GIỜ NGÀY ĐÊM
Trái đất tự quay 1 vòng là 1 ngày đêm, gọi là “Ngày Mặt trời'', ngày và đêm được hình thành khi Trái đất quay về phía Mặt trời là ngày, phần quay lưng về phía Mặt trời là đêm. Sau Xuân Phân, Mặt trời chiếu vào phía Bắc bán cầu dần dần nhiều lên. Do vậy, Bắc bán cầu đêm ngắn ngày dài. Nam bán cầu thì ngược lại. Sau Thu Phân Mặt trời chiếu vào phía Nam bán cầu nhiều dần lên, lúc này Nam bán cầu ngày dài đêm ngắn, còn Bắc bán cầu thì ngày ngắn đêm dài.
Cách chia 1 ngày và đêm có rất thiều. Nghe nói thời kỳ Vũ Định thời Ân từng chia 1 ngày đêm thành 8 Ân; thồi kỳ Tổ Giáp chia 1 ngày đêm thành 10 thời đoạn. Thời Chu đã tiến bộ hơn chia 1 ngày đêm thành 12 thời đoạn, tức 12 giờ. Đến thời Hán, vẫn dùng 12 giờ để tính 1 ngày đêm, nhưng đã dùng 12 Địa Chi để biểu thị, 12 Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Tên gọi ở bảng dưới đây là cách gọi thông dụng thời giờ 1 ngày đêm của các thời Ân, Chu, Hán. Cách gọi thông dụng này là do cổ nhân đã mượn một số đặc trưng của tự nhiên và sinh vật để tính thời gian; ''gà gáy", ''nhân định" là mượn đặc trưng nửa đêm gà gáy và con người đi vào giấc ngủ. ''Thực thời'' và ''phô thời'', mượn giờ ăn để biểu thị thời gian. Cổ nhân ăn một ngày hai bữa, bữa sáng diễn ra sau khi Mặt trời mọc, trước buổi trưa, do vậy khoảng thời gian này gọi là ''thực thời”, bữa tối được thực hiện sau khi Mặt trời lặn trước khi đi ngủ, khoảng thời gian này được gợi là “Phô thời”. Ngoài những cách gọi này, con người còn lấy đặc trưng vị trí Mặt trời để tính toán thời gian.
Ngoài việc sử dụng 12 giờ trên, còn 1 cách tính giờ, đó là “bách khắc”. Cách này chia 1 ngày đêm thành 100 khắc, đây là sản phẩm của việc sử dụng đồng hồ cát, nguồn gốc cách sử dụng tính thời gian này không thể có trước thời Thượng. Lúc đó, ban ngày người ta dựa vào việc đo bóng Mặt trời, đêm thì dựa vào đồng hồ cát.
BIỂU THỜI ĐOẠN CÁC THỜI ÂN - CHU – HÁN.
Thời đại | Ngày Mặt Trời |
Ngày | Đêm |
Ân (Vũ Định) | Minh | Đại Thái | Đại Thực | Trung Nhật | Trắc | Tiểu Thực | Tiểu Thái | Hôn | Muội | Hề (Nghĩa) |
Ân (Tổ Giáp) | Minh | Triều | Đại Thực | Trung Nhật | Trắc | Tiểu thực | Mộ | Hoàng Hôn | Nhân định | Dạ bán | Gà gáy | Bình đán |
Chu | Nhật | Thực Thời | Ngung Trung | Trung Nhật | Nhật dật | Phô thời | Nhật nhập |
Hán | Mão | Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | Thân | Dậu | Tuất | Hợi | Tý | Sửu | Dần |
Việc sử dụng chế độ 1 2 giờ và 100 khắc cần phải quy đổi, mà 100 thì không thể chia hết cho 12, do vậy, trong lịch sử đã từng thử làm cuộc cách mạng với chế độ 100 khắc. Theo sử sách ghi lại, thời Thành Đế (Lưu Ngạo) nhà Hán, Tề Trung đã chia 1 ngày thành 120 khắc, nhưng chỉ được sử dụng trong 2 tháng vào năm thứ 2 (5 năm Tr.CN) niên hiệu Kiến Bình thời Hán Viêm Đế (Lưu Hân). Vương Mãng Thái cũng từng dùng chế độ 120 khắc nhưng thời gian rất ngắn. Sau rày Lương Vũ Đế niên hiệu Thiên Lam năm thứ 6 (tức năm 507) và niên hiệu Đại Đồng năm thứ 10 (năm 544) đã lần lượt đổi dùng chế độ 96 Khắc và 108 Khắc, nhưng chỉ dùng được chục năm rồi bỏ. Đến giữa những năm niên hiệu Thiên Gia đời Trần Văn Đế (năm 506 đến năm 566) lại khôi phục, sử dụng chế độ 100 khắc, mãi cho đến đầu thời nhà Thanh mới bỏ hẳn và đổi sang dùng chế độ 96 khắc.
Mối liên hệ giữa chế độ 96 khắc, 12 giờ và chế độ 24 tiếng mà hiện nay đang sử dụng là: 1 giờ thì tương đương với 8 khắc hoặc 2 tiếng. Mỗi khắc thì tương ứng với 15 phút của chế độ 24 tiếng, 1 giờ lại chia thành 4 khắc thượng (thời sơ) và 4 khắc hạ (thời chính), như vậy là 2 nửa giờ; mỗi nửa giờ lại tương đương với 1 tiếng.
BẢNG ĐỐI CHIẾU GIỮA 12 GIỜ VÀ 24 TIẾNG
12 THỜI CỔ ĐẠI | GIỜ | THỜI ĐOẠN HIỆN ĐẠI |
Nửa đêm | Tý | Tý | 23 giờ ~ 24 giờ |
Chính Tý | 24 giờ ~ 1 giờ |
Gà gáy | Sửu | Sơ Sửu | 1 giờ ~ 2 giờ |
Chính Sửu | 2 giờ ~ 3 giờ |
Bình đán | Dần | Sơ Dần | 3 giờ ~ 4 giờ |
Chính Dần | 4 giờ ~ 5 giờ |
Nhật xuất | Mão | Sơ Mão | 5 giờ ~ 6 giờ |
Chính Mão | 6 giờ ~ 7 giờ |
Thực thời | Thìn | Sơ Thìn | 7 giờ ~ 8 giờ |
Chính Thin | 8 giờ ~ 9 giờ |
Ngung trung | Tỵ | Sơ Tỵ | 9 giờ ~ 10 giờ |
Chính Tỵ | 10 giờ ~ 11 giờ |
Nhật Trung | Ngọ | Sơ Ngọ | 11 giờ ~ 12 giờ |
Chính Ngọ | 12 giờ ~ 13 giờ |
Nhật Dật | Mùi | Sơ Mùi | 13 giờ ~ 14 giờ |
Chính Mùi | 14 giờ ~ 15 giờ |
Phô thời | Thân | Sơ Thân | 15 giờ ~ 16 giờ |
Chính Thân | 16 giờ ~ 17 giờ |
Nhật nhập | Dậu | Sơ Dậu | 17 giờ ~ 18 giờ |
Chính Dậu | 18 giờ ~ 19 giờ |
Hoàng hôn | Tuất | Sơ Tuất | 19 giờ ~ 20 giờ |
Chính Tuất | 20 giờ ~ 21 giờ |
Nhân định | Hợi | Sơ Hợi | 21 giờ ~ 22 giờ |
Chính Hợi | 22 giờ ~ 23 giờ |
Ngoài ra, Trung Quốc cổ đại còn có cách tính giờ ''Báo canh'? Chia một đêm thành 5 canh: tương đương với giờ hiện đại, từ 7 giờ tới 9 giờ là canh 1; từ 9 giờ đến 11 giờ là canh 2; từ 11 giờ đến 1 giờ là canh 3; từ 1 giờ đến 3 giờ là canh 4; từ 3 giờ đến 5 giờ là canh 5.
Ở các nước Âu, Mỹ, 1 ngày đêm được chia thành 24 tiếng, mỗi tiếng chia thành 4 khắc và còn chia 1 tiếng thành 60 phút, mỗi phút chia thành 60 giây. Do đồng hồ chỉ có 12 tiếng hợp với 1/2 ngày đêm, thế là lấy ''buổi sáng" và ''buổi chiều" để phân biệt, lấy 12 giờ đêm đúng là 0 giờ đêm. Lấy 1 giờ làm 1 giờ, Chính ngọ 12 giờ là 12 giờ, 1 giờ chiều là 13 giờ, 6 giờ chiều là 18 giờ, 11 giờ tối là 23 giờ.
Có hai cách tính giờ trong 1 ngày đêm, 24 tiếng ở Âu, Mỹ được bắt đầu tính từ 0 giờ, tức là từ 12 giờ đêm trước 12h đêm là ngày hôm trước sau 12h đêm là ngày tiếp theo. 12 giờ của Trung Quốc mở đầu từ giờ Tý (23h). Bắt đầu từ 11 giờ đêm đến giờ là giờ Tý. Trước 11 giờ đêm là ngày hôm trước, sau 11 giờ đêm là ngày tiếp theo.