Tài liệu: Khổng Tử (551 - 479 TR.CN)

Tài liệu
Khổng Tử (551 - 479 TR.CN)

Nội dung

KHỔNG TỬ (551 - 479 TR.CN)

           

            A. THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI KHỔNG TỬ

Từ khi nhà Chu chiến thắng nhà Thương lên ngôi Hoàng đế, các chế độ chính sách có sửa lại ít nhiều, chia lãnh địa ra làm hơn 70 nước để phong cho các con cháu và công thần làm chư hầu.

Những nước chư hầu ấy đều được quyền tự chủ, nhưng hàng năm phải triều cống nhà Chu; và khi có chiến tranh tất phải theo mệnh lệnh nhà Chu, đem quân tướng đi tòng chinh. Giang sơn nhà Chu ngày ấy ở vào lưu vực sông Hoàng Hà và chừng năm, sáu tỉnh phía Bắc Trung Quốc ngày nay. Các nước chư hầu lớn thì bằng hai, ba tỉnh; nhỏ thì bằng dăm ba huyện của ta ngày nay. Khi nhà Chu còn thịnh thì trật tự trong nước vẫn được phân minh. Nhưng từ khi nhà Chu suy yếu phải dời đô về phía Đông ở Lạc ấp thì uy quyền của nhà Chu có nhiều nước không theo. Các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau thành ra phân tán, có đến 160 nước. Các nước đánh nhau, ai mạnh thì làm "Bá" như nước Tề, nước Tống, nước Tấn, nước Tần, nước Sở, nước Ngô, nước Việt... Hoàng đế nhà Chu chỉ còn làm vì, thỉnh thoảng lại có một Bá mượn danh nghĩa nhà Chu để kéo quân đánh nước khác.

Thời đại ấy, sử Tàu gọi là Xuân Thu thời đại (722 - 480 Tr.CN).

Khổng Tử là người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, hạ lưu sông Hoàng Hà. Ông có dáng dõi người nước Tống (Hà Nam), ông tổ ba đời sang ở nước Lỗ (Sơn Đông). Bố là Thúc Lương Ngột làm quan võ, lấy người vợ trước sinh được 9 người con gái, lấy người vợ hai sinh được một con trai tên là Mạnh Bì nhưng bị tật què chân. Đến lúc già mới lấy bà Nhan Thị là sinh được Khổng Tử. Khổng Tử sinh vào tháng 10 năm Canh Tuất, tức là năm thứ hai mươi mốt đời Chu Linh Vương (551 Tr.CN). Khi sinh ra, bố mẹ đặt tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni.

Năm lên ba tuổi thì bố chết, ở với mẹ, thích xem và chơi những trò cúng tế. Bản thân thích điều nhân nghĩa.

Năm 19 tuổi lấy vợ, rồi ra làm chức ''Ủy lại'' coi việc đong thóc công khố; sau lại làm chức "Tử chức lại" coi việc nuôi bò để cúng tế. Thuở ấy, tuy Khổng Tử còn trẻ nhưng đã nổi tiếng là người thông thái nên quan nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con là Hà Ky và Nam Cung Quát theo Khổng Tử để học lễ.

Khổng Tử vốn là người theo Nho đạo nên rất muốn biết những lễ nghi và phép tắc của các đế Vương thời trước. Năm 28, 29 tuổi muốn đi đến Lạc ấp là Kinh đô nhà Chu thời bấy giờ để nghiên cứu, nhưng vì đường xa, tiền lộ phí không có nên chẳng đi được.

Sau học trò là Nam Cung Quát có trình với Lỗ Hầu (Vua nước Lỗ) về việc này. Lỗ Hầu liền cho một cỗ xe, hai con ngựa và vài người hầu để đưa Khổng Tử đến Kinh đô nhà Chu.

Ở Lạc ấp, có nhà Minh Đường của Chu Công lập ra để chứa những sách ghi chép luật lệ, những bảo mật và các hình tượng của Thánh hiền thời trước. Khổng Tử đến đó khảo cứu mọi việc. Ông đi xem những chế độ ở nơi miếu đường cùng những nơi tế giao, tế xã. Phàm ở đâu có việc gì liên quan đến việc tế lễ là ông cũng đi xem tường tận. Ông lại đến hỏi lễ với Lão Tử, hỏi nhạc với Trành Hoằng. Sách Sử ký của Tư Mã Thiên chép rằng: ''Khổng Tử đến hỏi Lão Tử về lễ, Lão Tử đáp rằng: Người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá và đi chân đất. Ta nghe người buôn bán giỏi, khéo chứa của coi như người không có gì, người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như người ngu dại. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng ham muốn, cái sắc dục và cái dâm chí đi, những cái ấy đều vô ích cho ông”. Sau việc này, Khổng Tử về nói với học trò rằng: “Chim nó biết bay, cá nó biết lội, thú nó biết chạy, bay, lội, ta có thể dùng lưới mà bắt được; đến như con rồng thì ta không biết nó cưỡi gió, vượt mây, bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lão Tử như con rồng vậy”.

Khổng Tử ở Kinh đô nhà Chu ít lâu lại trở về nước Lỗ. Vốn học vấn của ông đã rộng thêm, học trò theo học ngày càng nhiều, nhưng Vua nước Lỗ vẫn không trọng dụng. Sau đó, trong nước có loạn, ông sang nước Tề.

Vua nước Tề mời đến hỏi việc chính trị, ông đối đáp rất lưu loát, vừa ý Vua Tề. Tề hầu đã định đem đất Ni Khê phong cho ông, nhưng quan Đại phu nước Tề là Án Anh can ngăn. Ông thấy thế lại bỏ nước Tề về nước Lỗ dạy học trò. Lúc này ông đã 35 tuổi.

Năm thứ 19 đời Chu Kính Vương, ông đã 51 tuổi, Vua nước Lỗ mới dùng ông làm quan Trung đô tế (như Phủ Doãn). Cách một năm sau, thăng Đại tư khấu (như Hình bộ thượng thư). Ông đặt ra luật pháp nhằm cứu giúp người nghèo khó, định rõ việc quan hôn, tang, tế; người đi đường thấy của rơi không nhặt; kẻ gian phi không có; hình pháp không dùng đến. . .

Ông làm Đại tự khấu được 4 năm, Vua Lỗ thăng lên chức Nhiếp tướng sự (như Thủ tướng). Sử chép ông cầm quyền được bảy ngày thì giết quan Đại phu Thiếu Chính Mão. Mão là một người gian hiểm xảo quyệt thời bấy giờ; được ba tháng thì việc chính trị trong nước đã tốt đẹp, trai thì trung tín, gái thì trinh thuận; trật tự trên dưới đều phân minh; trong nước thành ra cảnh thái bình thịnh trị.

Nước Tề bên cạnh không muốn nước Lỗ cường thịnh lên, bèn dùng kế phản gián, cho 80 người con gái đẹp múa hát giỏi, 30 con ngựa hay, sang bày ở cửa Nam thành nước Lỗ, nói là để biếu Vua Lỗ. Quan Đại phu nước Lỗ là Quý Tôn Tử xui Lỗ hầu ra xem và nhận lấy, Lỗ hầu say mê bỏ việc ba ngày không ra thiết triều.

Khổng Tử thấy Vua vui chơi, bỏ trễ việc nước, chắc là rồi mọi việc sẽ hỏng, nên nhân dịp tế giao mà không chia phần đúng chế độ cho các quan, ông liền từ chức bỏ sang nước Vệ.

Đến nước Vệ được mười tháng, nhưng Vua nước Vệ không dùng, ông định đi sang nước Trần. Nhưng khi đến đất Khuông, người ở đây tưởng lầm ông là Dương Hổ - một kẻ tàn bạo ai cũng ghét - liền đem quân ra vây đánh. Ông cùng Tử Lộ chỉ ngồi đàn hát, người nước Khuông biết là lầm bèn rút quân đi. Ông thấy bị cản trở bèn quay lại nước Vệ.

Nhưng lại gặp những điều bất như ý, ông bèn sang nước Tống. Quan Tư Mã nước Tống là Hoàn Khôi muốn giết hại ông; ông bỏ sang nước Trần.

Ở nước Trần ba năm, Vua nước Trần vẫn quý và trọng đãi; nhưng nước Trần cứ bị giặc giã luôn, nên ông lại trở về nước Vệ.

Nhưng Vua nước Vệ vẫn không dùng. Có lần ông định đến giúp Phật Bật ở đất Trung Mâu; sau lại định đến với Đại phu nước Tấn là Triệu Ưởng, nhưng đi được nửa đường lại thôi, quay về nước Vệ.

Ở nước Vệ lần này được ba năm, ông lại bỏ sang nước Trần.

Ông ở nước Trần được ít lâu lại sang nước Thái.

Khi đi qua nước Diệp, gặp trở ngại ông lại quay về nước Vệ, ở chừng năm, sáu năm và không đi đâu nữa.

Từ ngày ông bỏ nước Lỗ ra đi đến nay đã 14 năm. Nhân dịp Quý Tôn Phi nước Lỗ cho người sang đón, ông trở về nước Lỗ. Ông đã 68 tuổi, ông không cầu ra làm quan nữa, ở nhà dạy học. Học trò có khi đông đến hàng vài ngàn. Ông san định lại các sách vở đời trước và trước tác sách Xuân Thu, để bày tỏ cái Đạo chính trị của mình.

Từ đó, ông chỉ dạy học và nghiên cứu, không đi đâu nữa. Đến tháng tư năm Nhâm Tuất, tức là năm thứ bốn mốt đời Chu Kính Vương (478 Tr. CN), ông bị mắc bệnh, bảy ngày sau thì qua đời.

Khi chết có hơn trăm học trò cũ để tang ở gần mộ đến hết tang. Thầy Tử Cống ở đó đến hết 6 năm.

Mộ của ông nay ở huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, cây cối xanh tươi như rừng, người đời sau gọi là Khổng lâm[1]

Về cơ bản tư tưởng của Khổng Tử là bảo thủ, muốn duy trì và phát triển thế lực của giai cấp quý tộc thị tộc lúc đó đang mất dần thực quyền. Qua Luận ngữ - sách ghi lại lời nói và việc làm của Khổng Tử và một số môn đồ, chúng ta thấy điểm trung tâm trong học thuyết của ông là chữ nhân với một phạm vi bao quát rất rộng lớn. Người ta không được thấy Khổng Tử nói rõ một cách tập trung chữ nhân bao gồm những nội dung gì. Khi học trò hỏi về chữ nhân, ông đã tùy từng người hỏi mà đưa ra những câu trả lời khác nhau. Song, có thể thấy được rằng theo Khổng Tử, gốc của chữ nhân là hiếu đễ. Đối với đương thời, việc đề cao chữ nhân là có ý nghĩa tích cực, mang tính chất nhân bản; nhưng mặt khác, trong quan niệm của Khổng Tử về chữ nhân có bao hàm sự thừa nhận chế độ đẳng cấp và quan hệ tông pháp. Nhân không phải chỉ có yêu mà có cả ghét; "Duy chỉ người có đức nhân mới có thể yêu người, mới có thể ghét người" (Luận ngữ, Lý nhân). Tất nhiên, mặt yêu thương (con người) là mặt chủ đạo. Nhưng sự yêu thương này cũng có những cấp độ khác nhau dựa theo quan hệ thân sơ, sang hèn; nhân cũng không phải là lòng bác ái rộng lớn bao la, mà cần phải có những tiêu chí giới hạn cụ thể.

Tử Cống - một môn đồ của Khổng Tử hỏi: ''Giả dụ có một người có thể ra ơn rộng khắp cho mọi người, giúp đỡ đông đảo chúng dân... người như vậy có thể coi là có đức nhân được chăng?”. Khổng Tử nói: "Như vậy đâu phải chỉ là người có đức nhân mà là bậc Thánh rồi! Nhưng, đến ngay cả Nghiêu, Thuấn là hai bậc Thánh Vương ngày xưa e cũng khó có thể làm được như vậy! Theo ta người có đức nhân là như thế này: bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc sống thì cũng nên giúp người khác đứng vững trong cuộc sống; bản thân mình muốn thành đạt trong cuộc sống thì cũng nên giúp người khác thành đạt trong cuộc sống. Mọi việc đều có thể tự mình mà nghĩ đến người khác, có thể nói đó là biện pháp thực hiện đạo nhân!'' (Luận ngữ - Ung dã). Trong quan niệm của Khổng Tử, nhân lại gắn chặt với lễ - những quy phạm đạo đức lễ nghi được xác lập có hệ thống và khá chi tiết cụ thể nhằm ổn định và duy trì các mối quan hệ đẳng cấp, tông pháp trong xã hội đương thời. Có thể coi lễ là  phương thức giúp người ta đi được tới chữ nhân. Nhan Uyên - một học trò được Khổng Tử rất quý mến - hỏi về điều nhân. Khổng Tử đáp: ''Ghìm nén cá nhân mình để quay về với Lễ, đó là Nhân. Hằng ngày ghìm nén cá nhân mình để quay về với lễ, cả thiên hạ sẽ noi gương mà quay về với điều nhân. Thực hiện điều nhân là do mình chứ đâu phải là do người khác”. Nhan Uyên nói: ''Xin cho nghe rõ từng điều một”. Khổng Tử nói: ''Không đúng lễ thì đừng nhìn, không đúng lễ thì đừng nghe, không đúng lễ thì đừng nói, không đúng lễ thì đừng làm" (Luận ngữ - Nhan uyên). Lễ là phương thức giúp người ta đạt tới điều nhân, và nhân lại chính là nội dung đích thực của lễ. Khổng Tử nói: "Người mà không có đức nhân thì thực hành lễ sao được?'' (Luận ngữ - Bát dật). NhânLễ gắn bó với nhau như hình với bóng và đó cũng là chuẩn đích tối cao trên con đường hoàn thiện phẩm cách của một Nho sĩ - quân tử.

Về mặt chính trị, lập trường của Khổng Tử là bảo thủ. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể, ông có đề ra một số chủ trương biện pháp có tính chất cải lương để hoà hoãn mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị quý tộc và nhân dân; đồng thời cũng nhằm điều hoà quyền lợi, giảm bớt mâu thuẫn xung đột trong nội bộ các tầng lớp thống trị. Ông đề cao đức trị (cai trị bằng cách phát huy tác dụng của đức độ của người cầm quyền lễ giáo (giáo dục, thuần hoá dân chúng bằng lễ). Ông nói: ''Làm chính sự bằng đức (độ) cũng ví như sao Bắc Đẩu cứ đứng nguyên một chỗ mà các sao khác phải hướng về chầu hầu'' (Luận ngữ - Vi chính); ''Cai trị dân bằng chính lệnh, đưa dân vào khuôn phép bằng hình phạt, người dân sợ mà tránh điều tội lỗi nhưng trở nên vô sỉ. Dắt dẫn dân bằng đức độ, đưa dân vào khuôn phép bằng lễ, người dân sẽ biết xấu hổ mà không làm bậy và lại còn có chí hướng vươn lên đến chỗ hoàn thiện (Luận ngữ - Vi chính). Trong chính sự ông cũng chú ý đến việc cải thiện hoàn cảnh kinh tế của nhân dân. Trên đường từ Lỗ sang Vệ, có học trò là Nhiễm Hữu cùng đi, Khổng Tử khen: ''Dân ở đây đông đúc quá nhỉ”. Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đã đông rồi nên làm gì thêm nữa?” Khổng Tử đáp: “Làm cho dân giàu có lên!” Nhiễm Hữu lại hỏi: ''Dân đã giàu có rồi, nên làm gì thêm nữa?”. Đáp: ''Nên giáo hoá họ!'' (Luận ngữ - Tử Lộ). Chủ trương đức tri lễ giáo một mặt nhằm ổn định trật tự xã hội, thuần hoá dân chúng, mặt khác cũng nhằm phản đối nền chính sự hà khắc, tàn bạo, dễ làm dân chúng oán giận mà nổi lên chống lại. Giữa Vua tôi, cha con, người trên kẻ dưới, Khổng Tử nhấn mạnh mối quan hệ hợp lý hai chiều. Vua Cảnh Công nước Tề hỏi Khổng Tử về chính sự, Khổng Tử nói: ''Vua phải làm tròn phận sự của Vua, bề tôi phải làm tròn phận sự của bề tôi, cha phải làm tròn phận sự của cha, con phải làm tròn phận sự của con!" (Quân quân thần thần phụ phụ tử tử). Trước câu trả lời đó, Tề Cảnh Công đã nói một câu chí lý: ''Nếu Vua không làm tròn phận sự của Vua, bề tôi không làm tròn phận sự của bề tôi, cha không làm tròn phận sự của cha, con không làm tròn phận sự của con thì dù có thóc lúa đấy liệu ta có giữ được mà ăn hay không?”(Luận ngữ - Nhan uyên). Trong một số trường hợp khác, Khổng Tử nhắc nhở tập đoàn đương quyền cần phải chú ý đến quyền lợi của các giai tầng khác cùng hàng ngũ, và khi cần, phải có những nhượng bộ nhất định đối với dân để củng cố và giữ vững quyền lợi lâu dài.

Về mặt dùng người, bên cạnh truyền thống thân thân (thân yêu, tin cẩn, trọng dụng người có quan hệ huyết thống, cùng dòng họ), Khổng Tử đề xuất chủ trương tôn hiền (tôn trọng người có đức độ), nhiệm năng (giao nhiệm vụ cho những người có đầy đủ khả năng), cử trực (tiến cử cất nhắc người ngay thẳng). Vua Ai Công nước Lỗ hỏi làm thế nào để dân tin phục, Khổng Tử đáp: ''Cất nhắc người ngay thẳng đặt vào vị trí kẻ không ngay thẳng thì dân sẽ tin phục; cất nhắc kẻ không ngay thẳng đặt vào vị trí người ngay thẳng thì dân sẽ không tin phục'' (Luận ngữ - Vi chính). Thuyết chính danh (làm cho danh phù hợp với thực) do Khổng Tử đề xướng, vốn đã bị một học trò phê phán là viển vông, về thực chất, cũng có những điểm khả thủ. Tuy nhiên, sai lầm chủ yếu của học thuyết này là ở chỗ: tiêu chuẩn để chính danh lại là thực tại của thời Tây Chu đã lùi xa vào dĩ vãng. Do đó, màu sắc duy tâm bảo thủ của thuyết này rất đậm.

Trong lịch sử, ở một chừng mực nhất định vào những thời điểm cụ thể, chữ nhân cùng với thuyết chính danh và chủ trương đức tự, cử trực, tôn hiền, nghiệm năng v.v… của Khổng Tử đã tạo cơ sở lý luận cho những thế lực tiến bộ muốn dựa vào Nho giáo để đấu tranh nhằm đạt tới những thay đổi có tính chất cải lương trong khuôn khổ chế độ phong kiến.  

Thất bại trên đường hoạt động chính trị, Khổng Tử dồn hết tâm trí vào việc dạy các môn đồ, hy vọng sẽ đào tạo được những người sẽ có thể thay thế mình để hành Đạo ở đời. Tương truyền ông có tới ba ngàn môn sinh, trong đó có bảy mươi hai người (thất thập nhị hiền) rất thành đạt. Về mặt giáo dục, ông tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm, có được nhiều quan niệm đúng đắn: Coi tác dụng giáo dục là có ý nghĩa phổ biến; coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn mạnh việc suy nghĩ tìm tòi cố gắng chủ quan; thấy được mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học. Khổng Tử hết sức đề cao việc học tập; có thể coi đó là một di sản tư tưởng quý báu của ông để lại cho đời sau và cho đến ngày nay vẫn có giá trị tích cực. Theo ông, làm Vua, làm quan cũng phải học, làm ruộng làm vườn cũng phải học. Ngay trong lĩnh vực rèn luyện phẩm chất của người quân tử, thực hành các tín điều đạo đức của Nho gia cũng phải học, chứ không thể chỉ dựa vào nhận thức cảm tính là lòng nhiệt thành. Ông nói: "Ham thích điều nhân mà không thích học, cái hại là ở chỗ ngu; ham thích điều trí mà không thích học, cái hai là ở chỗ tản mạn, phóng túng; ham thích sử chính trực mà không thích học, cái hại là ở chỗ khắt khe; ham thích điều dũng mà không thích học, cái hại là ở chỗ thích làm những điều trái khoáy, lộn bậy; ham thích tính cương quyền rắn rỏi mà không thích học thì cái hại sẽ là ở chỗ điên khùng” (Luận ngữ - Dương hoá). Nhưng nội dung chủ yếu của việc dạy và học do Khổng Tử tiến hành lại thiên về mặt tư tưởng đạo đức của Nho gia, coi nhẹ những kiến thức về giới tự nhiên, về lao động sản xuất, chỉ chuyên chú vào việc đào tạo những quan chức phục vụ các Vương triều quý tộc theo những quan niệm chủ trương chính trị - xã hội mà đích thân Khổng Tử đã từng suốt đời đeo đuổi nhưng chưa một lần được thực hiện. Về mặt chỉnh lý di sản văn hóa cổ, Khổng Tử chủ trương “Thuật nhi bất tác” (chỉ trình bày lại chứ không sáng tác gì thêm), nhưng thực tế ông có đóng góp rất nhiều kiến giải riêng trong quá trình soạn thuật, hiệu đính, chú giải, bình luận các di sản đó. Tương truyền ông đã san định Kinh Thi, Kinh Thư biên soạn Kinh Nhạc, Kinh Lễ, viết những lời giới thiệu Kinh Dịch. Những tác phẩm kinh điển của Nho gia hình thành từ nhiều nguồn, nhiều cơ sở khác nhau nhưng đều có mang dấu ấn tư tưởng của Khổng Tử.

Khi còn sống, Khổng Tử không được trọng dụng, học thuyết của ông bị người đời bài bác chê cười. Sau khi ông qua đời, học thuyết của ông đã được cải biến nhiều lần, được nhào nặn thêm thắt mãi là trở thành trụ cột tinh thần của chế độ phong kiến. Bản thân ông được tôn làm ''Người thầy tiêu biểu của muôn đời'' (Vạn niên sư biểu), thậm chí còn được Vua Chúa phong làm ''Đại thành chí Thánh Văn tuyển Vương”, lập đền miếu thờ phụng, định kỳ tế lễ rất long trọng.

Hiện nay, học thuyết của Khổng Tử đang được Trung Quốc và những nước khác trên thế giới quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc nhằm đánh giá lại một cách công bằng, khoa học hơn.

GS. ĐẶNG ĐỨC SIÊU

LÊ HOÀI VIỆT

B. NHỮNG SÁCH DO KHỔNG TỬ BIÊN SOẠN

Khổng Tử khi dời Vệ trở về Lỗ, không ra làm quan nữa, chỉ ở nhà dạy học và biên soạn lại các sách hay của cổ nhân mà thôi. Ông nói: "Từ khi ta ở nước Vệ trở về đã soạn lại được Kinh Nhạc và các thiên Nhã, Tụng trong Kinh Thi được rõ ràng hơn, ... Ta chỉ thuật lại cái Đạo của Thánh hiền chứ không tạo tác cái gì”. (Đây là một câu nói khiêm tốn chứ thực ra ông tạo tác rất nhiều).

Cái Đạo của Thánh hiền đời trước đã tóm lược tất cả ở trong các sách? Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc… Ông xem kỹ những sách ấy rồi giải thích những chỗ khó hiểu để phát minh những ý nghĩa sâu xa của cổ nhân, hoặc xếp đặt lại cho rõ ràng, thứ tự dễ hiểu.

Ông lại làm ra bộ sách Xuân Thu để trình bày những khái niệm chính trị của ông. Sách của ông làm tất cả có 6 bộ, đời sau gọi là Lục Kinh.

Sau khi Khổng Tử mất, những sách ấy đều do các học trò chép tay truyền cho nhau, tiếp đến là chiến tranh liên miên giữa các nước thời Chiến Quốc; sau đến thời Tần lại có việc đốt sách, thành ra những nguyên bản từ thời Khổng Tử bị mất mát gần hết.

Đến thời Hán, Đạo Nho hưng thịnh lên, Vua sai đi khắp nước tìm sách thì không còn quyển nào nguyên vẹn nữa. Nhất là Kinh Nhạc chỉ còn lại một chương (thiên), sau nhập vào bộ Lễ ký gọi là chương Nhạc ký. Kinh Lễ cũng thiếu nhiều, các nhà Hán Nho mới đem phụ hoạ thêm vào để làm thành bộ Lễ ký truyền cho đời sau.

Hiện nay, những sách ấy tuy có sai lạc đi nhiều nhưng Hậu Nho đã góp nhặt và phụ hoạ thêm vào thành ra năm Kinh là:

1. Kinh Dịch

2. Kinh Thư

3. Kinh Thi

4. Kinh Lễ

5. Kinh Xuân Thu

* Kinh Dịch

Trước thời Khổng Tử, Kinh Dịch cũng như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, người ta chỉ gọi là sách, như: sách Dịch, sách Thi, sách Thư... Sau thời Khổng Tử san định lại, các môn đệ của Khổng gia mới gọi là Kinh.

Trước thời Khổng Tử đã có ba cuốn sách Dịch là: 1. Liên Sơn Dịch, 2. Quy Tàng Dịch, 3. Chu Dịch.

Thoạt đầu vì chưa có chữ viết, Dịch được thể hiện bằng những nét vạch dài (-) là dương, hai vạch ngắn (-- ) nối nhau gọi là âm. Chồng ba vạch này lại với nhau theo một trình tự quy tắc gọi là quẻ (quái). Tất cả có 8 quẻ gọi là bát quái. Những quẻ có 3 vạch (hào) gọi là quẻ đơn hay Tiên thiên bát quái[2].

* Kinh Thư

Kinh Thư là một bộ sách ghi chép những điển, mô, huấn, cáo, thệ, mạnh, của các Vua tôi dạy bảo khuyên răn nhau, từ thời Vua Nghiêu đến thời Đông Chu. Sách này rất có giá trị về mặt sử học, khiến cho người đời sau có thể thấy được những ý nghĩa và hành động của các Vua tôi từ thời Vua Nghiêu đến Khổng Tử; về các chế độ, thể lệ, phép tắc và đạo lý diễn biến từ đời nọ đến đời kia, cứ từ từ mỗi đời một khác, biểu hiện rõ nét sự tiến hoá của dân tộc Trung Hoa thời xưa.

Kinh Thư đến Tần Thủy Hoàng thì bị đốt hết. Đến Tiền Hán, có người con gái của Phục Sinh (là quan Bác sĩ thời Tần) nhớ thuộc lòng được hai mươi chín thiên.

Sau lại tìm được trong vách nhà Khổng Tử (vì đổ) được một tập hai mươi nhăm thiên viết bằng chữ cổ (khoa đẩu).

Sách do con gái của Phục Sinh đọc ra gọi là Kim văn.

Sách tìm thấy ở nhà Khổng Tử gọi là Cổ văn.

Đến thời Đông Hán có Khổng An Quốc tuyển chọn cả Kim văn lẫn Cổ văn làm ra Kinh Thư còn truyền đến ngày nay.

Kinh Thư chia ra làm: Ngu Thư, Thượng Thư, Hạ Thư, Chu Thư cả thảy có 59 thiên từ Nghiêu Điển đến Tần Thệ. Xem Kinh Thư thì biết cái tính chất phác và cách ăn nói của thời cổ. Những hành vi và tư tưởng chép trong sách ấy đều lấy hai chữ ''chấp trung'' làm cốt yếu.

            * Kinh thi

            Kinh Thi là một bộ sách chép những bài ca, bài đồng dao từ thời Thượng cổ đến đời Vua Bình Vương nhà Chu.

Ca là bài hát có vần, có điệu, dùng vào lúc tế tự hay khi hiếu hỷ. Dao là lời hát truyền khẩu của dân gian ở nơi thôn dã (theo định nghĩa cổ). Xem Kinh Thi ta biết được những tính tình, phong tục, tập quán và chính thể của các thời thuộc về nhà Chu và các nước chư hầu như:

- Mân phong thì nói về tục cần kiệm của người Mân Việt.

- Vệ phong thì nói về cái sự dâm mỹ của người nước Vệ.

- Tần phong thì nói về cái sự hối quá của người Tần.

- Đại Nhã, tiểu Nhã thì nói về việc chính trị thịnh suy của các đời Chu.

Đọc Kinh Thi có thể di dưỡng tính tình và mở rộng tri thức cho người đọc. Khổng Tử cũng nói rằng: ''Đọc Kinh Thi thì có thể mở mang được ý chí, xem xét điều hay, điều dở, có thể hoà hợp mà không lưu đãng, có thể bày tỏ cái sầu oán mà không tức giận. Trong nhà thì biết cách hiếu thuận với cha mẹ; ra ngoài thì biết cách kính, trung với Vua chúa. Biết nhiều tên các giống chim muông, cỏ cây.

Theo Luận ngữ thì: ''Kinh Thi có nhiều ý tứ, nhưng khi xem sách ấy phải giữ cái “tâm” của mình cho ''chính'' thì sự học mới có lợi”. Khổng Tử lại nói: ''Ba trăm bài trong Kinh Thi, lấy một lời mà nói trùm cả là: không nghĩ bậy'' (tư vô tà).

- Thực ra sách Thi do các Nhạc quan Nhạc sử thời trước sưu tập để đem hát trong các dịp tế lễ, hiếu hỷ. Nguyên trước có đến ba ngàn bài, nhưng Khổng Tử chỉ chọn lấy ba trăm bài.

- Đến đời Tần Thủy Hoàng, Kinh Thi cũng bị đốt, nhưng nhiều nhà Nho vẫn còn nhớ...

- Đến Tây Hán, có 4 bản Kinh Thi xuất hiện đại thể giống nhau, truyền đến ngày nay là bản của Mao Trường. Ta vẫn gọi là Mao Thi.

            * Kinh lễ

Kinh Lễ là một bộ sách chép những quy tắc, lễ nghi để nuôi dưỡng những tình cảm tốt của con người, để giữ cho trật tự xã hội được phân minh và hạn chế các loại tư dục bất chính.

Phàm những tình cảm tốt đẹp của người ta mà không có cái gì để bồi dưỡng luôn, thì dần dần nó sẽ theo thời cuộc, hoàn cảnh mà biến đổi đi hóa thành dở xấu.

Dùng lễ là có ý để gây nuôi lại cái tình cảm tốt trong mỗi con người.

Con người ta có những việc quan hệ đến xã hội như phong tục, tôn giáo; nếu không có phép tắc rõ ràng thì những việc như tế tự, hiếu hỷ, tín ngưỡng, cách ăn uống ở chỗ đình trung sẽ tránh ra hồ đồ, nhốn nháo; việc thù tiếp, cách đối đãi thành ra khó xử.

Dùng lễ để phân biệt các tôn ty, trật tự, thân sơ, sẽ tránh được các hiềm nghi nói trên.

Người ta ở đời ai cũng có lòng tư dục: nếu không có quy củ đề phòng giữ trước thì thường nó hay khiến người ta làm những điều bất nhân, phi nghĩa. Dùng lễ là để tài chế những hành vi thái quá cho hợp với lẽ phải. Lễ quan trọng thế, nên Nho gia rất chuộng Lễ. Nên có câu: ''Người nào có lễ nghĩa, mới là người có phẩm giá thật" (Phàm nhân chi sở dĩ vi nhân giả nghĩa đã).

Hồ Thích, một học giả của Trung Quốc hồi đầu thế kỷ XX, tác giả cuốn Trung Quốc triết học sử đã viết rằng: Trong cái nghĩa rộng của chữ Lễ (trong Kinh Lễ) có bao hàm cái tính chất pháp luật, nhưng Lễ thì thiên về cái quy củ tích cực, còn pháp luật thì nặng về cái hạn chế, cấm đoán tiêu cực. Lễ thì dạy người ta nên làm và không nên làm điều gì, pháp luật thì cấm người ta không cho làm những việc, nếu vi phạm thì phải phạt đủ các loại tội từ cảnh cáo đến tử hình. Người làm điều trái Lễ thì chỉ bị người đời khinh bỉ chê cười, người làm trái luật thì lập tức có hình pháp xét xử?

Mấy chục dòng mà toát yếu một quyển sách, nhất là Kinh Lễ, là điều rất khó, không  tránh khỏi khiếm khuyết, chưa đầy đủ hết ý nghĩa nên rất mong độc giả lượng thứ.

* Nhạc

Cả bộ sách Nhạc Cổ, do Khổng Tử đã san định lại đến thời Hán chỉ còn lại một vài chương. Các nhà Hán Nho chép vào bộ Lễ ký gọi là thiên ''Nhạc Ký''. Nhưng xem kỹ thiên ấy thì cũng có thể thấy được phần nào ý nghĩa của cổ nhân, kể cả Khổng Tử…

“Nhạc là do âm mã sinh ra”. Âm khởi phát ra tự lòng người, lòng người cảm ngoại vật mà động, cho nên mới hình thành cái thanh; những thanh tương ứng với nhau rồi biến ra thành phương, tức là thành cung bậc, trong đục, cao thấp, gọi là âm thanh. Âm thanh chia làm năm bậc là cung, thương, giốc, chủy, vũ. Gọi tắt là ngũ âm. Đem các âm so vào các nhạc khí để đánh ra tiếng gọi là nhạc thanh. Những tiếng đồng, đá, tơ, trúc, trống... những đồ múa như: can (khiên), thích (búa), vũ (lông chim), mao (lông đuôi bò) và những thi, ca, vịnh... tất cả những thứ trên người xưa gọi là Nhạc.

Vậy chữ Nhạc xưa là bao gồm cả nhạc cụ, nhạc khí, múa hát và xướng hoạ, thơ ca...

Nhạc với lòng người cảm hóa lẫn nhau.

- Một là bởi lòng người cảm xúc với ngoại cảnh mà tạo thành tiếng nhạc.

- Hai là tiếng nhạc làm cảm động lòng người, làm người ta thích thú vui theo.

Ví dụ: Khi ngoại cảnh đau đớn thì lòng người thương xót. Trong lòng người đã thương xót thì cái thanh âm phát ra nghe ai oán.

- Khi ngoại cảnh tốt lành thì trong lòng vui vẻ, cái thanh âm phát ra nghe thong thả, êm đềm.

- Khi ngoại cảnh vui thú thì trong lòng hớn hở, cái thanh âm phát ra nghe thú vị, hả hê.

- Khi ngoại cảnh có điều hung hiểm thì trong lòng tức giận, cái thanh âm phát ra nghe thô thiển, dữ tợn.

- Khi ngoại cảnh làm cho ta yêu mến, cái thanh âm phát ra nghe dịu dàng, hoà nhã.

- Khi ngoại cảnh có cảnh tôn nghiêm, cái âm thanh phát ra nghe chính trực, nghiêm trang.

Tóm lại, ngoại cảnh có thể làm cho ta thể hiện thất tình (ái, ố, dục, hỷ, nộ, ai, lạc) hoặc thất tình có thể làm cho ta không khách quan với ngoại cảnh. Nguyễn Du đã minh họa tình trạng này bằng câu thơ:

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Kiều)

Người sầu thì cảnh cũng sầu (ca dao)

Người xưa cho rằng: cái Tính là do bản chất của con người trời cho mà có; cái Tình là do ngoại cảnh tác động vào con người mà sinh ra. Cho nên Nhạc thành thiện hay ác đều do ở tính người.

Tình người cảm nhận điều thiện, thì thiện thanh ứng.

Tình người cảm nhận điều ác, thì ác thanh ứng. Sự thiện ác của Nhạc là bởi lòng người sinh ra:

- Nhạc thanh thiện, cảm lòng người, thì lòng người thích làm điều thiện.

- Nhạc thanh ác, cảm lòng người, thì người ta thích làm điều ác.

- Nhạc thanh kích động, cảm lòng người, thì chân tay người ta cũng không yên.

Như vậy, Nhạc có thể truyền cảm (tình cảm) và ảnh hưởng đến cái Tính (bản chất) của con người trở thành thiện hay ác.

Các bậc Đế Vương thời trước rất chú ý việc dùng Nhạc để hòa lòng người, khiến cho con người trở thành thiện, mỹ.

Khổng Tử nói: ''Xét cho cùng thì cái lẽ về Nhạc là làm cho lòng người trở thành từ ái, thành tín, giản dị, chính trực, tự nhiên...'' (Nhạc ký). Chính trị cũng thể hiện trong âm nhạc: Chính trị hay nghe tiếng nhạc hay; chính trị dở thì nghe tiếng nhạc dở.

Thí dụ: - Âm nhạc đời thịnh trị thì nghe tiếng nhạc yên tĩnh, vui vẻ:

- Âm nhạc đời loạn thì nghe oán giận, tức tối;

- Âm nhạc lúc mất nước thì nghe bi ai, sầu thảm...

- Âm nhạc thời lộn xộn thì nghe thấy kích động chân tay...

Vậy xét âm nhạc có thể biết chính trị hay hoặc dở. Lễ và Nhạc có cái mục đích chung là cùng sửa đổi tâm tính con người cho được trung chính, bồi dưỡng cái tình cảm con người cho được nhân hậu.

Nhưng LễNhạc mỗi bên lại có một chủ đích riêng.

- Lễ cốt ở sự cung kính, để giữ trật tự cho được phân minh quy củ.

- Nhạc cốt ở sự điều hòa, để khiến cho tâm tình được thanh cao, nhã nhặn.

- Có Lễ mà không có Nhạc thì mọi người ở với nhau thành ra phân biệt thái quá;

- Có Nhạc mà không có Lễ thì thành ra quá trớn, khinh nhờn.

Vậy có Lễ phải có Nhạc, cái nọ chế hoá cái kia cho được điều hoà trung chính. Có lẽ cũng vì mục đích trên nên từ thời Hán, các Nho gia đã xếp thiên Nhạc ký của Khổng Tử còn lại vào Kinh Lễ tồn tại đến ngày nay chăng?

* Kinh Xuân Thu

Kinh Xuân Thu là bộ sách do Khổng Tử sáng tác theo lối văn làm sử; chép chuyện nước Lỗ. từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công. Lại có chép cả việc nhà Chu và việc các nước chư hầu. Xem qua thì có thể tưởng là một quyển sử, lối biên niên; đôi khi lời lẽ vắn tắt, khó hiểu và rất bao hàm. Nhưng xét một cách quán triệt thì đây là một cuốn sách triết học, thể hiện các quan điểm chính trị của Khổng Tử.

Thời Xuân Thu các nước chư hầu đánh nhau loạn xạ, làm những điều bạo ngược và đều muốn lấn quyền Thiên tử của nhà Chu. Khổng Tử không bằng lòng việc này, nhưng không muốn để sự phê phán của mình động chạm đến những người quyền thế đương thời; vả lại cái học sâu xa của Khổng Tử thường là lối tâm truyền, nên ông dùng lối văn làm sử kể lại những việc đã qua để thể hiện cái ý sâu xa của mình.

Trang Tử, một nhà hiền triết thời Chiến Quốc, cũng có nhận xét ''Xuân Thu dĩ Đạo danh phận'' (sách Xuân Thu nói về Đạo danh và phận). Vậy, theo Trang Tử thì Kinh Xuân Thu là để tâm truyền cái Đạo nghĩa về danh phận, luận lý và chính trị, chứ không phải sách chép sử như nhiều nhà Nho đã hiểu lầm.

Kinh Xuân Thu có ba phần ý chính:

1. Chính danh tự 2. Định danh phận 3. Ngụ bao biếm.

Xem Kinh Xuân Thu thì phải biết cái ý nghĩa và vị trí từng chữ, mỗi chữ có thể định rõ là người tà (ác) hay người chính (thiện).

Ví dụ: Thiên tử chất thì chép chữ: Băng

Vua chư hầu chết thì chép chữ: Hoẵng

Vua cướp ngôi và làm điều vô đạo chết thì chép chữ.

Người làm quan liêm chính chết thì chép chữ: Tốt

Người làm quan gian nịnh chết thì chép chữ: Tử.

Người nào có danh phận chính đáng thì chép rõ phẩm tước và tên chữ; người nào mà danh phận không chính đáng thì dẫu có phẩm tước gì cũng chỉ chép có một tên tục mà thôi. Ví dụ: tên Kiệt, tên Trụ, chứ không chép chữ Hoàng đế Kiệt, Hoàng đế Trụ...

Có khi chỉ một chữ khen mà lưu danh thiên cổ;

Chỉ một chữ chê mà tiếng xấu muôn đời.

Kinh Xuân Thu là sách xác định chế độ độc tôn quân chủ. Ông biết rằng một nước không thể không có người cầm đầu, nhưng lại sợ rằng những Vua chúa này hay lạm dụng những quyền lực của mình để làm điều tàn bạo, nên ông mới lấy cái "nguyên" của dương khí mà thống trị việc trời, và lấy trời để thống trị các Vua chúa. Việc này được trình bày một cách quán triệt ở Kinh Xuân Thu để hạn chế lạm quyền của các Vua chúa. Nhưng cái thâm ý ấy không được những người có quyền thế thời bấy giờ hiểu biết, nên ông mới lấy những chuyện tai dị như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, động đất, núi đổ... là những điều hiển nhiên ai cũng có thể thấy được để răn dọa bọn Vua quan làm bậy. Ông muốn họ phải kính sợ những điểm lạ ấy để tự mình tu tỉnh lại rồi làm những điều ích quốc lợi dân.

Đó là cái thâm ý của Kinh Xuân Thu. Khổng Tử còn sợ người ta không hiểu cái ý ấy nên có nói rằng: ''Người biết ta là ở Kinh Xuân Thu; người trách tội ta, cũng chỉ là ở Kinh Xuân Thu” (Mạnh Tử).

Nếu xem Kinh Xuân Thu mà chỉ đọc bằng con mắt thuần túy sử học thì không thấy Kinh ấy ích lợi điều gì.

Ai lấy cái tinh thần quán triệt mà xem thì sẽ thấy được cái thâm ý nói trêu ở trong đó. Bởi thế các danh Nho thời trước vẫn kính chuộng bộ sách ấy mà xếp vào loại ''Kinh'' chứ không xếp vào loại “Sử” (Kinh là loại sách mà mọi người phải kính trọng. Ví dụ: các Kinh Thánh của các tôn giáo).

            * Luận ngữ

Luận ngữ nghĩa đen là bàn và nói - là cuốn sách chép những lời của Khổng Tử khuyên dạy học trò hoặc các câu chuyện Khổng Tử nói với những người đương thời về nhiều vấn đề như luân lý chính trị, triết học, học thuật v.v. . . do các môn đệ sưu tầm lại.

Sách này chia làm hai quyển thượng và hạ, gồm có hai mươi thiên (chương), mỗi thiên lấy hai chữ đầu đặt tên. Các chương không có liên lạc hệ thống gì với nhau.

Sách Luận ngữ thể coi như là cuốn sách dạy người ta cái Đạo làm người quân tử một cách thực tiễn, và mô tả tính tình, cử chỉ, đức độ của Khổng Tử; mọi cái được phác hoạ ra như một mẫu mực hoạt động cho người đời sau noi theo. Xem sách có thể biết được:

- Nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo đức của người quân tử;

- Phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khoái hoạt) của Khổng Tử biểu lộ ra trong những khi tiếp xúc với mọi người;

- Cảm tình phong phú và lòng ái mỹ chí thiện của Khổng Tử;

- Về khoa sư phạm của Khổng Tử, thể hiện ra là một ông thầy hiểu rõ hoàn cảnh và tâm lý của học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ và cảnh ngộ của mỗi người. Cũng có khi một câu hỏi giống nhau mà lại trả lời khác nhau, tùy theo tư chất chí hướng của từng người.

C. NHỮNG GIAI THOẠI VỀ KHỐNG TỬ

1. Trí và nhân

Tử Lộ yết kiến Khổng Tử. Khổng Tử hỏi: "Thế nào là người trí, thế nào là người nhân?”

Tử Lộ thưa: “Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết mình; người có nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình”.

Khổng Tử bảo: ''Nhà ngươi nói như vậy cũng khá (tạm) gọi là người có học vấn (trí thức)”.

Tử Lộ ra, Tử Cống vào( Khổng Tử lại hỏi: ''Người trí, người nhân là người thế nào?''

Tử Cống thưa: “Người trí là người biết người, người nhân là người yêu người”.

Khổng Tử bảo: “Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn”.

Tử Cống ra, Nhan Hồi vào, Khổng Tử lại đem việc người trí và người nhân ra hỏi.

Nhan Hồi thưa: ''Người trí là người tự biết mình; người nhân là người tự yêu mình”.

Khổng Tử bảo: ''Nhà ngươi nói như vậy mới đáng gọi là bậc sỹ quân tử (người trí thức quân tử).

Gia ngữ

2. Người khôn sống lâu 

Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử: Người khôn có sống lâu không?

Khổng Tử đáp: Có, khôn thì sống lâu chứ dại thì sống lâu sao được. Người ta có ba cái chết do tự mình làm ra chứ không phải do số mệnh nào cả.

Một là: Ăn uống không có chừng mực, thức, ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, như thế phải chết về bệnh tật.

Hai là: Phận mình là người dưới mà xúc phạm đến người trên, lòng tham muốn không chừng, tính yêu cầu không biết chán, nhiều tham vọng mơ hồ, người như thế sẽ chết về hình pháp.

Ba là: Mình ngu mà mình địch với người khôn; mình yếu mà khinh bỉ người mạnh, không biết lượng sức mình mà cứ giận dữ, hoang tưởng làm liều; người như thế thì chết về binh đao.

Hàn thi ngoại truyện

3. Theo ai phải suy tính cẩn thận

Một hôm Khổng Tử thấy người đánh lưới chim sẻ chỉ bắt được toàn sẻ non vàng mép, liền hỏi rằng:

- Ông không bắt được sẻ già là tại làm sao?

Người đánh lưới nói: Chim sẻ già biết sợ cho nên khó bắt. Nếu sẻ non mà biết theo sẻ già, thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẻ già mà lại theo sẻ non, thì bắt sẻ già cũng dễ.

Khổng Tử quay lại bảo học trò rằng:

- Biết sợ để tránh tai hại, tham ăn mà quên nguy vong: đó đều là tính tự nhiện của sinh vật vậy.

Song phúc hay họa lại ở cái chỗ theo khôn hay theo dại. Cho nên người quân tử (thiện trí thức) trước khi theo ai phải suy tính cẩn thận. Theo ai mà biết phòng xa, có nhiều kinh nghiệm sống thì được phúc an thân. Theo ai mà hay nông nổi như kẻ trẻ dại thì bị họa và khổ  xác.

4. Hang Ngu Công

Vua Hoàn Công nước Tề đi săn, đuổi con hươu, hươu sợ quá chạy vào một cái hang. Thấy có một ông lão đi qua gắn đấy, bèn hỏi rằng: Hang này tên gọi là hang gì?

- Thưa Đại Vương, đấy là hang “Ngu Công”.

- Tại sao mà lại có cái tên lạ thế?

- Thưa, tại tiểu dân đây mới có cái tên ấy đấy.

- Ta coi hình dung lão không phải là người ngu, cớ sao lại đặt cái tên như thế?

- Để tiểu dân xin trình bày: ''Nguyên tôi có con bò cái đẻ được một con, khi bò con đã lớn, tôi có đem đi chợ bán và mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với con bò cái, chờ lớn lên để kéo xe. Một hôm có người đến nói lý: “Bò không đẻ được ra ngựa”, rồi bắt ngựa đem đi. Tôi sợ họ gây chuyện, đành chịu mất, không kêu ai được. Từ đó xa gần đều cho tôi là ngu và gọi cái hang gần chỗ tôi ở đây là ''hang Ngu Công'' (hang Ông Ngu).

Hoàn Công nói: Thế thì lão ngu thật!

Buổi chiều hôm sau, Hoàn Công đem câu chuyện trên kể lại cho Quản Trọng nghe, Quản Trọng tâu:

“Đó là cái ngu của Quản Di Ngô này. Nếu được minh quân như Vua Nghiêu, lương tể như Cao Dao thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược cướp ngựa giữa ban ngày của người ta như thế được. Ngu Công mà  đành chịu  để mất ngựa, chắc là biết rõ hình pháp ngày nay không ra gì. Vậy xin nhà Vua kịp thời chỉnh đốn ngay các chính sách lại”.

Khổng Tử nghe thấy chuyện này bèn nói:

- “Đệ tử ta đâu, ghi lấy việc ấy. Hoàn Công là Bá các chư hầu, một minh quân; Quản Trọng là hiền thần, một lương tể, tuy đã là những bậc khôn ngoan nổi tiếng mà còn tự biết mình là ngu dại”.

Khổng Tử tập ngữ

5. Thận trọng “xét người và giữ lời”

Một hôm Tử Cống hỏi Khổng Tử rằng:

- Người mà cả làng đều ưa là người thế nào?

- Chưa chắc phải người hay.

- Người mà cả làng ghét là người thế nào?

- Chưa chắc phải là người dở.

Phải xem ai là kẻ thiện trong làng ưa, kẻ bất thiện trong làng ghét mà đánh giá

Luận ngữ

Thầy Tử Cống dựa vào số đông mà đánh giá người;

Khổng Tử chia ra từng loại mà nhận xét.

Dư luận bao giờ cũng nên lắng nghe, nhưng mọi dư luận đều nhất trí không có thật, hoặc kẻ ác ghét mà người thiện cũng không ưa thì cũng không có thật. Vậy xét người thì nên xét: ''Người thiện ưa mà kẻ ác ghét là có thật, và ngược lại cũng là có thật, vì người thiện ưa vì người kia cũng theo thiên lý công tâm mà làm điều lành - người bất thiện ưa là người này cũng làm theo tư dục tham lam như họ”.

Vậy đánh giá một con người không đơn giản. Khổng Tử nói:

- Người nào mình nên nói chuyện với người ta mà không nói thì sẽ mất người;

- Người nào mình không nên nói chuyện với người ta mà cứ nói thì sẽ mất lời.

Luận ngữ

D. CÁC MÔN ĐỆ CỦA KHỔNG TỬ

Khổng Tử là người có chí học từ thủa nhỏ. Ông nghiên cứu mọi vấn đề từ nhân sinh quan đến vũ trụ quan, từ khoa học xã hội đến khoa học tự nhiên là nghệ thuật qua các thư tịch còn lại đến thời đó; và trực tiếp đi đây đi đó để gặp các bậc danh sư và tìm hiểu cụ thể từng vấn đề.

Rồi ông tìm ra những điều sở đắc để soạn sách và dạy học trò. Lối dạy học của Khổng tử là lối truyền miệng. Hễ ai đọc điều gì không hiểu hoặc nghĩ điều gì không ra thì đem hỏi lại; ông sẽ tùy theo tư chất của từng người mà ôn hòa chỉ bảo. Ai nghe ông giảng dạy điều gì thì ghi nhớ lấy để ngẫm nghĩ mà sửa mình hoặc ứng dụng ở đời.

Lời dạy của Khổng Tử như thế cho nên những điều như: nhân, hiếu, chính, trung v.v... Ông giảng cho mỗi người một khác; mục đích là để hợp với trình độ tiếp thu của mỗi người. Nhưng một điều quán triệt tất cả là, dù nói thế nào cũng chỉ để dạy người ta cái Đạo làm người nhân chính và cách hành xử của người quân tử.

Môn đệ ông thì nhiều, nhưng thường ngày chỉ có dăm mươi người theo đi đây đó để học.

Số học trò kể cả trước sau được đến hơn ba ngàn người, nhưng những người có tiếng là tài giỏi, tinh thông lục nghệ chỉ có 72 người, hậu thế gọi là thất thập nhị hiền.

- Có người nổi tiếng về đức hạnh như Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiêm, Bá Ngưu, Trọng Cung...

- Có người nổi tiếng về ngôn ngữ như: Tể Ngã. Tử Cống...

- Có người nổi tiếng về chính trị như: Nhiễm Hữu, Qúy Lộ...

- Có người nổi tiếng về văn học như: Tử Du, Tử Hạ... (Luận ngữ).

Những người này đời sau gọi là "thập triết".

Ngoài những người trên còn nhiều người tài giỏi mà đời sau thường nói đến như:

- Nhan Hồi: cần mẫn, thức khuya dậy sớm, ham Thi chuộng Lễ, làm việc gì sai lầm không tái phạm, nói điều gì thời suy nghĩ cẩn thận. Khổng Tử khen là người có nhân, nhưng ông chỉ sống được 31 tuổi; Khổng Tử thương tiếc lắm!

- Mẫn Tử Khiên: Khổng Tử khen là người có hiếu.

- Bá Ngưu, Trọng Cung: nhà nghèo mà vẫn ung dung, không hề lụy ai điều gì, không oán giận ai, không nhắc những lầm lỗi cũ của người ta. Khổng Tử khen là người có vương khí.

- Tăng Sâm: học thức thì đầy mà không tràn, chắc chắn mà không rỗng, biết quá rồi mà vẫn cho là chưa biết, làm được những điều mà Thánh hiền cho là khó. Dáng mặt bao giờ cũng khiêm tốn, đức độ rất đôn hậu, nói với ai điều gì cũng giữ tín, sinh hoạt rất thật thà...

- Hữu Nhược: có trí nhớ sâu và thích nghiên cứu cổ học.

- Tể Dư: có khẩu tài, làm quan Đại phu nước Tề, sau phải tội bị giết. Khổng Tử lấy làm thẹn vì đã không lựa chọn học trò.

- Tử Cung: có tài biện luận, nhà giàu, thích buôn bán, làm quan ở nước Lỗ, nước Vệ, sau mất ở nước Tề. Nhiễm Cầu cùng họ với Trọng Cung, tính tình khiêm tốn, hiếu học, kiến thức rộng, làm việc giản dị và siêng năng.

- Trọng Di: có dũng lực tài nghệ, giỏi việc dùng binh, khiển tướng, quả cảm cương trực, nhưng không đạt sự biến thông. Làm đại phu nước Vệ sau bị tội chết.

- Ngôn Yển: chỉ chuyên học Lễ, làm việc cẩn thận, ít khi sai hỏng, làm quan Tế ở Võ Thành.

Bốc Thương: học Thi Thư hay bàn luận những điều tinh vi; giao dịch với người dưới, thù tiếp với người trên rất phân minh; tính cẩn thận nhưng quy mô thì hẹp hòi.

- Chuyên Tôn Sư: người đẹp, tài cao, ý rộng, hay làm việc, có công tốt không khoe, ở ngôi sang trọng không mừng. Không khinh bỉ người hèn, không kiêu ngạo với người khổ. Tính ung dung không hay câu nệ những tiểu tiết, cho nên không tương hợp với những người đồng môn hay thủ lễ.

- Thương Cồ: chuyên học Dịch, được tâm truyền cái học ấy của Khổng Tử.

- Tất Điêu Khai: chuyên học Thi Thư, nhưng không thích ra làm quan.

- Nguyên Hiếu: thanh tịnh, giữ tiết tháo, nhà nghèo nhưng vẫn vui Đạo; khi Khổng Tử mất, ông đi ẩn ở nước Vệ.

Trong những người kể trên, có nhiều người tài cao đức hậu, nhưng vẫn không ai được hoàn toàn như Khổng Tử.

Xem câu chuyện sau đây ta thấy cái tài đức của Khổng Tử hơn người là thế nào.

Một hôm Tử Hạ hỏi Khổng Tử rằng:

- Nhan Hồi là người thế nào?

- Cái tin của Hồi hơn ta.

- Tử Cống là người thế nào?

- Cái nhanh nhẹn của Cống hơn ta.

- Tử Lộ là người thế nào?

- Cái dũng của Lộ hơn ta.

- Tử Trường là người thế nào?

- Cái trang nghiêm của Trường hơn ta.

 Tử Hạ liền đứng dậy mà nói rằng:

- Thế thì sao bốn người ấy lại phái đến học thầy?

Khổng Tử thong thả nói rằng:

- Ngồi đây ta bảo: “Ôi! Hồi biết tin mà không biết nghĩ lại. Cống biết nhanh mà không biết có lúc đáng chậm. Lộ có dũng mà không biết có lúc nên nhát. Trường có nét trang nghiêm mà không biết hoà nhã để hoà đồng với mọi người. Gồm tất cả cái hay của bốn gã ấy, mà đổi lấy cái hay của ta, ta không thuận. Vì thế bốn người đó phải thờ ta làm thầy mà không dám hai lòng vậy''.

Gia ngữ

Khổng Tử bao giờ cũng có cái thái độ "Vô khả vô bất khả" (không thật dứt khoát) rất hòa nhã mà vẫn trang nghiêm, rất khoan hoà mà vẫn cương nghị, làm việc gì cũng ung dung và trung tiết, nghị luận việc gì cũng công bằng chính trực và đắc kỳ trung cho nên không ai theo kịp. Đức độ như thế cho nên hậu Nho rất kính trọng.

Đạo học của Khổng Tử có phần nhân sinh quan, có phần vũ trụ quan cổ học, có phần tu thân học, có phần xã hội học, có phần nghệ thuật học... cho nên các học trò trực tiếp của Khổng Tử mỗi người chỉ thạo một vài môn, cho đến khi họ phát huy thì lại thành ra nhiều chiều hướng khác nhau.

Khổng Tử và Hạng Thác

Một lần Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo đi chu du các nước. Đến một vùng nọ thấy có chú bé đang dùng đất đắp một toà thành, ngồi vào trong đó. Khổng Tử liền hỏi: Này cháu! Cháu trông thấy xe ngựa của ta đi qua, cớ sao không chịu tránh?

Chú bé nhìn Khổng Tử trả lời:

Cháu nghe người ta đồn rằng ngài là Khổng Phu Tử, trên thì thông hiểu thiên văn, dưới thì am tường địa lý, giữa thì biết thấu lòng người. Vậy mà hôm nay cháu gặp Phu Tử thì không đúng như thế. Bởi vì từ xưa đến nay chỉ nghe có chuyện xe tránh thành chứ có bao giờ thành lại tránh xe đâu.

Khổng Tử ngạc nhiên quá liền hỏi:

Tên cháu là gì vậy?

- Chú bé trả lời:

- Cháu tên là Hạng Thác

Khổng Tử lại hỏi:

- Năm nay cháu bao nhiêu tuổi?

- Thưa Phu Tử, cháu sáu tuổi.

Khổng Tử liền nói:

- Cháu mới sáu tuổi mà đã sớm khôn ngoan như thế sao?

- Thưa Phu Tử - chú bé lễ phép - cháu nghe nói con cá nở ra ba ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ đến hồ kia. Con thỏ sáu ngày đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra sáu năm thì đã lấy gì làm khôn?

Lần này thì Khổng Tử thật sự lấy làm kinh dị, nghĩ thầm sẽ đưa ra một loạt câu hỏi, dồn cho chú bé phải chịu thua rồi nói:

- Này cháu! Ta xem cháu cũng khá lanh lợi đấy. Nay ta hỏi nhé: Trên núi nào không có đá? Trong thứ nước nào không có cá? Có loại cửa nào không có cổng? Loại xe nào không có bánh? Trâu nào không sinh con, ngựa nào không đẻ? Con dao nào không có khuyên? Thứ lửa gì mà không có khói? Chàng trai nào lại không có vợ? Cô gái nào mà không có chồng? Thứ gì không có trống không có mái? Ngày nào thì ngắn, ngày nào dài? Loại cây gì thì không có cành? Thành nào không có quan viên? Con người nào không có tên riêng?

Hỏi xong Khổng Tử nhìn Hạng Thác, tủm tỉm cười.

Hạng Thác nghĩ một thoáng rồi đáp:

- Xin tiên sinh nghe đây: “Trên núi đất thì không có đá. Trong nước giếng không có cá. Loại cửa không có cánh thì không có cổng. Kiệu dùng người khiêng thì không có bánh (xe). Trâu đất không sinh con, ngựa gỗ không đẻ. Dao cùn không có khuyên. Lửa đom đóm không có khói. Thần tiên không có vợ. Tiên nữ không có chồng. Chim mái cô đơn không có trống, chim đực cô đơn không có mái. Ngày mùa Đông ngắn, ngày mùa Hạ dài. Cây chết không có cành. Thành bỏ không có quan viên. Trẻ mới sinh không có tên riêng.

Khổng Tử sợ quá. Thằng bé con này trí tuệ hơn người!

Lúc này thì Hạng Thác không để cho Khổng Tử suy nghĩ liền nói:

- Vừa rồi Phu Tử đã hỏi cháu nhiều, đến lượt cháu xin được hỏi Phu Tử. Tại sao mà con ngỗng và con vịt lại nổi bồng bềnh trên mặt nước được ạ? Chim Hồng, Hạc sao lại kêu to thế? Cây tùng bách xanh cả mùa Hè lại cả mùa Đông là vì sao.

Khổng Tử đáp:

- Con ngỗng con vịt có thể nổi bồng bềnh trên mặt nước là nhờ hai bàn chân vuông là phương tiện. Chim Hồng chim Hạc kêu to là vì cổ chúng dài. Tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc rắn.

- Thưa không đúng - Hạng Thác reo to lên – Con rùa nổi trên mặt nước đâu có phải nhờ đôi chân vuông làm bàn đạp. Con ếch ương kêu to mà cổ nó có dài gì đâu. Cây trúc bốn mùa cũng xanh mà ruột của chúng rỗng không đấy thôi.

Khổng Tử thấy chú bé đối đáp trôi chảy như thế, chưa biết xử trí ra sao, thì chú bé lại nói:

- Thưa Phu Tử cho phép cháu được hỏi thêm. Tại sao Mặt trời buổi sáng lại to mà buổi trưa lại nhỏ?

- Là bởi vì Mặt trời buổi sáng gần ta hơn. - Khổng Tử đáp.

- Không ạ! - Hạng Thác vặn lại - Thế tại sao buổi sáng trời lại mát, buổi trưa Mặt trời xa hơn mà lại nóng như thế?

Khổng Tử đang ngập ngừng thì Hạng Thác hỏi tiếp:

- Cháu không làm sao hiểu được buổi sáng mặt trời mọc phương Đông, buổi chiều lặn ở phương Tây, rồi sáng hôm sau lại mọc ở phương Đông (mà không từ phương Tây mọc lại), và tại sao người ta lại gọi tên một trái núi là Bất Chu (không tròn).

Khổng Tử thở dài trách: Cháu còn ít tuổi mà lại thích hỏi những chuyện xa xôi viển vông ở tận đâu đâu. Chuyện trước mắt thì không hỏi.

Hạng Thác cười khanh khách:

- Thưa Phu Tử. Vâng, cháu xin hỏi chuyện ngay trước mắt đây thôi. Lông mày của Phu Tử có bao nhiêu sợi ạ?

Khổng Tử không đáp, sai người đẩy xe đi và than rằng:

- Lớp hậu sinh thật đáng sợ thật.

NHIỆM CHÍ XƯƠNG

(Trung Quốc)

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1059-02-633389381561753278/Nhung-nha-tu-tuong-va-triet-gia-noi-tieng...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận