Truyện Ngắn Hay 2013 Truyện ngắn 3


Truyện ngắn 3
Mưa rơi đầu non

- NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ -

1. Gió dào dạt gió, chị quấn ngược mái tóc vừa bung xoã để lộ cái cổ thon dài trắng ngần thấp thoáng trong mịt mùng lau sậy. Đám đất sẫm đen lộ ra, vừa một khoảnh để dựng cái chòi. Chị vung dao. Vẫn cần một khoảnh nữa để trồng rau; một khoảnh để nuôi heo, gà; một khoảnh để thông ra lộ; một khoảnh nữa để nhìn thấy nhà hàng xóm cho đỡ cô quạnh... Chị bắt đầu đếm, không phải các lớp sậy rạp hay các khoảnh đất hoang đang trống dần mà đếm sữa từ ngực người đàn bà đang kì cho con bú đọng trên áo, rớt xuống từng giọt dưới cái bóng của mình. Nắng chiều xiên chéo, đứa lớn bồng đứa bé nhất đang ngủ, đứa giữa thiu thiu tựa vào vai chị. Ba đứa ngồi đầu bờ, đầu đội cái nón lá che lấp thân hình nhỏ bé. Nhìn chúng giống như những chiếc đinh cũ hổng ván nhô đầu.

 

Người trong xóm Cây Sậy không biết người phụ nữ với ba đứa trẻ từ đâu tới. Chỉ biết giữa đám sậy bên kia cây cầu sắt mé tự dưng có cái chòi được dựng lên, có mấy luống rau, có con heo nhỏ cùng mấy con gà được chị mua về nuôi. Chị làm quen với hàng xóm bằng cách xoắn sậy thành dây choại bện thành tấm đăng bắt cá đem đi cho. Những bông sậy hoang dại được chị kết thành những chiếc chổi, lớp đem cho chòm xóm, lớp đem bán lấy tiền mua gạo. Người ta bắt đầu mến người phụ nữ tóc dài quá gối, đôi mắt hun hút thăm thẳm, nói đặc sệt giọng Bắc đó. Đổi lại hàng xóm thỉnh thoảng mang cho chị ơ cá chốt kho khô, bọc hột giống... Có điều người ta lạ, không biết cha của sắp nhỏ đâu mà chị phải nương náu trong đám sậy? Chiều rưng rức, thấy chị ngồi bên gốc bần mé sông, cái bến người ta vẫn đậu xuồng để thăm ruộng. Bến này thông ra một dòng sông rộng. Ba đứa trẻ lúp xúp trật tự ngồi kế bên. Áng chừng cái gốc bần bự chảng lõm cong cong là cái dáng chị tựa đợi ai đó từ bến sông xa.

Anh Ba Sầu Đâu hay thả câu cua đi ngang đó hò ơ bâng quơ: "Chứ hò... ơ... chạng vạng trời chiều ai còn nhớ bạn/ Hỏi người ngồi gốc cây bần cho rõ ngọn ngành/Nước về tình nghĩa trôi nhanh/ Suối tóc cô dài quá... à... hò... ơ... suối tóc cô dài quá có đành búi... cao?".  Anh Ba góa vợ chưa kịp có con, từ ngày người đàn bà ba con về xóm Cây Sậy anh siêng cắm câu mé ruộng bển. Lần nào ngang qua nhà chị, anh cũng treo toòng teng con cua, biểu: “Tui là tui cho sắp nhỏ, ai cho cô đâu mà chối từ...”.

Một ngày, người ta thấy có người đàn ông ăn mặc bảnh bao ghé cái chòi của chị. Ba đứa nhỏ tíu tít quây quanh, chị bắt con gà hấp rượu, mời chòm xóm chung vui: “Cha của mấy đứa trẻ đi công tác về...”. Xóm Cây Sậy mừng cho chị, mừng cho cái vết lõm cong cong ở gốc cây bần trên bến sông cũng có người tìm về. Không ai nỡ hỏi sao người đàn ông để mấy mẹ con từ xứ Bắc trôi dạt tận xóm heo hút này. Chỉ có anh Ba Sầu Đâu ngồi hò não nuột bên nhà, mấy cần câu cua héo hon chỏng chơ ngoài hàng ba, tiếng hò của anh chạy tút vô đám sậy rồi ở luôn trong đó.

Rồi mấy ngày sau, người ta lại thấy tóc chị xoã bung, chân trần chạy băng qua đám sậy, băng qua đám rau mới nhú. Mưa rát bỏng chín trời. Ba đứa nhỏ quấn chân mẹ, đứa con trai bé nhất té chúi đầu xuống đất. Đám sậy sững sờ nghiêng ngả. Người đàn ông theo lối ra sông rộng hút bóng, tiếng còi tàu hú vọng, cái cười nửa miệng của người đàn bà nắm chặt tay chồng chị quăng lại... Mưa xé tóc chị, xé tiếng thét gió quất ngang trời. Xé cả cơn sóng xô bờ hất ngược lên tung tóe.

Ngày hôm sau, xóm Cây Sậy không thấy ba mẹ con nhà kia đâu. Chỉ có căn chòi giữa đám sậy, con heo thả lang chưa kịp lớn, bầy gà xao xác, đám rau gục mưa. Người ta đồn, có lẽ người phụ nữ Bắc Kỳ dắt con đi tìm người đàn ông đã bỏ đi. Mà có khi chị dắt con bỏ xứ này cắm chòi xứ khác, ở đây làm chi khi người đàn ông của chị đã không về nữa. Như mất tích. Tịnh không dấu vết. Anh Ba Sầu Đâu đi cắm câu ngang qua ngó vô rồi ngồi ngay thinh vết lõm cong cong gốc bần. Đám sậy gặp mưa tốt um, mọc lan ra khoảng đất trống, ăn dần đám rau, nuốt dần căn chòi. Đám sậy lại xanh mịt mùng. Mấy bông sậy già lại phất phơ tung gió.

 

*

*     *

 

2. Lên tàu. Chị ôm siết ba con. Chồng chị mang chị đến nơi cùng trời này rồi bỏ đi. Mỗi lần về ban cho chị một đứa con. Mái tóc dài như lụa, đôi mắt ướt rượt, cái ngấn cổ tròn trắng ngần, sắc đẹp của gái Kinh Bắc không giữ được chân người đàn ông của gió. Chị cắm chòi theo bước chân chồng nhưng cũng không thể đuổi kịp bước chân người đàn ông không muốn quay vào ngưỡng cửa nhà mình. Đứa con gái lớn khư khư ôm cuốn sách: “Con chim thần lửa, cuốn truyện cổ tích cha mua cho con. Cha nói, con đọc hết cha sẽ về...”. Vị hành khách mặc quân phục lên tàu, ngồi vào chỗ trống đối diện với chị có cái nhìn lạnh ngắt cầm tay đứa con gái thứ hai của chị: “Đường chỉ tay nát tươm. Cái số của nó cũng gẫy như những đường chỉ tay này...”. Con bé ngơ ngác nhìn người vừa xem chỉ tay mình, khẽ rụt cổ nép vào lòng con bé lớn. Đứa lớn chăm chăm nhìn vào khuôn mặt trong như nước của người đối diện, bộ quân phục làm nó yên tâm, nó xoè tay: “Chú bộ đội ơi, còn con?”. “Sẽ là con bạch mã kéo cỗ xe số phận...”. Đứa con trai đang ngủ trong lòng chị giật tách mình, khóc thét: “Mẹ ơi, con sợ lắm”. “Sắp về đến nhà rồi... đừng khóc nữa. Mẹ xin...”. Nó vẫn ngằn ngặt khóc, co rúm rúc vào lòng mẹ. Chị vừa dỗ con vừa nói như năn nỉ: “Thôi chú, đừng xem chỉ tay nữa...”.  Người đàn ông dằn mạnh tay chị, ánh mắt chao động nhưng sắc mặt không đổi: “Đường cùng, số tận... số không tận nhưng tận...”. Tiếng lẩm bẩm của người đàn ông xoáy chặt lấy chị rồi lướt nhẹ vờn lên cơn gai ốc nổi khắp người. Chị thảng thốt hỏi: “Nghĩa là sao chú ơi...”. Nhưng không tiếng đáp lại, không có bất cứ người đàn ông nào mặc quân phục ngồi trước chị. Chỉ có một bác già ôm chặt chiếc ba lô trước ngực. Thằng bé nín khóc, ngoan ngoãn dụi vào ngực mẹ tiếp tục ngủ. Đứa con gái lớn tay vừa ôm em vừa ôm cuốn truyện gục lên chiếc


va li. Chị lập cập hỏi: “Bác ơi, chú bộ đội ngồi bên bác đi đâu rồi?”. Bác già hé mắt nhìn chị lạ lẫm: “Chị hỏi ai?”. “Chú bộ đội còn trẻ, xem chỉ tay...”. Bác già giật nảy mình rì rầm: “Tôi đón nó về, thằng con tôi hy sinh ở
Kon Tum năm bảy lăm. Nó biết xem số qua chỉ tay. Nó nằm đây, trong chiếc ba lô này... Con ơi, có linh thiêng thì theo bố về với mẹ...”. Một cơn gió ngược sớt qua khiến chị ngợp thở, thằng bé lại giật nảy mình bám chặt lấy mẹ. Chị trân trân nhìn chiếc ba lô.

Xuống tàu. Chị về quê. Chị quỳ xuống chân u: “U cho con về ở với u...”. “Ừ, về với u con ơi...”. U đỡ chị dậy, đưa tay đón các cháu: “Hiền, Hòa, Trung lại đây với bà...”. Chị ở với u. Người làng lời ra tiếng vào: “Con Thanh ngày xưa đẹp nhất làng thế mà chồng bỏ, nhục chưa? Ba đứa con có cùng một bố không nhỉ?”. Chị gieo hạt, cả khu vườn mọc tạp nham cây cỏ của u xanh một màu rau đậu, cây mận miền Nam ngày chồng chị mang về thăm u được tỉa cành, bón gốc. Chị vẫn đẹp như cánh đồng ngô đương ủ bắp. Chân chị trắng ngần lội ruộng làm cánh cửu vạn gánh cát ngoài bến sông đứng ngây ra nhìn. Thầy u sinh ra tám người con, chị là con cả. Ruộng ít, người đông, thầy u làm trầy trật mãi mới đủ nuôi đàn con. Làng Dục Quang xác xơ, nằm ngay đồng chiêm trũng. Năm nào đến mùa mưa là cả cánh đồng lại bị ngập chìm trong biển nước. Quanh năm cả làng chịu đói, ăn độn ngô, khoai, sắn... Mỗi khi giáp hạt sắn khoai chẳng còn, hầu như cả làng xếp hàng đi mua bã đậu ở làng bên về ăn thay cơm. Chị với các em lớn lên trong đói khổ vẫn trắng da dài tóc, khoẻ mạnh lành lặn. Trai làng ngẩn ngơ mỗi lần chị đi qua, hương bồ kết vương vít từ làn tóc tỏa lan. Học xong lớp mười, chị xin thầy u đi bộ đội. Ngày chị đi, thầy u, các em không khóc, cánh trai làng lại khóc nhưng nhức. Từ quân của tỉnh đội chị chuyển về huấn luyện ở Vĩnh Phú. Vài tháng sau chị được cử đi học y tá ở Bãi Bằng. Từ đơn vị đến trường học phải đi bộ đến hai mươi kilômét, có rất nhiều anh bộ đội xung phong khoác ba lô cho chị. Cuối cùng đồng chí tiểu đội trưởng Tiểu đội 7, cán bộ khung, tên Bảo đã láu cá “tranh phần” cõng ba lô hộ “bông hoa rừng”. Tuần nào Bảo cũng đến thăm chị. Ngày 2 tháng 9 năm 1975 Sư đoàn quyết định lấy một y tá nữ phục vụ đoàn duyệt binh tại quảng trường Ba Đình là chị. Anh tiểu đội trưởng được điều động bổ sung cho đoàn duyệt binh. Giữa cờ hoa, giữa bốn trăm nghìn người của đoàn duyệt binh của các lực lượng vũ trang và nhân dân Thủ đô, trong không khí thiêng liêng của ngày Quốc khánh, Bảo nắm lấy tay chị run run nói: “Mình nhận lời lấy tôi đi...”. Chị đồng ý lấy Bảo.

Thời gian sau chị nghe theo lời đường mật của Bảo, thực ra Bảo đã có ý định đó từ lâu. Vào bộ đội Bảo muốn mình được trở thành ông nọ bà kia, nhưng đức tính nhu nhược lại thiếu tinh thần trách nhiệm nên không được cấp trên tín nhiệm... Còn chị là người con gái ngoan hiền, lúc nào Bảo cũng săn sóc chu đáo bên chị, Bảo thủ thỉ vào tai chị, muốn thoát khỏi cảnh bán mặt cho đất bán lưng cho giời thì phải lao vào thương trường kiếm sống. Biết tin chị nghe theo lời Bảo rời quân ngũ đi vào vùng kinh tế mới làm giàu, mặc dù hai bên hết sức can ngăn nhưng họ vẫn tổ chức đám cưới. Cưới xong, chị theo anh vào tận Cà Mau. Dù thầy u có khuyên can như thế nào chị cũng không nghe, nhất quyết chị phải thay đổi cuộc sống. Thầy u tiễn chị ra đầu ngõ khóc ròng, bao nhiêu đám trong làng dạm hỏi chị không ưng lại chọn người quê ở mãi tận Nam Hà. U bảo: “Sau này nếu cuộc đời chao chát, tệ bạc, không ở được với nhau thì con cứ về với u nhá...”.

Chị là người con gái đẹp, mặc dù trải qua nhiều nắng gió nhưng tóc vẫn dài, da chị vẫn trắng, ngấn cổ cao cao, sóng mắt vẫn long lanh, rồi sau đó chị sinh liền ba đứa con. Thời gian đầu mới dắt nhau vào vùng kinh tế mới Bảo còn sớm hôm chăm sóc vợ con, nhưng gánh nặng mỗi lúc đè lên đôi vai của Bảo. Chị cũng tàn tạ đi nhiều. Rồi sau đó chị ốm đau vì chứng bệnh ngã nước. Bảo bắt buộc phải theo một chủ tàu chở hàng lên Sài Gòn buôn bán. Mỗi chuyến đi về Bảo vứt cả nắm tiền xuống đưa chị. Thế rồi những chuyến hàng tiếp theo cứ thưa dần, thưa dần rồi mất hút. Mãi sau này chị mới biết chồng mình đã theo người đàn bà góa trên thành phố...

 

*

*     *

 

Thầy thương chị đi tìm con gái rồi thầy về ốm nặng, mất đi khi chị vừa sinh đứa con trai út. Ngày chị về làng, chị sụp xuống mộ thầy, khóc ròng: “Thầy ơi, giờ con đã về đây. Thầy không phải đi tìm nữa, mai này dù con có đi đâu cũng sẽ về bên thầy u...”. Có con bướm đen đốm nâu thật to từ đâu bay đến đậu trên mộ thầy. Chị bảo ba con lạy ông, thầy đã nghe thấu lời chị mượn cánh bướm
hiện về...

Một năm.

Hai năm.

Ba năm.

Chị vẫn sống với u. Ruộng ít, làm không đủ ăn. Chị đi buôn sắn, cá khô. Tóc chị vẫn dài, búi một búi to nhưng ngấn cổ không còn tròn, trắng.

Cô giáo của Hiền viết thư mời chị. Cô đưa bài tập làm văn của nó cho chị đọc: “Cô yêu cầu em viết cha ư? Mẹ em đã chờ đợi trong đói khát giữa rừng sậy, trên bến tàu. Mẹ đã tự đỡ đẻ hai em. Mẹ quỳ xuống xin cha ở lại, em đã quỳ xuống xin cha đừng đi nữa. Nhưng cha vẫn đi cùng với người đàn bà tóc phi dê uốn cao. Cả bốn mẹ con bị mưa vùi xuống bến sông có gốc cây bần già tận miền Nam. Cha đã để lại cho em một lời hứa mãi mãi không thực hiện được và mẹ khổ nhục chừng ấy năm. Hình ảnh cha em méo mó, xấu xa cho dù, mẹ đã kể chuyện cổ tích hằng đêm rằng cha chúng em là người tuyệt vời, để trong tâm hồn những đứa con tồn tại hình ảnh một người cha lộng lẫy, ấm áp...”. Cô giáo cho
0 điểm, phê lạc đề. Chị lặng đi, cắn môi muốn bật máu. Về nhà chị nói gì với con? Nói rằng chị đã biến cái bóng của mình thành cha chúng ư? Nói rằng chị không muốn bất cứ đứa con nào của chị tổn thương hay chính chị không chấp nhận sự phản bội của chồng chị? Cơn giận bỗng chốc trào đến. Người đàn ông đó đáng trừng phạt. Chị cố không nhìn thấy cái tham lam, ích kỉ, đốn mạt của gã chồng, nay đã bị Hiền bóc trần. Anh tiểu đội trưởng thật sự đã chết. Chị vút roi mây thẳng tay lên thân thể Hiền. Đánh vì cái tội nó giống cha nó y hệt. Đánh vì cái tội nó để chị phải thừa nhận là chị nhẹ dạ. Đánh bởi cái tội nó bắt chị phải tin chồng chị là một thằng đểu. Hiền không khóc, đứng ngay người để mẹ đánh. Môi nó mím chặt. Nó lì lợm hơn chị tưởng. À, mày không khóc à... Được rồi... Chị nắm cuốn sổ tập làm văn xé vụn, tung lên, xác giấy bay ngập cả khoảnh vườn nhỏ. Đến lúc này con bé mới khóc, chạy lấy ôm lấy mẹ: “Mẹ đừng đánh con nữa. Con thương mẹ lắm... Mẹ đánh con mà mẹ đã đau hơn con đến thế này”. Hòa, Trung nép sau cánh cửa khóc tấm tức. Người u già cũng vừa tan buổi chợ về đến nơi mếu máo: “Mày sao thế hở con?”. Chị buông rơi ngọn roi... Chị nghĩ chờ đợi mãi rồi người cũng về nhưng người như cái bóng thuyền không. Chị đã nghĩ đến cái chết từ dạo nọ. Trong cơn mưa tức tưởi đó chị đã muốn quăng mình xuống bến sông. Lại là con Hiền, nó bấu lấy tay mẹ. Con bé tám tuổi lấy sức khoẻ ở đâu mà kéo chị lại được. Về đến chòi mới thấy một bên vai nó rớm máu, thì ra nó kẹp thân nó vào cái khe cây bần già chẻ ra làm hai để có sức giữ mẹ... Chị thức tỉnh, gói ghém đồ đạc xuôi tàu đò ra thị xã Cà Mau, lên xe đò tới nhà ga Sài Gòn chen chúc mua mãi mới được hai tấm vé về Bắc.

“Đường cùng, số tận... số không tận nhưng tận...”. Mấy lời lẩm bẩm của hồn ma kia lại văng vẳng trên đầu. Chừng nào số tận? Rồi sao không tận? Chừng nào là biết chừng nào...

Đêm, chị ôm con ngủ. Chị đã chờ đến mờ mắt người không về mới nhận ra ba đứa con quý hơn tất thảy. Chị xoa lên những vết hằn roi trên lưng Hiền. Hôn lên khuôn mặt giống cha y đúc, giật mình khi thấy lờ mờ trên mặt con bé có những vết xước. Vết xước? Nó ngã hay ai đánh? Nước mắt chị rơi đúng lên mấy vết xước trên mặt Hiền. Chị lau vội, sợ con bé thức, nằm xuống, mắt khép hờ. Ừ, ngủ đi cơn đau ngang ngực. Ngủ đi cánh cửa gỗ hằng đêm khi u và các con yên giấc, chị mở khẽ đi ra ngồi dưới gốc cây mận anh trồng nghe lá khô lăn xuống. Áng chừng gốc cây mận cũng sắp lõm cong cong. Con Hiền đã ngủ đâu, nó đang hít hơi mẹ vào ngực. Tóc mẹ đượm mùi gió khô, nắng cháy và cả mùi cá mắm. Mùi của ngày lam lũ chợ xa, chợ gần. Vết xước đó là do nó đánh nhau với thằng Mởn khi thằng đó cười hô hố và gào lên: “Mày là đồ con hoang!”. Nó trân trân nhìn thằng Mởn. Thằng Mởn vẫn nhơn nhơn cười sằng sặc: “Con hoang sắp khóc rồi bọn mày ơi!”. Hiền quăng sổ lao vào Mởn cào cấu. Bọn chúng có đến bốn đứa hất Hiền ra mặt đường. Hiền bật dậy lao vào thằng Mởn nắm chặt lấy tóc và cổ áo nó. Cả hai đứa từ mặt đường lăn xuống dộc. Thằng Mởn rất khoẻ, nó tung chân đạp thẳng vào mặt Hiền. Mũi Hiền chảy máu, ngực tức thở. Hiền cào hai đường móng tay ngang mặt nó, mặt nó chảy máu. Thằng Mởn ôm mặt khóc hu hu. Hiền đứng dậy thét lên: “Mày nhớ đấy! Cha tao tên Bảo. Rõ chưa?”. Ba đứa còn lại nhìn thấy Hiền cùng đôi mắt nảy lửa đi từ dưới dộc lên bỏ chạy tán loạn. Sổ sách của nó bị xé nát rắc trắng bờ dộc. Hiền gom từng tờ, từng tờ một cách chịu đựng. Cha nó là Bảo ư? Đã từ lâu nghe mẹ nó kể cha nó đi làm ăn xa. Nó hét lên: “Ông không được bỏ mẹ tôi...”. Tiếng hét của nó vang xa mấy cánh đồng khiến người đi đường giật mình quay lại nhìn con bé gầy còm đang đứng giữa một vùng xác giấy... Lúc này trong vòng tay mẹ, nó muốn khóc lắm, nó hít thật khẽ hơi của mẹ. Đối với nó mùi tóc hương cá mắm của mẹ thơm nhất trần đời.

Chị có người yêu. Đúng hơn là người ta yêu chị. Một chủ hiệu kem trên thị trấn mới mở. Người đàn ông này từ tỉnh xa về Việt Yên làm ăn. U và các em vun vào. Chị còn trẻ cần có chỗ tựa. Người ấy nói vợ chết, thương bốn mẹ con thật lòng. Nhưng Hiền ghét lão, lão có đôi mắt ti hí gian gian rồi cũng lừa mẹ thôi. Bà giải thích cho Hiền hiểu rằng: “Đàn bà không chồng tròng trành như nón không quai. Hiền có thương thì để mẹ đi bước nữa”. Hòa, Trung thích thú với những món quà lão mắt ti hí mang đến. Còn Hiền nhảy lên đạp cho kì bẹp đầu sư tử chơi Trung thu gã mua. Bà ngoại không tin Hiền, mẹ không tin Hiền, không ai tin cái đứa oắt con kia là lão mắt hí vợ không chết, lão nói dối đấy thôi, vì mẹ của Hiền còn đẹp. Bà hỏi nó có nom thấy vợ lão bao giờ không? Hiền cắm đầu không nói. Thế thì mày để mẹ mày yên. Rồi mẹ cũng quyết định lấy chồng. Bà bảo làm mấy mâm tròn báo cáo họ hàng. Ngày các dì, các cậu tất bật chuẩn bị, Hiền không biết phải làm sao để cản mẹ. Hiền chạy quanh, chạy quanh, rồi chờ mọi người không chú ý đem nước bẩn đổ đầy nồi cơm đã cạn nước đang ủ chín. Trò láu cá của Hiền cũng bị phát hiện, nó bị đánh sưng tay. Nhưng lão mắt hí chưa kịp cùng mẹ lạy gia tiên thì một đám người trong đó có một phụ nữ xưng là vợ lão đến đánh ghen. Mẹ của Hiền đứng đó cho người ta túm tóc, vả vào mặt chửi bới. Hiền lao vào nhà kiễng chân nhấc cây roi mây của mẹ chạy ra vút túi bụi vào đám người đang đánh mẹ Hiền, nó thét lên: “Cút ngay, cút ngay lũ người này... Cút đi... cút ngay đi...”. Đám người tản ra, người đàn ông mắt hí cũng rời bỏ thị trấn ngay hôm ấy.

Chị không thể sống được ở làng... 

U lại khóc lần chiếc ruột tượng quấn quanh người tìm tiền đưa con gái. Chị lạy u. Thắp hương cho thầy. Chị dắt con đi.

 

*

*      *

 

3. Chị đi thật xa, tận Lâm Đồng. Chị dựng nhà ven núi. Tóc chị vẫn dài nhưng ngấn cổ không còn trắng. Cả ánh mắt cũng đã khô. Chỉ cái trái tim người mẹ ủ ấm ba con. Mấy đứa trẻ được đi học đến nơi đến chốn, chúng học giỏi nức tiếng. Đôi bàn chân chị băng qua những ngọn đồi bất tận để bẻ măng, chặt lồ ô, rút mây. Phải để con sống tử tế vượt lên trên cái đớn hèn, xô đẩy của cha chúng, của người đời. Mưa rơi đầu non. Những cơn mưa rừng sầm sập, dữ dội và dai dẳng. Chị vén mưa, mỗi ngày chị cần chặt hai bó mung to. Buốt lạnh, chị vuốt mưa trên mặt, mắt như mờ đi, quyền năng của núi rừng đang gầm thét, muốn quật ngã người đàn bà gan lì kia. Chị ương ngạnh bất chấp những cơn mưa cuối mùa dữ dằn, kiêu ngạo phủ đầu, nạt nộ, uy hiếp, dằn mặt chị. Chị lao mạnh con dao goắm vào đám mung. Sượt, một cây mung sắc nhọn đã xuyên thẳng bàn tay phải của chị. Cánh tay ấy chằng chịt vết kim của những lần bán máu lấy tiền đóng học cho con. Cố lết về nhà, run rẩy chị hòa vôi với nhọ nồi tự bôi vào vết thương rồi ngất lịm. Ơ, sao thầy đứng đó, thầy vào nhà đi. Cỏ tranh vàng lất phất mọc lên từ rừng cây đen cháy, thầy đừng dắt con đi về phía nền trời xám mờ kia với thầy, con còn ba đứa nhỏ, chúng chưa kịp lớn. Thầy về thăm con thôi, đứa con đơn độc như cái cây bị phạt cố đâm đất sống trên bãi đất hoang khô. Thầy ôm con đi, như thuở còn ấu thơ. Kìa chú bộ đội, chú về nhà rồi cơ mà, chú đứng lặng ở bờ rừng đợi ai? Tìm kiếm điều gì ở nơi này? Chú đi đi... Chị cảm thấy ngày đó đang đến, sát ngay bên. Cả cơ thể chị như có cả đàn ong rừng đến đốt. Chồng chị đứng ở ngưỡng cửa. Anh về thật ư? Anh mặc quân phục trong đoàn duyệt binh, cờ hoa rợp trời. Nhưng kìa, gót giày anh giẫm lên cơ thể chị. Chị thét lên. Những lá thư tình vượt qua những tháng ngày gian lao bốc cháy... Như ma ám, gương mặt cha ba đứa trẻ cháy bùng
lên mãnh liệt. Nó hiện ra rõ ràng, lao đến bóp nghẹt
lấy chị...

Bàn tay chị đã liền sẹo nhưng cong queo như nhánh cây điều khô. Rồi một ngày, chị sốt, người phù to. Hiền, Hòa nghỉ học đi làm mây. Chị biết được, gượng dậy cố nắm bàn tay tật nguyền cầm lấy cây dao bước ra hiên phạt tận gốc đám xương rồng Hòa trồng. Chị nhìn hai con bằng ánh mắt dữ dội: “Muốn mẹ chém nát bàn tay như thế này không? Đi học mau...”. Chị lịm đi ngay bực cửa. Đưa mẹ vào giường, Hiền bảo Hòa đi học, Hiền sẽ đi học sau. Còn Trung nhớ bón cháo cho mẹ, nhớ xem bài chiều đi học. Hòa lủi thủi bước đi, nó sợ cô giáo lại đòi học phí... Hiền ra chợ, ghé vào tiệm tóc xin bán mớ tóc dài rồi bắt xe hướng lên thành phố.

Chị trở mình tỉnh giấc, hình như chị đã ngủ một giấc dài. Trời tối từ bao giờ hay sắp chuyển mưa? Các con đâu... à, chúng kia. Trung đang chẻ tăm tre, Hòa đan sọt. Hiền đâu? “Hiền ơi...”. “Mẹ, con đây... Mẹ ăn cháo trứng gà nhé. Còn nóng, con thả ít lá ngải cứu cho thơm”. “Ừ, con để đấy, các em ăn chưa?”. “Dạ mẹ, con với cả chị Hiền, em Trung ăn rồi”. Hòa ngừng tay chạy đến bên mẹ. Chị nhìn thấy băng trắng trên đầu Hiền, chiếc băng thấm vệt máu đỏ tươi: “Đầu con sao thế kia hả Hiền?”. “Mẹ ơi, con đi rừng hồi chiều bất cẩn trượt chỗ thác bảy tầng gần đồi xanh. Nhưng không sao cả, rách tí da thôi”. “Phải cẩn thận chứ. Mẹ bệnh thế này, con phải khoẻ để chăm em. Có đau không con, lại đây mẹ xem...”. Chị ứa nước mắt, vuốt nhè nhẹ cái trán dô bướng bỉnh của Hiền. Chị không ăn được, muỗng cháo Hòa bón, chị chỉ muốn nôn ra. Người chị đau nhưng hàng ngàn con dòi bọ đục khoét. Hiền chạy ra bờ giếng khóc tức tưởi. Sáng nay, nó đã tìm đến căn biệt thự sang trọng trước cổng chợ Biên Hòa. Cha nhìn nó lạnh lùng: “Mày đến đây làm gì?”. “Mẹ ốm nặng, con  tìm cha...”. “Mày xin tiền phải không? Mẹ con mày là thứ hôi hám, bẩn thỉu. Lũ chúng mày rặt một thứ ngợm!”. Cha ném xấp tiền thẳng vào mặt nó. Những đồng tiền mà ngay lúc ấy nó cần hơn bao giờ hết từ tay cha nó bay lả tả như những mũi dao sắc nhọn liên tiếp cắm phập vào trái tim Hiền. Cảm giác nhục nhã, tủi hổ, tổn thương dâng lên tối tăm mặt mũi: “Vâng, mẹ con đã lấy nhầm một người bẩn thỉu, hôi hám”. Câu nói phát ra từ đau đớn tột cùng của đứa con gái bị bỏ rơi đã khiến người đàn ông nhẫn tâm kia nổi cơn thịnh nộ khủng khiếp. Người đàn ông lao tới tung chân đá văng đứa con gái mười bảy tuổi, đầu nó đập vào con lươn ngăn cách làn đường. Hiền đứng dậy, vết máu đỏ loang dần từ trán, choáng váng, nó rút từ ngực ra tấm ảnh ố vàng chụp năm xưa, nó tiến sát đến người đàn ông vừa đá bay nó, gằn từng tiếng: ‘‘Mẹ tôi đã giữ bức hình này cả đời. Đây là cha tôi, nhưng ông ấy đã chết!’’. Người đàn ông tái mặt lùi lại sau cánh cửa, nó lầm lũi nhặt tiền, người đàn bà cười nửa miệng đi với cha dạo nọ ném cái nhếch môi khinh bỉ... Nó đứng dậy, vuốt thẳng những tờ tiền, lận sâu vào trong túi, khẽ gật đầu và nói một câu sau cuối với cha trước khi cánh cửa đóng sầm: "Cám ơn ông. Có dịp, tôi sẽ trả cho ông gấp nhiều lần".

“Hiền ơi, Hòa ơi, Trung ơi...”. Chị thảng thốt gọi, có ai đó đang hả hê xé thịt chị, kéo lê chị đi trên trảng rừng cháy trơ trọi. Bến sông, gốc bần, gốc mận, gót chân nhẫn tâm người đàn ông bước qua bực cửa, những cơn mưa rừng... Tất cả trộn lẫn, quăng lên, quật xuống ném vào người chị. Cơn đau xé thịt. Hiền, Hòa, Trung quỳ sụp xuống... Phải làm thế nào, phải làm thế nào cho mẹ bớt đau. Đôi mắt mẹ cuồng dại đau đớn... Mưa đến, cơn đau dịu đi... Chị thì thầm: ‘‘Hiền ra xem mấy cây xương rồng trổ mầm chưa?". Những cái mầm của cây xương rồng đã nảy lên từ cái gốc nham nhở mẹ phạt mấy ngày trước. Chị thì thào: ‘‘Đến cái cây còn muốn sống, mai này các con nhất định không được thua nó...". Hiền nhìn ra ngoài thấy ba cái mầm xanh từ vết chém trên thân câ 43b y xương rồng, chúng hãnh diện quá!

“Hiền ơi, mẹ muốn về Bắc Giang. Mẹ muốn về Đồng Đống Mối bên ông. Mẹ muốn nghe lá cây mận rụng trong vườn”. ‘‘Mẹ con mình sẽ về với bà, với ông... Mẹ ngủ đi, trên tay chúng con này...’’. Chị mỉm cười, thầy kia rồi, thầy ngồi ở bực cửa tối tăm, thầy bước đến mang một quầng sáng dang tay đón chị vào lòng. Gương mặt anh tiểu đội trưởng nhòe đi rồi biến mất trong đoàn người trùng trùng điệp điệp.

Ngoài trời, vẫn mưa, mưa rơi lạnh buốt sống lưng, như giằng néo, như khóc than, như bới tung mọi thứ để tìm cái gì quý giá lắm... Như cơn mưa trên bến sông xóm Cây Sậy mười mấy năm trước đổ về xứ Madagui này. Người mẹ ấy đã ngủ yên trong vòng tay ba đứa con vừa kịp lớn.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/83629


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận