Tài liệu: Phan Huy Chú (1782-1840) nhà bác học - nhà nghiên cứu sử học văn học và nhà thơ Việt Nam

Tài liệu
Phan Huy Chú (1782-1840) nhà bác học - nhà nghiên cứu sử học văn học và nhà thơ Việt Nam

Nội dung

PHAN HUY CHÚ (1782-1840) NHÀ BÁC HỌC –

NHÀ NGHIÊN CỨU SỬ HỌC VĂN HỌC VÀ NHÀ THƠ VIỆT NAM

 

Phan Huy Chú là nhà Bác học, nhà nghiên cứu sử học, văn học và nhà thơ Việt Nam. Ông nguyên tên là Hạo, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, sinh tại Làng Thầy, Phủ Quốc Oai (nay thuộc Xã Sài Sơn, Huyện Quốc Oai, Tỉnh Hà Tây). Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống văn học: cha là Phan Huy Ích (1750 - 1 822) đỗ Tiến sĩ, là nhà văn làm quan dưới hai triều Lê - Trịnh và Tây Sơn - Nguyễn Huệ; mẹ là Ngô Thị Thục, con gái nhà thơ và sử học Ngô Thì Sỹ (1726 - 1780), em của nhà văn, thà tư tưởng lớn Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803). Như thế, về bên nội ông được tiếp nhận chí hướng và góp phần hứng khởi dòng văn học Phan Huy ở  Sài Sơn; về bên ngoại ông vừa chịu ảnh hưởng vừa là người đồng thời với thế hệ kiến tạo nên Ngô gia văn phái - dòng văn học để lại nhiều sáng tác thi ca và bộ ký sử - tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí nổi tiếng. Về sau này, ông lấy vợ cũng thuộc dòng thế gia vọng tộc - con gái quan Thượng thư Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (1749 - 1 829) - đồng thời cũng rất giỏi nghề làm thuốc, và điều này hẳn là một thuận lợi quan trọng góp phần tạo dựng nên sự nghiệp khoa học của Phan Huy Chú. Nhưng có nổi tiếng hay chữ khắp vùng thì chàng trai trẻ đi thi hai lần cũng chỉ đỗ tới Tú tài. Cho mãi tới năm 1821, khi đã gần tuổi 40, Vua Minh Mệnh biết tiếng mới cho triệu ông vào Kinh giữ chức Biên tu Quốc tử giám. Đến năm 1825 được sung vào đoàn sứ bộ sang bang giao với nhà Thanh (Trung Quốc). Tới năm 1 828, ông được cử giữ chức Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, năm sau thăng Hiệp trấn Quảng Nam, nhưng rồi lại bị giáng chức và bị triệu hồi về làm thị độc ở Viện Hàn lâm. Qua năm 1831, ông lại được cắt cử đi sứ nhà Thanh nhưng khi trở về lại bị cách chức vì can tội lộng quyền. Vào cuối năm sau, Minh Mệnh lại cử ông đi bàn về chuyện buôn bán ở Batavia - Indonesia. Xong nhiệm vụ trở về, ông được cử giữ chức Tư vụ bộ Công. Được thời gian ngắn, ông chán việc quan trường, lấy cớ đau yếu xin từ quan, kết thúc mười năm theo đuổi công danh hoạn lộ. Từ đó, ông trở về dạy học, viết sách và mất ngay tại Làng Thanh Mai, Huyện Tiền Phong (nay thuộc địa phận Xã Vạn Thắng, Huyện Ba Vì, Hà Tây).

Không kể những tác phẩm như Nam trình tạp ngâm, Dương trình ký kiến đã thất truyền, sáng  tác của Phan Huy Chú còn lại có hai tập thơ Hoa thiều ngâm lục (chia làm hai quyển, có một bài tựa, 275 bài thơ, 4 bài phú và 8 bài từ) được viết trong chuyến đi sứ thứ nhất (1825), tập Hoa trình tục ngâm có 127 bài thơ được viết trong lần đi sứ nhà Thanh thứ hai (1831). Do sự ước thúc của loại hình, những sáng tác thi ca của Phan Huy Chú không phải là những đóng góp đột xuất, nổi trội song cũng làm phong phú cho dòng thơ bang giao, thơ đi sứ, thơ đề vịnh. Hơn nữa, việc có thêm các lời tựa lời ghi chú về các bài thơ theo thời gian hành trình cũng cho thấy rõ hơn tâm sự, hoàn cảnh và công việc cụ thể của tác giả.

Trên thực tế, tên tuổi Phan Huy Chú nổi tiếng chính ở tư cách nhà nghiên cứu, biên khảo, biên soạn hơn là nhà hoạt động ngoại giao, nhà thơ. Tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí có ý nghĩa như bộ Bách khoa toàn thư của Việt Nam được ông biên soạn ròng rã trong suốt mười năm, vào thời kỳ trước khi ông ra làm quan, kể từ năm 1809 đến 1819. Bộ sách tổng hợp đại thành về văn hóa dân tộc từ quá khứ đến hết đời Lê này bao gồm 49 quyển được chia làm 10 chí, mỗi chí giới thiệu một chuyên ngành lịch sử, một phương diện sinh hoạt xã hội, chẳng hạn: Dư địa chí bao quát tình hình cương vực, núi sông, phong thổ, tài nguyên và lịch sử - diên cách địa lý; Khoa mục chí ghi chép chế độ khoa cử và lập danh sách những người đậu từ Tiến sỹ trở lên; Quốc dụng chí nói về chế độ thuế khóa và tài chính các triều đại; Văn Lịch chí bao quát toàn bộ các nguồn sách vở trước thuật, nghiên cứu và tiến hành phân loại các tác gia, tác phẩm, đồng thời có thêm những nhận xét, đánh giá rõ ràng về tác phẩm đó. Như vậy, Phan Huy Chú đã để lại một kho tư liệu vô giá với những giá trị khoa học điển hình của thời trung đại, có ý nghĩa kết tinh vốn văn học và tri thức nước nhà. Về quyền lợi cá nhân, tác giả bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí được Vua Minh Mạng ban thưởng cho 30 lạng bạc, một chiếc áo sa, 30 cái bút và 30 thoi mực, song nó đã trở thành di sản và chứng tích tinh thần không thể thiếu được trong kho tàng văn học dân tộc.

PGS - TS. NGUYỄN HỮU SƠN

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/140-02-633384930624872500/Nhung-Su-gia-lung-danh/Phan-Huy-Chu-1782-1...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận