Tài liệu: Những bức họa từ lâu đài Khenaten ở el – Amarna

Tài liệu
Những bức họa từ lâu đài Khenaten ở el – Amarna

Nội dung

1891 – 92

Những bức họa từ lâu đài Khenaten ở el – Amarna

1893 Những ngôi mộ của Kagemni và Mereruka ● 1893 Tượng Min khổng lồ

1893 hoặc trước đó ● Các chiến binh của Mesehti ● 1893 Giấy cói Abusir

Khám phá / khai quật bởi W M. Flinders Petrie

Địa điểm El-Amarna (nhà của vua; lâu đài lớn)

Thời kỳ Vương quốc mới Triều đại thứ 18, Vương triều Akhenaten, 1353-1335 trước Công Nguyên.

Một bức không ảnh (chụp vào năm 1932) cho thây phần trung tâm của thành phố thủ đô mới Akhenaten ở el- Amarna; sơ đồ mặt bằng của đền nhỏ của Aten và cách đấy, nhà của vua, trông rất rõ.

Amenophis IV – Akhenaten - vị pharaon “theo dị giáo” – xây hẳn một thủ đô mới,  Akhetaten, ngay sau khi ông chết bị bỏ hoang. Địa điểm ở Trung Ai Cập ngày nay được biết  tới với tên gọi el-Amarna và tên này cũng được đặt cho thời kỳ lịch sử này và nghệ thuật của  nó. Thoạt tiên được John Gardner Wilkinson và các người kế vị lên kế hoạch và thám hiểm sơ sài nhưng trở nên đặc biệt quan trọng là những người Phổ dưới quyền của Karl Richard  Lepsius vào năm 1843 và 1845 . Việc người dân địa phương khám phá ngôi mộ hoàng gia  Amama được thực hiện sau đó, vào khoảng đầu 1880, và nổi tiếng nhất là những bức thư  Amama vào năm 1887.

Nhà khảo cổ học đầu tiên khai quật ở địa điểm đó và Flinders Petrie (có chàng trai trẻ  Howard Carter phụ tá) vào 1891-92, hấp dẫn bởi kỳ vọng đó và một địa điểm chưa ai đụng  đến, của trọn một thời kỳ duy nhất. Quan trọng hơn là một chút gì huyền bí bấy giờ đã bao  quanh thời kỳ Amarna; trước Petrie, thời đại này và phong cách mỹ thuật dễ nhận của nó ít  được biết đến - Bảo tàng Louvre có bức tượng vị vua của thời đại này và Wilbour đã mua tấm đá tuyệt vời của nó, nhưng bức tượng bán thân của Nefertini vẫn còn chôn vùi trong cát sa mạc, trong khi Tutankhamun, người con trai của thành phố cổ xưa này, tiếp tục ngủ không nghi ngờ gì trong ngôi mộ dự trữ phong phú tại Thung lũng các  vua ở Thebes.

Cô gái út của Akhenaten: phân đoạn còn tồn tại (giờ ở Bảo tàng Ashmolean, 0xford) của một cảnh miêu tả Akhenaten, Netertiti và các con, được Flinders Petrie tìm thấy vẫn còn ở vị trí trên tướng của Nhà của Vua.

Đợt làm việc của Petrie ở el-Amarna ngắn ngủi, đột ngột và vào đúng vấn đề. Mặc dù còn đôi điều thô thiển và lạc hậu, xét theo chuẩn mực hiện đại, nhưng đợt khai quật đã cung cấp nhiều thông tin hơn nhiều vụ khai quật được tiến hành trong một thập niên gần đây. Mục đích của Petrie trong khai quật luôn luôn là nhanh chóng mô tả đặc điểm của địa điểm khai quật nhằm giúp ích cho ngành Ai Cập học và cho các nhà đào bới tương lai, trước khi di chuyển đi nơi khác, và điều này, ở el- Amarna, ông đã hoàn tất một cách tuyệt vời. Địa điểm được giám sát mau lẹ, và vùng chìa khóa - ngôi Đền lớn, Lâu đài lớn, Nhà của vua, văn phòng lưu trữ và ngoài ra, còn nhiều thứ nữa được xác định và khảo sát khéo léo.

Các công chúa nhỏ

Đợt làm việc của Petrie ở el-Amarna mang lại nhiều kho báu không ngờ tới - kể cả những mảnh gốm mà nhà khai quật nhận ngay (và với sự thích thú lớn của các học giả ở xứ Aegea) đó là những đồ nhập của Mycènes - nhưng không gì có ý nghĩa hơn là những bức họa. Tuyệt nhất là một phần cảnh trên tường bằng keo màu cho thấy hai (trong năm hay sáu) cô công  chúa cùng với gia đình, Akhenaten và người vợ chính, Nefertiti - được nhà Ai Cập học Norman de Garis Davies mô tả như “một trong những di vật đẹp nhất mà thế giới tiền Thiên chúa giáo để lại cho chúng ta” (ở Bảo tàng Ashmolean, Oxford, 1893 1-41).

Bản vẽ cẩn thận của Petrie về một phần của sàn nhà sơn màu ở lâu đài Akhenaten, với những cảnh bầy vịt và cây cối đặc sắc quanh một vũng nước ở giữa hình chữ nhật. Những vòng tròn đánh dấu vị trí nguyên thủy của nhựng bệ đá kê chân cột.

Một bức ảnh chụp của Mặt lát lớn được bảo vệ ở dưới kho của Petrie. Để giữ nó không bị gió  thổi cát vào không một cửa sổ nào được mở - khiến du khách khó chịu dưới thời tiết nóng nực của el- Amarna.

Tác phẩm này, có nguồn gốc từ những năm giữa của Vương triều Akhenaten, được phát hiện khi dọn quang cơ sở gọi là nhà của vua (số 13, Pendlebury P.42-1), một công trình ở  bên cạnh ngôi Đền Nhỏ ở el-Amarna. Những gì còn lại của bức tường nguyên thủy được nhà  khai quật có năng khiếu phát hiện đã “làm mê mẩn” mọi người.

Cũng trong đợt này, Petrie khám phá một loạt những sàn nhà và chân tường sơn màu, gồm hai mảng mặt lát trong những phòng có cột cao (E và F) và một đại sảnh chính của Lầu  đài Lớn. Những thứ này, nhờ tính ngẫu hứng tự phát của chúng nên đây là những công trình  mỹ thuật đặc biệt. Mặc dù chỉ với một cái nhìn thoáng qua, những bức tranh này được  Georges Daressy công bố ở lâu đài ở Malqata vào năm 1888 (tr.98), và những sàn vẽ ấy sau  này được đưa ra ánh sáng ở Memphis và gần đây hơn ở Qantir (tr.293). Trong phòng E của  Lâu đài Lớn, gần 80 mét vuông của sàn lát lớn được phát hiện, trong điều kiện nguyên vẹn.  Sau khi Petrie cọ rửa cẩn thận những bức họa và định hình chúng bằng nước tapioca (bột sắn hột) mỏng, một cấu trúc (tài trợ bởi Hội Bảo tồn các công trình kiến trúc của Ai Cập cổ đại  Anh quốc, tồn tại không lâu) được xây dựng để bảo vệ chúng. Chúng đánh thức sự thán phục  của tất cả những ai có may mắn nhìn thấy chúng tại chỗ.

Ngày nay, toàn thể họa tiết của những bức họa ở sàn nhà chính được bảo tồn với những bản màu nước do Petrie thực hiện và tái bản trong báo cáo về đợt công tác, Tell el- Amarna (kể về el-Amarna) vào năm 1894. Đáng chú ý, một khu vực gần một bệ đá kè cột đã  mất cho thấy Mặt Lát Lớn ở phòng E đã được vẽ lại, theo họa tiết khác ít nhất là một lần.  Trong dị bản cuối cùng, các con bê nhảy nhót vui đùa qua những lá cói dày đặc, làm náo động  những con vịt trời đang ăn khiến chúng xòe cánh bay - tất cả sắp xếp quanh một hồ nước trung tâm đầy cá và hoa sen. Họa tiết của mặt lát phòng F và đại sảnh chính hoàn toàn giống  nhau, và tất cả ba phòng đều liên thông với những đường đi miêu tả đầy con vật bị bắt - cho  phép đoán định rằng đây là quần thể liên hợp thuộc phòng tiếp kiến của pharaon, muốn biểu  trưng việc đè bẹp kẻ thù dưới chân mình, khi ông ta bước đi.

Việc phá hủy lung tung những bức họa này vào năm 1912, đặc biệt phòng E, quả là  một mất mát thảm hại di sản văn hóa của Ai Cập. Petrie nhớ lại:

“Ban [cổ vật] không cung cấm lối đi cho [khách], và phạm vi hoạt động bị giẫm lên; đến một  đêm một người đến và phá [mặt lát] thành từng mảnh để ngăn cản khách đến... Tôi chưa bao  giờ được thông báo và được phép lấy đi những mảnh vụn.”

Những mảnh còn lại của cuộc tấn công được nhà cầm quyền che chở và phần nào (nếu  không phải là hoàn toàn) được trả lại và đem triển lãm ở Cairo. Những mảnh này - cùng với những bản sao chép lại của Petrie và những mảnh sót lại của mặt lát vẽ sau này được Alexandre Barsanti khai quật cho Bảo tàng Cairo cùng với các mảng do Hội thăm dò Ai Cập tìm được  năm 1934- 1935, ngày nay truyền đạt ít ra một vài cảm nhận về sự lộng lẫy mà xưa kia đã  từng cho chúng ta thấy đủ bộ.

1893 - NHỮNG NGÔI MỘ CỦA KAGEMNI VÀ MERERUKA

Hai trong những ngôi mộ nổi tiếng nhất của Ai Cập, tiếp giáp với lăng của Kagemni và Mereruka, được Grébaut, vừa mới được bổ nhiệm thay de Morgan, tìm thầy vào tháng bảy 1893 ở Saqqara, phía Bắc kim tự tháp Teti, vị  vua đầu tiên của Triều đại thứ 6. Chúng đánh dấu bờ của một con đường thuộc những ngôi mộ sau này được Victor Loret, người kế nhiệm Morgan, dọn dẹp và được mô tả bởi nhà lịch sử mỹ thuật người Bỉ Jean Capart.

Đầy đủ tài liệu về ngôi mộ của Kagemni (phải) và những bức chạm nổi tuyệt vời được Friedrich Withelm von Bissing và người phụ tá, chàng trẻ tuổi Arthur Weig - all bắt đầu thu thập. Không phải cho đến lúc thanh tra sở cổ vật địa phương Cecil Firth dọn quang, tất cả khu vực của công trình kiến trúc mới được phát hiện. Ngôi mộ của Mereruba (những hầm mộ của ông được Firth đem ra ánh sáng vào 1921-22; trái) đã không được ghi chép đầy đủ mãi đến năm 1938, nhờ sự công bố tuyệt vời của Prentice Duell, có được do sự tài trợ của nhà đại tư bản dầu hỏa người Mỹ John D. Rockefeller Jr. Sự khác nhau giữa khám phá và công bố - nếu nhà khai quật đặt bút lên giấy tất cả và có thể tìm được một nhà xuất bản – thông thường là rất lâu.

Cả hai ngôi mộ có từ thời Teti - ngôi mộ của Mereruka (một quan tư pháp và tể tướng) cuối Vương triều, ngôi  mộ của Kagemni (cũng chức vụ tương đương) đôi khi sớm hơn. Ngôi mộ của hai ông không chỉ tuyệt vời về chất  lượng của những bức chạm nổi - vô cùng to lớn - mà cả vì kích thước lớn của chúng : ngôi mộ của Mereruka có  33 hành lang và phòng, với không gian phù hợp cho việc trang trí xa hoa và những văn khắc có tính chất thông  tin có ích.

1893 – NHỮNG TƯỢNG MIN KHỔNG LỒ

Khi đào bên dưới nền của đền thờ thuộc Ptolêmê ở Koptos (Qift) vào năm 1893, Flinders Petrie tìm thấy và với khả năng tự nhiên đặc biệt, ông nhận ra ngay tầm quan trọng của - ba bức tượng không lồ thô và vở thành từng mảnh (Cairo IE 30770; Oxford bảo tàng Ashmolean, 1894 I05c-e). Từ hình dáng nguyên thủy, chúng có thể được xác nhận như những biểu hiện của Min – vị thần phồn thực cổ xưa – cao trên 4m (13 ft).

Thời kỳ của những bức tượng này được bàn luận rất nhiều, với những niên đại rất khác nhau như trước Triều đại và thời kỳ Trung gian Thứ nhất theo đề  nghị của nhiều học giả. Quan niệm thông thường cho là những bức tượng này có sớm hơn - khoảng 3300 - 3100 trước Công Nguyên -sớm hơn niên đại muộn và trưng ra bằng chứng quyết định không chỉ cho thời đại hình thành của điêu khắc Ai Cập mà (từ trang trí phẳng theo hình thù của vỏ ốc đẹp kỳ  lạ) cả những mắt xích buôn bán trước đây với biển đỏ.

Đáng lưu ý là một dị bản không đầu sau này của một trong những bức tượng được Adolpha Reinach tìm thấy cũng ở địa điểm đó vào năm 1910-11. Có thể đây là bằng chứng cho việc tiếp tục tạo tác “những tượng Min” ở địa điểm của buổi đầu lịch sử Ai Cập.

Hoặc có lẽ những bức tượng khổng lồ được tác khám phá và dựng lại ở Koptos trước thời kỳ Hy Lạp - La Mã đã ảnh hưởng đến việc sản xuất những vật tạ ơn này. Những câu hỏi này khác được nêu ra do khám phá ở Koptos của Petrie vẫn chờ một câu trả lời quyết định.

1893 - HOẶC TRƯỚC ĐÓ NHỮNG CHIẾN BINH CỦA MESEHTI

Những kiểu mộ bằng gỗ miêu tả nhiều khía cạnh của đời sống hàng ngày, thường được tìm thấy trong những nơi chôn chất của các Triều đại Ai Cập sớm hơn, việc thực hiện đạt đến đỉnh cao vào Vương quốc giữa suốt Triều đại thứ 12. Một vài mẫu còn tồn tại, tuy thế, có thể so sánh với hai đoàn chiến binh kỳ lạ - một đoàn Ai Cập, một đoàn quân Nubia - xen lẫn với Mesehti, một hoàng tử địa phương, ở Asyut vào khúc quanh của Thời kỳ Trung gian thứ nhất. Các binh sĩ nhỏ của mỗi đoàn quân được miêu tả rất sinh động và cá biệt - với những chi tiết về quần áo và vũ khí, mô  tả chính xác xuống tận những chỗ kín của tấm khiên.

Ngôi mộ được người dân địa phương  tìm thấy năm 1893 hay trước nữa với những mô hình chiến binh chắc đến Bulaq, trong khi tượng của Mesehti và gậy được hai nhà sưu tầm là William Joseph Myers (tr.116) và William Macgregor thụ đắc (cả hai tác phẩm giờ ở Trường Eton, ECM 1592, 2168). Một vài vũ khí và dụng cụ cũng ở Bảo tàng Petrie, Đại học London. Mặc dù thông tin khảo cổ học về việc phát hiện hầu như hoàn toàn thiếu, những ngôi mộ tương tự được tìm thấy nguyên vẹn cũng tại địa điểm đó và được Emile Chassinat và Charles Palanque báo cáo lại vào 1903 cho ta ít nhất một cảm tưởng về nơi chôn cất của Mesehti xuất hiện như thế nào khi mở ra.

1893 - VĂN BẢN TRÊN GIẤY CÓI Ở ABUSIR

Các văn bản được viết theo khuôn mẫu, chữ thảo dựa vào chữ viết tượng hình, không phổ biến, và các văn bản của Vương quốc Cổ luôn là một trong những phát hiện hiếm có nhất. Sự thâm nhập dần dần vào thị trường cổ vật sau năm 1893 của nhiều mảnh văn bản ở Triều đại thứ 5, vì thế được đón nhận với mối quan tâm đặc biệt.

Ludwig Borchardt (tr. 173) của Gesellschaft - phương  Đông Đức được chỉ định việc tìm kiếm nguồn gốc của những giấy cói này - ứng với thành công trước đây của ông với bộ sưu tập những văn bản tản mạn từ Kahun (tr.99). Sau ba năm tìm  kiếm, ông may mắn phát hiện: một vài mảnh vụn sơ sài được đem ra ánh sáng ở Abusir, và một mảnh, mầu nhiệm thay, tiếp nối với một văn bản bán ngoài thị trường xác định địa điềm nguyên thể của nhóm.

Các cuộc khai quật sau đó cho thấy tài liệu lưu trữ Abusir  chủ yếu có niên đại từ thời triều đại thứ 5 pharaon Djedkare- Isesi,người đã chọn xây kim tự tháp của mình ở phía Nam Saqqara hơn là ở Abusir. Việc di dời này đòi hỏi điều chỉnh việc cúng tế người chết của những người tiền nhiệm của ông  - và sự phát triển của nhiều công việc giấy tờ.

Thời khóa biểu công việc của các tu sĩ, danh mục kiểm kê, thống kê và ghi chép về xây dựng công trình và sửa sang - tất cả đều có trong tài liệu lưu trữ và cho chúng ta biết về lịch sử kinh tế của việc cúng tế kim tự tháp thời Vương quốc cổ và hệ thống tài chính củng cố việc cung cấp các tặng vật cho các thần vua Ai Cập.

Văn bản trên giấy cói: Giờ ở đâu?

KHÁM PHÁ

THỦ ĐẮC/KHAI QUẬT BỞI

NƠI Ở HIỆN NAY

1893

Bảo tàng Giza

Bảo tàng Cairo

1893

Édouard Naville; sau khi mất bán cho Ludwig Borchardt

Bảo tàng Anh quốc

1893

Urbain Bouriant; chuyển sang viện Pháp quốc, Cairo và Gaston Maspero

Bảo tàng Cairo, Louvre

 

1893

W.M.F. Petrie

Bảo tàng Petrie, Đại học College London

1903, 1904, 1905

Ludwig Borchardt, cho Gesellschaft – phương Đông Đức

Bảo tàng Cairo; bảo tàng Berlin

Những mảnh sàn vẽ ở el-Amarna được cứu vớt; giờ ở Bảo tàng Cairo. “Những kẻ giẫm lên [nó] đã khám phá thiên nhiên như nó được sinh sống ở Aten, thiên nhiên mà thượng đế soi rọi mỗi ngày bằng những tia sáng hữu ích của mình.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/215-02-633353868310547500/Nhung-nam-thang-Vinh-quang-1881-1914/Nhung...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận