Ở một số nước:
Ở Việt Nam:
Theo quy định tại điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/ QH 10) được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành thì: “ NHTM là một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. [1]
Như vậy, có thể phát biểu khái niệm về NHTM: NHTM là một DN kinh doanh tiền tệ, là một TCTD thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
Với chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, DN và các tổ chức khác, vừa đảm bảo an toàn tài sản, vừa đáp ứng nhu cầu rút tiền của KH. Đồng thời NH cam kết chi trả một mức lãi suất nh 845;t định cho KH tùy thuộc vào loại hình gửi tiền.
Qua việc thực hiện chức năng này thì NH tạo được nguồn vốn để thực hiện chức năng tín dụng, và còn là cơ sở để Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán.
Để thực hiện chức năng này, NH cung cấp cho KH các phương tiện thanh toán không sử dụng tiền mặt như: thẻ thanh toán, ủy nhiệm chi, séc,…
Trên cơ sở KH mở tài khoản tiền gởi tại NH, thay mặt cho KH, NHTM trích tiền trên tài khoản trả cho người được hưởng hoặc nhận tiền vào tài khoản theo ủy nhiệm chi của KH.
Hoạt động trên của NHTM mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế:
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống NH, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW. Với khoản tiền gửi nhận được ban đầu, hệ thống NHTM thông qua quá trình cho vay bằng chuyển khoản, kết hợp với thanh toán không dùng tiền mặt, có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn gấp nhiều lần, do đó tạo thêm “bút tệ” cho lưu thông.
NH có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho các DN, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, NH còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho KH, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi đó vào tài khoản cho KH, hoặc có khi NHTM còn thực hiện việc mua, bán các chứng khoán cho khách hàng, thu hồi chứng khoán đến hạn…
Hơn nữa, NH còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như:
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các NH thực hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ NH quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu và nền thương mại giữa các quốc gia. Giống như thương mại trong nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác nhau, hoạt động ngoại thương bao gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, ủy thác, nhờ thu và thư tín dụng, tín dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du lịch…).
Ngoài ra, các NHTM mở rộng nghiệp vụ NH quốc tế để phục vụ cho những khách hàng nước ngoài đầu tư vào trong nước cũng như những KH nội địa muốn mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài.
Khái niệm: Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời và tồn tại qua nhiều hình thái ki nh tế, xã hội. Từ “tín dụng” có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm, dựa trên sự tin tưởng, tín nhiệm đó sẽ thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất trong một thời gian nhất định, ngay cả những giá trị vô hình như tiếng tăm, uy tín để đảm bảo, bảo lãnh cho sự vận động của một lượng giá trị nào đó.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng như sau: “ Tín dụng là một phạm trù kinh tế chỉ mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó có một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc và lãi sau một thời gian nhất định” [4]
Mặc dù quan hệ tín dụng được biểu hiện qua các phương thức rất đa dạng và phong phú, nhưng nó vẫn mang ba đặc trưng cơ bản sau:
a. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình cùng thống nhất trong sự vận hành của quan hệ tín dụng. Chức năng này làm cho tín dụng trở thành chiếc cầu nối giữa cung – cầu vốn trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ cá nhân, các đơn vị kinh tế đến bổ sung kịp thời cho những cá nhân, đơn vị thiếu vốn, nói cách khác:
b. Kiểm soát các hoạt động kinh tế
Chức năng kiểm soát hoạt động kinh tế thể hiện khi chủ thể đi vay và chủ thể cho vay thực hiện thẩm định dự án, kế hoạch kinh doanh, cũng như việc kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Như vậy, thực hiện chức năng phản ánh kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín dụng, một mặt, đảm bảo lợi ích thiết thực cho các chủ thể kinh tế tham gia; mặt khác, còn mang lại lợi ích, hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Phản ánh của hệ thống tín dụng sẽ cho thấy tình trạng của nền kinh tế để từ đó Nhà nước đề ra những giải pháp điều tiết kịp thời nhằm khắc phục những khuyết điểm, mất cân đối, cũng như phát huy hơn nữa tính hợp lý và tiềm năng. Điều này, cũng có nghĩa tín dụng được xem như một công cụ đòn bẩy kích thích, điều tiết kinh tế trong cơ chế thị trường.
Khái niệm: Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là NH, một bên là các TCTD khác với các nhà DN và cá nhân. [4]
Trong nền kinh tế thị trường, NH đóng vai trò là một TCTC trung gian, quan hệ tín dụng NH được thể hiện qua hai khâu:
Đối tượng của tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các DN và cá nhân. Tín dụng NH không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vât tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản như xây dựng các xí nghiệp mới, các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ thuật. Ngoài ra tín dụng NH còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn tín dụng tiêu dùng của cá nhân.
Đặc điểm tín dụng ngân hàng
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp, các NHTM áp dụng một số phương thức cho vay sau:
Là việc cho vay mà NH thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho KH chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của KH phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Khi vay vốn,NH và KH thỏa thuận số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ phụ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.
NH chấp thuận cho KH đựơc sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của NH. Khi cho vay phát hành phải tuân theo các quy định của Chính phủ và NHNN về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
***SORRY, THIS MEDIA TYPE IS NOT SUPPORTED.***
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự an toàn của đồng vốn khi cho vay. Hệ số này biểu hiện mối quan hệ giữa doanh số thu nợ và doanh số cho vay. Nghĩa là trên 100 đồng vốn mà ngân hàng cho vay thì sẽ có bao nhiêu đồng được thu hồi lại.Hệ số này càng lớn thì độ an toàn càng cao và công tác thu nợ đang có sự chuyển biến tốt, rủi ro tín dụng thấp.
Ở bất kỳ doanh nghiệp nào khi hoạt động kinh doanh đều tính đến hiệu quả kinh tế. Điều đó được thể hiện qua vòng vay vốn tín dụng. Vòng quay càng nhanh sẽ đủ chi phí bù đắp cho kỳ kinh doanh kế tiếp, do đó hiệu quả sử dụng càng cao. Chỉ tiêu này được tính dựa trên tỷ lệ giữa doanh số thu nợ và tổng dư nợ. Nó còn dùng để phản ánh hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng.
Đây là chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Hệ số này phản ánh tình trạng nợ tại NH tốt hay xấu, công tác tín dụng được quan tâm đến đâu và NH cần sử dụng những biện pháp nào để giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn trong kỳ kinh doanh tiếp theo. Mặt khác, hệ số này còn cho biết nguồn vốn của ngân hàng cho vay đến cá nhân, các tổ chức kinh tế có phát huy được hiệu quả không ?
{}Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng đầu tư cho vay thì có bao nhiêu đồng không có khả năng thu hồi nợ (nợ có khả năng mất vốn). Theo quy định của Ngân hàng nhà nước thì tỷ lệ này không vượt quá 3%.
Ở Việt Nam, theo điều 3, Nghị định số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001: DNNVV “Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người”. Theo điều 4 của Nghị định này, các DNNVV bao gồm các DN thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ – CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.[2]
Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương mà trong quá trình phân loại sẽ áp dụng đồng thời cả hai mục tiêu vốn và lao động hoặc chỉ một trong hai chỉ tiêu. Những DNNVV này được hưởng sự hỗ trợ của Chính phủ theo các chương trình hỗ trợ về vốn, công nghệ, được giảm hoặc miễn một số loại thuế.
Giải quyết công ăn việc làm luôn là vấn đền bức xúc với hầu hết các nước trên thế giới. Thất nghiệp gây ra những thiệt hại to lớn cho xã hội. Sự tồn tại và phát triển DNNVV ở nhiều nước cho thấy, DNNVV là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp và là nguồn chủ yếu để tạo ra việc làm. Mặt khác nó thường xuyên đáp ứng được nhu cầu thay đổi của thị trường. Vì vậy, mặc dù số lao động làm việc trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông với một lượng rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Nhìn chung ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển số lượng DNNVV thường chiếm 95% tổng số DN trong một nước và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội.
Ngoài ra, DNNVV không chỉ tập trung ở các thành phố lớn mà nó có mặt khắp nơi trên đất nước, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động khắp nơi trong cả nước, nhu cầu lao động ở các DNNVV luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nhu cầu lao động của nước ta hiện nay. Do vậy, có thể nói DNNVV là trụ cột kinh tế địa phương.
DNNVV với một số lượng DN đông đảo trong nền kinh tế đã tạo ra một sản lượng, thu nhập đáng kể cho xã hội. Do đặc tính linh hoạt, mềm dẻo DNNVV kinh doanh ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau kể cả những ngành nghề truyền thống, do đó DNNVV có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và độc đáo cho người tiêu dùng, đóng góp to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác DNNVV là những thầu phụ cho các DN lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví như thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
Việc tạo lập DNNVV không cần quá nhiều vốn và có khả năng thu hồi vốn nhanh, nhất là đối với DN nhỏ. Điều đó tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, nhiều DNNVV có thề huy động vốn vay dựa trên cơ sở quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, việc tạo lập và phát triển DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền đang phân tán và nằm im trong dân cư thành các khoản vốn đầu tư.
Với quy mô nhỏ và vừa và thường được phân tán ở hầu khắp các địa phương, vùng lãnh thổ nên DNNVV có khả năng sử dụng hết các tiềm năng về nguồn lao động và nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương không thích ứng với việc sản xuất quy mô lớn, cũng như có thể sử dụng các sản phẩm phụ của các DN lớn chưa được sử dụng đến.
Ở các nước cũng như Việt Nam thông thường các DN lớn tập trung ở các vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng vững chắc. Với chiều hướng đó sẽ gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng của một quốc gia. Chính sự phát triển DNNVV là phương tiện góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. Nó giúp cho các vùng xa xôi, các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng của vùng của địa phương phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ tạo sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Ngày nay, mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia được phát triển rộng rãi đã làm cho sản phẩm của các ngành nghề truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu quan trọng. Hiện nay có thể nói các làng nghề là những DNNVV ở nông thôn. Việc phát triển DNNVV đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của các ngành nghề truyền thống ở các địa phương mỗi nước, đặc biệt là ngành thủ công, mỹ nghệ.
Bên cạnh việc thúc đẩy tiềm năng của các ngành nghề truyền thống thì các DNNVV với ưu thế năng động đã tham gia vào các ngành sản xuất kỹ thuật cao, một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến làm hàng xuất khẩu. Vì vậy, tỷ trọng xuất khẩu trong nển kinh tế quốc dân của các DNNVV tăng nhanh trong những năm gần đây.
Trong bất kỳ quốc gia nào, tất cả các nguồn lực kinh tế không thể tập trung vào các DN có quy mô lớn bởi các DN lớn không thể bao quát tất cả thị trường. Các DNNVV với đặc trưng nhỏ lẻ, năng động đã hỗ trợ cho các DN lớn trong việc tiếp cận thị trường, cân đối khả năng cung cầu xã hội. Mặt khác, DNNVV là những DN cung cấp sản phẩm đầu vào hay tham gia chế tác, kinh doanh trong quá trình hoạt động của DN lớn, chính điều này đã tăng khả năng hoạt động của các DN trên thị trường, tạo mối kiên kết chặt chẽ giữa các loại hình kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Ở hầu hết các nước cũng như ở Việt Nam, các DN có quy mô lớn thường tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm công nghiệp. Điều đó đã gây trạng thái mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội giữa thành thị với nông thôn và giữa các vùng miền trong một quốc gia. Chính sự phát triển DNNVV là phương tiện quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối giữa các vùng; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các thành phẩn kinh tế, giữa các ngành và các vùng lãnh thổ, có ý nghĩa lớn lao trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
Sự phát triển tạo lập các DN mới hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của các DN hiện có đều làm gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm cho xã hội. Cùng với điều đó sẽ làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Nhà nước có thể thu thêm thuế lợi tức và các loại thuế gián thu trên số sản phẩm, dịch vụ gia tăng và cũng có thể gia tăng hêm nguồn thu thuế thu nhập từ các chủ dở hữu DN và những người tham gia vào sản xuất kinh doanh của DN. Mặc dù số đóng góp của một DNNVV là không lớn nhưng với số lượng DN đông đảo trong nền kinh tế, các DNNVV cũng đóng góp một phần đáng kể cho Ngân sách Nhà nước.
Theo định hướng của Chính phủ, đến năm 2010 nước ta sẽ có 500.000 DNNVV[13]. Đi cùng với con số này là một lượng vốn lớn cần được đáp ứng. Vốn, lao động, công nghệ là những yếu tố đầu vào quan trọng nhất đối với sự phát triển của một DN. Trong đó có thể nói vốn là một yếu tố quan trọng nhất, có vai trò tiê 638e n quyết. Vốn cho các DNNVV lại cần thiết hơn vì hệ số phụ thuộc của hai yếu tố lao động và công nghệ là rất lớn.
Vốn bình quân ban đầu của các DNNVV là rất thấp, chủ yếu là dựa vào vốn tự có và vốn vay lãi không từ bạn bè, họ hàng khi lập nghiệp, tín dụng ngắn hạn hầu như đóng vai trò rất nhỏ trong sự hình thành vốn, các DN này rất khó vay được từ NHTM và các định chế tài chính khác trừ khi họ có tài sản cầm cố, thế chấp hay những vật có giá trị cao được các định chế tài chính chấp nhận.
Trong thời gian qua, DNNVV đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của DN gặp rất nhiều khó khăn. Theo điều tra của Cục Phát Triển DNNVV (Bộ kế hoạch và Đầu tư), tiến hành với sự tham gia của hơn 63.000 DN tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho kết quả là 66,95% DN thường gặp khó khăn về tài chính; 50,62% DN gặp khó khăn trong mở rộng thị trường; 41,74% DN cho biết gặp khó khăn trong việc mở rộng mặt bằng sản xuất; 25,22% DN gặp khó khăn về chi phí sản xuất; 19,47% khó khăn về thiếu thông tin…[14]
Ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho DNNVV là kênh từ NH. Nhưng, cánh cửa NH liệu có rộng mở hơn trước sự bùng nổ về số lượng DN như hiện nay? Trong những năm gần đây, số vốn mà các NHTM cho các DNNVV vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay.[14]
Trong một cuộc điều tra về thực trạng DNNVV do Cục Phát Triển DNNVV ( Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư) công bố mới đây lại cho thấy chỉ có 32,38% số DN cho biết có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn Nhà nước (chủ yếu là từ các NHTM); 35,24% DN khó tiếp cận và 32,38% DN không thể tiếp cận được.[12]
Trong khi đó, việc tiếp cận các nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn, chỉ có 48,65% số DN có khả năng tiếp cận; 30,43% số DN khó tiếp cận và 20,92% DN không tiếp cận được [12]. Từ đó cho thấy các DNNVV rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn từ Ngân hàng. Vậy nguyên nhân của những khó khăn này xuất phát từ đâu?
Nguyên nhân DNNVV khó tiếp cận vốn của Ngân hàng
Thêm vào đó, khi đăng ký kinh doanh các DNNVV thường đăng ký vốn kinh doanh thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Nguyên nhân có thể là do chủ DN chưa ý thức hết tầm quan trọng của vốn kinh doanh hoặc họ cố tình để né tránh thuế. Vốn góp không chính thức và vốn huy động từ gia đình, bạn bè thì được thể hiện dưới dạng nợ. Vì thế trên báo cáo tài chính không mấy lành mạnh. Điều này sẽ dẫn đến kết quả là Ngân hàng không thề cho vay nhiều được dù DN có thể chứng minh nhu cầu vốn cũng như vốn sở hữu tham gia là rất lớn.
Cùng với đó, khi định giá tài sản đảm bảo các Ngân hàng thường định giá thấp hơn giá trị thật của tài sản rất nhiều. Và khi cho vay Ngân hàng chỉ cho vay trên khoảng 70% giá trị tài sản thế chấp. Nên thực tế DN chỉ vay được khoảng 50% giá trị tài sản của mình vì thế không đáp ứng được nhu cầu vốn của DN.
Với tất cả những vai trò đã phân tích ở trên, có thể thấy rằng DNNVV là một bộ phận không thể thiếu, góp phần tạo nên một nền kinh tế đang phát triển nhanh, sôi động tại Việt Nam.
Thật vậy, theo Hiệp hội DNNVV, trong số khoảng 350.000 DN tại Việt Nam, DNNVV chiếm gần 95% với số vốn đăng ký hơn 1.415 nghìn tỷ đồng. DNNVV có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế và đang phát huy tác dụng tốt. Đã có hơn 260.000 DN đang hoạt động có hiệu quả, trong đó gần 75% DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ; số DN còn lại hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. DNNVV đã đóng góp đến hơn 40% GDP, giải quyết việc làm khoảng 50% lao động xã hội [10]. Với các lợi thế như phát triển ở mọi vùng miền của đất nước, mọi ngành kinh tế; là phương thức hữu hiệu để huy động nguồn lực từ người dân cho phát triển kinh tế; tạo nhiều việc làm và thu nhập; DNNVV còn có vai trò quan trọng trong việc thay đổi cấu trúc và giúp nền kinh tế trở nên linh hoạt, dễ thích ứng với những biến động của kinh tế toàn cầu. Mặc dù trong giai đoạn hội nhập, các DN có quy mô nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn, song trong một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì việc phát triển lực lượng này là rất quan trọng. Và theo định hướng của Chính phủ, đến 2010, cả nước sẽ có khoảng 500.000 DNNVV. [13]
Tuy nhiên, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn hiện nay, kinh tế thế giới khủng hoảng tác động rất lớn đến kinh tế Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng. Khi Việt Nam vừa gia nhập WTO, rất nhiều chuyên gia lo ngại rằng DNNVV sẽ rất khó đứng vững, thậm chí phá sản, bởi với quy mô nhỏ và vừa của mình, nguồn lực của họ sẽ không đủ mạnh để chống lại sự xâm nhập hàng loạt của các doanh nghiệp lớn mạnh của nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam. Còn trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu hiện nay, các DNNVV một lần nữa đối mặt với khó khăn. Thách thức lớn nhất hiện nay đối với các DNNVV là làm thế nào trang bị cho mình nguồn lực tài chính vững chắc để vượt qua thời kỳ này, tiếp tục phát triển. Đây cũng là lúc các ngân hàng phát huy hết vai trò của mình. Các ngân hàng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp các DNNVV vượt qua giai đoạn này để có thể tiếp tục phát triển, vì lợi ích của chính họ và vì sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Do đó, sự hỗ trợ của Ngân hàng trong lúc này chính là cứu cánh lớn nhất và gần như là duy nhất cho các DNNVV. Do đó phát triển tín dụng đối với DNNVV đặt ra hiện nay là hết sức cần thiết.