù chúng ở đâu đi chăng nữa. Chẳng hạn như, nếu ông Burnet hiến máu cho ngân hàng máu, thì máu này sẽ chứa tế bào mà chúng tôi sở hữu. Chúng tôi có thể khẳng định quyền sở hữu những tế bào đó, và yêu cầu trích chúng ra khỏi máu, bởi vì theo luật ông Burnet không thể cho bất cứ người nào khác những tế bào đó được. Chúng là tài sản của chúng tôi.”
“Tương tự, cũng chính những tế bào mà chúng tôi sở hữu ấy - những tế bào giống nhau y đúc - cũng nằm trong cơ thể con cái và hậu duệ của ông Burnet. Do đó chúng tôi cũng có quyền sở hữu những tế bào ấy nữa. Và chúng tôi có quyền lấy những tế bào ấy.”
“Còn tay săn tiền thưởng?”
“Chuyên gia truy bắt đào phạm ấy,” Rodriguez nói, “đang thực hiện quyền bắt giữ công dân dựa trên cơ sở sau đây. Nếu anh ta thấy hậu duệ của ông Burnet thì họ rõ ràng đang sở hữu tài sản bị lấy cắp, và do đó có thể bị bắt, bởi vì theo định nghĩa họ đang đi loanh quanh với tài sản của chúng tôi.”
Vị thẩm phán thở dài.
“Thưa quý tòa,” Rodriguez nói, “kết luận này đối với tòa có vẻ như vô lý, nhưng sự thật là chúng ta đang ở vào một kỷ nguyên mới, và những gì mà hôm nay dường như lạ lẫm đối với chúng ta thì vài năm sau nữa sẽ không còn lạ lẫm như vậy nữa. Bộ gien người đã được sở hữu với một tỷ lệ lớn rồi. Thông tin di truyền của nhiều vi sinh vật gây bệnh đã được sở hữu. Ý niệm cho rằng những nguyên tố sinh học như thế này thuộc sở hữu tư nhân nghe lạ lẫm chỉ là do nó quá mới đối với chúng ta. Nhưng tòa buộc phải phán quyết hợp với những phán quyết trước đó. Tế bào Burnet là tế bào của chúng tôi.”
“Nhưng trong trường hợp hậu duệ thì tế bào ấy chỉ là bản sao thôi,” vị thẩm phán nói.
“Vâng, thưa quý tòa, nhưng chuyện đó không quan trọng. Nếu tôi sở hữu công thức tạo ra một thứ gì đó, và có người sao chép công thức đó ra giấy và trao cho một người khác, nó vẫn là tài sản của tôi. Tôi sở hữu công thức đó, cho dù nó được sao chép như thế nào đi nữa, hoặc do ai sao chép đi nữa. Và tôi có quyền lấy lại bản sao chép đó.”
Vị thẩm phán quay sang Bob Koch. “Ông Koch?”
“Thưa quý tòa, ông Rodriguez đã yêu cầu ngài phán quyết kỹ lưỡng. Tôi cũng yêu cầu như thế. Những phiên tòa trước đã phán quyết rằng một khi tế bào của ông Burnet ra khỏi cơ thể ông ta, chúng không còn thuộc sở hữu của ông ấy nữa. Họ không nói rằng ông Burnet là một mỏ vàng di động mà BioGen muốn cướp đoạt lúc nào thì cướp đoạt. Và họ cũng chẳng bao giờ nói điều gì có ngụ ý là BioGen có quyền tận tay lấy những tế bào này bất chấp ai mang tế bào ấy. Tuyên bố đó đi quá xa so với ngụ ý của phán quyết trước đây của tòa. Thật sự thì đây chỉ là một tuyên bố mới mẻ phát sinh từ chuyện mơ mộng viển vông mà thôi. Và chúng tôi đòi hỏi tòa yêu cầu BioGen dừng ngay tay săn tiền thưởng này lại.”
Vị thẩm phán nói, “Tôi không hiểu dựa vào cơ sở nào mà BioGen đã tự hành động như thế hả ông Rodriguez. Dường như chuyện này hấp tấp và không cần thiết. Các ông có thể chờ cô Burnet ra trước tòa trình bày cơ mà.”
“Thưa quý tòa, không may là chuyện đó sẽ không xảy ra. Tình trạng kinh doanh của thân chủ tôi đang ở mức nghiêm trọng. Như tôi đã nói, chúng tôi tin chúng tôi là nạn nhân của một âm mưu tước đoạt thứ thuộc về chúng tôi. Tôi không nói chi tiết nhưng tôi nghĩ việc thay tế bào ngay lập tức là một việc làm cấp bách. Nếu tòa buộc phải trì hoãn, chúng tôi có thể mất nhiều cơ hội kinh doanh trong thời gian chờ, như vậy công ty của chúng tôi sẽ phải đóng cửa. Chúng tôi chỉ cố gắng phản ứng đúng lúc đối với một vấn đề cấp bách.”
Bob có thể thấy vị thẩm phán đang chấp nhận điều đó. Mấy thứ hợp thời khốn kiếp ấy có tác dụng đối với anh ta; anh ta không muốn phải chịu trách nhiệm việc khiến một công ty công nghệ sinh học ở California phải đóng cửa. Vị thẩm phán xoay người trong ghế, nhìn đồng hồ trên tường, rồi xoay người trở lại.
Bob phải thoát ra khỏi tình huống này. Và anh phải làm ngay.
“Thưa quý tòa,” anh nói, “còn một vấn đề nữa có liên quan tới quyết định của ngài. Tôi muốn ngài chú ý đến một bản khai tuyên thệ sau đây từ Trung tâm Y dược Đại học Duke, đề ngày hôm nay.” Anh đưa cho Rodriguez một bản sao. “Tôi sẽ tóm tắt nội dung bản khai này cho quý tòa, và nói ngắn gọn nó ảnh hưởng như thế nào đối với vấn đề trước mặt ngài.”
Hệ tế bào Burnet, anh ta giải thích, có thể tạo ra lượng lớn một loại hóa chất gọi là chất TLA7D cytotoxic (có độc tính đối với tế bào), một chất kháng ung thư cực mạnh. Chính hóa chất này làm cho hệ tế bào của BioGen có giá trị đến vậy.
“Tuy nhiên, tuần qua Cục Sáng chế Mỹ đã cấp bằng sáng chế cho gien TLA4A. Đây là gien hoạt hóa có tác dụng mã hóa enzim có chức năng cắt ra một nhóm hydroxy từ tâm của một protein tên ‘protein 4B liên quan tới lym phô bào T cytotoxic’. Protein này là tiền thể của TLA7D cytotoxic, được tạo thành khi nhóm hydroxy bị mất đi. Nếu nhóm hydroxy không bị mất đi thì protein này không có hoạt tính sinh học. Vì vậy gien kiểm soát việc sản xuất sản phẩm của BioGen do Đại học Duke sở hữu, và họ khẳng định quyền sở hữu của mình qua hồ sơ trong tay quý vị.”
Rodriguez đỏ bừng mặt. “Thưa quý tòa,” anh ta nói, “đây là nỗ lực nhằm gây xáo trộn một vụ việc vốn rất đơn giản. Tôi đề nghị ngài...”
“Vụ việc này thật sự đơn giản,” Bob đồng ý. “Nếu BioGen không thể thỏa thuận được chuyện cấp phép với Duke, họ không thể sử dụng enzim cho gien Duke tạo ra. Enzim này và sản phẩm của nó do một người khác sở hữu.”
“Nhưng ở đây...”
“BioGen sở hữu một tế bào, thưa quý tòa,” Bob nói. “Nhưng không phải tất cả các gien bên trong tế bào đó.”
Vị thẩm phán lại nhìn đồng hồ. “Tôi sẽ xem xét vấn đề này kỹ lưỡng,” anh ta nói, “và sẽ đưa ra phán quyết vào ngày mai.”
“Nhưng thưa quý tòa...”
“Cảm ơn hai vị. Phần tranh luận đã kết thúc.”
“Nhưng thưa quý tòa, chúng ta có một người phụ nữ và con trai bị săn đuổi...”
“Tôi tin là tôi hiểu vấn đề. Tôi cần tìm hiểu luật. Hẹn gặp hai ông ngày mai, các luật sư ạ.
Gia đình Kendall thét lên khi thấy chiếc Hummer phóng về phía trước, nhưng Vasco Borden, miệng gầm gừ qua kẽ răng đang ê ẩm còn tay thì cầm miếng băng áp sát vào chỗ tai đang chảy máu, biết mình đang làm gì. Gã lái xe lên bãi cỏ và dừng hẳn lại để chặn cửa trước. Rồi gã và Dolly nhảy ra, chộp đứa con Jamie của Alex từ bãi cỏ, xô bà mẹ choáng váng của thằng nhóc xuống đất, nhảy lại vào trong chiếc Hummer, rồi rú xe tẩu thoát. Trong khi những người khác chỉ kịp đứng trố mắt ra nhìn.
“Có thế chứ cưng,” Vasco hét to. “Nếu mày không ở trong nhà thì mày là của tao.”
Gã rú xe phóng ra đường.
“Mình mất chiếc cứu thương rồi, cho nên mình sẽ chuyển sang kế hoạch B.” Gã nhìn qua vai. “Dolly cưng, chuẩn bị phòng mổ tiếp theo. Nói bọn họ biết hai mươi phút sau mình tới. Một tiếng nữa thôi là xong tất vụ này.”
Henry Kendall đứng sửng sốt. Một vụ bắt cóc vừa xảy ra ngay trên bãi cỏ trước sân nhà anh; anh đã không phóng lên phía trước để ngăn lại; con trai anh đang khóc thổn thức và nắm tay mẹ nó; còn Dave thì vừa thả cái tai của một gã nào đó trên cỏ; mẹ của đứa nhỏ kia thì đang lồm cồm bò dậy, hét toáng lên để cảnh sát nghe, nhưng chiếc Hummer đã mất dạng, xuống đường và rẽ ngang, rồi biến mất.
Anh cảm thấy yếu đuối và mất đi phẩm chất của người đàn ông, như thể anh vừa làm điều gì đó sai quấy vậy, và anh ngượng ngùng khi phải đứng cạnh người bạn của Lynn, nên anh đi vào trong và ngồi lại chỗ máy vi tính. Chính là chỗ mà năm phút trước anh đã ngồi, trước khi Dave hét lên và mọi chuyện bắt đầu như thế này.
Anh vẫn còn chưa đóng trang web TrackTech, trên đó anh đã nhập vào mấy cái tên và mấy số xê ri. Anh đã nhập tên và số xê ri cho Dave, cho Jamie, nhưng anh chưa làm vậy cho đứa nhỏ Jamie kia. Cảm thấy tội lỗi, anh bắt đầu nhập ngay.
Trang web chuyển sang một bản đồ trắng không có điểm gì đặc biệt, có một điểm nhập mà ở đó bạn có thể gõ vào thiết bị mà bạn muốn tìm kiếm. Thiết bị đầu tiên anh nhập vào là của Jamie Burnet. Nếu cảm biến đang hoạt động thì anh sẽ thấy nó chạy dọc theo đường. Nhưng chấm điểm màu xanh dương ấy vẫn không di chuyển, nó bất động. Địa chỉ ghi 348 đường Marbury Madison, chính là địa chỉ nhà anh.
Anh nhìn quanh phòng khách và thấy đôi giày thể thao trắng của Jamie ở trong góc, cùng với cái túi du lịch nhỏ xíu của nó. Nó thậm chí còn chưa đi đôi giày vào nữa.
Tiếp đó, anh gõ vào cảm biến của chính con trai mình. Kết quả cũng như thế. Chấm điểm màu xanh dương vẫn cố định ngay địa chỉ nhà anh. Rồi nó di chuyển một chút. Và Jamie con anh từ cửa bước vào. “Bố. Bố đang làm gì vậy? Cảnh sát đang ở ngoài đấy. Họ muốn nói chuyện với tất cả mọi người.”
“OK, một phút nữa.”
“Mẹ bạn ấy thật sự rất buồn đấy bố.”
“Một phút nữa.”
“Dì ấy đang khóc. Mẹ nói lấy khăn lụa.”
“Bố ra ngay đây.”
Henry nhanh nhảu gõ vào số xê ri thứ ba - số của Dave. Màn hình hoàn toàn trống trơn. Anh chờ một chút. Anh thấy bản đồ được vẽ lại. Giờ thì nó hiện ra những con đường dẫn đến phía Bắc thành phố, trong khu vực Torrey Pines.
Chấm điểm xanh dương đang dịch chuyển.
Phía Bắc, đường Torrey Pines, ĐBĐ, 92 km/h.
Anh theo dõi thấy chấm điểm tắt lịm khi vào đường Gaylord, hướng về phía đất liền.
Bằng cách nào đó, cảm biến của Dave nằm trong chiếc Hummer. Hoặc là nó rơi ra từ giày của thằng bé, hoặc là chúng đã lấy giày của nó. Nhưng cảm biến ở trong đó, và đang hoạt động.
Anh nói, “Jamie, đi gọi dì Alex cho bố. Nói với dì ấy bố cần gặp một chút.”
“Nhưng bố...”
“Đi đi. Và đừng nói gì với cảnh sát hết.”
Alex nhìn chăm chú vào màn hình. “Tôi sẽ tóm tên chó đẻ ấy và sẽ bắn vỡ đầu hắn. Mày đụng đến con tao thì chỉ có chết.” Giọng cô thẳng thừng, lạnh lùng. Henry thấy ớn lạnh. Cô ta nói là sẽ làm.
“Hắn đang đi đâu?” cô nói.
“Hắn đã rời khỏi bãi biển và đang hướng về đất liền, nhưng cũng có thể hắn đang tránh xe cộ ở chỗ Del Mar. Có thể hắn sẽ quay trở lại biển nữa. Vài phút nữa mình sẽ biết.”
“Hắn cách bao xa?”
“Mười phút.”
“Đi thôi. Anh mang cái đó,” cô nói, đầu gật về phía chiếc laptop. “Tôi đi lấy súng.”
Henry nhìn ra cửa sổ. Có ba xe cảnh sát nhấp nháy đèn đang nằm bên lề, và sáu viên cảnh sát trên bãi cỏ sân trước. “Không dễ vậy đâu.”
“Dễ chứ sao không. Tôi để xe gần đây thôi.”
“Họ nói họ cần gặp tôi.”
“Bịa ra một cái cớ nào đó. Tôi ra lấy xe đây.”
Anh bảo họ Dave cần được chăm sóc y tế và anh phải đưa nó đến bệnh viện. Anh nói vợ anh là Lynn đã chứng kiến mọi chuyện và có thể cho họ biết chuyện gì đã xảy ra. Anh nói anh sẽ trình bày đầy đủ khi anh trở về, nhưng anh cần đưa Dave đến bệnh viện.
Vì đôi tay của Dave bê bết máu, họ chấp thuận. Lynn ném cho Henry một cái nhìn buồn cười. Anh nói, “Anh sẽ cố gắng trở về sớm.” Anh bước quành ra sau nhà rồi cắt ngang qua ngôi nhà phía sau nhà mình. Dave theo anh.
“Mình đi đâu vậy?” Dave nói.
“Đi tìm cái gã đó. Gã có bộ râu quai nón màu đen ấy.”
“Hắn làm Jamie bị thương.”
“Ừ, tao biết.”
“Con cũng làm hắn bị thương.”
“Ừ, tao biết.”
“Hai tai hắn sứt ra.”
“Ừm.”
“Lần tới sẽ là mũi hắn.”
“Dave,” anh nói. “Mình phải kiềm chế chứ.”
“Kiềm-chế là gì?” Dave nói.
Giải thích thật quá rắc rối. Chiếc Toyota màu trắng của Alex đang ở phía trước. Họ vào xe. Anh ngồi phía trước, Dave ngồi phía sau.
“Cái gì đây?” Dave nói, tay chỉ về chỗ ngồi phía sau nó.
“Đừng đụng vào, Dave,” Alex nói. “Súng đấy.” Cô sang số xe rồi lái đi.
Cô gọi cho Bob Koch, gọi cầu may phòng khi anh ta có tin tức gì đó.
“Có tin đấy,” anh nói. “Nhưng tôi ước chi chuyện tốt hơn nữa.”
“Ông ta cho qua ư?”
“Ông ta hoãn lại tới ngày mai.”
“Anh có thử...”
“Rồi, thử rồi. Ông ta bối rối lắm. Đây không phải là lãnh vực pháp lý thông thường đối với thẩm phán ở Oxnard. Chắc có lẽ vì thế mà bọn họ đã đệ đơn ở đó.”
“Vậy là mai ư?”
“Ừ.”
“Cảm ơn anh,” cô nói, rồi dập máy. Nói cho anh ta biết việc cô sắp làm chẳng ích lợi gì. Cô cũng không chắc mình có làm không nữa. Nhưng cô nghĩ có lẽ cô sẽ làm.
Henry đang ngồi ở ghế hành khách, mắt dán vào màn hình máy vi tính. Bởi vì lúc này anh đang ở ngoài, ngồi trong xe, nên kết nối thỉnh thoảng lại đứt quãng trong vòng một hai phút. Anh bắt đầu lo là sẽ mất toàn bộ kết nối. Anh quay đầu lại nhìn Dave, chân nó không mang giày. “Giày của mày đâu?”
“Giày tuột ra rồi.”
“Ở đâu?”
“Trong chiếc xe trắng.” Nó muốn nói tới chiếc xe cứu thương.
“Sao mà tuột?”
“Một cái trong miệng hắn. Gã đàn ông. Rồi chiếc xe đổ xuống.”
“Rồi giày của mày tuột ra?”
“Phải, tuột ra.”
Alex dường như có cùng suy nghĩ, bởi vì cô nói, “Vậy thì giày của nó vẫn nằm trong chiếc xe cứu thương. Không phải chiếc Hummer. Mình đang theo dõi nhầm xe rồi.”
“Không đâu, chiếc cứu thương hư hỏng nặng rồi. Không thể nào là chiếc cứu thương được.”
“Vậy thì tín hiệu...”
“Chắc nó đã rơi khỏi giày, rồi trượt vào áo quần của cái gã ấy. Bằng cách nào đó.”
“Vậy thì nó cũng có thể trượt ra ngoài rồi.”
“Phải. Cũng có thể.”
“Hoặc là có thể chúng đã tìm thấy nó.”
“Ừ.”
Sau đó cô không nói gì nữa.
Anh tiếp tục theo dõi màn hình. Chấm điểm xanh dương đi về hướng Bắc, rồi hướng Đông. Rồi hướng Bắc. Và cuối cùng là trở lại hướng Đông, đi ngang qua Rancho Santa Fe, trở lại chỗ hoang mạc. Rồi nó vòng lên đường Highland. “Tôi biết chúng đi đâu. Hẻm núi Solana.”
“Chỗ nào vậy?”
“Chỗ đó là suối khoáng. Lớn lắm. Rất sang trọng.”
“Có bác sĩ ư?”
“Tôi chắc chắn. Họ cũng có thể làm phẫu thuật nữa. Có thể là phẫu thuật căng da, hút mỡ, đại loại vậy.”
“Vậy thì họ có thiết bị phẫu thuật rồi,” cô nói một cách nghiêm nghị. Cô nhấn chân ga.
Một trăm mẫu đất được biết đến với cái tên Hẻm núi Solana tượng trưng cho một thắng lợi của ngành tiếp thị. Chỉ vài thập kỷ trước đây thôi vùng đất này được gọi bằng cái tên nguyên thủy của nó, Hellhole Palms. Nó từng là một vùng đất bằng phẳng, rải rác khắp nơi toàn đá tảng, mà không có lấy một hẻm núi. Do đó hẻm núi Solana không có hẻm núi, và chẳng liên quan gì mấy đến thành phố biển Solana Beach. Cái tên này chẳng qua tốt hơn những lựa chọn khác là Angel Springs, Zen Mountain View, Cedar Springs và Silver Hill Ashram. So với những lựa chọn khác, cái tên Hẻm núi Solana chuyển tải một tố chất kìm nén, khiêm tốn, hợp với một khu nghỉ mát mà k 6201 hách hàng phải trả phí hàng ngàn đô la một ngày để làm trẻ lại thân xác, trí óc, và tinh thần của mình. Điều này đạt được nhờ kết hợp giữa yoga, xoa bóp, thiền định, tư vấn về tâm linh, và trợ giúp về chế độ ăn, tất cả các dịch vụ đều được những nhân viên chào đón khách bằng những đôi tay ở tư thế tụng niệm và một thế chắp tay “Namaste(1)” chân thành.
Hẻm núi Solana cũng là một địa điểm ưa thích của những nhân vật nổi tiếng muốn cai rượu.
Alex lái ngang qua cổng chính theo kiểu gạch sống, được khéo léo ẩn giấu phía sau đám cọ khổng lồ. Họ đang đi theo tín hiệu theo dõi, tín hiệu đang đi quanh phía sau khu nghỉ mát.
“Hắn đang đi về phía lối vào,” Henry nói.
“Anh đến đây rồi à?”
“Một lần. Thuyết giảng về di truyền học.”
“Rồi?”
“Người ta không mời tôi trở lại nữa. Họ không thích thông điệp tôi truyền đạt. Cô biết câu tục ngữ xa xưa đó. Các giáo sư cho rằng sinh viên của họ thông minh là do môi trường, còn con cái của họ thông minh là do gien. Người giàu cũng vậy. Nếu cô giàu có hay xinh đẹp, cô muốn nghe người ta nói gien của cô làm cô như vậy. Nghe như vậy cho phép cô cảm thấy cô vốn dĩ đã vượt trội hơn người khác - và cô cảm thấy cô xứng đáng được thành đạt. Rồi sau đó cô có thể đối xử tệ với người khác đến mức nào thì tùy - khoan đã, chúng đang dừng lại. Chậm lại đi.”
“Giờ sao đây?” cô nói. Họ đang trên một con đường phụ, và phía trước là lối vào.
“Tôi nghĩ chúng đang trong bãi xe.”
“Vậy ư? Vậy đến ngay đó tóm chúng nào.”
“Không.” Anh lắc đầu. “Ở bãi xe luôn có vài tay bảo vệ. Cô để lộ súng ra là sẽ gặp rắc rối.” Anh quan sát màn hình. “Bất động... rồi lại di chuyển trở lại. Giờ thì bất động.” Anh chau mày.
Cô nói, “Nếu có bảo vệ thì họ sẽ thấy Jamie vùng vẫy khi nó ra xe.”
“Có thể chúng đã đánh thuốc mê thằng bé. Hoặc là... tôi không biết nữa,” anh nhanh nhảu nói vì thấy nỗi đau trên gương mặt cô. “Khoan đã, lại di chuyển. Chúng đang đi vòng quanh con đường phía sau.”
Cô sang số xe rồi lái tới cổng. Cổng đang mở. Không có ai đứng trực. Cô lái qua, vào trong bãi xe. Con đường phía sau ở góc xa của bãi xe.
“Mình làm gì đây?” cô nói. “Theo chúng suốt con đường hả?”
“Tôi không nghĩ vậy. Nếu mình làm vậy, chúng sẽ thấy mình đang đến. Tốt hơn hết là đậu xe lại.” Anh mở cửa ra. “Ta hãy dạo qua khu nghỉ mát Hẻm núi Solana xinh đẹp này.” Anh nhìn cô. “Cô để súng săn ở đây ư?”
“Không,” cô nói. Cô bật nắp cốp xe, tìm được một tấm khăn, gói cây súng vào đó, rồi nói, “Tôi sẵn sàng.”
“OK,” Henry nói. “Ta đi thôi.”
“Khốn kiếp,” Vasco vừa đạp thắng vừa nói. Gã đang lái quanh con đường phía sau để đậu xe phía sau trung tâm phẫu thuật. Theo kế hoạch thì bác sĩ Manuel Cajal sẽ ra khỏi trung tâm, lẻn vào chiếc Hummer, lấy sinh thiết, rồi đi ra trở lại. Không ai thấy gì, không ai biết chuyện gì.
Nhưng giờ đây con đường phía sau đã bị chặn lại. Bởi hai xe xúc đất đang đào một cái mương lớn. Không có cách đi qua, mà cũng không còn đường nào khác. Cách trung tâm phẫu thuật 91 m.
“Khốn kiếp, khốn kiếp, khốn kiếp,” gã nói.
“Bình tĩnh nào Vasco,” Dolly nói. “Chuyện cỏn con thôi mà. Nếu đường bị chặn thì mình chỉ việc đi bộ tới trung tâm, vào cửa sau rồi làm ở đó.”
“Mọi người sẽ thấy chúng ta đi ngang qua khu nghỉ mát.”
“Thì sao? Chúng ta chỉ là khách thăm thôi mà. Vả lại, ai ở chỗ này cũng chỉ quan tâm đến bản thân họ thôi. Họ không có thời gian nghĩ đến chúng ta đâu. Mà nếu có chăng nữa, và họ quyết định gọi ai đó - một chuyện họ sẽ chẳng bao giờ làm - thì thủ tục này đã xong trước khi cuộc gọi hoàn tất. Manuel làm trong đó nhanh hơn ngoài này.”
“Tôi không thích vậy,” Vasco nhìn quanh, chăm chú nhìn con đường, rồi nhìn khắp sân suối khoáng. Cô ta nói đúng. Đi bộ qua khu vườn này sẽ nhanh thôi mà. Gã quay sang đứa nhỏ. “Nghe này,” gã nói. “Chuyện là như này. Chúng ta sẽ dạo bộ. Mày phải im lặng. Rồi mọi thứ sẽ ổn thôi.”
“Ông định làm gì?” nó nói. “Làm gì tôi.”
“Không làm gì hết. Chỉ lấy ít máu thôi.”
“Có kim không?”
“Kim nhỏ xíu thôi, như ở chỗ bác sĩ ấy mà.”
Gã quay sang Dolly. “OK, gọi Manuel đi. Nói ông ta chúng ta đến ngay. Chuẩn bị đi nào.”
Jamie vẫn luôn được dạy phải biết la hét kêu gào và giãy đạp nếu có ai tìm cách bắt cóc nó, và nó đã làm đúng như vậy khi chúng chộp nó lúc đầu, nhưng giờ đây nó rất sợ hãi, và nó e chúng sẽ làm hại nó nếu nó gây rắc rối. Vì vậy nó im lặng bước dọc lối đi của khu vườn, giữa người phụ nữ đang đặt tay lên vai nó và gã đàn ông cao lớn xấu xa bước phía bên kia, đội chiếc mũ cao bồi để che tai.
Họ đi ngang qua những người mặc áo choàng tắm, đa số là phụ nữ, đang trò chuyện và cười nói, nhưng không ai thật sự nhìn họ. Họ lại đi tiếp qua một khu vườn khác, rồi nó nghe một giọng nói, “Tôi nói, anh có cần giúp đỡ làm bài tập ở nhà không?”
Nó giật mình ngừng lại. Nó nhìn lên.
Là một con chim. Một loại chim lông xám.
“Anh có phải bạn của Evan không?” con chim nói.
“Không phải,” Jamie nói.
“Anh cao lớn cũng bằng anh ấy. Mười một lấy đi chín còn bao nhiêu?”
Jamie kinh ngạc tột cùng, nó chỉ biết trố mắt nhìn.
“Đi nào cưng,” Dolly nói. “Chỉ là một con chim thôi.”
“Chỉ là một con chim thôi!” con chim nói. “Cô gọi ai là con chim thế hả?”
“Mày nói nhiều thật đấy,” Jamie nói.
“Còn anh thì không,” con chim nói. “Những người này là ai? Tại sao họ lại giữ anh?”
“Bọn tao không giữ nó,” Dolly nói.
“Quý vị không thật sự muốn giết con trai tôi chứ, phải không?” con chim nói.
“Chúa ơi,” Vasco nói.
“Chúa ơi,” con chim nói, giả y hệt giọng gã. “Anh tên gì?”
“Đi thôi nào,” Vasco nói.
“Tên tao là Jamie,” Jamie nói.
“Chào Jamie. Tôi tên Gerard,” con chim nói.
“Chào Gerard.”
“Được rồi,” Vasco nói. “Di chuyển đi nào.”
“Vậy thì phải phụ thuộc vào người nắm quyền,” Gerard nói.
“Dolly,” Vasco nói, “chúng ta phải theo đúng lịch làm việc.”
“Ờ, người bạn tốt nhất của một đứa bé là mẹ nó,” con chim nói, bằng một giọng kỳ lạ.
“Mày có biết mẹ tao không?” Jamie nói.
“Không đâu nhóc,” Dolly nói. “Nó không biết đâu. Chẳng qua trước đây nó nghe gì thì bây giờ nó nói lại thôi.”
“Câu chuyện của bạn nghe có gì đó không ổn cho lắm,” Gerard nói. Và bằng một giọng khác: “Ồ, vậy thì tệ quá, bạn có câu chuyện nào hay hơn không?”
Nhưng giờ thì hai người lớn ấy đang đẩy Jamie về phía trước. Nó không nghĩ nó có thể nán lại lâu hơn, và nó không muốn làm um sùm mọi chuyện. “Tạm biệt Gerard,” nó nói.
“Tạm biệt Jamie.”
Họ tiếp tục đi một lúc nữa. Jamie nói, “Nó vui thật.”
“Phải, vui lắm cưng,” Dolly nói, tay vẫn giữ chặt vai nó.
Khi đã vào trong khu vườn, Alex đi ngang qua khu vực hồ bơi trước. Đây là hồ bơi yên tĩnh nhất mà cô từng thấy - không có nước tung tóe, không tiếng ồn. Người ta ngồi tắm nắng như những xác chết. Có một cái tủ chất đầy khăn tắm và áo choàng tắm. Alex lấy một cái áo choàng tắm quấn quanh vai, che đi cây súng săn bọc trong khăn.
“Sao cô biết được mấy thứ này vậy?” Henry nhìn cô nói. Anh đang hồi hộp. Vì đi chung với cô trong khi cô đang lăm lăm cây súng, và biết cô có ý định sẽ sử dụng nó. Anh không biết cái gã râu quai nón ấy có vũ khí hay không, nhưng rất có thể là hắn có.
“Trường luật,” cô cười to nói.
Dave bước chậm hơn họ một vài bước ở phía sau. Henry quay lại nói, “Đi nhanh lên, Dave.”
“OK...”
Họ vòng qua một góc quanh, đi ngang qua bên dưới một đường vòng cung xây bằng gạch sống, vào một khu vườn hẻo lánh khác. Không khí ở đây mát mẻ, và lối đi ngập trong bóng mát. Một con suối nhỏ chạy dọc lối đi.
Họ nghe thấy một giọng nói, “Lời chào êm ái, ukie dukie.”
Henry nhìn lên. “Cái gì vậy?”
“Tôi.”
Henry nói, “Một con chim.”
“Xin lỗi,” con chim nói, “tên tôi là Gerard.”
Alex nói, “Ồ, một con vẹt biết nói.”
Con vẹt nói, “Tên tôi là Jamie. Chào Jamie. Tôi là Gerard. Chào Gerard.”
Alex chết lặng, trố mắt nhìn. “Jamie đấy!”
“Mày biết mẹ tao không?” con chim nói, giọng của nó y hệt như của Jamie.
“Jamie!” Alex bắt đầu kêu to lên trong khu vườn. “Jamie! Jamie!”
Và từ đằng xa, cô nghe có tiếng, “Mẹ ơi!”
Dave tăng tốc về phía trước. Henry nhìn Alex đang đứng như trời trồng. Cô thả tấm khăn và chiếc áo choàng tắm xuống rồi nạp đạn một cách thuần thục. Cô kéo thanh lên đạn lùi rồi tiến, tạo ra một loạt âm thanh chăng chăng! Rồi cô quay sang Henry.
“Đi thôi.” Mặt cô lạnh như tiền. Cây súng được giữ chặt trong tay. “Chắc anh nên đi đằng sau tôi.”
“Ừ, được.”
Cô cất bước. “Jamie!”
“Mẹ ơi!”
Cô bước nhanh hơn.
Chúng không thể nào cách cửa sau trung tâm giải phẫu hơn 6 m được - có lẽ là 2 m hay 3 m, không nhiều hơn khoảng ấy - thì mọi chuyện bắt đầu.
Và Vasco Borden bực khủng khiếp. Trợ lý đáng tin cậy của gã vừa mủi lòng ngay trước mắt gã. Thằng nhóc la lên “Mẹ!” và cô ta thả nó ra. Cô ta chỉ đứng đó. Như thể bị choáng váng vậy.
“Giữ nó lại, mẹ kiếp,” gã nói. “Cô làm gì vậy hả?”
Cô ta không trả lời.
“Mẹ ơi! Mẹ ơi!”
Đúng như mình đã lo, gã nghĩ. Một thằng nhóc tám tuổi la hét tìm mẹ nó, rồi những người phụ nữ đang mặc áo choàng tắm đi xung quanh. Nếu lúc nãy họ không chú ý đến gã và thằng nhóc, thì giờ đây rõ ràng là họ đang nhìn trân trân - vừa chỉ trỏ vừa to nhỏ với nhau. Trông Vasco hoàn toàn lạc lõng, cao 1m95, râu quai nón, mặc đồ đen từ đầu xuống chân, đội chiếc mũ cao bồi đen mà gã phải kéo xuống bởi cái tai khốn kiếp đã bị cắn đứt. Gã biết gã trông như một tên xấu xa trong một bộ phim cao bồi tệ hại. Người đàn bà của gã không trợ giúp gã; cô ta không dỗ dành thằng nhóc mà cũng không dẫn nó tiếp tục tiến về phía trước, và gã biết thằng nhóc đó bất cứ lúc nào cũng có thể quay lại và chạy lồng lên.
Vasco cần kiểm soát tình huống này. Gã bắt đầu với lấy khẩu súng, nhưng bây giờ cả một hũ nút đàn bà đang ra khỏi phòng ốc từ khắp mọi phía - khốn kiếp, nguyên một lớp yoga chết tiệt đang đổ vào khu vườn để quan sát, để xem tại sao một thằng nhóc nào đó đang la ó tìm mẹ.
Và thấy gã ở đó, một gã đàn ông mặc đồ đen.
Hắn bị chơi một vố rồi.
“Dolly,” hắn quát, “mẹ kiếp, bình tĩnh lại đi. Mình phải đem thằng nhóc vào trung tâm giải phẫu ở đây...”
Vasco chẳng bao giờ nói hết được lời, vì một bóng đen phóng như tên bắn về phía hắn, nhảy vào không trung, đu từ một cành cây cao khoảng 2 m và - ngay lúc đó gã nhận ra chính là thằng nhóc đen đúa ấy, thằng nhóc lông lá ấy, thằng nhóc đã cắn sứt tai gã - đâm sầm vào gã, như một tảng đá lớn đập mạnh vào ngay ngực gã, làm Vasco lảo đảo lùi lại vấp phải vài bụi hồng rồi ngã chỏng gọng, chân giơ cao.
Vậy là xong.
Thằng nhóc lồng lên, thét lên gọi mẹ nó. Còn Dolly thì bỗng dưng bắt đầu hành động như thể cô ả không quen biết gã, trong khi gã tay chân trầy trụa, tự lê thân ra khỏi bụi hồng mà thấy cô ả không giúp đỡ gì. Chẳng còn phẩm giá gì nữa khi đứng dậy với cái mông đầy gai. Và có ít nhất một trăm người đang nhìn gã. Và chẳng mấy chốc, những tay bảo vệ ập tới.
Và thằng nhóc đen đúa trông như khỉ ấy đã biến mất. Không thấy nó ở đâu nữa.
Vasco nhận thấy gã phải thoát khỏi nơi này. Vậy là xong; bỏ mẹ thật, đúng là tai họa. Dolly vẫn đang chết lặng như bức tượng Nữ thần Tự do chết toi ấy, nên gã bắt đầu đẩy cô ả, hét vào mặt ả để ả dịch chuyển, nói rằng họ phải rời khỏi đây. Đám đàn bà khác trong vườn bắt đầu la ó xì xào. Một mụ già trong bộ áo nịt thét lên, “Biến thái!” Và những người khác thì hét lên, “Để cô ta yên!” “Đồ tồi!” “Đồ lạm dụng!” Gã muốn hét lại, “Cô ta làm việc cho tôi đấy!” nhưng dĩ nhiên, giờ thì cô ta không còn làm được việc gì nữa. Cô ả mụ mẫm và ngơ ngác. Còn mấy con mụ mặc áo nịt ấy thì đang la hét gọi cảnh sát.
Chuyện càng lúc càng tệ.
Dolly thật chậm chạp; cô ta chắc đang bị mộng du. Vasco phải rời khỏi đây. Gã đẩy cô ta đi, từng bước len qua khu vườn, ý nghĩ duy nhất trong đầu gã bây giờ là chạy thoát, ra khỏi nơi này. Trong khu vườn bên cạnh, gã thấy thằng nhóc đang đứng cùng một gã nào đó, và đứng trước hai người là con bé Alex, đang cầm một khẩu 18,99 li cưa nòng chết tiệt như thể cô ả biết sử dụng vậy - tay trên báng súng, tay trên cò - rồi cô ta nói, “Nếu tao còn thấy mặt mày một lần nữa, tao sẽ bắn bể mặt mày đấy, thằng khốn.”
Vasco không trả lời cũng không ngừng di chuyển qua mặt cô rồi gã nghe một tiếng nổ, và trước mặt gã bụi cây dọc lối đi nổ tung thành một đám mây màu lục đầy hoa lá và mù mịt bụi. Cho nên dĩ nhiên gã ngừng lại. Ngay tại chỗ đó. Rồi gã quay lại, chầm chậm, buông hai tay ra khỏi cơ thể.
Cô nói, “Lúc nãy mày có nghe tao nói gì không hả?”
“Có, thưa cô,” gã nói. Luôn luôn lịch sự với phụ nữ mang súng. Nhất là khi cô ta đang khó chịu. Giờ thì đám đông rất lớn, ba bốn hàng người tụ lại, râm ran như lũ chim, nghển cổ lên xem chuyện gì đang xảy ra. Nhưng con nhỏ này sẽ không chịu bỏ qua dễ như vậy.
Cô hét vào mặt gã: “Tao nói gì với mày hả?”
“Cô nói nếu cô thấy mặt tôi một lần nữa, cô sẽ giết tôi.”
“Đúng đấy,” cô nói. “Tao nói là làm. Mày đụng đến mẹ con tao một lần nữa, tao giết mày.”
“Vâng, thưa cô,” gã nói. Hắn thấy cơn giận cuồn cuộn chảy trong mặt. Tức giận, nhục nhã, thịnh nộ.
“Mày đi được rồi,” cô nói, tay nhích nòng một chút. Cô biết mình đang làm gì. Một luật sư đi tới trường bắn. Loại luật sư không dễ chơi.
Vasco gật đầu rồi chuồn đi, nhanh hết sức. Gã muốn tránh xa cô ả, và tránh ánh mắt của đám phụ nữ kia. Giống như một cơn ác mộng vậy, đám phụ nữ trong áo choàng tắm này nhìn hắn ăn cứt. Một chốc sau, hắn đi như chạy. Chạy trở lại chiếc Hummer, tránh xa nơi này.
Lúc này hắn thấy thằng nhóc đen đúa ấy, cái thằng nhóc nhìn như dã nhân ấy. Thật ra thì nó là dã nhân mà, Vasco chắc chắn như vậy khi thấy cách thằng nhóc di chuyển. Một con dã nhân ăn mặc như một đứa nhỏ. Nhưng nó vẫn là dã nhân. Con dã nhân đang đi vòng quanh vườn. Chỉ thấy con dã nhân ấy thôi cũng đủ làm cho đầu Vasco nhức nhói nơi cái tai bị đứt. Không nghĩ ngợi nhiều, gã rút khẩu súng lục ra và bắt đầu nhả đạn. Gã không nghĩ có thể bắn trúng thằng nhóc chết tiệt ấy từ khoảng cách này, nhưng gã cần phải làm cái gì đó. Và đúng như dự đoán, con dã nhân chạy đi, leo lên leo xuống, chạy đằng sau tường, rồi biến mất.
Vasco đuổi theo. Đó là nhà vệ sinh phụ nữ. Nhưng không có ai xung quanh. Đèn trong phòng tắm đã tắt. Gã thấy được cái hồ bơi, nằm phía tay phải gã, nhưng lúc này không ai ở đó. Vậy là không ai ở trong nhà vệ sinh cả, ngoại trừ con dã nhân đó. Gã cầm súng rồi tiến về phía trước.
Cạch cạch!!
Gã đứng bất động. Gã biết cái âm thanh phát ra từ nòng thụt của súng trường tác động kép. Người ta không bao giờ đi vào một căn phòng sau khi nghe âm thanh đó. Gã chờ đợi.
“Mày thấy mày may mắn không, thằng du côn? Thấy không hả?” Đó là một giọng khàn khàn, nghe rất quen thuộc.
Gã đứng đó trước lối đi dẫn vào nhà vệ sinh nữ, giận dữ và sợ sệt, cho đến khi gã bắt đầu cảm thấy ngu ngốc và lộ liễu vô cùng. “À, bỏ mẹ,” gã nói, rồi quay trở lại xe. Dù sao thì gã cũng không quan tâm cái thằng nhóc dã nhân đó.
Từ phía sau gã một giọng nói cất lên, “Ôi, ôi. Nhiều súng khắp thành phố đến thế, và ít bộ óc đến thế.”
Gã quay người nhìn lại. Nhưng gã chỉ thấy con chim đó, vỗ cánh đậu trên cánh cửa dẫn tới nhà vệ sinh. Gã không biết giọng nói đó phát ra từ đâu.
Vasco gấp gáp ra chiếc Hummer. Chưa gì gã đã suy nghĩ xem sẽ nói gì với công ty luật và mấy người ở BioGen rồi. Sự thật là, vụ này không thành công. Người phụ nữ ấy có vũ khí, cô ta đã được chỉ điểm, ai đó đã báo cho cô ta biết trước. Vasco chẳng làm được gì cả. Gã thành thục trong công việc, nhưng không thể tạo ra phép màu. Vấn đề nằm ở người đã chỉ điểm cho cô ta. Trước khi các ông quy trách nhiệm cho tôi, hãy nhìn lại mình đã. Họ có vấn đề bên trong tổ chức.
Dù sao đi nữa thì cũng đại loại như vậy.
Hết phần 87. Mời các bạn đón đọc phần 88!