HỆ THỐNG GIAO THÔNG THÔNG MINH LÀ GÌ?
Bạn đã từng nghe nói tới ITS bao giờ chưa? Đó chính là từ viết tắt tiếng Anh có nghĩa là ''Hệ thống giao thông thông minh''. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay, một số nước có nền kinh tế phát triển ra sức đầu tư những nguồn vốn lớn, bắt đầu áp dụng những kỹ thuật tiên tiến hiện đại để nghiên cứu và phát triển hệ thống giao thông thông minh và tổ chức ra một Uỷ ban quốc tế về hệ thống giao thông thông minh, phụ trách việc trao đổi thông tin giữa các nơi trên thế giới và thiết lập một kho thông tin quốc tế.
Tại sao phải tiến hành nghiên cứu và phát triển hệ thông giao thông thông minh. Nguyên nhân cơ bản là trên phạm vi toàn thế giới, hệ thống giao thông thông thường không theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của lượng thông tin giao thông, mà mâu thuẫn về độ an toàn của giao thông trên đường ngày càng gia tăng. Đương nhiên, hệ thống giao thông thông minh cũng có sự giúp đỡ rất lớn cho việc phát triển những ngành nghề mới và đánh vào thị trường mới.
Hệ thống giao thông thông minh chính là kỹ thuật mở đường cho việc định vị vệ tinh tiến tiến, cho kỹ thuật vi tính, kỹ thuật xử lý hình vẽ, kỹ thuật dữ liệu thông tin, kỹ thuật truyền cảm, kỹ thuật tin tức, kỹ thuật điều khiển điện tử, vận dụng một cách có hiệu quả trong việc áp dụng đối với ngành giao thông vận tải, phục vụ, điều khiển, quản lý và chế tạo xe hơi, từ đó mà làm cho xe cộ thông minh tụ điều chỉnh giao thông đến một trạng thái tốt nhất. Người lái xe dựa vào sự thông minh của hệ thống để nắm rõ tình hình giao thông; Nhân viên quản lý vận chuyển và nhân viên giao thông dựa vào sự ''thông minh'' của hệ thống để nắm rõ tình hình luân chuyển xe cộ trên đường. Như thế người, xe, đường có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, cảm thiện chất lượng môi trường, nâng cao tỉ lệ lợi dụng năng lượng.
Các nước trong quá trình nghiên cứu và áp dụng hệ thống giao thông thông minh, do tình hình giao thông cụ thể không giống nhau nên tác dụng của hệ thống áp dụng trong thực tiễn cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng chức năng chủ yếu của nó lại giống nhau trên đại thể, khác nhau ở chi tiết. Thông thường nó có chức năng tự động nhận biết các chướng ngại trên đường giao thông, tự động cảnh báo, tự động chuyển hướng, tự động hãm tốc độ, tự động giữ tốc độ an toàn cho xe và điều khiển phương tiện; Chức năng cung cấp cho người điều khiển những tin tức mới về điều kiện đường xá, tình hình giao thông và dừng xe tự động thu phí; Đối với ngành giao thông vận tải có chức năng cung cấp thông tin về đường xá và giao thông cùng với chức năng định vị phương tiện, bám sát giao thông, thông tin, điều độ; Đối với ngành quản lý đường có chức năng cung cấp tin tức kịp thời và tự động dừng xe thu phí; Đối với ngành quản lý giao thông nó có tác dụng kịp thời trong việc hướng dẫn, khống chế lưu lượng giao thông và chức năng đối phó kịp thời với những sự việc đột phát.